ĐỀ TÀI: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU TIẾNG VIỆT THEO
KẾT CẤU VỊ TỪ - THAM THỂ QUA ĐOẠN TRÍCH “SÂN
CHIM” CỦA ĐOÀN GIỎI
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt rất khác với các ngôn ngữ khác trên thế giới, vậy nên khi
người nước ngoài học tiếng Việt thì mới có câu: “Tiếng Việt không khó cũng
không dễ !”. Vì không giống các ngôn ngữ mà hiện nay được sử dụng nhiều
như Anh, Pháp, Trung Quốc,… nên các phương pháp được vận dụng để phân
tích câu trong tiếng Việt cũng rất khác biệt. Theo khảo sát của chúng tôi thì một
câu tiếng Việt hiện nay có thể được phân tích theo bốn phương pháp: (1) theo
cấu trúc chủ – vị (Ngữ pháp truyền thống), (2) theo cấu trúc vị từ – tham thể
(Ngữ pháp ngữ nghĩa), (3) theo cấu trúc đề – thuyết (Ngữ pháp chức năng), và
(4) theo cấu trúc nêu – báo (Lý thuyết thông tin). Trong các phương pháp này
thì phương pháp phân tích câu tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể là
phương pháp ra đời tương đối muộn với bề dày lý thuyết chưa nhiều. Ngoài
việc có thể tạo được sự tò mò và thích thú khi nghiên cứu vì là lý thuyết mới
nên sự phiêu lưu là luôn có thì chúng tôi muốn giúp những người quan tâm
hiểu sâu sắc hơn về phương pháp phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể.
Đặc biệt, chúng tôi giới thiệu một cách chi tiết các bước tiến hành phân tích
câu theo phương pháp này, chỉ ra mối quan hệ giữa phương pháp phân tích câu
truyền thống – phân tích câu theo cấu trúc chủ – vị với vị từ – tham thể. Với
những mong muốn được trình bày rõ ràng như trên thì đó chính là một trong
những lý do để chúng tôi lựa chọn đề tài này.
Với đề tài “Phương pháp phân tích câu Tiếng Việt theo kết cấu vị từ –
tham thể” chúng tôi muốn đi sâu nghiên cứu rõ hơn là phương pháp phân tích
câu theo cấu trúc vị từ – tham thể, so sánh nó với các phương pháp phân tích
câu khác, trong đó đặc biệt là với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc chủ
– vị vốn đã quen thuộc đối với người Việt. Từ đây làm rõ sự phức tạp cũng như
đa dạng của Tiếng Việt, chúng ta sẽ có cái nhìn toàn diện về câu Tiếng Việt.
Trong học tập thì đòi hỏi người học phải luôn có sự tiếp nhận với kiến thức
mới, không ngừng nâng cao tri thức mới, đó là một lẽ tất yếu. Và trong học tập
thì lí thuyết luôn đi liền với áp dụng thực tiễn, mà thực tiễn thì luôn không
ngừng vận động, bởi vậy mà việc không ngừng trao dồi kiến thức mới là cần
thiết đối với người học. Vì thế, nếu thành công, đây sẽ là nguồn tài liệu tham
khảo hữu ích cho sinh viên khi phân tích câu TV theo ngữ nghĩa.
Trong ngữ pháp chức năng, các hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà
ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ pháp – ngữ nghĩa – ngữ dụng, đặc
biệt là mặt ngữ nghĩa. Ngữ pháp chức năng đã cho thấy rõ mối quan hệ giữa cấu
trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa (nghĩa miêu tả) của câu. Đó là một bên là nội dung
(cấu trúc nghĩa) và một bên là hình thức (cấu trúc cú pháp của câu). Các chức năng
cú pháp của câu thực chất là do các vai nghĩa chi phối khi chúng được thực hiện
hóa trong câu. Do đó, trong nghiên cứu ngữ pháp cần phải nói đến nghĩa, phải bàn
đến ngữ pháp mang tính ngữ nghĩa.
Từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Phân tích câu tiếng
Việt theo cấu trúc vị từ – tham thể” làm đề tài nghiên cứu.
2.
Lịch sử vấn đề
Với hướng tiếp cận câu bằng phương pháp phân tích dựa trên kết cấu vị từ
– tham thể là một hướng đi không còn là xa lạ đối với học giả, đó như là tri thức
luận cần thiết cho hoạt động khám phá kết cấu nội hàm của câu. Tuy nhiên, hướng
triển khai nghiên cứu đề tài này trong phân tích tác phẩm cụ thể lại ít được quan
tâm trong giới học thuật ở Việt Nam.
Người khơi nguồn cho phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ –
tham thể là L.Tesnière với lý thuyết diễn trị (vào khoảng những năm 30 của thế kỷ
trước). “Cú pháp dựa trên nghĩa học” (semantically based syntax) của L.Tesnière
đã khiến ông trở thành một trong những người sáng lập ra lý thuyết diễn trị
(valency theory) – cách phân tích câu dựa trên cấu trúc nghĩa của các vai (role).
Theo ông: “Cấu trúc cú pháp của câu xoay quanh vị từ và các diễn tố (actants) làm
bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là một trong các bổ ngữ đó. Mỗi vị từ biểu hiện
“một màn kịch nhỏ”, nó có một diễn trị (valence) riêng được thể hiện trong số
lượng các diễn tố của nó”. Tesnière nhấn mạnh vai trò của vị từ vị ngữ là trung tâm
tổ chức ngữ nghĩa và cú pháp của câu.
Sau ông, nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm đến vấn đề này như C.J.
Fillmore, M.A.K. Halliday, W.Chafe, C. Hagege, S.C.Dik,… Bắt đầu từ
C.J.Fillmore. Trước và sau năm 1970, ông có cho đăng hàng loạt bài viết của mình,
trong đó nổi tiếng nhất có lẽ là bài mang tên “The case for case” (tạm dịch là “Tác
dụng của cách”) được công bố năm 1968. Trong bài viết ấy, Fillmore chủ trương
rằng có thể xác định một tập hợp các mối quan hệ giữa một vị từ và các tham tố
của nó. Mối quan hệ kiểu này được ông gọi là “quan hệ cách”. “Đó là những quan
hệ ngữ nghĩa – cú pháp ngầm, được giả định tạo nên một tập hợp hoàn chỉnh, tồn
tại ngầm đối với những ngôn ngữ có vĩ tố và dạng thức cách của các mối quan hệ
cách vẫn là sự biểu đạt trong ngôn ngữ có thể thực hiện được nhờ những phụ tố,
hoặc nhờ các giới từ, hoặc với các cách khác”. Với cách nghĩ này thì có thể nói
Fillmore là người cầm ngọn đuốc đi tiên phong, mở đường cho việc nghiên cứu
ngữ pháp cách.
