Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.92 KB, 23 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TIỆT

QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 62.38.01.04

TÓM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Đinh Thị Mai

Phản biện 1:

...............................................................
...............................................................

Phản biện 2:

...............................................................
...............................................................


Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội ........... giờ .......... ngày ..........
tháng .......... năm...........

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa
vụ liên quan là người tham gia tố tụng theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự Việt Nam. Việc tham gia tố tụng của họ không chỉ
nhằm bảo vệ, khôi phục những quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức đã bị hành vi phạm tội xâm hại mà còn góp phần quan
trọng vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, xác định đúng
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra và buộc người có hành vi tội
phạm phải chịu trách nhiệm. Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 không định nghĩa thế nào là đương
sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 định nghĩa: “Đương sự gồm nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án hình sự”. Nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Long An là một đề tài có giá trị tham khảo nhất định
đối với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó,
việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự ở nước ta hiện nay
để đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng chế định này
trong thực tế còn là một nhu cầu khách quan và cần thiết hiện nay.

Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài: “Quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An” làm Luận văn thạc sĩ Luật
học.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về việc quy định và áp dụng pháp luật trong tố tụng
hình sự như Luận văn thạc sỹ Luật học, các bài viết, công trình
nghiên cứu phân tích, giải quyết và làm rõ được một số vấn đề lý
luận về bị hại, đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan trong tố tụng hình sự như: khái niệm, ý nghĩa,
các kiến nghị hoàn thiện Bộ luật tố tụng hình sự nhưng chưa có công
trình nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ
án hình sự. Đây là một đề tài mới nên không tránh khỏi những thiếu
sót nhất định. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và thực tiễn về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng
hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Long An.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thông qua nghiên cứu thực tiễn áp dụng qui định về
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự theo tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Long An với mong muốn sẽ
đóng góp một cách tiếp cận nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
tại một địa bàn cụ thể, từ đó góp phần nâng cao nhận thức về quyền

và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam nói chung cũng như đề xuất các giải pháp mang
tính cụ thể về vấn đề này. Trên cơ sở đối tượng và phạm vi nghiên
cứu trên, tác giả tập trung vào giải quyết những nhiệm vụ như sau:
Khái quát các vấn đề lý luận về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong trong tố tụng hình sự như: khái niệm, bản chất, đặc
2


điểm, phân loại về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2016.
Đánh giá thực trạng áp dụng các qui định về quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh Long An trong thời gian từ
năm 2010 đến năm 2016.
Đề ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và
thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực trạng các quy
định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ năm 1988 đến năm 2016, nghiên cứu đánh
giá thực trạng áp dụng các qui định của pháp luật về quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh Long An từ năm 2010 đến
năm 2016. Trong đó, khái niệm đương sự được hiểu theo quan điểm
của Bộ luật tố tụng hình sự mới 2015, bao gồm: Nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận nhà

nước và pháp luật.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học xã
hội và khoa học pháp lý: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê …
6. Ý nghĩa luận và thực tiễn của luận văn:
Tập hợp những nhận thức của các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng về ý nghĩa của việc
3


quy định và áp dụng các quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong tố tụng hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Long An giai đoạn từ ngày 01/10/2010 đến
ngày 31/10/2016.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
tố tụng hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, tuyên
truyền, giáo dục và áp dụng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền
và góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có kết cầu gổm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự từ thực tiễn tỉnh
Long An.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.


4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HƠP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự
- Khái niệm đương sự trong tố tụng hình sự:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2003 không định nghĩa thế nào là đương sự. Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 định nghĩa: “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự”.
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 qui định: Nguyên đơn dân sự là
cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ
chức mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự.
- Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
tố tụng hình sự:
Từ khái niệm đương sự trong tố tụng hình sự gồm nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hình sự cho nên đương sự trong tố tụng hình sự là cá nhân, cơ
quan, tổ chức. Quyền của họ là quyền dân sự bao gồm quyền về tài
sản theo qui định của Bộ luật dân sự. Lợi ích của họ là lợi ích vật
chất có được từ quyền về tài sản.


