Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Câu hỏi & Đáp án thi hết môn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.95 KB, 40 trang )

ĐÁP ÁN CÂU HỎI THI HẾT MÔN
MÔN TRIẾT HỌC SAU ĐẠI HỌC KHÔNG CHUYÊN
(Dành cho học viên cao học khối ngành khoa học tự nhiên, Trường Đại học Việt Nhật QH2017 )

--------------MỤC LỤC
stt
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

Nội dung câu hỏi
Nội dung khái niệm triết học?
Triết học, triết lý và minh triết
Các chức năng cơ bản của triết học trong đời sống xã hội
Khái niệm thế giới quan, lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật?
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?


Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn?
Quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
Khái niệm phương pháp và phương pháp luận
Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật
trong nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn?
Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng nguyên tắc
này vào cách mạng Việt Nam hiện nay?
Luận điểm “sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sửtự nhiên”. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội?
Quan điểm duy vật biện chứng về khoa học. Sự phát triển của khoa học và
cách mạng công nghiệp
Quan điểm duy vật biện chứng về sự thống nhất và khác nhau giữa khoa học
chuyên ngành với triết học
Quan điểm duy vật biện chứng về sự tác động của khoa học chuyên ngành
lên triết học
Quan niệm của triết học duy vật biện chứng về sự tác động của triết học lên
khoa học chuyên ngành.
Nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa học và công nghệ Việt Nam hiện nay

trang
1
4
5
8
10

11


12
13
14
16
18
22
29
30
34
38


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

I. KHÁI LUẬN VỀ TRIẾT HỌC
Mọi triết học chân chính đều là tinh hoa
về mặt tinh thần của thời đại mình
K.Marx

1. Nội dung khái niệm triết học?
1.1. Nội dung thuật ngư φιλοσοφία của triết học Hy Lạp cổ đại
- Hai thành tố, φιλεω- yêu mến, khát vọng và σοφία- sự thông thái, khôn ngoan.
- Hai nghĩa của φιλοσοφία là yêu mến sự thông thái và mong muốn nhận thức được
các vấn đề chung nhất của tư duy và tồn tại, vươn đến tri thức chân lý
- Nội dung thuật ngữ φιλοσοφία gồm các yếu tố nhận thức (về tự nhiên, xã hội và
giải thích chúng bằng tư duy lý luận), nhận định (đánh giá về mặt đạo đức, luân lý) và có
thái độ, hành động phù hợp (với quy luật đã được nhận thức).
Như vậy, theo nghĩa φιλοσοφία của Hy Lạp cổ đại, triết học là hoạt động tinh thần,
thể hiện khả năng nhận thức, đánh giá và định hướng thái độ của con người với thế giới
xung quanh và với chính mình.

1.2. Các quan niệm khác nhau về triết học
- Phương Đông coi triết học là dùng lời để bắt bẻ (lý giải) của Trung Quốc, là con
đường đi tới chân lý (Ấn Độ).
- Triết học phương Tây bắt nguồn từ thuật ngữ φιλοσοφία của Hy Lạp (t.k VI TCN), là
”cây tri thức” (Descartes), là trình độ tư duy lý luận cao nhất và sự phản tư (Kant), là thời đại
thể hiện trong hình thức tư tưởng (Hegel), là khoa học về thực tiễn (Feuerbach), là tri thức
trung gian, nằm giữa thần học và khoa học (Russell), là tinh hoa về mặt tinh thần của thời đại
mình, là công cụ lý luận để giải thích và cải tạo thế giới (K.Marx)...
- Triết học duy vật biện chứng là một bộ phận của chủ nghĩa Mác-Lênin, là một
hình thái ý thức xã hội, là khoa học về các quy luật chung nhất của tồn tại và tư duy, về
mối quan hệ giữa con người với thế giới.
- Hiện nay, tuy có thay đổi về đối tượng nghiên cứu, triết học vẫn là một trong
những hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại
và nhận thức, của thái độ con người đối với thế giới.
1.3. Sự ra đời của triết học. Triết học chỉ ra đời khi xuất hiện những điều kiện xã
hội và tư duy cần thiết.
- Triết học hình thành trong các hình thái ý thức thần thoại, tôn giáo
- Triết học ra đời trong xã hội đã có sự phân công lao động thành trí óc và chân tay;
khi xuất hiện nhu cầu nhận thức tổng thể về thế giới, nhu cầu tìm những quy luật chung
nhất của tư duy và tồn tại; khi xuất hiện cuộc đấu tranh giữa quan điểm duy vật với quan
điểm duy tâm trong việc giải thích thế giới.
Như vậy, triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn và phục vụ thực tiễn.
2


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

1.4. Cấu trúc của mỗi học thuyết triết học truyền thống gồm:
- Lý luận bản thể, lý luận nhận thức, lôgíc học, lịch sử triết học, đạo đức học...
- Siêu hình học (lý luận về tồn tại), lý luận nhận thức (lý luận giá trị, xác minh niềm

tin) và đạo đức học (triết học đạo đức, gồm luân lý và hành động theo quy luật)
- Vật lý học (nghiên cứu chung về cái gì tạo nên thế giới), Đạo đức học (nghiên cứu
cuộc sống và đặc tính của con người) và Phép biện chứng (quan tâm đến những luận cứ
cho cả vật lý học và đạo đức học).
- Triết học của chủ nghĩa Mác-Lênin gồm nhiều ngành, tạo nên bộ phận lý luận chung
nhất của thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật.
- Hiện nay xuất hiện nhiều ngành triết học như triết học đạo đức, triết học khoa học,
triết lý kinh doanh, triết lý quyền lực, triết học trong khoa học tự nhiên, triết học pháp
quyền, triết học kinh tế, triết học sinh thái...
1.5. Đối tượng nghiên cứu của triết học
- Thời cổ đại (thế kỷ VI TCN-V), đối tượng nghiên cứu của triết học là cuộc tranh
luận không ngã ngũ đúng, sai về bản chất và bản nguyên của thế giới.
- Thời Trung cổ (thế kỷ V-XV), triết học xoay quanh việc chứng minh, lý giải sự
đúng đắn của giáo lý và mối quan hệ giữa niềm tin tôn giáo với tri thức khoa học.
- Thời Phục hưng (thế kỷ XV-XVI), triết học nghiên cứu cuộc đấu tranh vì con
người và các giá trị nhân văn và vì sự giải phóng cá nhân con người.
- Thời Cận đại (thế kỷ XVII-XVIII) triết học tiếp tục nghiên cứu các vấn đề về con
người và các thiết chế xã hội, đồng thời “thế tục hoá” khoa học; đề cao lý tính, không thừa
nhận sự kết hợp khoa học với tôn giáo, niềm tin với lý tính...
- Triết học Mác giải thích để nhận thức, nhận thức để cải biến thế giới nên khởi đầu
từ con người hiện thực, với hoạt động nhằm đáp ứng “cái để ăn, để uống, để mặc... có
được nhờ sự tác động lên thế giới”.
+ Từ giữa thế kỷ XX, những biến đổi của khoa học và công nghệ, của quá trình toàn
cầu hóa làm nảy sinh và chi phối nhiều trường phái triết học. Quá trình hội nhập đẩy các
nền văn hóa vào sự giao thoa, đối tượng nghiên cứu của triết học cũng đa dạng hơn.
1.6. Vấn đề cơ bản của triết học
Vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề rộng, chung nhất đóng vai trò nền tảng, định
hướng để giải quyết những vấn đề khác, ít chung hơn của triết học; giải quyết vấn đề này
như thế nào thể hiện thế giới quan của nhà triết học và thế giới quan đó là cơ sở định
hướng nghiên cứu và giải quyết những vấn đề còn lại của triết học.

- Nội dung Vấn đề cơ bản của triết học
+ Định nghĩa “Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại”.
3


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

+ Hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học.
1) Mặt thứ nhất (mặt bản thể) giải quyết mối quan hệ trước, sau và quy định lẫn nhau
giữa vật chất với ý thức. Cách giải quyết mặt này là cơ sở duy nhất để chia các nhà triết học
và các học thuyết của họ thành hai trường phái đối lập nhau là duy vật (materialis) và duy tâm
(idealis) triết học; là cơ sở duy nhất tạo nên sự khác biệt mang tính nguyên tắc giữa triết học
nhất nguyên với triết học nhị nguyên.
2) Mặt thứ hai (mặt nhận thức) giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể, tức
làm rõ khả năng nhận thức thế giới của con người. Giải quyết mặt này như thế nào chia các
nhà triết học và học thuyết của họ thành phái khả tri (có thể biết), bất khả tri (agnosticism,
không thể biết) và hoài nghi luận (scepticism, hoài nghi bản chất nhận thức về thế giới)
- Tư duy biện chứng và tư duy siêu hình
+ Tư duy biện chứng là nhận thức sự tồn tại của sự vật, hiện tượng trong trạng thái
liên hệ lẫn nhau và luôn vận động, phát triển.
+ Tư duy siêu hình là nhận thức sự tồn tại của sự vật, hiện tượng trong trạng thái
biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và không biến đổi.
+ Giá trị và hạn chế của các hình thức tư duy trên
1) Tư duy biện chứng giúp khái quát, tổng kết tri thức của mọi lĩnh vực thành hệ
thống tri thức chung nhất; nhưng hạn chế là có thể chủ quan, ảo tưởng.
2) Tư duy siêu hình giúp thu thập tri thức từ các lĩnh vực riêng của hệ thống chung
nhất, nhưng tri thức đó chỉ hạn chế trong phạm vi các lĩnh vực nghiên cứu mà thôi./.
2. Triết học, triết lý và minh triết
2.1. Khái niệm triết lý và minh triết