Theo sau ông sau đó là rất nhiều những nhà ngôn ngữ khác cũng nghiên
cứu về mảng ngữ pháp cách (case grammar) nhưng ở một chừng mực nào đó thì
chúng độc lập với những kết quả nghiên cứu của Fillmore trước đó. Có thể kế đến
như W. Chafe (1970), J.M. Anderson (1971), R.E. Longacre (1976), S.C. Dik
(1978),… trong đó S.C. Dik đã có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn
chỉnh hai khái niệm lớn trong lĩnh vực vai nghĩa: Tham thể bắt buộc (diễn tố) và
Tham thể mở rộng (chu tố).
Đó là sơ lược về tình hình nghiên cứu phương pháp phân tích câu theo kết
cấu vị từ – tham thể trên thế giới. Còn ở Việt Nam, vấn đề này là rất mới nên nó
chỉ được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu về ngữ pháp chức năng.
Có thể điểm mặt một số nhà nghiên cứu như Trương Vĩnh Ký với cuốn
“Grammaire de la langue annamite” xuất bản năm 1983 đề cập ngữ pháp cách, Cao
Xuân Hạo với công trình “Tiếng Việt – sơ thảo ngữ pháp chức năng” (1991), tác
giả Nguyễn Thị Lương với cuốn “Câu tiếng Việt” (2006), Nguyễn Văn Hiệp trong
cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” (2008),…
Từ trước đến nay, ngữ pháp nhà trường sử dụng phương pháp phân tích câu
theo cấu trúc chủ vị, các sách viết về vấn đề này rất phổ biến như những cuốn sách
ngữ pháp của Diệp Quang Ban. Cách phân tích câu theo cấu trúc chủ vị được áp
dụng trong nhà trường phổ thông nên đã trở nên vô cùng quen thuộc. Trái lại
hướng phân câu theo cấu trúc vị từ – tham thể vẫn cón ít người biết đến, do vậy nó
là một vấn đề tương đối mới mẻ. Khi đi nguyên cứu và tìm hiểu về cấu trúc vị từ
tham thể đã có nhiều công trình nguyên cứu, hội thảo khoa học tìm hiểu về vấn đề
này. Sự quan tâm cũng như những góc nhìn của những nhà nguyên cứu ngôn ngữ
học nói riêng, nhà phê bình lí luận và cả nhà giáo dục nói chung đã có nhiều góc
độ nhìn nhận khác nhau và khá sâu sắc về vấn đề này.
TS. Trần Kim Phượng , tại khoa Ngữ văn – ĐHSP Hà Nội đã lý giải
về phương pháp phân tích cấu trúc vị từ tham thể như sau: Đây là phương pháp
phân tích câu nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, do vậy, mỗi đối tượng trong câu đều ứng
với một đối tượng của thực tế khách quan, nội dung của câu là một sự tình của thế
giới khách quan ấy. Nói cách khác, mỗi câu phản ánh một sự tình. Trong cấu trúc
của một sự tình thì động từ vị ngữ (predicator) là trung tâm. Xoay xung quanh
động từ vị ngữ là các tham tố (tham thể – argument). Mỗi tham thể đảm nhiệm
một vai nghĩa (semantic role) nhất định. Trong cấu trúc này, chủ ngữ cũng chỉ là
một trong những tham thể của vị từ mà thôi, nó không quan trọng như vị từ; tuy
nhiên, trong số các tham thể thì nó được xem là tham thể quan trọng nhất. [,30]
Khi đánh giá về chức năng của vị từ Cao Xuân Hạo cho rằng: “Chức năng
của vị từ chính là là thành vị ngữ (ngữ đoạn vị từ) hay làm trung tâm của ngữ đoạn
này, cho nên chỉnh nó đảm đương việc mang những đặc trưng ngữ pháp- ngữ nghĩa
đánh dấu dự phân biệt giữa các loại sự tình”. [ , 258]
Tác giả Trần Kim Phượng trong Các cách phân tích câu tiếng Việt có nhận
định về cách phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể như sau: “Phân tích câu
theo cấu trúc vị từ tham thể là một hướng phân tích câu theo lối mới. Ưu điểm
chính của nó là phản ánh được mặt nghĩa học của câu, làm rõ mối liên quan giữa
nội dung câu với thực tế khách quan. Nhược điểm chính của nó là không làm rõ
được đâu là thông tin mới trong câu.”
Như vậy, cấu trúc vị từ – tham thể đã được các nhà nghiên cứu trong nước
đề cập tới. Tuy vậy các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu phần vị từ và phần
tham thể trong các phát ngôn mà chưa đi sâu vào việc phân tích câu tiếng Việt theo
cấu trúc vị từ – tham thể và so sánh những ưu, nhược điểm của cấu trúc vị từ –
tham thể với các phương pháp phân tích. Mỗi tác giả chỉ đưa ra một, hai ví dụ về
cách phân tích này chứ chưa áp dụng một cách có hệ thống triệt để vào việc phân
tích câu tiếng Việt. Số trang dành cho cấu trúc vị từ –tham thể dường như quá ít ỏi
so với tầm quan trọng của nó. Bởi vậy, theo chúng tôi việc nghiên cứu, tìm hiểu
Phương pháp phân tích câu tiếng Việt theo cấu trúc vị từ - tham thể vẫn còn là một
vấn đề mới mẻ.
3.
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này chúng tôi muốn làm rõ vấn đề phần vị từ, phần tham
thể và hướng phân tích câu theo cấu trúc vị từ – tham thể để từ đó giúp người học
có khả năng vận dụng lý thuyết này vào việc phân tích một câu cụ thể. Đồng thời,
bằng việc đưa ra cụ thể các vai nghĩa từ các hướng nghiên cứu của các tác giả
Tesnière, Nguyễn Thiện Giáp và một số tác giả khác nhằm góp phần làm rõ được ý
nghĩa cụ thể của các yếu tố ngôn ngữ khi tham gia vào diễn đạt câu. Hướng đi mới,
cách tiếp cận mới giúp người dạy và người học và cả những người nghiên cứu có
các nhận định đúng về vai trò của các yếu tố ngôn ngữ ấy, tất cả đều định sẵn vai
trò của mình chứ không chỉ riêng gì vai trò cốt lõi của thành phần chủ ngữ, vị ngữ
theo như cấu trúc C – V.
Trong các phương pháp phân tích câu tiếng Việt thì cấu trúc vị từ tham thể
còn khá mới và bề dày lí thuyết tương đối ít nên việc nguyên cứu cũng như triển
khai dạy học còn khá mập mờ khó khăn và lúng túng khi thực hiện việc nghiên cứu
và học tập của học sinh, sinh viên. Khi thực hiện đề tài này với mục đích phân tích
sâu hơn và kỹ hơn cấu trúc trong từng câu để từ đó giúp những người quan tâm và
muốn tìm hiểu về vấn đề trên sẽ hiểu rõ hơn về phương pháp phân tích câu theo
cấu trúc vị từ – tham thể.