5


Các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có
trách nhiệm bảo đảm cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện các quyền của họ.
Như vậy, quyền của đương sự trong tố tụng hình sự là quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại và quyền bồi thường thiệt hại do tội
phạm gây ra và lợi ích hợp pháp của đương sự là lợi ích phát sinh từ
quyền của đương sự.
1.1.2. Bản chất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự
Từ phân tích quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nêu trên
thì đương sự nhìn chung có một số quyền giống. Tuỳ theo tư cách
tham gia tố tụng mà các đương sự có những quyền và lợi ích khác
nhau. Nguyên đơn dân sự còn được quyền đề nghị mức bồi thường
thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường thiệt hại. Bị đơn dân sự được
quyền chấp nhận hoặc bác bỏ một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
nguyên đơn dân sự. Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt
hại. Để trở thành nguyên đơn dân sự thì cá nhân, cơ quan, tổ chức bị
thiệt hại do tội phạm gây ra phải có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Nếu bị thiệt hại nhưng cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại không
có đơn yêu cầu bồi thường thì cũng không phải là nguyên đơn dân
sự. Nếu cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức tuy có bị thiệt hại nhưng họ
không có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại thì họ không thể tham gia
tố tụng với tư cách là nguyên đơn dân sự. Cơ quan tiến hành tố tụng
cũng không thể buộc họ phải tham gia tố tụng trong vụ án hình sự
với tư cách nguyên đơn dân sự. Không có nguyên đơn dân sự thì sẽ

không có bị đơn dân sự. Trong trường hợp này, tòa án phải tách phần
dân sự trong vụ án hình sự để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự,
6


nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến trách nhiệm hình sự của bị
cáo.
Như vậy, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố
tụng hình sự là quyền dân sự nên mang bản chất dân sự mà cụ thể là
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
1.1.3. Đặc điểm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự
Đặc điểm thứ nhất: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự gắn liền với hành vi phạm tội.
Đặc điểm thứ hai: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự là quyền về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng.
Đặc điểm thứ ba: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự là quyền tự thoả thuận, tự định đoạt.
Đặc điểm thứ tư: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
quyền được chứng minh không phải nghĩa vụ phải chứng minh.
Đặc điểm thứ năm: Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
không bắt buộc phải hoà giải.
1.1.4. Phân loại quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự
Có nhiều tiêu chí để phân loại quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự như: phân loại dựa trên quyền và nghĩa vụ, phân loại theo
nhóm quyền chung của đương sự và quyền riêng của nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, phân loại dựa theo từng chủ thể của quyền, phân loại dựa trên

luật thực định … Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã đưa ra định nghĩa
khái niệm đương sự: “Đương sự gồm nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự” Tuy
7


nhiên Bộ luật lại qui định quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể là
đương sự. Trong luận văn này tác giả chia quyền của đương sự trong
tố tụng hình sự gồm hai nhóm quyền:
Thứ nhất: Nhóm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bị
thiệt hại do tội phạm gây ra: Nhóm này bao gồm quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn dân sự và quyền và lợi ích hợp pháp của
người có quyền lợi liên quan đến vụ án hình sự. Đây là quyền và lợi
ích hợp pháp của nhóm chủ thể mà pháp luật qui định được bồi
thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
Thứ hai: Nhóm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà
pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội
phạm gây ra: Nhóm này bao gồm quyền và lợi ích hợp pháp của bị
đơn dân sự và quyền và lợi ích hợp pháp của người có nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hình sự. Đây là quyền và lợi ích hợp pháp của nhóm
chủ thể mà pháp luật qui định phải bồi thường thiệt hại do tội phạm
gây ra.
Trong các Bộ luật tố tụng hình sự 1988, 2003 và 2015 lại có
cách phân loại khác. Các Bộ luật nêu trên lại qui định quyền của từng
chủ thể gồm: nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và quyền của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nhìn chung các cách
phân loại là tương đối nhằm mục đích khác nhau tuỳ theo cách
nghiên cứu của từng tác giả.
1.2. Pháp luật về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong tố tụng hình sự

