Page: />
Chúc các bạn thi tốt !
Cảm nhận về chi tiết “bát cháo hành” và “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm”
1.Vài nét về tác giả và tác phẩm
- Nam Cao là nhà nhân đạo lớn, nhà hiện thực bậc thầy của văn học Việt Nam hiện đại; sáng tác vừa
chân thực giản dị vừa thấm đượm ý vị triết lí nhân sinh; có biệt tài phân tích, diễn tả tâm lí phức tạp của
con người.
- Chí Phèo và Đời thừa là những truyện ngắn xuất sắc, rất tiêu biểu cho sáng tác của Nam Cao trước
Cách mạng tháng Tám. “Bát cháo hành” và “ấm nước đầy và nước hãy cịn ấm” là những chi tiết đặc sắc
góp phần quan trọng thể hiện tâm lí nhân vật, tư tưởng tác phẩm và điển hình cho nghệ thuật Nam Cao.
2. Về chi tiết “bát cháo hành”
- Ý nghĩa về nội dung:
+ Thể hiện sự chăm sóc ân cần của thị Nở khi Chí Phèo ốm đau, trơ trọi.
+ Là biểu hiện của tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận, là hương vị của hạnh phúc tình yêu
muộn màng mà Chí Phèo được hưởng.
+ “Bát cháo hành” đã đánh thức tính người bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo:
* Gây ngạc nhiên, gây xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê
thảm hiện tại của mình
* Khơi dậy niềm khát khao được làm hoà với mọi người; hy vọng vào một cơ hội trở về với
cuộc sống lương thiện.
- Ý nghĩa về nghệ thuật:
+ Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sắc nét tính cách, tâm lí và
bi kịch của nhân vật.
+ Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào khả năng cảm hố của tình người.
3. Về chi tiết “ấm nước đầy và nước hãy còn ấm”
- Ý nghĩa về nội dung: “Ấm nước đầy và nước hãy cịn ấm” Từ dành sẵn để Hộ có cái uống khi tỉnh
rượu, thể hiện sự chăm chút tận tâm của Từ, dù trước đó Từ vừa bị Hộ đối xử tệ bạc; biểu hiện của tình u
thương sâu bền, lịng biết ơn và sự bao dung nguyên vẹn của người vợ yếu ớt; đánh thức lương tâm và
lương tri của Hộ, khiến anh thấm thía về nghĩa tình, day dứt, ăn năn về những hành vi vũ phu với vợ con
khi say.
- Ý nghĩa về nghệ thuật: Giúp khắc hoạ tính cách, tâm lí nhân vật và góp phần thể hiện sinh động tư
tưởng của Nam Cao về khả năng cảm hố của tình người.
4. Về sự tương đồng và khác biệt
Page: />
Chúc các bạn thi tốt !
- Tương đồng. Cả hai chi tiết đều góp phần biểu hiện tình cảm, tấm lịng của người phụ nữ. Tình
người của họ đã đánh thức tính người của những kẻ bị tha hố. Những chi tiết đó đều bộc lộ niềm tin sâu
sắc vào tình người; đều thể hiện biệt tài sử dụng chi tiết của Nam Cao.
- Khác biệt. “Bát cháo hành” (và “hơi cháo hành”) được tô đậm trong tác phẩm, là một nỗi ám ảnh đã
thức tỉnh Chí Phèo, phù hợp với tâm lí của người nơng dân. “Ấm nước đầy và nước hãy cịn ấm” chỉ xuất
hiện thống qua, nhưng cũng đủ tác động làm thức tỉnh lương tri của Hộ, phù hợp với tâm lí của người trí
thức.
Quá trình thức tỉnh của Chí Phèo
I. Khái qt về tác giả, tác phẩm và quá trình thức tỉnh của nhân vật
- Nam Cao (1917-1951) là nhà văn hiện thực lớn có tư tưởng nhân đạo vừa sâu sắc, vừa mới mẻ, vừa
độc đáo. Sáng tác của ông trước Cách mạng xoay quanh hai đề tài chính là trí thực tiểu tư sản và người
nông dân cùng khổ. Điều làm ông day dứt đến đau đớn là tình trạng, nhân cách con người bị huỷ hoại. Là
nhà văn có biệt tài phân tích tâm lý, Nam Cao đã khám phá ra những diễn biến nội tâm nhân vật vừa tất
yếu, vừa bất ngờ rất thú vị. Qua việc tìm hiểu diễn biến tâm trạng Chí Phèo từ buổi sáng sau ghi gặp Thị
Nở đến khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
- “Chí Phèo” là một kiệt tác của Nam Cao về đề tài người nông dân và là kết tinh khá đầy đủ cho tài
năng nghệ thuật của ơng. Miêu tả q trình thức tỉnh của Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện mình là một cây
bút hiện thực xuất sắc đồng thời cũng là một nhà văn nhân đạo chủ nghĩa từ trong cốt tủy.
II. Phân tích q trình thức tỉnh của Chí Phèo
1. Trước hết là sự thức tỉnh. Bắt đầu là tỉnh rượu. Sau những “cơn say vô tận”, “bây giờ thì hắn
tỉnh”. Sau đêm gặp Thị Nở, Chí Phèo đã sống lại cảm xúc đầy nhân tính. Hắn cảm nhận được không gian
xung quanh với “cái lều ẩm thấp mới chỉ lờ mờ”. Đặc biệt, hắn đã cảm nhận được những âm thanh quen
thuộc của cuộc sống quanh mình : tiếng nói cười của mấy người đi chợ, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng
chim hót ngồi kia vui vẻ quá. Những âm thanh bình dị ấy ngày nào chẳng có, nhưng xưa nay, vì say, vì
hắn đã bị xã hội làm mù điếc cả tâm hồn, không nghe được. Giờ đây được Thị Nở làm cho tâm hồn hắn
sáng tỏ, thì những âm thanh ấy bỗng vang vọng sâu trong tim hắn như tiếng gọi tha thiết của sự sống.