Hơn nữa, hướng nghiên cứu phân tích câu bằng phương pháp vị từ tham thể
(vai nghĩa), cũng sẽ tiếp thu các bước phân tích phương pháp này để phát huy được
những ưu điểm của nó trong phân tích câu tiếng Việt, cụ thể qua một số đoạn trích
tác phẩm văn học.Và củng cố và làm phong phú thêm các hướng tiếp cận câu tiếng
Việt. Từ đó giúp người học hiểu sâu hơn về câu trong lĩnh vực giao tiếp. Thông
qua việc nghiên cứu đề tài “Phương pháp phân tích câu tiếng Việt theo kết cấu vị từ
– tham thể qua đoạn trích Sân chim của Đoàn Giỏi”, chúng tôi mong muốn tiếp thu
những thành tựu nghiên cứu về ngữ pháp ngữ nghĩa, đặc biệt là cấu trúc nghĩa của
câu và từ đó áp dụng phương pháp này để phân tích những câu tiếng Việt đơn giản
trong tác phẩm. Ngoài ra, chúng tôi cũng hi vọng rằng bài nghiên cứu về đề tài có
thể trở thành kênh thông tin có giá trị tham khảo về cấu trúc nghĩa, cấu trúc ngữ
4.
4.1.
pháp của câu tiếng Việt cho quý học giả.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này này là phương pháp phân tích câu
4.2.
Tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể.
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài này của chúng tôi là phương pháp phân
tích câu Tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể trong đoạn trích “Sân chim” thuộc
5.
6.
tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi.
Phương pháp nghiên cứu
Từ mục đích, đối tượng nghiên cứu như trên, trong luận văn này chúng tôi
có sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp miêu tả.
Phương pháp thống kê.
Phương pháp đối chiếu so sánh.
Giả thuyết khoa học
Đề tài này nếu thành công sẽ đóng góp vào cơ sở lý thuyết cho khái niệm vị
từ – tham thể trong tiếng Việt và là nguồn tài liệu cho các nghiên cứu về việc phân
tích câu tiếng Việt theo cấu trúc vị từ – tham thể về sau. Ngoài ra, còn là tài liệu bổ
ích giúp cho sinh viên dễ dàng hơn trong việc thực hành phương pháp phân tích
tương đối mới này.
7. Bố cục
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài này của chúng tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận liên quan đến đề tài
1.1. Quan niệm về vị từ trong câu
1.2. Quan niệm về tham thể (vai nghĩa) trong câu
1.3. Phân loại tham thể
1.3.1.
Tham thể cơ sở (Diễn tố)
Tham thể mở rộng (Chu tố)
1.4. Những vai nghĩa thường gặp
Chương 2: Phương pháp phân tích câu tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể
1.3.2.
(vai nghĩa)
2.1. Các bước phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể
2.2. Mối quan hệ giữa phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ –
2.3.
tham thể và cấu trúc C–V
Ý nghĩa của phương pháp phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể
Chương 3: Thực hành phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể qua đoạn
trích “Sân chim” trong “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Quan niệm về vị từ trong câu
Khái niệm vị từ xuất hiện từ những năm 60 để phân biệt với thể từ, trong
nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt. Nếu thể từ là chỉ những từ khi làm vị ngữ trong
câu cần phải có từ là, thì vị từ là những từ không cần đến từ là và trực tiếp làm vị
ngữ. Vì thế, ở bình diện ngữ pháp “vị từ là khái niệm thường chỉ tập hợp hai từ
loại: động từ và tính từ”, còn thể từ tiếng Việt là danh từ, số từ đại từ.
Vị từ (predicate) hay còn gọi là hàm (function), vị từ được hiểu là “biến mà
giá trị của nó được xác định khi đã biết giá trị của một hay nhiều biến khác”. Vị từ
được xác định thông qua khái niệm vị tố, và tiếp tục khái niệm vị tố được xác định
qua khái niệm biểu thức quy chiếu. Đó là một trong những cách hiểu về vị từ, theo
lí thuyết kết trị của Tesnière – nhà ngữ học người Pháp, người được xem như là cha
đẻ của lí thuyết ngữ trị trong nghiên cứu ngữ pháp, những khuynh hướng nghiên
cứu ngữ pháp dựa trên ngữ nghĩa. Trong khung vị ngữ, cấu trúc vị từ – tham thể,
dựa trên lý thuyết của Tesnière đã được tách ra khỏi ảnh hưởng của logic học.Vì
theo tác giả, “ngữ pháp là vấn đề thuộc ngôn ngữ học chứ không phải của logic,
câu (câu đơn) chỉ có một đỉnh duy nhất là vị từ vị ngữ.”. Vai trò của vị từ vị ngữ
được đánh giá cao theo cách hiểu này, theo Tesnière vị từ là đỉnh, là tâm điểm tổ
chức của câu quyết định trực tiếp đến các diễn tố có thể xuất hiện trong câu.Vị từ
là trung tâm tổ chức ngữ nghĩa và ngữ pháp của câu.
Cùng cách nghiên cứu ngữ pháp dựa trên ngữ nghĩa, Igor A Mel’cuk, André
Clas, Allain Polguere quan niệm “vị từ trong logic ngữ nghĩa là một nghĩa trong đó
có những “lỗ hổng” để nhận những ý nghĩa khác, vị từ ngữ nghĩa là một nghĩa có
tính gắn kết”. Vị từ ngữ nghĩa tập hợp các nghĩa khác để tạo thành những cấu trúc
ngữ nghĩa như “một cái ống nối kết các đỉnh của một cái trại để tạo thành khung đỡ
cái trại”. Qua đó, thấy rằng nếu xét trên logic ngữ nghĩa, vị từ là yếu tố ngôn ngữ
mang nghĩa có tính gắn kết, là thành tố nêu đặc trưng hay quan hệ và vị từ chỉ xuất
hiện khi có sự tham gia của các tham tố.
Theo hướng nghiên cứu ngữ pháp chức năng, qua công trình nghiên cứu
của nhà ngôn ngữ học người Ba Lan – Anna Siewierska, tác giả Diệp Quang Ban
có đưa ra nhận xét: “Trong ngữ pháp chức năng, toàn bộ các vị từ chia thành ba
loại: thuộc động từ, thuộc tính từ và thuộc danh từ”. Vị từ thuộc động từ, tính từ là
phổ biến hơn so với danh từ. Nhưng cũng có thể thấy được, khác với ngữ pháp
truyền thống, vị từ không chỉ riêng động từ, tính từ mà còn có danh từ. Chẳng hạn,
qua các ví dụ sau:
Tôi đọc truyện “Đất rừng phương Nam” của Đoàn Giỏi.
Em gái dễ thương quá.
Mưa!
Cùng với nhận xét này, để thấy rằng phạm trù vị từ trong cấu trúc vị từ –
tham thể đã được hiểu rộng hơn. Ngày nay, hiểu vị từ theo hướng nghiên cứu về
mặt ngữ pháp chức năng – ngữ pháp dựa trên cơ sở ngữ nghĩa sẽ có tính mở hơn so
với hướng nghiên cứu về mặt ngữ pháp truyền thống.
Các vị từ được phân loại chủ yếu dựa vào ngữ trị của chúng, nghĩa là dựa
vào số lượng ngữ đoạn bắt buộc đi cùng với chúng để tạo nên một câu trọn vẹn tối
thiểu. Chẳng hạn, vị từ “biếu” trong ví dụ: Cháu Nam biếu ông lọ thuốc bóp chân.