- Triết lý là thuật ngữ dùng để chỉ lý lẽ mà con người tự cho là cao đẹp nhất, phù
hợp, hiệu quả và dễ biện minh nhất trong quá trình theo đuổi mục tiêu nào đó. Triết lý có
hai phần,
+ Phần “triết” gồm luận lý học (dạy cách suy luận cho phải, logique), luân lý học
(dạy cách ăn ở cho thiện, morale), mỹ học (dạy cách sáng tạo cho đẹp, esthétique)
+ Phần “lý” là những gì có thực và có ở ngoài lòng người, là những gì luôn thay đổi
và biến động, là những phán đoán về thực tại (jugement de réalité)
- Minh triết (sophia) chỉ có ở Thượng đế, nhà triết học chỉ vươn tới minh triết, là
người yêu minh triết.
+ Việt Nam coi minh triết có hai nghĩa, một là chỉ sự hiểu biết, thông hiểu sự lý; hai
là chỉ người có trí tuệ sáng suốt, thông tuệ. “Minh triết là tính sáng khôn (...) chủ yếu được
sống và sống ở bình diện đạo lý đời thường, tuy vậy không xa lạ với đạo lý thánh hiền,
thiên về cảm hóa lòng người hơn là quở trách thói đời”.
4


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

+ Những biểu hiện của minh triết vừa là chân, thiện, mỹ; vừa là tri thức, kinh
nghiệm; vừa là trí tuệ, tâm hồn, ý chí; vừa là vốn sống, lối sống, phương pháp tư duy...
+ Với tư cách là nhận thức và lối sống, “minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn
hoi" và “gắn với nghiệm sinh” nên minh triết dễ tích hợp với nghiệm sinh hơn triết học.
2.2. Vai trò của triết học, của triết lý và minh triết trong đời sống xã hội?
- Các vai trò chính của triết học trong từng giai đoạn của lịch sử tư tưởng (tuy chưa
bao giờ làm thỏa mãn lòng ham hiểu biết của con người).
+ Triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thỏa mãn lòng yêu mến và vươn tới sự thông thái
của nhà tư tưởng, tạo nên nền văn minh cổ đại tiêu biểu.
+ Triết học tây Âu Trung cổ đã là cơ sở lý luận để lý giải cho sự “đúng đắn” của các
tín điều giáo lý.
+ Triết học Phục hưng và Cận đại đã lấy việc làm rõ các vấn đề của con người làm

đối tượng luận giải chính, tạo nên văn minh nhân loại từ thế kỷ XVI đến nay.
+ Triết học duy vật biện chứng là công cụ nhận thức và cải tạo thế giới, định hướng
xây dựng xã hội mới, tiến bộ hơn...
- Triết lý là những kinh nghiệm xã hội được tích lũy, thể hiện dưới hình thức các
định đề, nguyên tắc, cách hành xử, dùng để điều chỉnh cuộc sống và hoạt động của con
người; gắn trực tiếp với đời sống thường ngày ở tầm kinh nghiệm nên sát hợp với tâm
thức, bản sắc, tính cách của cộng đồng, nên dễ tiếp thu và định hướng hoạt động, giao tiếp
của con người hơn so với các nguyên lý triết học.
- Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, có nghĩa sự khôn ngoan của minh
triết phải gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện./.
3. Các chức năng cơ bản của triết học trong đời sống xã hội? Sự thay đổi đối tượng
nghiên cứu trong lịch sử tư tưởng làm thay đổi vai trò của triết học trong đời sống xã hội.
3.1. Chức năng thế giới quan của triết học. Thế giới quan là hệ thống những quan
điểm, quan niệm của con người về thế giới; về con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới ấy. Quan trọng nhất trong chức năng này là yếu tố nhận thức; gồm:
- Hệ thống tri thức về thế giới bắt đầu bằng câu hỏi bản thể, thế giới là gì, nó hình
thành, tồn tại ra sao? con người là gì, nó tồn tại theo nguyên lý phổ quát và đặc thù nào?
- Hệ thống câu hỏi về nhận thức, tri thức, cảm xúc của con người về thế giới và vị trí,
vai trò của nó trong thế giới đó như, con người sẽ xây dựng hình ảnh thế giới trong não
mình thế nào? đặc thù của ý thức và cảm xúc của con người thể hiện ở chỗ nào?
- Hệ thống câu hỏi về giá trị/luân lý; theo đó, quan điểm, tư tưởng về giá trị, về
nguyên tắc sống, các định hướng mục đích và các chuẩn mực đạo đức, pháp luật và thẩm
mỹ, thiện, ác là thế nào? Tương lai nào mở ra cho mỗi người và cả loài người, chọn tương
5


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

lai theo các tiêu chí nào? Làm sao để hiểu được triển vọng của mình, tin tưởng vào bản thân
mình, vào tương lai của nhân loại?

- Hệ thống câu hỏi về hành động, con người phải hành động như thế nào, theo các
cách nào để cải biến thế giới?
- Hệ thống các câu hỏi trên tập trung lý giải vấn đề quan trọng nhất là cuộc sống,
hoạt động sống của con người với tư cách một chỉnh thể trong mối liên hệ với thế giới; đặt
ra các vấn đề quan trọng nhất của con người là cách xây dựng cuộc sống, giúp con người
có quan niệm đích thực về giá trị như chân, thiện, mỹ, công bằng..., từ đó giúp con người
xây dựng nhân cách...
3.3. Chức năng phương pháp luận của triết học. Phương pháp luận là lý luận xác
định, lựa chọn và vận dụng phương pháp hiệu quả tối ưu. Phương pháp luận triết học xuất
hiện từ việc giải quyết vấn đề:
- Nếu triết học dựa vào các tài liệu do khoa học chuyên ngành và kinh nghiệm từ
hoạt động thực tiễn để đưa ra kết luận bằng tư duy lý luận, thì liệu con đường con người
đã và đang đi, phương thức con người đã và đang dùng để đưa ra các kết luận ấy liệu có
mắc bệnh suy diễn chủ quan, tư biện và cái gì là cái đảm bảo độ tin cậy của các kết luận
đó khi chúng chưa được thực tiễn xác nhận hay bác bỏ?
- Có cách nào nâng độ tin cậy, tính thuyết phục của kết quả nghiên cứu triết học không?
Có nên tiến hành nghiên cứu triết học bằng phương pháp khác, đảm bảo kết quả nghiên cứu
của nó thực sự là khái quát các tài liệu mới nhất của khoa học và thực tiễn không?
- Phương pháp luận triết học có nhiệm vụ thiết lập mối liên hệ lôgic giữa các nhóm
phương pháp của khoa học chuyên ngành; khoa học chuyên ngành lại cần các quy luật của
lôgic hình thức và các nguyên tắc chung của nhận thức do lôgic biện chứng đưa lại để tìm
ra các hình thức phản ánh đầy đủ, chính xác bản chất khách thể nhận thức tồn tại trong
trạng thái đứng im tương đối hay vận động, phát triển không ngừng.
+ Phương pháp triết học, thể hiện qua các nguyên tắc phương pháp luận, rút ra từ
những vấn đề mà triết học nghiên cứu là phương pháp chung của khoa học chuyên ngành
3.4. Các chức năng nêu trên là cơ sở cho khả năng gợi mở và dự báo khoa học về
sự phát triển tiếp theo của triết học, tức suy tư triết học về tương lai, trong đó có tương lai
của xã hội loài người; dùng tri thức của quá khứ, soi vào hiện tại để làm rạng tương lai
đang hé mở.
3.5. Thời gian gần đây thường nảy sinh câu hỏi, triết học cần cho ai và cho cái gì?