1.2.1. Lịch sử các qui định về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự trong tố tụng hình sự Việt Nam
Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự 1988:
8


Từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 nước ta chưa có một bộ luật hoàn thiện về tố tụng hình sự.
Các qui định về giải quyết các vụ án hình sự được qui định trong các
văn bản hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao như: Thông tư số
2252/HCTP ngày 29/10/1953, Thông tư số 16/TATC ngày
27/09/1974 của Toà án nhân dân tối cao. Do đó quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự cũng chưa được qui định cụ thể và thống nhất
trong cả nước.
Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự 2003:
Bộ luật tố tụng hình sự 1988 không đưa ra định nghĩa về
đương sự. Bộ luật chỉ qui định các quyền của từng chủ thể tham gia
tố tụng trong đó có nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có
quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án. Tuy Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 không đưa ra khái niệm đương sự trong vụ án hình
sự nhưng Bộ luật đã xếp nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền và lợi ích liên quan đến vụ án vào nhóm người tham gia tố
tụng và qui định cụ thể một số quyền của họ khi tham gia tố tụng. Từ
đây địa vị pháp lý của họ chính thức được luật hoá.
Giai đoạn từ năm 2003 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình
sự 2015:
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng không đưa ra khái
niệm đương sự. Tuy nhiên thuật ngữ đương sự đã được sử dụng. Bộ

luật cũng chưa qui định cụ thể các chủ thể được tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Mặt khác Bộ luật cũng không qui
định về việc vắng mặt của người bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Việc qui định như trên tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau dẫn tới việc

9


áp dụng pháp luật không thống nhất. Dù vậy, Bộ luật tố tụng hình sự
2003 qui định cụ thể về quyền của các chủ thể tham gia tố tụng:
Quyền của nguyên đơn dân sự được qui định tại khoản 2, điều
52, Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Quyền của bị đơn dân sự được qui
định tại khoản 2, điều 53, Bộ luật tố tụng hình sự 2003; Quyền của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được qui định tại
khoản 1, điều 54, Bộ luật tố tụng hình sự.
Giai đoạn chuyển tiếp từ Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đến sự
ra đời của Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Sau khi tổng kết 10 năm thực thi Bộ luật tố tụng hình sự 2003
các nhà làm luật nhận thấy Bộ Luật tố tụng hình sự hiện hành bộc lộ
nhiều bất cập. Nhất là sau khi Hiến pháp 2013 có hiệu lực pháp luật,
rất nhiều Luật, Bộ luật cần phải sửa đổi bổ sung để đáp ứng nhu cầu
đổi mới trng Hiến pháp 2013 trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự. Bộ
luật tố tụng hình sự 2013 ra đời trong hoàn cảnh đó. Bộ luật tố tụng
2015 đã đưa ra định nghĩa khái niệm đương sự tại điểm g, khoản 1,
điều 4, Bộ luật tố tụng hình sự 2015: “Đương sự gồm nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hình sự”. Từ khái niệm đương sự trên, Bộ luật đã qui định cụ thể
về quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể là đương sự trong tố tụng hình
sự.
1.2.2. Pháp luật hiện hành về quyền và lợi ích hợp pháp của

đương sự trong tố tụng hình sự Việt Nam
- Quyền của nguyên đơn dân sự:
Các quyền của nguyên đơn dân sự đương qui định tại khoản
2, điều 63, Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