Cùng với sự cảm nhận được bức tranh cuộc sống xung quanh, Chí Phèo cũng đã cảm nhận được một
cách thấm thía về tình trạng thê thảm của bản thân mình: già nua, cơ độc, trắng tay. Đoạn đối thoại của hai
người đàn bà đã gợi nhắc cho hắn về một ước mơ gia đình hạnh phúc, bình dị. Nhưng giờ đây “Chí Phèo
chỉ thấy một thực tại buồn bã, cơ đơn. Chí Phèo hình như đã trơng thấy trước tuổi già của hắn, điều này
cịn đáng sợ hơn đói rét, ốm đau”.
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
2. Sau khi tỉnh rượu, Chí Phèo đã tỉnh ngộ và hi vọng. Chí Phèo ăn bát cháo hành được trao từ bàn
tay ấm nóng tình thương của Thị Nở, hắn vô cùng cảm động và thực sự phục sinh tâm hồn. Hắn rất ngạc
nhiên, mắt hắn ươn ướt bởi vì “đây là lần thứ nhất hắn được người ta cho…xưa nay nào hắn có thấy ai tự
nhiên cho cái gì”. Hắn nhận ra “Trời ơi! Cháo mới thơm ngon làm sao! Hương vị của cháo hành hay hương
vị của tình yêu chân thành và cảm động, hạnh phúc giản dị và thấm thía lần đầu tiên Chí Phèo được hưởng
đã thức dậy nhân tính bị vùi lấp bấy lâu? Trời ơi! Hắn thèm lương thiện! Hắn muốn làm hoà với mọi người
biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn”. Mọi người sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng của những
con người lương thiện. Chúng sẽ làm thành một cặp rất xứng đôi. Chúng nhất định sẽ lấy nhau. Câu trả lời
của Thị Nở lúc này sẽ quyết định số phận của Chí Phèo: được kết nạp trở lại xã hội loài người hay vĩnh
viễn bị đày đoạ trong kiếp sống thú vật!? Chí Phèo hồi hộp hi vọng. Nhưng cánh cửa hi vọng vừa hé mở thì
đã bị đóng sầm ngay lại. Vì bà cô Thị Nở không cho Thị Nở “đâm đầu đi lấy một thằng chỉ có một nghề
rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo nghĩ ngợi một lát rồi bỗng nhiên ngẩn người ra. Hắn “sửng sốt”, hắn lôi rượu ra
uống. “Nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh ra.Chao ôi! Buồn..” Hắn cứ thoảng thấy hơi cháo hành, hơi của
tình yêu hạnh phúc đang sắp tuột khỏi bàn tay cố níu kéo của Chí Phèo rồi “ơm mặt khóc rưng rức”. Đây là
đỉnh điểm của bi kịch tinh thần trong Chí Phèo.
3. Quằn quại trong đau khổ và tuyệt vọng, Chí Phèo xách dao ra đi. Nhưng hắn không rẽ vào nhà
Thị Nở như dự định ban đầu ( đến đâm chết con đĩ Nở và con khọm già kia ) mà đến thẳng nhà Bá Kiến.
Trong cơn say, hắn càng thấm thía tội ác của kẻ đã cướp thể xác, hồn người của hắn. Chí Phèo đã vung lưỡi
dao căm thù lên chém chết Bá Kiến và quay lại tự kết liễu cuộc đời mình. Chí Phèo chết vì khơng tìm được
lối thốt, vì xã hội khơng cho hắn sống. Gấp trang sách “Chí Phèo” lại, ta vẫn nghe văng vẳng đâu đây câu
hỏi gay gắt đến tuyệt vòng của Chí Phèo : “Ai cho tao lương thiện?”. Đó là “Một câu hỏi lớn. Khơng lời
đáp”, cịn làm day dứt hàng triệu trái tim người đọc : “làm thế nào để được sống cuộc sống con người trong
cái xã hội tàn bạo vùi dập nhân tính ấy?” Đấy cũng chính là bi kịch lớn nhất ở nhân vật yêu quý này.
Kết luận
Phát hiện và miêu tả quá trình thức tỉnh của Chí Phèo là một thành cơng nghệ thuật đặc sắc của Nam Cao. Nó
cho thấy tài năng bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, trong ngôn ngữ trần thuật ... nhưng trên hết
cả, người đọc nhận ra một lí trí sắc lạnh vạch trần và tố cáo mạnh mẽ xã hội thực dân phong kiến đồng thời cịn
cả một tiếng nói đầy xót thương cho số phận bi kịch của những người nông dân, những kẻ sinh ra làm người mà
bị từ khước, bị tước đoạt quyền làm người
Trang | 2
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
PHÂN TÍCH Q TRÌNH THA HĨA VÀ HỒI SINH CỦA NHÂN VẬT CHÍ PHÈO
A.Q TRÌNH THA HĨA:
Mở Bài:
+Tác phẩm Chí Phèo được ra đời năm 1941.Ngun có tên là ”cái lò gạch cũ” đến năm 1941 nhà xuất bản tự
đổi tên thành “đôi lứa xứng đôi” đến năm 1946 tác giả đổi tên thành Chí Phèo
+.Chí Phèo là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài người nơng dân trước cách mạng.
+Nó là một truyện ngắn có thể “làm mờ hết các tác phẩm cùng ra một thời”,đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng
đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán trong giai đoạn 1930-1945.
+Tác giả đã xây dựng thành cơng một nhân vật điển hình,nhân vật Chí Phèo,phản ánh một tấn bi kịch có ý
nghĩa sâu sắc vào loại tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam.
+Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một người nông dân cùng khổ bị xô đẩy vào con đường lưu manh tội
lội,bị cự tuyệt quyền làm người,hay nói cách khác là số phận bi thảm của một con người muốn được làm
người mà không thể được.
+Nam Cao đã viết về tấn bi kịch của Chí Phèo bằng một bút pháp vơ cùng sắc sảo:biến hóa lúc kể,lúc tả,triết lí
thì thấm thía,trữ tình thì đau đớn xót xa...đầy ám ảnh nghệ thuật,làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỉ nay.
Thân bài:
1.Hình tượng nhân vật Chí Phèo:
-Hồn cảnh xuất thân của Chí Phèo(xuất thân là người nơng dân nghèo, lương thiện)
+ Chí Phèo bất hạnh ngay từ khi sơ sinh “trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lị gạch
bỏ khơng”.Anh thả ống lương “rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù”,sau đó hắn bị đem bán cho bác
phó cối.Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ,khơng cha mẹ,khơng họ hàng thân thích,khơng một mái lều che
thân,không một tấc đất cắm dùi “ hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”,đến năm hai mươi tuổi làm canh
điền cho lí Kiến.Có thể nói cái trang đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo là hai mươi năm trời đắng cay
khơng chốn nương thân.
+Chí là một người hiền lành,có lịng tự trong:khi bị bà ba sai bóp chân,hắn “vừa làm vừa run”,Chí” thấy nhục
hơn là thích”trước một việc làm mà Chí cho là “khơng chính đáng”.Bi kịch của anh canh điền này bắt đầu từ
chuyện bà Ba ơng lí cịn trẻ lắm mà “lại cứ hay ốm lửng,bắt hắn bóp chân,hay xoa bụng,đấm lưng gì đấy”.Chí
khơng phải là gỗ đá,nhưng hắn”thấy nhục hơn là thích,huống hồ lại sợ”.Chỉ một chuyện ghen tuông không
đâu,Bá Kiến đã ngấm ngầm cấu kết với quan tên bắt Chí giải lên huyện,bỏ tù hắn bảy,tám năm trời.Chế đô nhà
tù thực dân nửa phong kiến tàn bạo,dã man đã biến Chí Phèo từ một nơng dân lương thiện,hiền lành trở thành
một tên lưu manh,một con quỷ dữ của làng Vũ Đại
-Từ khi ra tù đến trước khi gặp Thị Nở(q trình tha hóa của Chí Phèo)
a.Thay đổi đột ngột cả về nhân tính và nhân hình:
+Nhân tính:trở thành một tên lưu manh,một con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
+Nhân hình:bị xã hơi lưu manh vằm nát bộ mặt người.
+ Đi tù”biệt tăm”,bỗng đâu hắn lại”lù lù lần về”.Một Chí Phèo đã hồn tồn khác hẳn,thay đổi đột ngột cả về
nhân tính và nhân hình”cái đầu thì trọc lốc,cái răng cạo trắng hớn,cái mặt thì đen mà lại rất cơng cơng,hai mắt
gườm gườm trong gớm chết”.Chí mặc cái quấn nái đen,cái áo tây vàng,cái ngực và cái tay đầy những nét
chạm trỗ rồng phượng với một ông tướng cầm chùy. Đó là hình ảnh Chí Phèo lúc ngồi uống rượu với thị chó ở
chợ từ trưa tới xế chiều,cho đến lúc say khướt.
b.Hành động chửi của Chí Phèo:
+Chí Phèo sống triền miên trong những cơn say,trong mỗi cơn say thì hắn lại chửi.Tất cả dân làng đều sợ
hắn”tránh mặt hắn mỗi lần hắn qua”.Hắn chửi ai cũng nghĩ”mặc thây cha nó”,ai cũng chẳng thèm nghe,khác
nào”những người say rượu hát”.Hình ảnh Chí Phèo”vừa đi vừa chửi” gây cho người đọc nỗi ám ảnh về bi kịch
của một người điên khùng,mấ trí đang trải qua nỗi cơ đơn tuyệt vọng.Hắn chửi suốt,chửi trời,đấng tối cao của
mn lồi,chửi đời”đời là tất cả nhưng chẳng là ai”,chửi cả làng Vũ Đại,cái cộng đồng gần gũi thiêng liêng
của con người,chửi tất cả những ai khơng chửi nhau với hắn,”tức mình hắn chửi đứa nào đẻ ra chính
hắn”…nhưng khơng ai lên tiếng cả.Người ta khơng lên tiếng vì người ta khơng cơng nhận Chí là người.Chí
Phịe cứ chửi”chửi rồi lại nghe”.Hắn bị bao vây bởi một”sự im lặng đáng sợ”.Năm thì mười họa mới”ba con
chó dữ với một thằng say rượu.Hắn đã hồn tồn bị xã hội cự tuyệt khơng được nhìn nhận là người.