Thực tiễn phát triển của khoa học chuyên ngành trong thế kỷ XX chứng tỏ triết học đi sau
vật lý học và sinh học trong việc tìm kiếm tri thức mới về thế giới nên có những nghi ngờ
về vai trò của nó, thậm chí còn có người đặt vấn đề về "sự cáo chung của triết học" với

6


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

nghĩa, hoặc triết học hoặc đã sử dụng hết khả năng của mình, hoặc đã hoàn thành nhiệm
vụ khi tạo ra nền văn minh khoa học và trật tự xã hội trong thế giới ngày nay.
- Tuy nhiên, trước hết, triết học nhắm đến tri thức, hệ thống tri thức khái quát, thống
nhất của triết học từ khoa học chuyên ngành và sẽ chuyển thành tri thức chuyên ngành khi
có nhu cầu và điều kiện. Tri thức thực tiễn được khoa học chuyên ngành khái quát lên
thành các quy luật riêng của mình, sau đó triết học lại khái quát lần thứ hai lên thành các
quy luật chung của tư duy.
- Triết học tìm câu trả lời cho các câu hỏi, trong đó có những câu khá cơ bản liên
quan đến Vũ trụ và Sự sống, Ý thức và Quy luật, cái Thiện và cái Ác... Tuy không có câu
trả lời thật chắc chắn, nhưng các câu hỏi trên mở rộng, làm giàu trí tưởng tượng và giảm
bớt các suy tư giáo điều, khép tinh thần vào sự tư biện và qua sự lớn lao của thế giới mà
triết học nghiên cứu, tinh thần cũng trở nên lớn lao hơn, vượt lên cái thường nhật.
- Triết học gợi mở cho nhà nghiên cứu xây dựng ý tưởng và lý thuyết khoa học,
đem lại cho họ quan niệm chung về thế giới xung quanh và về bản chất đối tượng nghiên
cứu. Do vậy, các phát minh khoa học đều gắn với các quan điểm triết học.
- Triết học đặt cơ sở cho việc bổ sung nhiều tri thức khác để chuyên gia có điều kiện
xây dựng nhân cách; trở thành công dân tốt, sống có trách nhiệm, không thờ ơ với vận
mệnh đất nước, ý thức được rằng nhiều khi lợi ích cá nhân phải phục tùng lợi ích xã hội.
- Sử học, Văn học, Triết học đã từng là một khi lược thuật, trình bày và đánh giá sự
kiện lịch sử xã hội; chúng buộc con người phải suy ngẫm về mục đích và giá trị cuộc
sống; định hướng con người xây dựng quan niệm đúng về các mối quan hệ xã hội, phác

hoạ những nét cơ bản về mục đích tồn tại, về cái thiện và cái ác, về tự do và trách nhiệm
của con người... nói với con người rằng, cái Thiện và cái Đẹp quan trọng không kém cái
Chân trong cuộc đời.
3.6. Người Việt thường ngại học triết học, vì phần lớn cho rằng:
- Triết học là những nguyên lý viển vông, các phạm trù khó hiểu, lại chẳng mấy liên
quan đến cuộc sống nhãn tiền tươi rói đang thực chứng sức sống dào dạt, hồn nhiên trào
tuôn khỏi khuôn thức cứng nhắc, mô phạm của triết học.
- Do không nhận thức được vai trò của triết học trong việc dẫn dắt dư luận xã hội,
nên trong đối thoại, người Việt ít để ý và ít đi đến cùng vấn đề, mà thường lưu tâm đến
ảnh hưởng xã hội. Bởi thế khi đối thoại căng thẳng, thường có tâm lý xuê xoa chân lý,
đem thái độ thay cho trình độ; cũng vì thiếu tri thức triết học nền tảng nên người Việt vừa
ngại, vừa thiếu vững tâm, thiếu căn cứ để nêu ý tưởng.
- Ngại học triết còn bởi lầm tưởng triết học là khoa học cao siêu, trong khi đó, triết
học là tình yêu sự thông thái, là niềm say mê nghĩ ngợi, tư duy. Ai yêu thích tư duy, sẽ yêu

7


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

thích triết học và còn bởi, triết học chứa đựng những tri thức cơ bản, gần gũi với mọi vấn
đề chính của con người./.
II. MỘT SỐ CHUYÊN ĐỀ TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
"Nếu như tồn tại một khoa học thực sự cần cho con người, thì đó là
khoa học mà tôi đang dạy, cụ thể là xác định cho con người vị trí xứng
đáng trong thế giới, từ đó có thể học được cái điều mà ai cũng phải học để
làm người"
I.Kant

4. Khái niệm thế giới quan, lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật?

4.1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan
- Khái niệm thế giới quan
+ Định nghĩa. Thế giới quan là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới; về con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
Nói cách khác, thế giới quan là hệ thống tri thức về thế giới, về con người.
- Cấu trúc của thế giới quan gồm tri thức và niềm tin để xây dựng lý tưởng. Cấu
trúc này giúp con người xác định những vấn đề như tìm hiểu thế giới, xác định thái độ,
cách thức hoạt động và quan niệm sống..., tạo thành chức năng cơ bản nhất của thế giới
quan là định hướng tiếp cận cho các hoạt động của con người
- Các hình thức cơ bản của thế giới quan
+ Người cổ đại giải thích thế giới bằng thần thoại, huyền thoại tạo nên thế giới quan
huyền thoại. Nội dung thế giới quan này là sự pha trộn giữa thực với ảo, giữa người với
thần... để giải thích các lực lượng tự nhiên nhờ trí tưởng tượng
+ Khi nhu cầu nhận thức đã cao hơn, con người không thể thỏa mãn việc giải thích
thế giới bằng thần thoại, mà chuyển sang giải thích thế giới bằng quan niệm tôn giáo, tạo
nên thế giới quan tôn giáo với nội dung là niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh của lực lượng
siêu nhiên (Trời, Chúa, Phật...) đối với thế giới và số phận con người. Đặc trưng chủ yếu
của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào sự hoàn thiện của thế giới khác, nơi không còn
nỗi khổ trần gian.
+ Khi khoa học chuyển sang giai đoạn tổng kết tri thức để tìm các quy luật chung
nhất về sự tồn tại, phát triển của thế giới, con người tạo ra các quan điểm, quan niệm và
chứng minh chúng bằng lý luận, tạo nên hệ thống lý luận về thế giới, được gọi là thế giới
quan triết học.
4.2. Khái quát lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
Thế giới quan triết học duy vật được tạo nên từ các quan điểm, quan niệm thừa
nhận bản chất thế giới là vật chất, khẳng định vai trò quy định của vật chất đối với ý thức
8


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017


nói chung, đối với con người và xã hội loài người nói riêng. Trong lịch sử tư tưởng, thế
giới quan duy vật tồn tại trong ba hình thức:
- Thế giới quan duy vật chất phác, khẳng định thế giới được tạo nên từ vật chất, được
tạo nên một hay một số dạng vật chất cụ thể như đất, nước, lửa, không khí... (Ấn Độ); Âm
dương, Ngũ hành (Trung Quốc), nước (Talét), apeyrôn (Anaximan), lửa (Hêraclít), nguyên
tử (Đêmôcrít, Lơxíp)...
Thế giới quan duy vật này được tạo nên từ các quan điểm, quan niệm trực quan,
phỏng đoán như vậy nên mới chỉ là bước chuyển từ dựa vào thần linh sang dựa vào tự
nhiên để giải thích thế giới nhưng đã có đóng góp vào lịch sử triết học với tư cách là cơ sở
lý luận để xây dựng thế giới quan duy vật ở giai đoạn sau
- Thế giới quan duy vật siêu hình t.k XVII-XVIII, tuyệt đối hoá mặt vận động, phát
triển hay mặt tĩnh tại, đứng im trong trạng thái tồn tại của sự vật, hiện tượng.
Thế giới quan duy vật này chỉ coi các định luật cơ học là duy nhất đúng với hoạt
động nhận thức, tuyệt đối hoá phương pháp phân tích khi tách cái toàn thể thành các bộ
phận nên hầu hết các nhà triết học tây Âu thời kỳ này chịu ảnh hưởng của thế giới quan
coi thế giới do vô số các sự vật, hiện tượng cụ thể tồn tại cạnh nhau trong không gian
trống rỗng, vô tận và không vận động, chuyển hóa.
Do vậy, hình thức này của thế giới quan duy vật chỉ có tác dụng chống lại thế giới quan
huyền thoại, duy tâm, tôn giáo và phát huy tốt trong các lĩnh vực chuyên ngành, cụ thể.
- Thế giới quan duy vật biện chứng là thế giới quan khoa học
+ Hệ thống tổng hợp các quan niệm về triết học, kinh tế chính trị, chủ nghĩa xã hội
khoa học là cơ sở khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Thế giới quan duy vật biện chứng được tạo nên từ các quan điểm, quan niệm tinh
hoa về thế giới trong các học thuyết triết học trước đó, đồng thời K.Marx và F.Engels còn
sử dụng các thành tựu khoa học để chỉ ra các mối liên hệ và sự vận động, phát triển tồn tại
trong giới tự nhiên, xã hội, tư duy, chuyển khoa học từ kinh nghiệm sang lý luận.
+ Nội dung thế giới quan duy vật biện chứng thể hiện trong quan niệm duy vật biện
chứng về thế giới (tính thống nhất vật chất của thế giới), về xã hội (bộ phận đặc thù của tự
nhiên, tồn tại nhờ sản xuất vật chất, tồn tại theo các quy luật phổ quát và đặc thù), về tư

duy (nhận thức là quá trình từ cảm tính sang lý tính rồi đến thực tiễn); tạo ra bức tranh
trung thực, hoàn chỉnh về thế giới; giúp con người định hướng nhận thức, xây dựng
phương pháp tư duy khoa học cũng như đánh giá kết quả nhận thức và cải tạo thế giới./.