Vị từ này có ngữ trị 3, với ba ngữ đoạn lần lượt chỉ ra người tặng “cháu Nam”,
người được tặng “ông” , vật được tặng “lọ thuốc bóp chân”.
Có vị từ vô trị (avalent), vị từ đơn trị (monovalent), vị từ song trị (bivalent),
vị từ tam trị (trivalent),... Vị từ vô trị là vị từ có diễn trị zero. Ví dụ: Hôm qua bão./
Khuya lắm rồi! Trong ví dụ trên từ “bão”, “khuya” là những vị từ vô trị. Vị từ đơn
trị là vị từ có một diễn tố. Ví dụ: Tôi chạy đi./ Em đứng. Vị từ song trị là vị từ có
hai ngữ trị. Ví dụ: Tôi thổi cơm./ Mẹ hái rau.
1.2.
Quan niệm về tham thể (vai nghĩa) trong câu
Phương pháp phân tích câu Tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể là
phương pháp phân tích câu nhìn từ góc độ ngữ nghĩa, do vậy, mỗi đối tượng trong
câu đều ứng với một đối tượng của thực tế khách quan, nội dung của câu là một sự
tình của thế giới khách quan ấy. Theo cách nói của Cao Xuân Hạo thì câu biểu hiện
một sự tình mà trong đó, nội dung (nghĩa biểu hiện) của nó được hình dung như
một “cảnh” (một màn kịch ngắn) diễn trên sân khấu và các nhân/ vật có mặt trên
sân khấu được gọi là tham tố của sự tình. [6, tr.27] Tức là các tham tố là các vai
nghĩa trong một màn kịch nhỏ của một sự thể. Nói cách khác, mỗi câu phản ánh
một sự tình, trong cấu trúc của một sự tình thì động từ vị ngữ (predicator) là trung
tâm, xoay xung quanh động từ vị ngữ là các tham thể. Mỗi tham thể đảm nhiệm
một vai nghĩa (semantic role) nhất định.
Khái niệm tham thể được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo tác
giả Bùi Minh Toán “Tham thể là các thực thể tham gia vào cấu trúc và đặc
trưng/quan hệ- tham thể của sự tình, và thường được biểu thị bằng danh từ, cụm
danh từ hoặc các từ ngữ tương đương”. [1, tr.180]
Cùng với quan điểm của Bùi Minh Toán, các nhà nghiên cứu khác cũng khá
thống nhất khi cho rằng tham thể là tất cả các thực thể được biểu hiện bằng các
danh từ và tương đương danh từ tham gia vào sự tình, chịu sự chi phối trực tiếp của
ý nghĩa của vị từ hoặc phải được vị từ chấp nhận.
Với cái nhìn không thể tách tham thể ra khỏi sự tình thì Van Valin và
Lapolla (1997) cũng có cái nhìn tương tự, cho rằng: “Vai nghĩa (tham thể) mà một
thực thể đảm nhận trong sự tình luôn luôn phụ thuộc vào bản chất của sự tình đó,
và thực là vô nghĩa nếu ta tách biệt các vai nghĩa ra khỏi các sự tình mà trong đó
chúng xuất hiện” [5, tr.13-21]
Với tác giả S. C. Dick thì: “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ
gắn kết với một số thích hợp các ngữ định danh để lắp đầy vị trí các tham tố của vị
từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc
tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định, có hiệu lực đối với những ngữ định
danh cụ thể mà vị từ được ứng dụng”. [4, tr.14]
Tác giả Diệp Quang Ban đưa ra quan niệm tham thể là những thực thể tham
gia vào sự thể (sự việc) như là một bộ phận cần thiết của sự thể, bộ phận nằm trong
sự thể. Tham thể có quan hệ với sự thể theo kiểu cho sự thể ấn định, tức là một sự
thể cụ thể chỉ có thể diễn ra nhờ sự có mặt của một hoặc những tham thể nào đó,
một sự thể khác có thể diễn ra không cần đến sự có mặt của tham thể nào cả.
Chẳng hạn sự đánh nhau nhất thiết phải có hai bên tham gia. [8, tr.21]
Ở phương pháp phân tích câu Tiếng Việt theo kết cấu vị từ – tham thể, thì
mỗi câu nói có một vị từ làm cốt lõi và xung quanh là những tham thể, biểu thị
những vai nghĩa khác nhau. Có những vai nghĩa mang tính bắt buộc, bị quy định
bởi bản chất từ vựng – ngữ pháp của vị từ trung tâm, theo cái nghĩa là những vị từ
có bản chất từ vựng – ngữ pháp khác nhau sẽ quy định các vai nghĩa khác nhau.
Nhưng cũng có những vai nghĩa mang tính tùy nghi, tức là không chịu sự quy định
bắt buộc như vậy.
Trong ngữ pháp của Tesniere, những vai nghĩa bắt buộc sẽ được hiện thực
hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là diễn tố (actant), còn những vai nghĩa
tùy nghi thì được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là chu tố
(circonstant). Việc đánh giá một vai nghĩa là bắt buộc hay tùy nghi phải đặt trong
quan hệ với vị từ trung tâm: một vai nghĩa có thể tùy nghi với vị từ này, nhưng lại
bắt buộc đối với vị từ khác. Ví dụ, vai nghĩa “nơi chốn” (location) có thể mang tính
tùy nghi khi trung tâm là một vị từ “hành động” “Tôi đi đến Sài Gòn” nhưng lại
mang tính bắt buộc nếu trung tâm là một vị từ “tồn tại” “Tối sống ở Hà Nội”. Với
lý thuyết này, Cao Xuân Hạo cũng khẳng định Tesniere là người đã đặt nền móng
cho nghĩa học của cú pháp.
Trên cơ sở đó, các tham thể được các nhà nghiên cứu khái quát thành hai
loại: tham thể cơ sở và tham thể bắt buộc (thuật ngữ của tác giả Diệp Quang Ban)
hoặc chu tố và diễn tố (thuật ngữ của tác giả Cao Xuân Hạo).
1.3. Phân loại tham thể
1.3.1.Tham thể cơ sở (Diễn tố)
Tham thể cơ sở là loại tham thể mà sự hiện diện của nó là nội dung ý nghĩa
của vị từ trong cùng cấu trúc ý nghĩa nó đòi hỏi.
Ví dụ: Nga vừa mua cho Linh một hộp bánh đó.
Trong đó Nga, Linh và hộp bánh là những tham thể bắt buộc.