10


- Quyền của bị đơn dân sự:
Các quyền của bị đơn dân sự đươc qui định tại khoản 2, điều
64, Bộ luật ố tụng hình sự 2015.
- Quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Các quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án được qui định tại khoản 2, điều 65, Bộ luật ố tụng hình sự 2015.
- Quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
hại, đương sự:
Các quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị
hại, đương sự được qui định tại khoản 3, điều 84, Bộ luật tố tụng
hình sự 2015.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƯƠNG SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH LONG AN
2.1. Sơ lược về tỉnh Long An và tình hình về quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự theo tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1. Sơ lược về tỉnh Long An

Long An là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Cơ quan hành chính của Long An hiện nay đặt tại thành phố Tân An.
Tân An cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 50 km theo
đường Quốc lộ 1A. Long An là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành
chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện. Trong đó có
với 191 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 14 thị trấn, 12 phường và
165 xã.
2.1.2. Tình hình về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
theo tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2010 đến
2016
Theo thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm
từ ngày 01/10/2010 đến 31/10/2016 và thống kê thụ lý và giải quyết
các vụ án hình sự phúc thẩm từ ngày 01/10/2010 đến 31/10/2016 của
Toà án nhân dân tỉnh Long An; Từ ngày 01/10/2010 đến ngày
31/10/2016 Toà án nhân dân tỉnh Long An đã thụ lý và giải quyết
4.695 vụ án hình sự sơ thẩm cấp huyện với 7.808 bị cáo, 429 vụ án
hình sự sơ thẩm cấp tỉnh với 709 bị cáo và 1.349 vụ án hình sự phúc
thẩm với 1.833 bị cáo. Thống kê của Toà án nhân dân tỉnh Long An
thể hiện có 312/4.695 vụ án sơ thẩm cấp huyện, 220/1.349 vụ án sơ
12


thẩm cấp tỉnh, và 65/429 vụ án hình sự phúc thẩm có người bào
chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Hầu hết các đương sự trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh
Long An tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử hoặc họ vắng mặt cả
giai đoạn xét xử. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ tham gia tố tụng nhằm

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ theo qui định của pháp luật.
Phần dân sự trong các vụ án hình sự thời gian qua đa số được giải
quyết ở giai đoạn điều tra nên các đương sự này ít tham gia tố tụng ở
giai đoạn tiếp theo.
Với tình hình đương sự nêu trên nên quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Long An giai
đoạn từ 01/10/2010 đến 31/10/2016 chưa được chú trọng trong giải
quyết các vụ án hình sự.
2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên địa bàn tỉnh Long
An từ năm 2010 đến 2016.
Qua xem xét, phân tích 4.695 bản án hình sự sơ thẩm cấp
huyện, 1.349 bản án hình sự sơ thẩm cấp tỉnh và 429 bản án hình sự
phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Long An từ ngày 01/10/2010 đến ngày
31/10/2016 cho thấy thực trang áp dụng pháp luật tố tụng hình sự
trên địa bàn tỉnh Long An từ năm 2010 đến năm 2016 nhìn chung, do
các vụ án có đương sự tham gia tố tụng xảy ra trên địa bàn tỉnh Long
An không có tính chất phức tạp. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng
của tỉnh Long An đa số xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án, và đại diện hợp pháp của họ theo quy định của pháp
luật tố tụng hiện hành.
13


2.2.1 Đối với nguyên đơn dân sự
Quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự trong tố
tụng hình sự được qui định tại điểm b, khoản 2, điều 52, Bộ luật tố
tụng hình sự 2003. Khi khởi tố vụ án hình sự, đa số người bị thiệt hại
được cơ quan điều tra thông báo về kết quả điều tra thông qua triệu