9


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

5. Quy luật thống nhất và đấu tranh giưa các mặt đối lập. Ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
- Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật này coi
mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong mỗi sự vật, hiện tượng là nguyên nhân, giải
quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển. Bởi vậy, sự vận động, phát
triển của các sự vật, hiện tượng là tự thân.
- Nội dung quy luật khẳng định,
+ Quá trình xuất hiện, triển khai và giải quyết mâu thuẫn gồm các giai đoạn từ khác
nhau, thống nhất qua xung đột, mâu thuẫn đến đấu tranh giữa các mặt đối lập mà kết quả là
mâu thuẫn giữa chúng được giải quyết, xuất hiện sự thống nhất mới cùng với sự hình thành
mâu thuẫn mới trong sự vật, hiện tượng ở dạng thống nhất mới
Giai đoan một (giai đoạn khác nhau): Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được
biểu hiện ở sự khác nhau giữa các mặt đối lập.
Giai đoạn hai (giai đoạn từ khác nhau chuyển thành xung đột, mâu thuẫn): Trong
quá trình vận động, phát triển của các mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau và
bài trừ, phủ định lẫn nhau ở giai đoạn một chuyển thành mâu thuẫn
Giai đoạn ba (giai đoạn giải quyết mâu thuẫn): Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt
với nhau, nếu có điều kiện thì hai mặt đó sẽ hoặc chuyển hoá lẫn nhau; hoặc triệt tiêu
nhau; hoặc cả hai mặt đều bị triệt tiêu, sự vật, hiện tượng chuyển sang chất mới. Mâu
thuẫn được giải quyết
+ Kết quả là hai mặt đối lập cũ bị phá huỷ, sự thống nhất giữa hai mặt mới được

hình thành cùng với sự hình thành của mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn này lại được giải quyết
làm cho sự vật, hiện tượng mới luôn xuất hiện thay thế sự vật, hiện tượng cũ làm cho sự
vật, hiện tượng không tồn tại vĩnh viễn trong một chất. Đó là quan hệ giữa mâu thuẫn biện
chứng với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, trong đó mâu thuẫn giữa các mặt
đối lập là nguồn gốc, đấu tranh giữa các mặt đối lập là động lực bên trong của sự vận động
và phát triển
Như vậy, sự thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ có tính tạm thời, tồn tại trong trạng
thái đứng yên tương đối của sự vật; sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mới có tính tuyệt
đối. Tính tuyệt đối đó gắn với sự vận động, phát triển tự thân diễn ra không ngừng của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới. Suy ra, sự vận động, phát triển là tuyệt đối.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
+ Quy luật chỉ ra rằng, muốn nhận thức đúng bản chất của sự vật, hiện tượng và tìm
ra phương hướng, giải pháp đúng cho mọi hoạt động cần phát hiện mâu thuẫn. Muốn phát
hiện ra mâu thuẫn ấy, cần tìm ra hai mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng.

10


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

+ Quy luật coi phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh,
phát triển của từng mâu thuẫn; xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các cặp mặt mâu
thuẫn và điều kiện chuyển hoá giữa chúng.
+ Quy luật giúp nhận thức được rằng, để thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển phải
tìm cách giải quyết mà điều hoà mâu thuẫn. Mọi mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ
điều kiện, không nóng vội hay bảo thủ khi giải quyết mâu thuẫn.
+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam cần quá triệt nguyên tắc phương pháp luận của
quy luật mâu thuẫn trong việc xác định mâu thuẫn trong cách mạng dân tộc dân chủ, trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong từng giai đoạn cụ thể của nó./.
6. Quy luật từ nhưng thay đổi về lượng dẫn đến nhưng thay đổi về chất và

ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật trong hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn?
- Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật này chỉ ra
cách thức và tính chất chung nhất của sự vận động, phát triển
- Nội dung quy luật khẳng định, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất
và quy định biện chứng giữa chất với lượng; thể hiện ở:
+ Những thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ chuyển thành những thay đổi về chất
thông qua bước nhảy
+ Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới, lượng mới lại tiếp
tục biến đổi, đến độ lại phá vỡ chất cũ
Quá trình tác động qua lại giữa lượng và chất như vậy tạo nên con đường vận động
liên tục trong đứt đoạn, đứt đoạn trong liên tục; từ sự biến đổi dần về lượng tới nhảy vọt
về chất; rồi lại biến đổi dần về lượng để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo của chất, cứ thế
làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng vận động, biến đổi và phát triển.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
+ Quy luật giúp nhận thức được sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra bằng
cách tích luỹ về lượng. Vì vậy, phải từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất
+ Quy luật giúp nhận thức được rằng, khi đã tích luỹ đủ về lượng cần thực hiện
bước nhảy, chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những
thay đổi tiến hoá sang thay đổi mang tính cách mạng
+ Quy luật giúp nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức
liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Vì vậy, phải biết tác động vào cấu
trúc và phương thức liên kết trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự
vật, hiện tượng đó.

11


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017


+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam cần biết tích lũy những yếu tố, tính chất (lượng)
của xã hội mới để làm thay đổi căn bản về chất của nó./.
7. Quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn?
- Là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật này chỉ ra
khuynh hướng (đi lên), hình thức (xoáy ốc) và kết quả (sự vật mới ra đời) của sự phát triển
thông qua sự thống nhất giữa tính thay đổi với tính kế thừa trong quá trình phát triển của
sự vật, hiện tượng
- Nội dung quy luật khẳng định,
+ Phát triển biện chứng theo quá trình phủ định của phủ định, kế thừa biện chứng và
theo đường xoáy ốc là sự phát triển dường như lặp lại, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là
đặc điểm quan trọng nhất của quy luật phủ định của phủ định. Mỗi vòng mới của đường
xoáy ốc thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển và sự nối tiếp nhau của các vòng
đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao
+ Kết quả là, về hình thức, sự vật, hiện tượng mới (ra đời do kết quả của phủ định
lần hai) sẽ lặp lại hình thức sự vật, hiện tượng xuất phát (chưa phủ định lần nào); về nội
dung, không trở lại sự vật, hiện tượng xuất phát nguyên như cũ, mà chỉ dường như lặp lại
sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
- Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật
+ Quy luật giúp nắm được rằng, kết quả của sự vận động, phát triển chỉ có được sau
khi đã trải qua ít nhất hai lần phủ định.
+ Quy luật giúp nắm được rằng, coi sự phát triển là đều đặn, không va vấp, không
lùi những bước lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận.
+ Quy luật giúp nhận thức về sự vật, hiện tượng mới, ra đời hợp quy luật, biểu hiện
giai đoạn cao về chất trong sự phát triển, nhưng khi mới ra đời, còn yếu hơn sự vật, hiện
tượng cũ. Vì vậy, cần ủng hộ, tạo điều kiện cho sự vật, hiện tượng mới phát triển hợp quy
luật, kế thừa có chọn lọc những yếu tố hợp lý của sự vật, hiện tượng cũ phù hợp với xu thế
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng mới.
+ Thực tiễn cách mạng Việt Nam cần biết kế thừa biện chứng những yếu tố còn phù
hớp của xã hội cũ trong sự phát triển. Như, khi xây dựng nền văn hóa tiên tiến, dân tộc

cần kế thừa giá trị văn hóa truyền thống, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; có như
vậy mới giữ gìn và lan tỏa được văn hóa dân tộc, vừa hội nhập được với văn hóa nhân loại
trong quá trình toàn cầu hóa ./.
8. Khái niệm phương pháp và khái niệm phương pháp luận
12


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

- Khái niệm phương pháp
+ Phương pháp là hệ thống các nguyên tắc (công cụ, phương tiện) dùng để điều
chỉnh hoạt động nhận thức và thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã đề ra, là cách tiếp
nhận và hành động chinh phục thế giới hiện thực bằng lý luận hay thực tiễn
+ Nguyên tắc hình thành trong quá trình con người tác động lên đối tượng để đạt được
mục tiêu. Hệ thống các nguyên tắc (phương pháp) đạt hiệu quả cao được lựa chọn, bảo tồn và
lưu truyền cho thế hệ sau nhờ ngôn ngữ .
+ Do sự đa dạng của đối tượng nghiên cứu, nên có các cấp độ là phương pháp riêng
(dùng cho từng ngành), phương pháp chung (dành cho nhóm ngành), phương pháp phổ
biến (dùng cho mọi ngành), phương pháp nhận thức, phương pháp thực tiễn
+ Phương pháp biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc hình thành trên cơ sở
các nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật và các luận điểm, quan điểm
triết học duy vật biện chứng. Đó là phương pháp phổ biến, dùng trong mọi lĩnh vực hoạt
động và có vai trò quyết định trong việc xác định kết quả nghiên cứu và cải tạo sự vật, hiện
tượng và còn bởi, phép biện chứng duy vật không chỉ chỉ ra hướng nghiên cứu, đưa ra các
nguyên tắc chung tiếp cận đối tượng nghiên cứu, mà còn là điểm xuất phát từ góc độ đánh
giá thế giới quan đối với kết quả đạt được.
- Khái niệm phương pháp luận
+ Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, nguyên tắc xuất phát định hướng
chủ thể trong việc xác định, lựa chọn phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi,
khả năng áp dụng các phương pháp phù hợp, đạt hiệu quả tối đa

+ Trong nhận thức và thực tiễn, để đạt được mục đích đề ra con người sử dụng
nhiều phương pháp để giải quyết, gọi là lựa chọn phương pháp. Sự lựa chọn đó có thể
đúng, hiệu quả; có thể sai, không hoặc kém hiệu quả. Xác định các tiêu chí này là nhiệm
vụ của khoa học về phương pháp, tức lý luận về phương pháp hay phương pháp luận
+ Có nhiều cấp độ phương pháp gồm, phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận
chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Tuy phân chia như
vậy để dễ nhận thức và sử dụng trong nghiên cứu, nhưng cần vận dụng tổng hợp các hình
thức phương pháp luận trong hoạt động nhận thức và thực tiễn
+ Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất được tạo
nên từ hệ thống các nguyên tắc, phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và
thực tiễn, đồng thời cũng là học thuyết về hệ thống đó. Phương pháp luận đó là sự thống
nhất biện chứng giữa phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể
hoá trong các lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
- Phân biệt phương pháp và phương pháp luận.