c.Chí Phèo đến nhà Bá Kiến:
+ Trong cơn say hắn đã hành động một cách dữ dội: xông thẳng đến nhà Bá kiến chửi”mồ tả tổ tiên đến lộn
lên mất”, đập cái vỏ chai vào cái cổng, rạch mặt, kêu trời ăn vạ!Chí Phèo đã hành động như một tên đầu bị vơ
Trang | 3
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
cùng ngang ngược.Đó là lối hành động của một kẻ say rượu mà đã có trong tiềm thức của Chí Phèo. Cộng
thêm những năm tháng tù đầy mối thù càng được hun đúc, nuôi dưỡng ngày càng sâu sắc và đậm hơn. Bao
năm ngồi tù Chí đã có dịp nghiền ngẫm cân nhắc trước khi đi đến quyết định đúng đắn. Cho nên, hơn bao giờ
hết, vừa rời khỏi nhà tù là Chí đã sơi sục một ý thức trả thù. Sự căm thù kẻ gây ra tội lỗi và đẩy mình vào con
đường đau khổ đã dẫn đường Chí đến nhà cụ Bá dù là đang trong cơn say khướt. Hành vi của Chí hồn tồn
liều lĩnh và mang tính bột phát. Hơn nữa dù gì trong sâu xa bản chất của Chí cũng chỉ là một nông dân thật thà
đến mức gần như ngây thơ cho nên sự thất bại của Chí trong lần đối đầu đầu tiên này là một chuyện rất hiển
nhiên. Làm sao qua được kẻ khơn róc đời như Bá Kiến . Bá Kiến lá kẻ tinh ma xảo quyệt, lắm mưu nhiều kế
nên đối phó với Chí chẳng lấy gì là khó khăn. Chỉ thống nhìn qua là Bá Kiến đã hiếu được ý đồ của đối
phương. Nên Chí mới thất bại trong ê chề, cay đắng với những lời vuốt ve, ngon ngọt cộng thêm vài đồng đã
làm lóa mắt Chí. Từ một vị trí là kẻ đi hỏi tội kẻ thù chỉ thoắt một cái ván cờ đã lật ngược: kẻ có tội lại ung
dung như một kẻ ra ơn còn người hỏi tội lại thành tay sai phục dịch cho kẻ thù mà không hay biết.
+ Lần thứ hai cũng trong dáng điệu say mèm Chí ngật ngưỡng đến nhà Bá Kiến gặp hắn để được xin đi tù.
Thật là một chuyện ngược đời. Thuở nay chưa thấy ai làm một chuyện phi lí đến mức dậy chắc chỉ có Chí
Phèo. Tuy là nghịch lí nhưng lại phản ánh đúng thực tại của Chí. Khơng có cơm ăn, áo mặc, một mảnh đất
cắm dùi cũng khoomg. Cảnh ngộ bi đát của Chí phần nào phản ảnh đúng hiện trạng xã hội lúc bấy giở đó là
người lầm đường lạc lối, trot sa chân vào cũng bùn của tội lỗi thì khơng sao rút chân ra được. chí bị tù đến khi
được trả về cuộc sồng đời thường thì lại khơng tìm được kế sinh nhai hay nói đúng hơn là khơng được tiếp
nhận và vì thế lại tiếp tục bị đẩy vào bước đường cùng. Nghe Chí nói với Bá Kiến mà thấy xót xa trong dạ:”
Bẩm quả đi tù sướng quá đi, ở tù có cơm ăn, bây giờ về làng về nước một thước cắm dùi khơng có…”. Sự thật
như thế ư? Nhà tù là chốn dung thân ư? Trên câu chử thì ta khơng thể nghĩ khác được. Nhưng nếu nghĩ sâu xa
một chút ta mới thấy ngỡ ngàng và lương tâm chẳng được thanh thản. Nếu như ý nghĩa của nhà tù là để canh
tỉnh, cải tạo con người, trả con người về với cuộc sống hồn lương thì nhà tù ở đây lại thực hiện ngược lại. Nó
biến những kẻ lương thiện tơ thành một loại người lưu manh khốn nạn. Nhà văn Huy-gơ rất đúng khi nói” Khi
chưa vào tù anh là một cành cây tươi , khi ra tù anh là một cây củi khơ”. Cũng như lần trước, Chí lại thất bại
trước cái khơn róc đời của cụ Bá: bị gạt mà không hề nhận ra. Âm mưu của Bá Kiến mới thâm độc làm sao.”
Dùng độc trị độc”, dùng Chí Phèo để trị đội Tảo. Cả Chí và đội Tảo đều là kẻ thù của hắn, nên và trăng có xảy
ra xơ xát, ai được, ai mất cụ Bá đều có lợi, vừa thỏa mản được ý định trả thù vừa không phải mang tiếng là kẻ
báo thù nhỏ nhen, đê tiện. Cũng kể từ đấy. Chí mức phương hướng hẳn, hắn trở thành tay sai đắc lực cho Bá
Kiến.Hắn chìm ngập vào vũng bùn tâm tối tội lỗi. Hắn mất dần ý niệm về thời gian, không biết tuổi tác cuộc
đời mình”đã dài bao nhiêu năm rồi”. Năm nối năm, tuổi nối tuổi,” ba mươi tám hay ba mươi chin? Bốn mươi
hay ngồi bốn mươi?”. Bộ mặt Chí Phèo giờ đây như” cái mặt của con vật lạ”với màu” vàng vàng mà lại
muốn xạm màu gio” với bao nhiêu là sẹo” vằn dọc vằn ngang”, vết mảnh chai ăn vạ kêu làng! Cuộc đời hắn
chồng chất tội lỗi “ bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách đâm chém., người ta giao cho hắn làm”. Hắn đâm thuê
chém mướn dể kiếm tiền mà uống rượu. Những cơn say của hắn tràn cơn này sang cơn khác, thành một cơn
dài, mênh mông”hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say ,thức dậy hãy còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới dọa
nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vơ tận”.Chí Phèo bị mua chuộc, bị xô đẩy vào
con đường lưu manh,tội lỗi. Muốn giết người, muốn đâm chém và cướp giật cần gan và liều mạng, hắn đã tìm
đến rượu. Mất dần nhân tính, hắn trở thành con quỹ dữ làng Vũ Đại:”hắn biết đâu hắn đã phá bao nhiêu cơn
nghiệt, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đập đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu
người lương thiện”.
+ Chí Phèo là điển hình cho một quy luật có tính phổ biến trong xã hội cũ đó là quy luật bần cùng hóa dẫn đến
lưu manh hóa. Nỗi đau lớn nhất của Chí Phèo là nỗi đau của một con người bị tàn phá về thể xác, bị hủy diệt
về tâm hồn ,bị xã hội cự tuyệt quyền làm người, đó là giá trị tố cáo, giá trị hiện thực mới mẻ của tác phẩm.