tập lấy lời khai hoặc trao đổi qua điện thoại để họ biết được những
vấn đề thuộc nội dung vụ án, làm cơ sở cho việc chuẩn bị có đơn yêu
cầu bồi thường thiệt hại hay không. Trong trường hợp họ có đơn yêu
cầu thì xác định họ là nguyên đơn dân sự. Nếu không có đơn yêu cầu
thì cơ quan tiến hành tố tụng xác định họ là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, do điều luật quy định một
cách chung chung mà không mà không xác định rõ nguyên đơn dân
sự được thông báo về kết quả điều tra bằng hình thức nào, họ có
quyền được nhận văn bản tố tụng nào liên quan đến kết quả điều tra
nên việc đảm bảo thực hiện quyền này trên thực tế còn gặp nhiều khó
khăn bởi nhiều người bị thiệt hại từ chối không muốn tham gia tố
tụng, không muốn biết những thông tin về vụ án.
2.2.2. Đối với bị đơn dân sự
Tương tự như nguyên đơn dân sự, từ khi khởi tố vụ án hình sự,
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chưa xác định tư
cách tham gia tố tụng của họ là bị đơn dân sự. Họ được cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng triệu tập lấy lời khai, giải thích
quyền, nghĩa vụ của họ trong vụ án hình sự đã khởi tố. Họ chỉ được
xác định là bị đơn dân sự khi có đơn yêu cầu của nguyên đơn dân sự.
Do đặc điểm của bị đơn dân sự trong vụ án hình sự luôn tồn tại
đồng thời với nguyên đơn dân sự. Mặt khác tố tụng hình sự mang
bản chất công tố nên việc thu thập chứng cứ về thiệt hại và bồi
thường thiệt hại theo qui định của pháp luật đã được cơ quan tiến
14


hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải thích rõ về quyền yêu cầu
bồi thường cũng như nghĩa vụ bồi thường của các đương sự cho nên
đa số phần dân sự đã được giải quyết trước khi mở phiên toà. Tuy
nhiên, như trên đã phân tích trong thực tiễn còn tồn tại một số vướng

mắc cần phải khắc phục nhằm mục đích hoàn thiện pháp luật về
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự.
2.2.3. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Tương tự với các đương sự khác trong vụ án hình sự. Khi khởi
tố vụ án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thường
lấy lời khai của người có liên quan đến vụ án và xác định tư cách
tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hình sự được qui định tại điểm b, khoản 2, điều 54,
Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
2.3. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Việt Nam đối với quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trên
địa bàn tỉnh Long An từ năm 2010 đến 2016
2.3.1. Nguyên nhân từ luật thực định
Như trên đã phân tích từ những bản án trên địa bàn nghiên cứu
cho thấy do Bộ luật tố tụng hình sự 2003 chưa định nghĩa thế nào là
đương sự trong vụ án hình sự. Chưa có cơ chế bảo đảm quyền và
nghĩa vụ của đương sự trong vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự
hiện hành chỉ tập trung chứng minh tội phạm và người phạm tội mà
xem nhẹ quyền và nghĩa vụ của đương sự khi tham gia tố tụng. Các
qui định về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn nhiều bất
cập, chưa hợp lý cần được sửa đổi, bổ sung.

15


Ngoài ra, Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chưa quy định
tranh tụng là một nguyên tắc của hoạt động xét xử. Vì vậy, trong
từng điều luật tại các chương về xét xử cũng chưa thể hiện hết toàn

bộ tinh thần của tranh trụng và như thế, hiệu quả tranh tụng tại phiên
toà chưa đạt hiệu quả cao nhất có thể ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự.
2.3.2. Nguyên nhân từ cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
Không những Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành chỉ tập trung
chứng minh tội phạm và người phạm tội mà xem nhẹ quyền và nghĩa
vụ của đương sự khi tham gia tố tụng mà còn suy nghĩ của cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự khi giải quyết vụ án cũng đặt nặng phần
hình sự mà xem nhẹ phần dân sự trong vụ án hình sự. Thông thường
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng chỉ tập trung làm
rõ các yếu tố cấu thành tội phạm, các tình tiết định tội, các tình tiết
định khung, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Từ đó việc giải thích quyền và nghĩa
vụ của đương sự khi tham gia tố tụng chưa rõ ràng, cụ thể còn mang
nặng tính hình thức.
2.3.3. Nguyên nhân từ người tham gia tố tụng
Đối với đương sự khi tham gia tố tụng, do nhận thức còn hạn
chế nên họ không nhận thấy được vai trò của mình khi tham gia tố
tụng. Họ chưa thấy được quyền và lợi ích hợp pháp của mình sẽ
được đảm bảo nếu việc giải quyết các vấn đề dân sự đồng thời với
việc giải quyết vụ án hình sự. Từ đó họ ít khi mời luật sư hoặc người
khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Thậm chí họ còn từ
chối tham gia tố tụng hoặc vắng mặt tại phiên toà.