13


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

+ Phương pháp và phương pháp luận thống nhất với nhau ở chỗ, phương pháp luận
là cơ sở để nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn phương pháp cụ thể cần xuất phát từ
quan điểm, nguyên tắc của phương pháp luận.
+ Phương pháp và phương pháp luận khác nhau ở chỗ, phương pháp là cách thức
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cụ thể, còn phương pháp luận là những quan
điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể xác định phương pháp đúng đắn; phương pháp
luận, tuy nghiên cứu về phương pháp, nhưng không nhằm mục đích xác định phương pháp
cụ thể mà chỉ nhằm rút ra những quan điểm, những nguyên tắc chung cho việc xác định và
áp dụng phương pháp. Như vậy, phương pháp luận- thuần tuý lý luận; phương pháp gồm
cả lý luận và thực tiễn.

9. Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật đối
với quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn
- Nguyên tắc toàn diện trong quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn
+ Định nghĩa. Toàn diện là thuật ngữ dùng để khái quát sự phản ánh trạng thái tồn
tại của đối tượng nhận thức trong toàn bộ mối liên hệ, tức xem xét bao quát tất cả các mặt,
các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, các mối tổng hoà những quan hệ của đối tượng nhận
thức ấy với đối tượng nhận thức khác.
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
phép biện chứng duy vật; theo đó, sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự quy định, tác động,
chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.
+ Nội dung nguyên tắc toàn diện đối với quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn
cách mạng,
1) Muốn nhận thức đúng bản chất của đối tượng, cần xem xét sự tồn tại của nó
trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, thuộc tính và với các đối tượng khác nằm trong
sự liên hệ; tránh xem xét phiến diện, một chiều hoặc rơi vào chủ nghĩa chiết trung (kết
hơp vô nguyên tắc các mối liên hệ) và thuật nguỵ biện (coi mối liên hệ cơ bản thành mối
liên hệ không cơ bản hoặc ngược lại).
2) Muốn cải tạo đối tượng, cần tác động nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn
hiện thực, tránh ảo tưởng, viển vông, xa rời thực tiễn.
3) Trong hoạt động cần áp dụng đồng bộ các biện pháp tác động làm thay đổi toàn
bộ các mặt, các mối liên hệ cơ bản tương ứng của đối tượng. Song trong từng bước, từng
giai đoạn phải biết mối liên hệ trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng, tránh dàn trải.
4) Nguyên tắc toàn diện, do phản ánh đối tượng từ mọi mặt nên có khả năng dự báo
xu hướng vận động, phát triển của nó; tránh được sự trì trệ, bảo thủ của tư duy.
- Nguyên tắc phát triển trong quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn
14


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017


+ Định nghĩa. Phát triển là thuật ngữ dùng để khái quát quá trình vận động đi lên
theo đường xoáy ốc và trong sự phát triển ấy, nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn
về chất, nhờ đó làm cho cấu trúc, phương thức tồn tại và hình thức vận động của sự vật,
hiện tượng cũng như chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép
biện chứng duy vật và quan niệm duy vật biện chứng về vận động.
+ Nội dung của nguyên tắc phát triển đối với quá trình nhận thức khoa học
1) Nguyên tắc này đòi hỏi, phải xem xét đối tượng trong trạng thái vận động,
chuyển hoá; chỉ ra nguồn gốc của phát triển là mâu thuẫn các mặt đối lập trong đối tượng
để nhận thức được đối tượng không những trong thời hiện tại, mà còn dự báo được
khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai.
+ Nguyên tắc này coi phát triển là quá trình nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải biết phân tích mỗi giai đoạn
cụ thể để tìm ra hình thức, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm
hãm sự phát triển đó
3) Nguyên tắc này đòi hỏi trong quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế
thừa biện chứng những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ mà phát triển sáng tạo chúng
trong điều kiện mới
4) Nguyên tắc này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần nhạy cảm với
cái mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới
đó phát triển; chống quan điểm bảo thủ, trì trệ...
- Nguyên tắc lịch sử-cụ thể trong quá trình nhận thức khoa học và thực tiễn
+ Lịch sử là thuật ngữ dùng để chỉ quá trình hình thành, tồn tại, diệt vong và chuyển
hóa của đối tượng. Cụ thể là thuật ngữ dùng để khái quát sự tồn tại của đối tượng trong
từng giai đoạn cụ thể của toàn bộ quá trình hình thành, tồn tại, diệt vong và chuyển hóa
của đối tượng ấy.
+ Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là toàn bộ nội dung phép biện chứng
duy vật và nguyên tắc chân lý là cụ thể của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
+ Nội dung của nguyên tắc lịch sử-cụ thể đối với quá trình nhận thức khoa học
1) Theo V.I.Lênin, “phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một sự vật,

hiện tượng đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, đã trải qua những giai đoạn phát triển
chủ yếu nào để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào và dự báo tương lai phát
triển của nó. Từ đó có thể phản ánh sự vận động đa dạng của sự vật, hiện tượng nhằm nắm
được bản chất của nó ở từng giai đoạn cụ thể”.
2) Nguyên tắc này yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là
phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận động làm cho đối
15


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết
định bản chất của nó.
3) Nguyên tắc này yêu cầu phải chỉ rõ được những giai đoạn mà đối tượng đã trải
qua trong quá trình phát triển; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong nhận thức và
thực tiễn, để nhận thức và giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu đặc
trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.
4) Nguyên tắc này yêu cầu chỉ ra được các mối liên hệ có tính quy luật quy định sự
vận động, phát triển của đối tượng hiện thời và khả năng chuyển hoá thành đối tượng mới
thông qua phủ định; chỉ ra được đối tượng mới là sự kế tục, sự bảo tồn đối tượng cũ trong
dạng đã được lựa chọn và cải tạo cho phù hợp với đối tượng mới./.
10. Nguyên tắc thống nhất giưa lý luận và thực tiễn. Sự vận dụng nguyên tắc
này vào cách mạng Việt Nam hiện nay?
10.1. Thực tiễn và nhận thức
- Khái niệm thực tiễn
+ Định nghĩa. Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã hội
của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội; là hoạt động mang bản chất người. Nói
cách khác, thực tiễn là phương thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương
thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới, xác định thực tế mối
liên hệ giữa nhu cầu của con người với thế giới xung quanh.

+ Thực tiễn thể hiện trong ba hình thức là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động cải
tạo xã hội (chính trị-xã hội) và hoạt động thực nghiệm. Trong đó, hoạt động sản xuất vật
chất quy định các hình thức còn lại của thực tiễn và các hình thức đó của thực tiễn tác
động ngược lại hoạt động sản xuất vật chất.
- Khái niệm nhận thức
+ Định nghĩa. Nhận thức là hoạt động tinh thần, là quá trình phản ánh tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan vào não người trên cơ sở thực tiễn; tạo ra tri thức về thế giới
khách quan đó mà tính đúng, sai của nó được đo trong hoạt động vật chất, trong thực tiễn.
+ Bản chất nhận thức thể hiện ở chỗ, đó là quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
sáng tạo thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn; đó là quá trình đi từ chưa biết đến biết, từ
biết ít đến biết nhiều, từ biết hiện tượng đến biết bản chất; đó là quá trình đi từ trình độ nhận
thức kinh nghiệm đến trình độ nhận thức lý luận, từ trình độ nhận thức thường đến trình độ
nhận thức khoa học; đó là sự khẳng định, thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận
thức, là động lực, mục đích và là thước đo kiểm tra chân lý của nhận thức.
+ Nhận thức là quá trình tương tác giữa chủ thể và khách thể nhận thức.

16


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

Chủ thể nhận thức, theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung, cá nhân, giai
cấp, dân tộc nói riêng... nhưng con người chỉ trở thành chủ thể nhận thức khi tham gia vào
hoạt động nhằm nhận thức và biến đổi khách thể. Khi nhận thức, các yếu tố lợi ích, lý
tưởng, tài năng, ý chí, phẩm chất đạo đức… của chủ thể đều tham gia vào quá trình nhận
thức với những mức độ khác nhau và ảnh hưởng khác nhau đến kết quả nhận thức.
Khách thể nhận thức là một bộ phận của hiện thực khách quan nằm trong phạm vi
tác động của nhận thức, mà nhận thức hướng tới để nắm bắt, phản ánh. Khách thể nhận
thức không đồng nhất hoàn toàn với hiện thực khách quan, mà phạm vi của khách thể
nhận thức được mở rộng đến đâu tuỳ theo sự phát triển của nhận thức, của khoa học.