B.QUÁ TRÌNH HỒI SINH:
-Diễn biến tâm lí,tình cảm của Chí Phèo/từ tỉnh rượu đến tỉnh ngộ:
+ Giữa lúc Chí đang rơi vào ngõ thẳm đêm đen của tội lỗi thì Nam Cao bằng tấm lịng nhân đạo sâu sắc. Ơng
mang đến cho Chí một”thiên sứ”- Thị Nở với hi vọng cữu vãn linh hồn Chí Phèo.
+ Chí Phèo gặp Thị Nở ở bờ sông, trong lúc say. Thị Nở là” một người đàn bà dở hơi, xấu xí, ngẩn ngơ, ế
chồng”
+ Con người xấu đến”ma chê quỷ hờn”, kì diệu thay, Thị Nở lại là nguồn ánh sang duy nhất đã rọi vào chốn
tối tăm của tâm hồn Chí Phèo để thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sang qua bao này tháng
bị dập vùi, hắt hủi. Chính cuộc tình ngắn nủi với Thị Nở tron một đêm trăng đã vơ tình thắp lên ngọn lửa cuộc
Trang | 4
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
sống trong Chí. Có nhà phê bình đã cho rằng: thị Nở là một sứ giả mà Nam Cao phái đến để thức tỉnh Chí
Phèo.
+ Sáng hơm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy” long buân khuâng mơ hồ buồn.” tiếng chim hót, tiếng ngời đi chợ, tiếng
thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hơm nay Chí mới nghe
thấy. Lịng hắn buồn” chao ôi là buồn!” Tiếng vọng của đời hường đã đánh thức linh hồn Chi. Hắn nhớ lại
những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ” có một gia
đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải” ni lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba xào
ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngịai bốn mươi tuổi đầu Chí cảm thấy, đã tới cái dốc bên kia
cuộc đời, và hắn lo, hắn sợ” đói rét và ốm đau, và cơ độc, cái này cịn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”.
+ Bát cháo hành của Thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn.Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo”trời
ơi cháo mới thơm làm sao!”.Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay đàn bà.Mấy chục năm qua
hắn muốn ăn thì phải dọa,phải cướp thế mà”lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Chí Phèo
vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn Thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ nhìn nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và
cướp giật” nếu khơng cịn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao. Thằng lưu manh chỉ mạnh về liều. Sẽ có một
lúc nào đó” khơng thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
+Chí Phèo vốn là người lao động cùng khổ lương thiện”cái bản tính của hắn ngày thường bị lấp đi”.Cùng với
tình u,sự săn sóc của thị Nở,”trận ốm hay đổi hẳn về sinh lí,cũng thay đổi cả về tâm lí nữa”của Chí Phèo.
-Khát khao hồn lương và mong ước hanh phúc:
+ Chí mong muốn trở lại làm người lương thiện:” Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi
người biết bao!... Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện”.
+ Chí khát khao hạnh phúc và có một gia đình:” Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?”,” Hay là mình sang đây ở
với tớ một nhà cho vui.” Câu nới ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khát khao muốn được
làm người,”thèm lương thiện” và” mốn làm hịa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy
hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vơ cùng trước
những khao khát bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!... Câu trả lời của Thị Nở sẽ quyết
định số phận của hắn.
+ Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu,Chí phèo”bám” được thị Nở cứ tưởng là vớ được cọc, đâu ngờ chỉ là rẽ bèo.
Chí Phèo” say thị lắm”, nhưng đến hơm thứ sáu thì Thị nghĩ bụng:” hãy dừng yêu để hỏi cô Thị đã”. Như ta biết,
con đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa được hé mở ra đã bị đóng sầm lại! Bà cô đã đay nghiến Thị Nở, bà
thấy cháu sao” sao mà đỉ thế?”. Bà thấy nhục nhã, bà gào lên” như con ma dại”. Bà quyết không cho phép cháu
bà” đi lấy một thằng chỉ có một nghề rạch mặt ăn vạ”. Nhưng trách gì bà ta! Cách nhìn của bà ta cũng chính là
cách nhìn của mọi người ở làng Vũ Đại lâu nay đối với Chí phèo. Chỉ trừ Bá Kiến và thị Nở ra, chứ cịn ai nữa
dám đi qua mặt Chí, dám đối diện với Chí! Tất cả quen coi hắn là” quỷ dữ” ,mát rồi. hôm nay, linh hồn hắn trở
về, nhưng khơng ai nhận ra; hắn” muốn làm hịa với mọi người” nhưng ai nhận! Chí Phèo thực sự rơi vào bi kịch
tinh thần, đau đớn, quằn quại. Hắn” ngẩn người” khi nhìn và nghe Thị nói. Hắn: sửng sốt” đứng lên gọi Thị. Hắn
đuổi theo” nắm lấy tay’ Thị, nhưng bị Thị gạt ra, dúi thêm cho một cái gã” lăn khoèo xuống sân”. Chí Phèo vật
vã trong cơn đau đớn tuyệt vọng. Hắn vớ một hòn gạch toan đập đầu ăn vạ! Hắn phải “ đâm chết con đĩ Nở kia”,
“ đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Hắn lại uống, lại uống… nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”, tỉnh ra để thấm
thía nỗi đau vơ hạn của thân phận mình: quyền làm người được sống lương thiện đã bị xã hội và đồng loại dứt
khoát cự tuyệt. rồi “ hắn ơm mặt khóc rưng rức” cho đến khi hắn đã say mềm người rồi hắn đi. Hăn sra đi với
một con dao ở thắt kuwng với câu nới lảm nhảm:” Tao phải đâm chết nó”. Chính vào buổi trưa” trời nắng, đường
vắng”ấy, chí Phèo lần thứ ba đến gặp Bá kiến” khơng địi tiền” như mọi khi mà đòi lương thiện, đòi quyền” làm
người lương thiện!”. câu nới của Chí Phèo”… Ai cho tao lương thiện? làm thế nào cho mất được hết những vết
mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết khơng!...” đó là những lời đan thép vạch
mặt, kết án tên cường hào xảo quyệt Bá Kiến, đồng thời là tiếng kêu thương tuyệt vọng của một kiếp người đau
khổ! Chí Phèo” văng dao tới” giết Bá Kiến rồi tự sát. Chí đã giết chết con quỷ dữ làng Vũ Đại đã làm hại đời anh.