Tác giả Cao Xuân Hạo gọi tham thể bắt buộc là diễn tố (actant). Theo ông,
“diễn tố là tham tố của vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ
(thuật ngữ của Cao Xuân Hạo). Theo ông, khung ngữ vị từ không phải là ngữ, cũng
không phải là câu, ở đây là cái khung nghĩa. Như một nhân vật được giả định một
cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ, mà nếu thiếu đi thì cái sự tình hữu
quan không thể được thực hiện, không còn là nó nữa”. [3, tr.113]
Diễn tố (tham thể cơ sở) những vai nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong
nghĩa từ vựng của vị từ. Nói cách khác đây là những tham tố bắt buộc, xuất hiện do
nghĩa của vị từ quy định. “Diễn tố là tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định
(cho từng vị từ), cùng với nội dung của sự tình (do vị từ biểu thị) tạo thành một sự
tình, tức là tạo thành cấu trúc nghĩa của câu”. [2, tr.49]
Ví dụ: Người đàn bà càu nhàu câu gì trong miệng. (Vợ nhặt)
Trong ví dụ này, “càu nhàu” là vị từ và “người đàn bà”, “câu gì”, “trong
miệng” là những diễn tố. Trong đó, “người đàn bà”: chủ thể của hành động; “câu
gì”; “trong miệng”: tham thể chỉ nơi chốn của hành động. Ba tham thể này có mặt
là do nghĩa của vị từ “càu nhàu” đòi hỏi nhằm làm cho câu văn rõ ràng, đủ ý.
Do chịu sự ấn định của vị tố nên các diễn tố thường đi với một loại vị từ
nhất định. Trong đó:
Tham thể chỉ đích thường đi với vị từ tự dời chuyển – đòi hỏi một tham thể
bắt buộc (chủ thể) hoặc hai tham thể bắt buộc (chủ thể và đích); vị từ tác động làm
vật dời chuyển – đòi hỏi hai tham thể bắt buộc.
Cô ấy chạy, “cô ấy” là chủ thể của hành động chạy.
Cô ấy chạy đến vạch đích, “cô ấy” là chủ thể của hành động chạy; vạch
đích: đích đến.
Tôi đem cái cây về nhà, “tôi” là chủ thể của hành động đem; “cái cây” là
tham thể chỉ vật được dời chuyển – đối thể.
Tham thể chỉ đối thể chịu tác động của hành động thường đi với các vị từ
chỉ hành động tác động – đòi hỏi hai tham thể bắt buộc.
Tôi đạp phanh phách vào các ngọn cỏ. Từ “Tôi” là chủ thể của hành động
đạp và “các ngọn cỏ”: vật chịu tác động của đạp – đối thể.
Tham thể chỉ chủ thể cầu khiến, đối thể được cầu khiến và nội dung cầu
khiến: đi với vị từ cầu khiến – đòi hỏi ba tham thể bắt buộc.
Tôi bảo em gái lấy áo quần vào nhà. Từ “Tôi” là chủ thể của hành động
bảo; “em gái” là tiếp thể của hành động; “quần áo”: đối thể chỉ vật.
Các tham thể chủ thể trao nhận, tiếp thể, vật được trao nhận: đi với loại vị
từ trao nhận – đòi hỏi ba tham thể bắt buộc.
Tôi tặng cô ấy một chiếc khăn quàng cổ. Từ “Tôi” là chủ thể của hành
động tặng; “cô ấy” tiếp thể chỉ người nhận; “chiếc khăn quàng cổ”: đối thể chỉ vật
được trao nhận.
Các tham thể chủ thể hủy diệt thường đi với loại vị từ hủy diệt – đòi hỏi hai
tham thể bắt buộc.
Thạch Sanh chém chằn tinh. “Thạch Sanh” là chủ thể hủy diệt; “chằn
tinh”: đối thể bị hủy diệt.
Các tham thể chính là các thực thể tham dự và tạo nên sự tình (sự việc).
Song tham thể phụ thuộc vào vị tố và tùy theo mối quan hệ về nghĩa với loại vị tố
mà được xác định thành các vai nghĩa. Số lượng tham thể và tên gọi tham thể chưa
có sự thống nhất ý kiến. Trong đó, tham thể được biểu hiện chủ yếu bằng danh từ,
đại từ, đôi khi bằng các loại khác.
1.3.2.Tham thể mở rộng (Chu tố)
“Tham thể mở rộng, theo cách gọi của Cao Xuân Hạo là chu tố
(circumstants – những kẻ đứng xung quanh) là loại tham thể mà sự xuất hiện của
nó là nhằm bổ sung thêm một phương diện nghĩa nào đó cho cấu trúc nghĩa vị từ tham thể”. [7, tr.145]
Ví dụ: Ngày mai, tôi sẽ sáng tác cho cậu một bài hát. Thì “ngày mai” chính
là tham thể mở rộng.
Chu tố (circumstants) là những vai nghĩa không tất yếu, không được giả
định sẵn trong nghĩa từ vựng của vị từ. Chúng là những tham tố không bắt buộc,
chỉ xuất hiện để thêm một ý nghĩa nào đó cho khung vị ngữ (thời gian, không gian,
cách thức, phương tiện, mục đích, ý so sánh…). Chúng không do bản chất của vị từ
quy định, chúng có thể có mặt ở nhiều (hay tất cả) các loại vị từ (sự tình).
Theo S. C. Dik “chu tố là sự mở rộng tùy chọn của kết cấu vị ngữ hạt
nhân, chỉ ra các bình diện bổ sung của sự tình. Chu tố ‘nhạy cảm’ với bản chất
của sự tình được kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định hơn là với bản chất của vị từ
được nói đến” [9, tr.70-71].
Chu tố dẫu không trực tiếp chịu sự chi phối của vị tố, không nhất thiết phải
có mặt trong cấu trúc vị từ – tham thể, sự xuất hiện của nó là nhằm bổ sung thêm
một phương diện nghĩa, nhưng vì nằm trong cùng một câu trúc nghĩa nên ý nghĩa
của nó phải phù hợp với ý nghĩa của vị từ, phải được vị từ thừa nhận.
Tuy nhiên, sự phân chia tham thể bắt buộc – tham thể mở rộng hay diễn tố
– chu tố chỉ có tính tương đối. Một tham thể bắt buộc trong một khung ngữ vị từ
này có thể là một tham thể mở rộng trong một khung ngữ vị từ khác. Chẳng hạn:
(1) Tôi đi vào ngày mai. (2) Ngày mai, tôi sẽ đi Đà Lạt.
Cùng là tham tố chỉ thời gian là “ngày mai” nhưng ở ví dụ (1) thì “ngày
mai” là vai đích cho vị từ “đi” nên đây là tham tố cơ sở. Còn ở ví dụ (2), “ngày
mai” không bị chi phối bởi vị từ “đi”, nó chỉ bổ sung ý nghĩa và thời gian cho việc
sẽ đi Đà Lạt, không nhất thiết phải có tham thể này mà vẫn hiểu được ý nghĩa của
1.4.
câu, vậy nên trong ví dụ (2) “ngày mai” giữ vai trò là tham thể mở rộng”.
Các vai nghĩa thường gặp
Như trên đã nói, trong khung vị ngữ, vị từ là hạt nhân ngữ nghĩa của vị ngữ
(ngữ vị từ). Nói như vậy nghĩa là vị từ với tư cách là từ biểu hiện nội dung của sự
thể đối với cấu trúc tham tố của vị ngữ.