Trong hoạt động nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chủ thể nhận thức
và khách thể nhận thức quan hệ gắn bó với nhau, trong đó khách thể đóng vai trò quyết
định chủ thể. Sự tác động của khách thể lên chủ thể tạo nên hình ảnh nhận thức về khách
thể. Tiếp nhận sự phản ánh của khách thể lên chủ thể là quá trình sáng tạo, tạo cho chủ thể
khả năng ngày càng nắm bắt được chính xác bản chất, quy luật của khách thể.
- Mối quan hệ biện chứng giữa thực tiễn và nhận thức
+ Thực tiễn quy định nhận thức bởi thực tiễn là cơ sở, là động lực chủ yếu và trực
tiếp của nhận thức; thực tiễn còn là mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn (thước đo) của
nhận thức chân lý. Tính đúng đắn của nhận thức/lý luận thể hiện ở sự phản ánh phù hợp với
hiện thực khách quan mà nó phản ánh và được thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh.
+ Nhận thức tác động trở lại thực tiễn bởi nhận thức định hướng mục đích hoạt
động thực tiễn, tác động đến hoạt động thực tiễn bằng cách xác định lực lượng, công cụ,
phương pháp thực hiện mục đích; dự báo những khả năng có thể xẩy ra trong quá trình
hoạt động; bởi vậy lý luận là cơ sở để khắc phục hạn chế, tăng cường năng lực hoạt động
của con người và qua hoạt động thực tiễn đó, nhận thức được kiểm nghiệm, bổ sung và
phát triển nhờ tổng kết thực tiễn. Ngoài ra, nhận thức có vai trò giác ngộ lý tưởng, liên kết
cá nhân thành cộng đồng, tạo ra sức mạnh cải tạo tự nhiên, xã hội.
10.2. Nguyên tắc thống nhất giưa lý luận và thực tiễn. “Thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác-Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là
lý luận suông”. Nguyên tắc này yêu cầu,
- Về lý luận
+ Hoạt động nhận thức/lý luận cần bám sát thực tiễn, tránh để thực tiễn nằm chờ lý
luận bởi thực tiễn luôn thay đổi trong các điều kiện mới.
+ Hoạt động nhận thức/lý luận cần phản ánh kịp thực tiễn, so sánh, đối chiếu, phân
tích để chọn lọc các thực tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận.

17



Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

+ Hoạt động nhận thức/lý luận phải tổng kết, khái quát được kinh nghiệm từ thực
tiễn phổ quát, đáp ứng được yêu cầu xây dựng lý luận mới.
+ Hoạt động nhận thức/lý luận phải xuất phát từ thực tiễn, từ nhu cầu thực tiễn; lấy
thực tiễn làm tiêu chuẩn (thước đo) nhận thức; nếu xa rời thực tiễn dẫn đến bệnh chủ
quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu.
+ Hoạt động thực tiễn phải có lý luận định hướng, dẫn đường, tránh bệnh kinh nghiệm
+ Khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử-cụ thể, tránh để lý luận
nằm chờ thực tiễn; do lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho thực tiễn tiếp
theo, do lý luận phản ánh thực tiễn dưới dạng quy luật nên có thể vượt trước thực tiễn.
- Về thực tiễn, cách mạng Việt Nam cần tránh bệnh kinh nghiệm (thực tiễn mù
quáng) và bệnh giáo điều (lý luận suông), là những biểu hiện khác nhau khi vận dụng sai
nguyên tắc thống nhất lý luận với thực tiễn.
+ Bệnh kinh nghiệm biểu hiện ở việc tuyệt đối hoá các kinh nghiệm đã có và áp dụng
chúng vào hiện tại mặc đù điều kiện, thời đại đã thay đổi dẫn đến kết quả không mong
muốn. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với
thực tiễn, vừa luôn bám sát thực tiễn, vừa nâng cao trình độ lý luận; bổ sung, vận dụng lý
luận sát với thực tiễn.
+ Bệnh giáo điều xuất hiện do trình độ lý luận còn nông cạn, lại tuyệt đối hoá lý
luận, vận dụng máy móc những kiến thức trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn
khắc phục bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn
gắn lý luận với thực tiễn, kiểm tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận cùng với sự
phát triển của thực tiễn./.
11. Luận điểm “sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch
sử-tự nhiên”. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội?
11.1. Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội
- Định nghĩa. Hình thái kinh tế-xã hội là khái niệm dùng để chỉ xã hội ở từng giai
đoạn lịch sử nhất định, với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất và với kiến trúc thượng tầng tương

ứng được xây trên những quan hệ sản xuất ấy
- Cấu trúc của mỗi hình thái kinh tế-xã hội là hệ thống hoàn chỉnh, phức tạp, trong
đó lĩnh vực kinh tế có phương thức sản xuất (lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất); lĩnh
vực chính trị có kiến trúc thượng tầng; ngoài ra, còn lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội.
Mỗi lĩnh vực đó vừa tồn tại độc lập, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau; gắn với
quan hệ sản xuất và biến đổi cùng sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
11.2. Quá trình lịch sử-tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế-xã hội
18


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

- Các mặt của hình thái kinh tế-xã hội tác động qua lẫn nhau tạo nên các quy luật
vận động, phát triển khách quan của xã hội, Đó là,
+ Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất chỉ ra nguyên nhân và động lực của sự vận động, phát triển khách quan của xã hội;
phản ánh sự vận động nội tại trong phương thức sản xuất (phù hợp và không phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất), thể hiện tính tất yếu khách
quan của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức sản xuất khác, dẫn đến
hình thái kinh tế-xã hội này được thay thế bởi hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ
hơn, nghĩa là xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao là quá trình lịch sử-tự nhiên.
+ Quy luật về mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng xã hội
khẳng định rằng, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội cụ thể đều có kiểu quan hệ vật chất,
kinh tế (cơ sở hạ tầng) nhất định và kiểu quan hệ tư tưỏng, tinh thần phù hợp và các tổ
chức xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội,
nghề nghiệp... (kiến trúc thượng tầng).
Giai cấp nào thống trị về vật chất, kinh tế thì cũng thống trị về tinh thần, tư tưởng
của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống vật chất, kinh tế, xét đến cùng, quy định mâu thuẫn
trong đời sống tinh thần, tư tưởng. Cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị, tư tưởng là biểu
hiện của những đối kháng về vật chất, kinh tế.

Chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi
cùng chiều với sự vận động của quy luật kinh tế, chính trị, xã hội; nếu trái lại, sẽ cản trở
sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội.
+ Các quy luật xã hội khác như đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, tiến bộ xã hội,
vai trò của khoa học và công nghệ trong sự phát triển xã hội cũng tác động, khi mạnh, khi
yếu, lên sự phát triển của xã hội.
- Sự tác động của các quy luật đó tạo nên sự phát triển lịch sử-tự nhiên của các hình
thái kinh tế-xã hội. Sự phát triển đó vừa tuân theo quy luật khách quan phổ biến (quy luật
tự nhiên), vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng (quy luật kinh tế-xã hội), đặc thù
(văn hóa của từng dân tộc) với nguồn gốc sâu xa là quan hệ sản xuất không theo kịp sự
phát triển của lực lượng sản xuất
- Quá trình thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội vừa diễn ra tuần tự, vừa
bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế-xã hội do con đường phát triển riêng của
mỗi dân tộc còn chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như điều kiện tự nhiên, truyền thống
văn hoá (bên trong) bởi kinh tế, chính trị quốc tế (bên ngoài) của mỗi thời đại cụ thể tạo
nên sự đa dạng trong sự phát triển chung của nhân loại.
Có dân tộc tuần tự trải qua, có dân tộc bỏ qua một hay vài hình thái kinh tế-xã hội
nào đó trong quá trình phát triển. Sự biến đổi như vậy không phụ thuộc vào ý thức con
19


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

người mà tuân theo các quy luật xã hội khách quan; suy ra sự biến đổi này là quá trình lịch
sử-tự nhiên theo con đường tuần tự (dần dần) hoặc bỏ qua (nhảy vọt, rút ngắn) một hay
vài hình thái kinh tế-xã hội nào đó.
11.3. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội
- Ý nghĩa lý luận của học thuyết hình thái kinh tế-xã hội
+ Khi nghiên cứu xã hội, K.Marx sử dụng hai lĩnh vực cơ bản của xã hội là lĩnh vực
kinh tế và lĩnh vực xã hội xã hội vì rằng, sự tác động lẫn nhau giữa chúng quy định sự vận