Chí khơng muốn sống nữa, vì giờ đây, ý thức về nhân phẩm đã trở về. Chí khơng thể sống kiểu lưu manh, không
thể làm quỷ dữ, sống như thú vật được nữa. chí Phèo đã chết bi tảm, quằn quại trên vũng máu của mình, chết
trong tiếng kêu uất hận đau thương, đầy xót xa, ám ảnh. Anh ta đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc đời, khi cánh
cửa cuộc đời đóng chặt trước mắt anh.
+Bi kịch của CP là bi kịch của một con người cố gắng vùng vẫy ngoi lên nhưng càng cố gắng thì càng bị đạp
xuống sâu hơn không ngốc đầu lên được.
-Bản cáo trạng tố cáo xã hôi đương thời:
+Tác giả tố cáo xã hội phong kiến bất công, đã khiến con người sinh ra là người mà không được làm người.
Trang | 5
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
+Tố cáo Bá Kiến,Lí Cường,một kẻ cáo già lọc lõi,nham hiểm,đại diên cho bọn địa chủ cường hào ở nước ta thời
TCM.
+Tố cáo làng VĐ là hình ảnh cái xã hội thực dân phong kiến thối ná,cái ác ngự trị,vơ tình nhẫn tâm khơng xem
CP là người,khơng dám dang tay cứu giúp CP.
+Tác giả muốn thể hiện bản chất tốt đẹp của người dân lao động ngay cả khi tưởng họ đã bị xã hội tàn bạo cướp
đoạt tất cả.Cái chết của CP:đánh đổi sự sống để khẳng định nhân cách cá nhân,quyền làm người.
->Bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội tàn bạo bất công đã đạp con người xuống vũng bùn,không cho người ta
được làm người lương thiện.
Truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao kết thúc bằng hình ảnh:
Đột nhiên thị thấy thống hiện ra một cái lị gạch cũ bỏ khơng, xa nhà cửa, và vắng người lại qua…
- Ý nghĩa nội dung:
+ “Cái lị gạch cũ” vốn là nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lịng, giờ đây khi Chí
Phèo vừa chết lại xuất hiện trong ý nghĩ của thị Nở ở kết thúc truyện, đã gợi ra
được sự quẩn quanh, bế tắc trong tấn bi kịch tha hóa và bị cự tuyệt quyền sống
lương thiện của người nông dân.
+ Kết thúc truyện thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: đồng cảm với
nỗi thống khổ của người nông dân dưới ách thống trị tàn bạo của bọn địa chủ
phong kiến, trân trọng khát vọng được sống lương thiện của họ.
- Ý nghĩa nghệ thuật
+ Truyện kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh ở phần mở đầu tạo nên kết cấu đầu
cuối tương ứng gợi ra vòng tròn luẩn quẩn của thân phận Chí Phèo, giúp tơ đậm
chủ đề tư tưởng: cuộc đời Chí Phèo tuy kết thúc nhưng tấn bi kịch Chí Phèo sẽ
vẫn cịn tiếp diễn.
+ Kết thúc truyện vừa khép vừa mở dành nhiều khoảng trống cho người đọc tưởng
tượng và suy ngẫm, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận
Trang | 6
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT HUẤN CAO TRONG TÁC PHẨM CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Mở bài:
+Nguyễn Tuân là cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam cả trước và sau Cách mạng. Trước Cách mạng,
Nguyễn Tuân nổi tiếng với các tác phẩm: Vang bóng một thời, Chiếc lư đồng mắt cua, Chùa Đàn… sau cách
mạng nhà văn để lại dấu ấn sâu sắc qua một số tùy bút: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi, Sông Đà…
+Chữ người tử tù là tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Tuân trích trong tập Vang bóng một thời. Nổi bật trong
tác phẩm Chữ người tử tù đó chính là hình tượng người anh hùng Huấn Cao mang vẻ đẹp tài hoa và khí phách
anh hùng lẫm liệt khiến mỗi lần gấp trang sách lại ta không thể nào quên.
Thân bài:
+Huấn Cao là một anh hùng thời loạn hội tụ những phẩm chất tài năng: khí phách hiên ngang – thiên
lương trong sáng – tài hoa uyên bác. Huấn Cao là một nguyên mẫu lịch sử có thật của thế kỉ XIX, là hiện
thân của võ tướng – người anh hùng của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương, một nhà thơ, nhà thư pháp Cao Bá Quát
lững lẫy một thời. Qua ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nguyên mẫu lịch sử này đã tự nhiên đi vào trang văn
và hiện lên lung linh sáng tỏa trên từng con chữ.