Vai nghĩa thường được biểu hiện dưới hai hình thức: ngữ đoạn và một cú C
−
– V. Người ta thường đánh dấu vai nghĩa bằng 3 phương thức:
Dùng trật tự từ. Trong ngôn ngữ dùng trật tự từ như một phương tiện để phân biệt
các vai nghĩa, đặc biệt đối với các ngôn ngữ không biến hình. Ví dụ: Bốn giờ tôi đi
−
học. (vai thời điểm)/ Tôi đi học bốn giờ. (vai thời lượng)
Dùng biến tố. Đây là phương thức chỉ dùng trong ngôn ngữ biến hình (tiếng Nga)
−
Dùng giới từ. Phương thức này được xem là phương thức phổ biến nhất trong cách
đánh dấu vai nghĩa. Ví dụ: Em đi Hà Nội bằng tàu hỏa. ( vai công cụ.
Có thể kết luận về cách đánh dấu vai nghĩa trong tiếng Việt rằng, vì tiếng
Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập nên vai nghĩa thường đánh dấu bằng phương
thức trật tự từ và phương thức dùng giới từ.
Cách tiếp cận như trên đã được nhiều nhà ngôn ngữ học tiếp thu và đưa ra
danh sách những vai nghĩa trong khung vị ngữ.
Cao Xuân Hạo gọi các diễn tố (vai nghĩa bắt buộc) bằng các tên gọi như:
vai tác thể, vai hành thể, vai động thể, vai lực thể, vai đương thể, vai đối thể, vai
tiếp thể, vai đích,…còn với tác giả Diệp Quang Ban gọi là thể động, thể tĩnh, thể
cảm nghĩ, thể nói năng, thể mục tiêu, thể tiếp nhận…
Còn các chu tố (vai nghĩa mở rộng) Cao Xuân Hạo gọi là: vai phương thức,
vai phương tiện, vai kết quả, vai lối đi…, còn Diệp Quang Ban gọi là cảnh huống:
thời gian, không gian, nguyên nhân, điều kiện, mục đích, kết quả, đường đi, nghịch
đối,... [7, tr.49]
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Hiệp trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích
−
cú pháp” đã liệt kê ra danh sách các vai nghĩa như sau: [8]
Vai tác thể (Agent): Biểu thị người gây ra hành động.
Vai nghiệm thể (Expriencer): Biểu thị chủ thể trải nghiệm một trạng thái nào đó.
Vai tiếp thể (Recipient): Biểu thị kẻ tiếp nhận trong hành động trao tặng.
Vai kẻ hưởng lợi (Benefactive): Biểu thị kẻ được hưởng thành quả từ một hành
−
−
động do một ai đó thực hiện.
Vai lực tự nhiên (Force): Chỉ tác nhân tự nhiên gây ra một biến cố, thay đổi nào đó.
Vai bị thể (Patient): chỉ vật, người chịu sự tác động, dẫn đến một thay đổi nào đó.
−
−
−
−
Sự thay đổi này có thể là về vật lí, tâm lí…
Vai công cụ (Instrucment): Chỉ công cụ được dùng để thực hiện hành động.
Vai vật thực hiện tác động (Effector): Chỉ vật trực tiếp tác động đến đối tượng nào
−
đó, vai này rất gần gũi với vai công cụ.
Vai địa điểm, vị trí (Location hay Locative): Chỉ nơi chốn của sự tình, vị trí tồn tại
−
của sự vật.
−
Vai điểm xuất phát, hay nguồn của trạng thái (Source): Chỉ điểm xuất phát của
−
−
chuyển động, hay nguồn của trạng thái.
Vai điểm đến (Goal): Chỉ đích đến của một chuyển động.
Vai kẻ tham chiếu (Reference): Chỉ người hay vật được dùng để tham chiếu trong
−
một trạng thái, quan hệ.
Vai kẻ cùng hành động (Comcomitant): Chỉ người cùng hành động trong một hành
−
động.
Vai thời điểm ( Temporal): Chỉ thời điểm của sự tình.
Vai chủ sỡ hữu (Possessor): Chỉ chủ sỡ hữu của sự vật.
Vai thời lượng (Duration): Chỉ thời gian kéo dài của hành động.
Vai nội dung (Content): Chỉ nội dung của sự hiểu biết.
Vai thể chuyển động (Theme): Chỉ một thực thể tồn tại ở một vị trí nào đó, hoặc
−
thực thể chuyển động, chịu một sự thay đổi về một vị trí do một tác nhân nào đó.
Một số vai khác có tính chất ngoại vi cũng được tác giả thừa nhận, như vai cách
−
−
−
−
thức (Manner), vai nguyên nhân (Cause), vai mục đích (Purpose).
Như vậy, có thể thấy rằng việc phân loại các vai nghĩa trong khung vị
ngữ chưa có sự thống nhất giữa các tác giả về tên gọi. Trong phạm vi bài này,
chúng tôi xin giới thiệu hệ thống các vai nghĩa mà Nguyễn Thiện Giáp đã tổng kết
dựa trên quan điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Theo tác giả, vai nghĩa
được phân chia thành 22 vai nghĩa khác nhau, ta có bảng sau:
STT
TÊN GỌI
NỘI DUNG
VÍ DỤ
1
Người hành
động (hành thể
– actor)
Chủ thể trong một sự tình động
mà nó vừa là người tác động,
vừa là người bị tác động.
Tôi đi học.
Chủ thể của hành động do động
từ biểu thị, khác với người hành
Người tác động
động ở chỗ nó tác động vào
(động thể –
một đối tượng, trong khi người
agent)
hành động chỉ tác động đến bản
thân mình mà thôi.
Mẹ mở tivi.
2
3
Lực tác động
(force)
Chỉ sức mạnh tự nhiên tác động
đến một vật gây nên một quá
Gió thổi làm cây
ngã cả ra đường.
trình.
4
Người thể
nghiệm
(nghiệm thể –
experiencer)
Chỉ vai trải qua hoặc gánh chịu
trạng thái nội tại.
Cháu đau chân. Mẹ
buồn.
Người/ vật bị
tác động (đối
thể – patient)
Đối tượng của sự tác động.
Cây được tỉa rồi.
Vật tạo tác (tạo
thể – factive)
Vật sinh ra do kết quả của hành
động do động từ biểu thị.
Nước bay hơi tạo
thành hơi nước.
Người / vật
mang trạng thái
(patient state)
Chỉ bất kỳ vật gì được biểu thị
bằng một danh từ mà vai trò
của nó trong hành động hay
trạng thái được động từ biểu
thị, được chính cách thuyết
minh nghĩa của động từ quy
định.
Áo quần khô rồi,
mang vào nhà đi.
8
Người nhận
(tiếp thể –
recipient)
Động vật chịu ảnh hưởng của
trạng thái hay hành động do
động từ biểu thị.
Sứ yêu biết bao
nhiêu cái chốn này.
9
Người hưởng
lợi
(beneficiary)
Vai hưởng lợi trong hành động
do động từ biểu thị.