động, phát triển của các lĩnh vực còn lại (chính trị, tư tưởng) của đời sống xã hội.
+ Học thuyết nghiên cứu xã hội về mặt loại hình, chỉ ra bản chất của một xã hội cụ
thể. Cho phép xác định các nguyên tắc phương pháp luận xuất phát để nghiên cứu xã hội
(đời sống xã hội phải được giải thích từ sản xuất, từ phương thức sản xuất). Khẳng định
phương pháp biện chứng khi nghiên cứu quan hệ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội (xã
hội là một tổ chức sống, các yếu tố của nó thống nhất, tác động lẫn nhau).
+ Học thuyết nghiên cứu xã hội về mặt lịch sử, chỉ ra tính lặp lại, tính liên tục, bước
quá độ, sự chuyển tiếp, thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội. Coi sự phát triển
xã hội là tiến trình lôgíc, tuần tự; đồng thời là tiến trình đa dạng (sự phát triển của các hình
thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên; quy luật phát triển chung của xã hội loài
người và quy luật phát triển đặc thù của mỗi dân tộc)
+ Học thuyết chỉ ra rằng, khi quy luật cũ chưa hết hiệu lực, quy luật mới đã xuất hiện
nhưng chưa hoàn thiện, cần sử dụng quan điểm, quan niệm, phương pháp, phương pháp luận
biện chứng duy vật làm cơ sở cho việc xem xét, nghiên cứu để tìm ra quy luật mới.
- Vận dụng lý luận hình thái kinh tế-xã hội vào việc nhận thức chủ nghĩa xã hội và
xây dựng con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
+ Dự báo về chủ nghĩa xã hội của K.Marx và V.I.Lenin
1) K.Marx, F.Engels dự báo về sự ra đời của hình thái cộng sản chủ nghĩa
Cơ sở lý luận để dự báo (lịch sử xã hội là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp) và
thực tiễn của dự báo (chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền công nghiệp cơ khí và giai cấp vô
sản- những yếu tố xoá bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng xã hội mới).
Nội dung dự báo (Để đến xã hội cộng sản, phải trải qua cách mạng vô sản; cách
mạng đó sẽ đồng thời xẩy ra ở trong các nước tư bản phát triển (Anh, Mỹ, Pháp, Đức).
2) V.I.Lenin dự báo về chủ nghĩa xã hội
Cơ sở lý luận và thực tiễn của dự báo (Quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa
tư bản nên chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi, trước hết trong một số ít nước, thậm chí
trong một nước tư bản yếu nhất và thực tiễn kinh tế-xã hội-chính trị của nước Nga)

20



Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

Nội dung dự báo (Hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá độ trực tiếp đối
với các nước tư bản phát triển và quá độ gián tiếp lên CNXH thông qua nhiều khâu trung
gian, nhiều bước quá độ đối với các nước kém phát triển)
+ Nhận thức về CNXH và con đường lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
1) Nhận thức về CNXH ở Việt Nam hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ rõ mô hình xã hội
XHCN ở Việt Nam gồm 8 đặc trưng, trong đó có đặc trưng dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh. Các đặc trưng về chế độ kinh tế, văn hóa, bình đẳng, đoàn kết các
dân tộc, về thiết chế nhà nước do Đảng lãnh đạo, về bản chất hòa bình, hữu nghị của chế
độ XHCN... là những điều kiện căn bản để xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam
Xã hội XHCN ở Việt Nam như vậy đã nêu ra mục tiêu và điều kiện thực hiện mục
tiêu, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa chế độ kinh tế với thiết chế chính
trị, giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa-xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã
hội, giữa dân tộc và quốc tế, bao trùm là mối quan hệ giữa nền tảng kinh tế và kiến trúc
thượng tầng. Phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa.
2) Con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
* Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo lý luận
hình thái kinh tế-xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam
Chọn con đường CNXH là phù hợp với xu hướng phát triển (do tính chất của thời
đại; do tính ưu việt của CNXH; do đặc điểm cuộc cách mạng dân tộc-dân chủ ở Việt Nam;
do nguyện vọng của nhân dân Việt Nam)
Lên CNXH ở Việt Nam phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường,
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính quá độ (phủ nhận bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư
bản, sự lãnh đạo của giai cấp tư sản và chuyên chính tư sản)
Lên CNXH ở Việt Nam cần tuân theo nguyên tắc kế thừa của phủ định biện chứng,
trong đó có sử dụng khuynh hướng tự phát lên TBCN

Lên CNXH ở Việt Nam phải giữ vững định hướng XHCN
* Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam
Tính tất yếu phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá (Việt Nam lên CNXH từ nền kinh
tế sản xuất nhỏ; CNH phải gắn với HĐH nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho
CNXH; chống tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới)
Chủ trương của Đảng về CNH, HĐH (Con đường CNH, HĐH ở Việt Nam cần và
có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt; phát huy lợi thế của
đát nước, tranh thủ học tập và ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ, hình
21


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

thành kinh tế tri thức; phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt
Nam, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ)
* Kết hợp giữa phát triển LLSX với xây dựng QHSX phù hợp trong thời kỳ quá độ
lên CNXH
Vận dụng hiệu quả quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất ở Việt Nam (phát triển LLSX gắn với xây dựng QHSX mới phù
hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối; mặt đạt được; mặt hạn chế)
Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp để phát triển lực lượng sản xuất; xây dựng và
hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN (quan hệ sản xuất tiên tiến nhưng cần có
trình độ phát triển của các yếu tố thành phần của lực lượng sản xuất; phải có những và
từng bước phát triển quan hệ sản xuất thích ứng với từng chặng của thời kỳ quá độ và
hoàn cảnh lịch sử; không phủ định sạch trơn quan hệ sản xuất TBCN)
* Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Vai trò của hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc), vai trò của văn
hóa, tư tưởng, tinh thần đối với sự phát triển của đất nước

Đổi mới kinh tế gắn với đổi mới chính trị (đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới chính
trị bằng cách đổi mới chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; nâng cao vai trò
của các đoàn thể và tổ chức quần chúng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ; giải quyết thỏa đáng các vấn đề xã hội)./.
12. Quan điểm duy vật biện chứng về khoa học và sự phát triển của khoa học
12.1. Khoa học, khoa học chuyên ngành
- Khoa học (scientia, kiến thức, hiểu biết) là hệ thống tri thức được tích lũy trong quá
trình nhận thức quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy trên cơ sở thực tiễn; thể hiện bằng khái
niệm, phán đoán, suy lý, học thuyết1; là khái niệm dùng để giải thích nguồn gốc, quy luật
khoa học, quan hệ giữa khoa học với đối tượng nghiên cứu, giữa khoa học với các hình thái
ý thức xã hội...
- Khoa học chuyên ngành là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội và nhân văn; nghiên cứu từng lĩnh vực của thế giới; từng sự vật, hiện tượng
của các lĩnh vực đó. Tuy nhiên, việc phân chia này chỉ có tính tương đối bởi có ngành (y
học, tâm lý học chẳng hạn) có thể xếp vào khoa học tự nhiên hay vào khoa học xã hội, có

1

Từ điển triết học giản yếu. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1987, tr.229

22


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

bộ môn khoa học (điều khiển học, khoa học gợi mở (evituke) còn không thể xếp được vào
khoa học tự nhiên hay vào khoa học xã hội.
12.2. Phân loại khoa học.

- Ngay từ thời cổ đại, khi các mầm mống tri thức khoa học mới xuất hiện trong triết
học, vấn đề phân loại khoa học đã được Aristoteles, Epicure chú trọng; thời Phục hưng có
Leonardo da Vinci; thời cận đại có F.Bacon, Descartes, Hegel... Hiện nay, phân loại khoa
học dựa vào các hình thức vận động của vật chất, tức theo đối tượng nghiên cứu của từng
ngành khoa học.
- Dựa vào quá trình phân chia, tích hợp khoa học, người ta chia khoa học thành khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản và khoa học
ứng dụng.
+ UNESCO phân khoa học thành khoa học tự nhiên và khoa học chính xác; khoa học
kỹ thuật; khoa học nông nghiệp; khoa học về sức khoẻ; khoa học xã hội và nhân văn.
+ Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam phân loại lĩnh vực nghiên cứu khoa học và
công nghệ thành khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học y, dược,
khoa học nông nghiệp, khoa học xã hội, khoa học nhân văn2.
- Khoa học tự nhiên xuất hiện sớm nhất, khoa học này dựa vào giả thuyết, dữ liệu
đã kiểm chứng để mô tả, giải thích, nhận thức và dự đoán về đối tượng, quy luật tự nhiên
bằng lý thuyết khoa học.
Nhiệm vụ của khoa học tự nhiên là phát hiện ra các quy luật của tự nhiên, xây dựng
cơ sở lý luận cho kỹ thuật công nghiệp, nông nghiệp và y học; khoa học tự nhiên còn là
nền tảng tri thức tự nhiên của các quan điểm triết học duy vật và nguyên tắc biện chứng.
Đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên là các dạng cụ thể của vật chất và các
hình thức vận động của chúng cũng như mối liên hệ giữa các hình thức vận động ấy.
+ Dựa vào nội dung và phương pháp nghiên cứu, khoa học tự nhiên được chia thành
khoa học tự nhiên lý luận và khoa học tự nhiên thực nghiệm; còn dựa vào tính chất của
đối tượng nghiên cứu, có khoa học tự nhiên vô cơ, khoa học tự nhiên hữu cơ.
+ Dựa vào phương thức tồn tại của vật chất, khoa học tự nhiên có cơ học, vật lý
học, hóa học, sinh học, toán học và thống kê, khoa học máy tính và thông tin, các khoa
học trái đất và môi trường (địa lý, địa chất, môi trường, khí tượng thủy văn và hải dương
học, thiên văn học)...