+Ngay từ đầu tác phẩm, Huấn Cao đã hiện lên như ánh hào quang phủ kín cả bầu trời tỉnh Sơn. Qua lời
trị chuyện của quản ngục và thơ lại ta thấy tiếng tăm của Huấn Cao đã nổi như cồn. Điều làm cho bọn ngục
quan phải kiêng nể không chỉ là tài viết chữ đẹp mà cịn là “tài bẻ khóa, vượt ngục” của ơng Huấn. Tuy nhiên,
đây khơng phải là trị của bọn tiểu nhân vô lại đục tường khoét vách tầm thường mà là hình ảnh của một người
anh hùng ngang tàng, một nam tử Hán đại trượng phu “Đỉnh thiên lập địa” không cam chịu cảnh tù đày áp
bức, muốn bứt phá gơng cùm xiềng xích để thốt khỏi vịng nô lệ. Huấn Cao mang cốt cách ngạo nghễ, phi
thường của một bậc trượng phu. Những kẻ theo học đạo Nho thường thể hiện lòng trung quân một cách mù
quáng. Nhưng trung quân để rồi “dân luống chịu lầm than mn phần” thì hóa ra là tội đồ của đất nước. Ông
Huấn đã lựa chọn con đường khác: con đường đấu tranh giành quyền sống cho người dân vô tội. Bị triều đình
phán xét là kẻ tử tù phản nghịch, tội xử chém, là “giặc cỏ” nhưng trong lòng nhân dân lao động chân chính
ơng lại là một anh hùng bất khuất, một kẻ ngang tàng “chọc trời khuấy nước” sống ngồi vịng cương tỏa. Tuy
chí lớn của ơng khơng thành nhưng ông vẫn hiên ngang bất khuất, lung linh sáng tỏa giữa cuộc đời.
+Trước uy quyền của nhà lao, con người ấy càng sáng tỏa. Trò tiểu nhân thị oai, dọa dẫm của bọn tiểu lại giữ
tù càng làm cho ơng thêm phần ngang ngạo. Ơng vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường, dỗ gơng, phủi rệp,
hóm hỉnh đùa vui. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh đầu thang gông xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan
đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Đó là thái độ ngang tàng, bất chấp luật pháp của một xã hội dơ bẩn.
+Người xưa thường nói “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” (Một ngày ở trong tù bằng nghìn thu ở ngồi).
Thay vì buồn rầu, chán nản “gậm một mối căm hờn trong cũi sắt” thì ơng lại thản nhiên nhận rượu thịt và ăn
uống no say coi như một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình. Chứng tỏ ông nào xem nhà tù là chốn ngục
tăm tối mà chỉ xem nhà tù như một chốn dừng chân để nghỉ ngơi “Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù”.
+Đối với quản ngục, Huấn Cao rất: lạnh lùng, khinh bạc xưng hô "ta - ngươi", miệt thị hạ nhục “Ngươi bảo ta
cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàng, ngạo mạn đầy trịch thượng như
vậy là bởi vì Huấn Cao vốn hiên ngang, kiên cường; “đến cái chết chém cũng cịn chẳng sợ nữa là...” Ơng
khơng thèm đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ đã bị mình xúc phạm. Huấn Cao rất có ý thức được vị trí của mình
trong xã hội, ơng biết đặt vị trí của mình lên trên những loại dơ bẩn “cặn bã” của xã hội. “Bần tiện bất năng di,
uy vũ bất năng khuất”. Nhân cách của Huấn Cao quả là trong sáng như pha lê, khơng hề có một chút trầy xước
nào. Theo ông, chỉ có “thiên lương” , bản chất tốt đẹp của con người mới là đáng q. Có lẽ chính vì vậy mà
khi nghe tin xử trảm: ơng vẫn thản nhiên, không sợ hãi, chỉ khẽ mỉm cười, bất chấp cái chết, coi thường cái
chết.
+Bên cạnh dũng khí ngất trời của một bậc hảo hán, vẻ đẹp của Huấn Cao cịn là vẻ đẹp của con người tài
hoa. Ơng có tài viết chữ đẹp. Tài viết chữ đẹp của Huấn Cao do đó là biểu hiện của nét đẹp của văn hố một
thời. "Chữ ơng Huấn Cao đẹp lắm, vng lắm". Đẹp đến mức người ta khát khao, ngưỡng vọng "có được chữ
ơng Huấn mà treo là có một báu vật trên đời". Tuy nhiên, ơng lại là người có ý thức giữ gìn cái đẹp, có lịng tự
trọng: “ Ta nhất sinh khơng vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Nỗi khổ của quản
ngục là có Huấn Cao trong tay, dưới quyền mình nhưng lại khơng thể nào có được chữ ơng Huấn. Quản ngục
và Huấn Cao là hai con người ở hai thế giới cách biệt, đối lập nhau: Quản ngục đại diện cho thế lực nhà tù,
nắm giữ pháp luật; Huấn Cao là kẻ tử tù . Huấn Cao là người sáng tạo cái đẹp; quản ngục là người yêu quý cái
Trang | 7
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
đẹp lại là người bị ông trời “chơi ác, đem đày ải những cái thuần khiết vào giữa một đống cặn bã”. Trên bình
diện xã hội họ là hai kẻ đối lập nhưng trên bình diện nghệ thuật họ lại là tri âm tri kỷ. Tình huống truyện là ở
chỗ ấy, cả hai kẻ lại gặp nhau trong cảnh éo le này.
+Lúc hiểu được tấm lòng viên quản ngục: Ông Huấn “lặng nghĩ”, “mỉm cười”, ngạc nhiên “ta cảm cái tấm
lòng biệt nhỡn liên tài... thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Lời nói rất chân tình, xúc
động. Điều này cho thấy Huấn Cao là một người hiên ngang, khí phách nhưng cũng rất có nghĩa khí. Khơng
thể phụ một “thanh âm trong trẻo chen lẫn giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
-Cảnh cho chữ:
+Hai con người đồng nhất tỏa sáng trong đêm cho chữ “Một cảnh tượng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân
đã dồn hết bút lực của mình vào cảnh này. Nhà văn đã huy động vốn ngôn ngữ, tâm huyết và tài năng của
mình dồn tụ lại trong một khơng khí cổ xưa hoành tráng của nghệ thuật thanh cao: VIẾT THƯ PHÁP.