Cô giáo chở bạn
Hoa về nhà.
Nơi chốn
(locative)
Chỉ vị trí hay hướng không gian
của trạng thái hay hành động do
động từ biểu thị.
Con chó chạy
ngoài đồng.
Đích (goal)
Chỉ điểm tột cùng của sự di
chuyển, thường được biểu thị
bằng một giới ngữ có đến, tới,
ra, vào… làm trung tâm.
Tôi đến nhà ngoại
chơi.
Hướng
(direction)
Chỉ phương hướng của sự
chuyển động do động từ biểu
thị. Vai này được biểu hiện
bằng trạng ngữ đặt sau vị từ
như lên, xuống, ra, vào…
Hoa bay lên trời.
5
6
7
10
11
12
13
Nguồn (source)
14
Lối đi (path)
15
Phương thức
(manner)
16
Công cụ
(instrument)
Chỉ chỗ xuất phát của chuyển
Đá lăn từ trên đỉnh
động do động từ biểu thị
núi xuống.
Chỉ con đường được chọn cho
sự di chuyển, có thể được biểu
hiện bằng một vật nằm trên con
đường ấy; thường được biểu thị Nước men theo khe
bằng một giới ngữ có dọc, theo, suối chảy róc rách.
qua… làm trung tâm, đặt sau vị
từ.
Chỉ phương thức hành động;
thường biểu thị bằng trạng ngữ,
vị ngữ phụ.
Tay bưng chồng
sách, nó bước vào
phòng.
Chỉ công cụ của hành động do
động từ biểu thị; thường được
thể hiện bằng giới ngữ có trung
tâm là bằng hay với hoặc bằng
kết cấu dùng/ lấy.
Nam đến trường
bằng xe đạp.
17
Thời gian
(time)
18
Khoảng cách
không gian
(extent)
Chỉ tầm xa của sự chuyển động;
thường biểu hiện bằng một cặp
giới từ sóng đôi: từ… đến.
Bóng lăn được 5m.
Nguyên nhân
(cause)
Chỉ nguyên nhân của hành
động. Sau ngữ đoạn chỉ nguyên
nhân chỉ có thể có nên, mà chứ
không có thì.
Lâu nay, chúng tôi
đã vất vả, cực khổ
vì ông nhiều rồi.
Người/ vật tồn
tại (existent)
Trong câu tồn tại, ta có vai
người/ vật tồn tại
Quyển sách trên kệ.
Điều kiện
(condition)
Vai điều kiện là một kiểu cú
làm thành một khung đề của
câu; hoặc là một trạng ngữ đặt
sau vị ngữ.
Cây sẽ chẳng sống
được nếu thiếu ánh
mặt trời.
19
20
21
Chỉ thời điểm, thời lượng,
Vận tốc rơi của một
khoảng cách thời gian của trạng
cánh hoa anh đào là
thái hay hành động do động từ
5cm/s.
biểu thị.
22
Trở ngại
(adversative –
trạng ngữ nhân
nhượng hay
nhượng tiến)
Thường được biểu thị bằng một
đại từ, một danh ngữ hay một Mặc dù buồn nhưng
tiểu cú mở đầu bằng tuy, mặc
tôi nghĩ anh hợp
dù, mặc cho…, diễn đạt ý của
với vị trí này hơn
người nói chịu thừa nhận một
tôi.
sự tình có thật.
CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH CÂU TIẾNG VIỆT THEO
2.1.
KẾT CẤU VỊ TỪ – THAM THỂ (VAI NGHĨA)
Các bước phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể
Khác với ba phương pháp phân tích câu trong tiếng Việt theo cấu trúc chủ –
vị (ngữ pháp truyền thống), theo cấu trúc đề – thuyết (ngữ pháp chức năng) và theo
cấu trúc nêu – báo (lý thuyết thông tin), phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị
từ – tham thể (ngữ pháp ngữ nghĩa) ra đời muộn hơn nên nền tảng lý thuyết chưa
nhiều. Thực tế cho thấy rằng, phương pháp phân tích câu theo kết cấu này là một
lối đi mới để tiếp cận câu tiếng Việt, có lẽ vì nghiên cứu ngữ pháp dựa trên cơ sở
của ngữ nghĩa nên nghĩa của câu được hiểu trọn vẹn qua cách tiếp cận này. Tuy
nhiên, cũng tồn tại hạn chế của nó là không làm rõ được đâu là thông tin mới trong
câu.
Với phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể, có 4 bước
tiến hành: [10]
Bước 1: Tìm vị từ trung tâm (VTTT).
Trước hết ta phải tìm được cái từ được xem là “đỉnh của câu”, là đầu mối
của mọi quan hệ trong câu, nghĩa là phải đi tìm vị từ trung tâm.
Cách đầu tiên để xác định vị từ trung tâm, ta đặt được câu hỏi với từ nào
nhiều nhất thì từ đó sẽ là trung tâm. Vì từ trung tâm phải có mối quan hệ với toàn
bộ các thành tố trong câu về mặt nghĩa. Ví dụ: Mẹ thổi cơm. Ta đặt được một câu
hỏi với từ Mẹ (Mẹ làm gì?), hai câu hỏi với từ thổi (Ai thổi? và Thổi gì?), không
đặt được câu hỏi nào với từ cơm. Vậy từ thổi là trung tâm.
Cách thứ hai để tìm cái “đỉnh của câu” là ta đi tìm động từ trong câu. Vì
theo tác giả Nguyễn Kim Thản, trong vị ngữ động từ, cụm động từ chiếm 90%.
Những động từ trung tâm thường đứng sau chủ thể, phó từ thời gian, mệnh lệnh,...
Và vì thế, 10% còn lại, sẽ phải thực hiện khác, đặt ra những câu hỏi, mà từ đó thể
hiện được nghĩa miêu tả thì chính là vị từ trung tâm. Ví dụ: Anh ấy người Hà
Tĩnh./ Tôi chưa 18./ Em vẫn thế. Danh từ “người Hà Tĩnh” , số từ “18” và đại từ
“thế” là các vị từ trung tâm...
Bước 2: Tìm các tham thể.
Ở đây, câu trả lời cho các câu hỏi có liên quan đến vị từ sẽ chính là các
tham thể cần tìm. Tên gọi của các tham thể chính là các vai nghĩa mà tham thể đảm
nhiệm. Chẳng hạn: Ngày 20-11, tôi tặng cho cô giáo một bó hoa hồng.
Các câu hỏi được đặt ra: Ai tặng? Tặng cho ai? Tặng cái gì? Tặng lúc
nào? Và ta sẽ được kết quả: tham thể 1: tôi; tham thể 2: người yêu, tham thể 3: một
bó hoa hồng, tham thể 4: ngày 20-11.
Bước 3: Xác định tham thể bắt buộc và tham thể mở rộng.
Việc xác định TTBB (diễn tố) và TTMR (chu tố) vẫn phải dựa vào vị từ
trung tâm. Vì thế để phân tích câu bằng kết cấu vị từ tham thể, thì ta phải thực hiện
chính xác bước 1.