2


ban hành theo Quyết định số 12/2008/QĐ-BKHCN ngày 4/9/2008 của Bộ KH&CN và Quyết định số 37/QĐ-BKHCN ngày
14/01/2009 của Bộ KH&CN đính chính Quyết định 12/2008/QĐ-BKHCN

23


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

- Khoa học xã hội và nhân văn ra đời muộn nhất 3 trong các khoa học chuyên ngành,
chỉ từ những nghiên cứu của Comte4 và Dilthey5,6. Khoa học nhân văn hình thành từ sự
thống nhất các môn học với tên gọi “Geisteswissenschaften- khoa học về tâm hồn”, thuật
ngữ dịch từ tác phẩm “Khoa học đạo đức-moral science” của G.A.Mill, về sau được làm rõ
hơn trong tác phẩm “Mở đầu khoa học về tâm hồn-Einleitung in die Geisteswissenschaften”
của W.Dilthey năm 1883. Nhưng có thể nói, tri thức khoa học nhân văn đã xuất hiện từ
Socrate qua các môn đạo đức học, mỹ học, lôgic học, chính trị học,...
- Đối tượng nghiên cứu chung của khoa học xã hội và nhân văn là xã hội loài người
và các mối quan hệ xã hội để chỉ ra quy luật hình thành, vận động và phát triển của nó, là
các quan hệ xã hội và chức năng của các tổ chức xã hội, các hoạt động xã hội và sự tương
tác giữa con người và kết quả sự tương tác đó lên văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần; là
các sự kiện, yếu tố lịch sử... Đối tượng nghiên cứu đó tồn tại khách quan, không phụ thuộc
vào ý chí và nhận thức của con người; nhưng gắn với hoạt động của con người, nên còn
phụ thuộc vào ý chí, nguyện vọng, mong muốn, hy vọng, nhu cầu, mục tiêu (là những cái
khách quan mang tính chủ quan) của con người.
12.3. Sự phát triển của khoa học và cách mạng công nghiệp
- Sự phát triển của khoa học (Cách mạng khoa học)
+ Thời Cổ đại, tri thức khoa học (toán học, kiến trúc, thiên văn học, y học ...) xuất
hiện do nhu cầu dân sinh và hoạt động tôn giáo, giao lưu văn hóa và trao đổi thương nghiệp
cũng như sản xuất vũ khí chiến tranh. Nhưng do phương thức sản xuất còn sơ khai, chủ yếu
là nông nghiệp và một ít nghề thủ công, xây dựng với công cụ lao động thô sơ dựa vào kinh

nghiệm, chiến tranh chủ yếu dựa vào sức người là chính, nên các tri thức khoa học chưa
phân chia, mà tập trung hết trong triết học.
+ Thời Trung cổ, tuy mọi hình thái ý thức xã hội đều phải phục tùng thần học và giáo
hội, nhưng từ thế kỷ XIII, khoa học đã có sự phát triển mới với thiên văn học và toán học;
cơ học, vật lý học, hoá học cũng hình thành nhưng phát triển chậm hơn. Sang thời Phục
hưng, diễn ra quá trình phân ngành khoa học. Triết học phân nhánh thành triết học, lôgic
học, thiên văn học, toán học...; toán học phân nhánh thành số học, đại số, hình học, lượng
giác...; hình học phân nhánh thành hình học giải tích, hình học vi phân...; vật lý phân nhánh
thành vật lý lý thuyết, vật lý thống kê, cơ học, nhiệt học... 7. Đánh dấu lý luận cho sự thay
đổi trên là cuốn Về hoạt động của cơ thể người của Vesalius và cuốn Về chuyển động quay
của các thiên thể của Copernicus cùng được xuất bản năm 1543, làm xuất hiện phương
3

Đến thế kỷ XIX, khoa học xã hội và nhân văn vẫn nằm trong siêu hình học, lép vế trước sự bùng nổ của khoa học tự nhiên
Auguste Comte (1798 -1857), nhà tư tưởng, nhà thực chứng, nhà lý thuyết xã hội, người nêu ra thuật ngữ Xã hội học
5
Wilhelm Dilthey (1833-1911), nhà sử học, nhà triết học người Đức
6
Từ điển triết học giản yếu. Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Hà Nội, 1987, tr.231
7
Ngày nay khoa học đã phân nhánh thành trên 2000 bộ môn, nghiên cứu các khía cạnh khác nhau của thế giới
4

24


Nguyễn Thái Sơn (0946401986 & ) soạn cho lớp cao học K2, VJU, VNU, 9/2017

pháp khoa học thực nghiệm, vừa khẳng định vai trò của toán ứng dụng, vừa tạo ra quan
điểm và phương pháp siêu hình trong nhận thức và nghiên cứu.

+ Thời nguyên thuỷ và kỷ nguyên nông nghiệp tồn tại cho đến khi Thuyết Địa tâm
(thế kỷ I TCN) bị Thuyết Nhật tâm (thế kỷ XVI) phủ định, tạo nên cuộc cách mạng khoa
học lần thứ nhất và cùng với nó, loài người bước vào thời Cận đại, bỏ lại những đêm dài
mộng mị thời trung cổ.
Vào thế kỷ XVIII, thiên tài Newton làm cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai bằng
định luật vạn vật hấp dẫn, loài người bước vào kỷ nguyên công nghiệp với hai lần kỹ thuật
sản xuất được đổi mới có tính cách mạng. Lần thứ nhất, vào cuối thế kỷ XVIII, phát minh
ra máy hơi nước của James Watt tạo ra nền công nghiệp cơ khí, kinh tế nông nghiệp
nhường chỗ cho kinh tế công nghiệp. Lần thứ hai, vào cuối thế kỷ XIX, phát minh ra máy
phát điện của Edison tạo ra các quy trình công nghệ mang tính hệ thống và điều khiển.
Vào thời kỳ này, phát minh khoa học được áp dụng vào kỹ thuật, tư bản công nghiệp
phát triển mạnh với việc đô thị hoá, công nghiệp hoá quy mô lớn, nảy sinh nhu cầu về
lương thực, thực phẩm, dẫn tới sự phát triển của nông học, thực vật học, sản xuất phân bón,
thuốc nhuộm... thúc đẩy ngành hoá học công nghiệp phát triển. Cách mạng công nghiệp đặt
ra cho khoa học chuyên ngành nhiều đề tài nghiên cứu mới, biểu hiện sinh động của mối
quan hệ giữa khoa học và sản xuất. Những phát minh và sáng chế 8 ấy là nền tảng cho cách
mạng công nghiệp, tạo ra những thay đổi căn bản trong cấu trúc, nguyên tắc nhận thức,
trong phương pháp và cả trong hình thức tổ chức khoa học. Cũng ở thời kỳ này, khoa học xã
hội phát triển mạnh, với nhiều ngành và có những cống hiến to lớn cho nhân loại.
+ Thời Hiện đại. Đầu thế kỷ XX, thiên tài Anhxtanh châm ngòi cho cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ ba bằng hai phát minh khoa học là thuyết tương đối và thuyết lượng
tử. Quá trình vi điện tử-bán dẫn hoá diễn ra trong những năm 50, cùng với sự hình thành
các ngành công nghệ cao diễn ra từ đầu những năm 80 cho đến nay. Các yếu tố cơ bản của
nền kinh tế này9 sẽ thẩm thấu dần vào các lĩnh vực công, nông nghiệp và dịch vụ của nền
kinh tế cũ làm xuất hiện nền kinh tế mới; và cuối cùng, cả nền kinh tế cũ sẽ chuyển vào
nền kinh tế mới. Do vậy, nền kinh tế công nghiệp chỉ mang tính quốc gia, còn nền kinh tế
tri thức mới mang tính quốc tế10.
Các phát minh khoa học được sử dụng vào lĩnh vực công nghệ, khoa học và công
nghệ trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Đây là giai đoạn phát triển nhanh nhất của
khoa học; khoa học phân thành các ngành, các lĩnh vực, các bộ môn nghiên cứu rất sâu và

rất đa dạng. Chúng cũng xâm nhập, giao thoa nhau tạo nên các khoa học trung gian, liên
8

hơi nước của James Watt (1790, Scotland), tàu chờ khách hơi nước (năm 1807 của Fulton (Mỹ), xe lửa hơi nước của
Stephenson (Anh), bóng đèn điện của Thomas Edison (1879, Mỹ) ...
9
Theo GS Phạm Minh Hạc gồm công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ năng lượng
10

GS. Chu Hảo. Tạp chí Giáo dục và Thời đại, số tháng 12 năm 2002

25


×