16


Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA ĐƯƠNG SỰ
3.1. Giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam về đương sự, quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong tố tụng hình sự
Hiện nay quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được quy
định tại Điều 63, điều 64 và điều 65 của Bộ luật tố tụng hình sự
2015. Pháp luật tố tụng hình sự về quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự qua quá trình tồn tại và phát triển ngày càng được bổ sung,
sửa đổi đầy đủ và hoàn thiện hơn. Tuy nhiên quá trình áp dụng cũng
bộc lộ một số bất cập trong quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng cần phải hoàn thiện đầy đủ và cụ thể hơn.
3.1.1. Sửa đổi, bổ sung khái niệm pháp lý về đương sự trong
vụ án hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đã định nghĩa “Đương sự gồm
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án hình sự”. Tuy nhiên Bộ luật không định nghĩa rõ
những đặc điểm chung và những đặc điểm riêng của các chủ thể tạo
thành nhóm đương sự.
Bộ luật tố tụng hiện hành đã tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau
dẫn tới áp dụng pháp luật không thống nhất trong cả nước. Do đó cần
sửa đổi bổ sung để hoàn thiện về đương sự.
3.1.2. Sửa đổi, bổ sung quy định về quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong tố tụng hình sự

17


Thứ nhất: Đề nghị bổ sung quy định về “công nhận tư cách
tham gia tố tụng của đương sự” nhằm đảm bảo các quyền và nghĩa

vụ của đương sự.
Thứ hai: Xác định phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của
đương sự.
Thứ ba: Tham gia phiên toà là quyền của đương sự cho nên
trường hợp tại phiên toà mà đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
của họ vắng mặt hoặc không thể tiếp tục tham gia phiên toà thì dừng
phiên toà hoặc hoãn phiên toà, trừ trường hợp những người này yêu
cầu hoặc đồng ý để tòa án xét xử vắng mặt họ.
Thứ tư: Cơ chế thoả thuận bồi thường thiệt hại giữa những
người tham gia tố tụng trong một số trường hợp giúp cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng giải quyết nhanh vụ án. Yêu
cầu bồi thường thiệt hại của đương sự quyền yêu cầu bồi thường thiệt
hại chứ không phải là đề nghị mức bồi thường như hiện nay. Yêu cầu
bồi thường được hiểu theo nghĩa rộng hơn bao gồm cả loại thiệt hại
phải bồi thường, mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương
thức bồi thường.
Thứ năm: Về chứng cứ và chứng minh của đương sự trong tố
tụng hình sự, theo qui định của luật tố tụng hiện hành thì vấn đề xác
định sự thật vụ án thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng. Người tham gia tố tụng có quyền nhưng
không có nghĩa vụ chứng minh.
Thứ sáu: Vấn đề yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời.
3.1.3. Bổ sung qui định người đại diện của đương sự
Thuật ngữ “người đại diện” được sử dụng rộng rãi trong Bộ
luật tố tụng hình sự. Bộ luật cũng đã qui định về quyền của người đại
18