Cách tốt nhất là lược bớt các thành tố để xem vị từ trung tâm có còn trọn
vẹn về nghĩa không. Chẳng hạn với vị từ trao nhận, chắc chắn cần có chủ thể trao
nhận, vật trao nhận, người tiếp nhận. Vậy cả ba tham thể này đều là bắt buộc. Còn
trao nhận ở đâu, vì mục đích gì… không quan trọng; các tham thể thể hiện những ý
nghĩa này sẽ là tham thể mở rộng. Trong ví dụ trên, các tham thể 1, 2, và 3 là
TTBB; còn tham thể thứ 4 là TTMR.
Bước 4: Ghi tên các tham thể
Trước hết, ta nên chú ý tới mối quan hệ của tham thể với vị từ trung tâm.
Thứ hai, bắt buộc phải học thuộc lòng hệ thống tên gọi các tham thể theo
các vị từ nhất định.
Chẳng hạn, với vị từ trao nhận, ta luôn có ba tham thể: chủ thể của hành
động (hành thể), đối thể của hành động (người hưởng lợi - đắc lợi thể/ tiếp thể), vật
trao nhận (đối thể).
Trên đây là những bước tiến hành phân tích câu tiếng Việt theo kết cấu vị
từ – tham thể theo nghiên cứu của TS.Trần Kim Phượng. Nhưng có những sự
tương ứng nhất định giữa cấu trúc vị từ – tham thể và cấu trúc chủ – vị. Do vậy,
người học có thể sử dụng những hiểu biết của mình về cấu trúc chủ – vị để suy ra
2.2.
cấu trúc vị từ – tham thể.
Mối quan hệ giữa phương pháp phân tích câu theo cấu trúc vị từ - tham thể
và cấu trúc C-V
Đối chiếu phương pháp phân tích câu theo kết cấu vị từ – tham thể với cách
phân tích câu theo truyền thống – theo kết cấu C – V dựa trên bảng so sánh của TS.
Trần Kim Phượng:
CẤU TRÚC
CHỦ – VỊ
CẤU TRÚC VỊ TỪ - THAM THỂ
Lý thuyết
Tương ứng với tham thể bắt
buộc (là tham thể quan trọng
nhất). Và chúng tôi xin đề cập
đến vài trường hợp vai nghĩa chủ
ngữ thường gặp:
Ví dụ
- Chủ ngữ - chủ thể hành động.
- Nam kêu Lan ra, rồi tặng
cho cô một bó hoa hồng.
- Chủ ngữ - chủ thể cảm nghĩ.
Chủ ngữ
- Chủ ngữ - chủ thể nói năng.
- Sáng hôm đó, anh tôi ôm
tôi thật chặt rồi quay lưng
đi vội vàng không nói một
lời.
- Trâm nói: “ Ta vừa xinh,
- Chủ ngữ - thể mang trạng thái.
- Chủ ngữ - đối thể.
- Chủ ngữ - tiếp thể.
vừa giỏi, vừa hiền thế mà
vẫn ế.”
- Trước ngày anh đi bộ đội,
tôi buồn rồi lòng lại thổn
thức không nguôi.
- Cây kim của Núp chuyền
tay tất cả phụ nữ trong làng.
(Đất nước đứng lên –
Nguyên Ngọc)
- Bản thiết kế của cô đã
được giải ấn tượng của
chương trình.
- Quán trà sữa Gongcha
- Chủ ngữ thể không gian hoặc cứ tới giờ này là tấp nập.
thời gian.
Ngày mai mọi đau khổ sẽ
tan biến.
- Chủ ngữ - phương tiện.
- Cây bút chì này chỉ dùng
để vẽ đồ họa thôi.
- Cơn mưa giông bất chợt
làm ai cũng ướt như chuột
lột.
- Chủ ngữ - nguyên nhân.
- Chủ ngữ - thể trong quan hệ.
Trung tâm của vị Tương ứng với vị từ trung tâm
ngữ
(toàn bộ vị ngữ có thể tương
đương với cả vị từ trung tâm +
tham thể bắt buộc / không bắt
- Dòng tộc Nguyễn Ngọc là
dòng tộc có truyền thống
học tập đạt kết quả rất cao.
buộc).
- Tương ứng với tham thể bắt - Thầy dạy tôi/ cách làm
người, cách đối nhân xử
+ Bổ ngữ bắt buộc.
thế và dạy cả tri thức.
buộc (của động từ
( Vế 1 là đối thể, vế 2 là
trao nhận, sai
tham thể nội dung)
khiến…)
-Từ khi gặp anh, tôi đã lỡ
trao con tim mình cho
anh.
( con tim mình: đối thể; cho
anh: tiếp thể)
Bổ ngữ: 2 loại:
+ Bổ ngữ không
bắt buộc (Bổ ngữ
thời gian, địa
điểm,
mục
đích….)
- Tôi và anh trèo lên mái
nhà/, ngắm nhìn được cả
một bầu trời pháo hoa rực
rỡ.
( Vế 1 là tham thể chỉ đích
- Tương ứng với tham thể không
đến, vế 2 là tham thể chỉ
bắt buộc.
đích nhìn)
-Trâm đã ngồi suốt ba tiếng
đồng hồ.(tham thể thời
gian)
- Tôi đi tới trường bằng xe
buýt. (tham thể phương
tiện.
- Thiên không đi học vì trời
mưa to.(tham thể nguyên
nhân)
Định ngữ
Khởi
ngữ)
ngữ
Không tương ứng với một tham
thể. Nó cùng với danh từ trung
tâm làm thành một tham thể.
-Loại khởi nghĩa không tương - Về các thể trong lĩnh vực
quan với một vai nghĩa nào.
văn nghệ, chúng ta có thể
(đề
tin tưởng ở
tiếng ta,
không sợ nó thiếu giàu và
đẹp.
(Giữ gìn sự trong sáng của
tiếng việt – Phạm Văn
Đồng)
- Sống, anh ấy đã được là
một anh hùng; chết, anh ấy
sẽ được là 1 vĩ nhân.
(Vũ Trọng Phụng)
-Giỏi thì nó ghét;dốt thì nó
khinh.
-Loại khởi nghĩa tương ứng về
-Hắn thì hắn có biết chuyện
biểu hiện với 1 thành phần ngữ
gì xảy ra đâu.
pháp khác trong câu.
( chủ thể cảm nghĩ)
- Còn bé Trâm, bé ấy là
người hát hay nhất ở đây.
(thể bị đồng nhất)
- Mấy con mèo của chị tôi,
con nào cũng tinh nghịch.
(Quan hệ bao hàm)
- Nhìn mấy đứa bạn cùng
lứa kìa, ai cũng có gia đình
rồi.
(Thể trong quan hệ so
sánh)
- Vai nghĩa của khởi ngữ trùng
- Chuyện triều đình quốc
với vai nghĩa của bổ ngữ.
gia, chúng ta biết gì mà bàn
bạc cho thêm lời.
(Chữ người tử tù – Nguyễn
Tuân)
- Tiền tiết kiệm để dành