Nhà văn dựng cảnh thật tài tình và đầy dụng ý nghệ thuật. Thủ pháp tương phản làm nên cảnh cho chữ bi tráng
chưa từng thấy. Đó là sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng; giữa sự dơ bẩn của xã hội nhà tù và thiên lương
trong sáng, khí phách rạng ngời. Tương phản giữa bó đuốc sáng rực trên vách nhà với đêm đen thăm thẳm;
tương phản giữa vuông lụa trắng, thoi mực thơm và tường nhà, đất đầy mạng nhện, đầy phân chuột, phân gián.
“Ở đây sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối cứ giằng co nhau quyết liệt. Bóng tối quánh đặc như muốn nuốt
tươi ánh sáng. Nhưng không, ánh sáng ở đây vẫn ngời chói vẫn ngời tỏ, sáng rực, chứ khơng như ánh sáng leo
lét, buồn rầu của ngọn đèn con chị Tý và ánh sáng rực tỏa, chói lọi như đồn tàu rồi lại chìm vào hư khơng của
bóng đêm trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Song xét sâu xa hơn thì ánh sáng đó khơng chỉ đơn
thuần mang ý nghĩa sắc màu vật lý mà ánh sáng đó mang sắc màu ý nghĩa nhân sinh đậm nét: ánh sáng của sự
lương tri, của nhân tâm, của thiên lương trong sáng đã chiến thắng bóng tối của cường quyền, bạo lực. Sự
chiến thắng đó là điều tất yếu sẽ xảy ra, bởi vì mọi cái thiện, cái cao cả, chính nghĩa cuối cùng sẽ chiến thắng.
Với ánh sáng ấy đã cảm hóa con người một cách mạnh mẽ, nâng đỡ những con người có đức, mến mộ cái tài,
nhưng yếu ớt trở về cuộc sống lương thiện... Sự chiến thắng đó là bản hùng ca, ca ngợi chữ tâm của con người
thiên lương”
Viết thư pháp là nơi thư phịng thư sảnh sạch sẽ thống mát, có hoa có nguyệt, có men rượu cay nồng. Nhưng
khung cảnh thường thấy ấy lại không hiện diện nơi đây. Ở đây, sự dơ bẩn, phàm tục được hiện hữu rất rõ:
“một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián”. Sự nhem nhuốc,
phàm tục lên đỉnh điểm. Nhưng sự xuất hiện của phiến lụa, của thoi mực thơm đã xua tan đi mùi ô uế. Nhưng
sự ô uế dần dần biến mất, bởi “Cái đẹp là địa hạt của sự sống, cái đẹp đã lên ngôi thay thế cho cái xấu xa, thấp
hèn, cái đẹp nâng đỡ con người”. Vì thế dù “Cổ đeo gơng chân vướng xiềng” nhưng ơng Huấn vẫn tung hồnh
ngang dọc cái khát khao của đời mình lên từng vng lụa trắng. Đó là thái độ uy nghi, đường hồng, một thái
độ của “hùm thiêng” khi đã “sa cơ” mà chẳng hèn chút nào. Thái độ ấy, đúng là “Thân thể ở trong lao - Tinh
thần ở ngoài lao”. Người tù ấy đã ngự trị nơi bóng tối này với một dáng vóc uy nghi, lẫm liệt thật đường hồng
làm cho bọn quản lý nhà ngục phải khiếp sợ, kính nể: “viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền
kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa” và “thầy thơ lại gầy gò run run bưng chậu mực”. Nét chữ của ông như
rồng bay phượng múa, thiên lương của ông tỏa sáng lồng lộng chốn ngục tù. Tài hoa và thiên lương và khí
phách đã hợp nhất thành Huấn Cao. Kỳ lạ thay, trong cảnh cho chữ này, pháp luật và uy quyền của nhà tù đã
bị sụp đổ. Uy quyền và bạo lực giờ đây đã tan biến, nó bị khuất phục bởi cái đẹp, cái thiên lương. Ở đó khơng
cịn tử tù và quản ngục, thơ lại. Ở đó chỉ cịn những con người u quý và biết thưởng thức cái đẹp. Cái xấu
xa, cái ác, cái chết chóc nhường chỗ cho cái đẹp, cái bất tử. “Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện
thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái
Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì khơng cịn kẻ
phạm tội tử tù, khơng có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đơi mắt
ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của
thiên lương và khí phách. Cũng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử”.
+Lời khuyên của Huấn Cao đối với quản ngục lại một lần nữa khẳng định cái đẹp, cái thiên lương của con
người: “Ở đây lẫn lộn ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa
với những nét chữ vng vắn, tươi tắn nó nói lên cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Lời khuyên
của Huấn Cao đã khẳng định rằng: cái đẹp, cái thiên lương không bao giờ và không khi nào lại có thể chung
sống với cái xấu, cái ác: “Ở đây khó giữ thiên lương cho lành vững được và rồi cũng nhen nhuốm mất cả cái
Trang | 8
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
đời lương thiện đi”. Một lời khuyên thật thiện tâm, thiện ý của Huấn Cao đã làm cho viên quản ngục cảm
động: “vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dịng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Câu nói : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” đã cho thấy rằng: cái đẹp, cái thiện,
cái tài hoa đã chiến thắng tuyệt đối. Cái đẹp của nghệ thuật đã xóa nhịa mọi khoảng cách và ranh giới đưa con
người đến với nhau trong vẻ đẹp Chân – Thiện – Mỹ.
Trang | 9
Gmail:
Facebook: http:www.facebook.com/datvuong20
Trang | 10