diện của các chủ thể là đương sự nhưng không qui định về nghĩa vụ

của các chủ thể là đại diện cho đương sự. Như phần trên luận văn đã
phân tích, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mang bản chất
dân sự. Do đó cần dẫn chiếu các qui định của pháp luật dân sự về chủ
thể đại diện của đương sự trong tố tụng hình sự. Cần bổ sung qui
định: “Người đại diện cho đương sự là người đại diện theo pháp luật
hoặc người đại diện theo uỷ quyền”.
3.1.4. Sửa đổi, bổ sung chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự
Trong quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về tố
tụng hình sự Việt Nam, Bộ luật tố tụng hình sự năm và Bộ luật tố
tụng hình sự 2003 đã luật hoá quyền được bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của bị hại, đương sự tại điều 59 của Bộ luật. Tuy nhiên Bộ
luật chưa qui định về quyền tự bảo vệ của đương sự. Hơn nữa chủ
thể thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại,
đương sự lại qui định khá chung chung. Bộ luật tố tụng hình sự 2015
đã khắc phục một phần vấn đề trên. Tuy nhiên, Bộ luật lại qui định
chủ thể thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự chưa rõ ràng.
3.2. Giải pháp tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam thống nhất trong cả nước đối với đương
sự
Ngoài việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, chủ thể thực hiện chức
năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì giải pháp
tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự và chủ thể thực hiện chức năng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thống nhất trong cả nước là
19



một giải pháp mang tính thực tiễn cao. Trong đó, chú trọng tăng
cường sự hướng dẫn đầy đủ và kịp thời về một số vấn đề có liên
quan đến đương sự, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đến
người tiến hành tố tụng và bản thân các đương sự.
3.3. Các giải pháp khác
3.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật, thực
hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm cho công dân tham gia tích
cực vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Đặc biệt, cần quan
tâm tăng cường công tác giáo dục pháp luật trong các trường học.
3.3.2. Thường xuyên tổ chức học tập nâng cao nghiệp vụ
cho cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Nâng cao trình độ pháp lý nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và
đạo đức nghề nghiệp của những người tiến hành tố tụng chuẩn hoá
đội ngũ cán bộ theo quy định chung trong giai đoạn mới đòi hỏi phải
thường xuyên bồi dưỡng kiến thức pháp lý và kinh nghiệm thực tiễn
trong hoạt động tố tụng.
3.3.3. Mở rộng đối tương thực hiện chức năng bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự
Từ nghiên cứu của mình tác giả đề xuất giải pháp mở rộng đối
tượng thực hiện chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự gồm: “Công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy
đủ, không có án tích hoặc đã được xóa án tích, không thuộc trường
hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính; không phải là cán
bộ, công chức trong các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát và công
chức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong ngành Công an”.

20



KẾT LUẬN
Quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo qui định của
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam luôn là sự kế thừa có chọn lọc
những thành tựu của công tác lập pháp, vừa là bước phát triển quan
trọng về các thủ tục tố tụng hình sự. Tuy nhiên, việc xây dựng và
hoàn thiện một khung pháp lý về tố tụng hình sự phù hợp với điều
kiện thực tế của nước ta là một vấn đề không hề đơn giản. Vì vậy,
nghiên cứu về quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng
hình sự theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Long An giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016 là một đề tài
mang ý nghĩa thời sự và giá trị tham khảo nhất định đối với nền tư
pháp hình sự Việt Nam hiện nay. Ngoài việc có tham khảo, so sánh
kết quả nghiên cứu của một số công trình gần đây, tác giả luận văn
đã phát triển nghiên cứu cụ thể hơn các vấn đề lý luận về quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự dựa trên qui
định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, và đã khảo sát thực trạng áp
dụng các qui định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Long
An giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2016. Tuy nhiên, đây là một lĩnh
vực mới nên quá trình nghiên cứu của tác giả không tránh khỏi
những thiếu sót, những đề xuất mang tính chủ quan của tác giả. Tóm
lại để hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về đương sự,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự cần
phải có những công trình nghiên cứu mang tầm quốc gia thì mới có
thể giải quyết vấn đề hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về đương
sự và quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng hình sự.

21




×