Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

LÝ THUYẾT PHÂN TẦNG XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.94 KB, 7 trang )

* Phân t ầng xã h ội :
Khái ni ệm
- T ầng xã h ội :
+ T ầng xã h ội là t ổng th ểc ủa m ọi cá nhân trong cùng m ột hoàn c ảnh xã h ội
+ H ọgi ống nhau ho ặc b ằng nhau v ềtài s ản hay thu nh ập, trình độ h ọc v ấn hay v ăn hóa, v ềđịa v ị
hay uy tín xã h ội, kh ản ăng th ăng ti ến trong thanh b ậc xã h ội
- Phân t ầng xã h ội: đó là s ựphân chia nh ỏxã h ội, là s ựphân chia xã h ội thành các t ầng xã h ội khác
nhau v ềđịa v ị kinh t ế, ngh ềnghi ệp, h ọc v ấn, phong cách sinh ho ạt, th ị hi ếu ngh ệthu ật,…
- Phân t ầng xã h ội th ườ
n g đi li ền v ới b ất bình đẳn g xã h ội
1. Khái niệm về phân tầng xã hội
Phân tầng xã hội - Social Stratification - có nguồn gốc chữ latinh là Stratum - là tầng lớp, và
phaco - là phân chia, có nghĩa là phân chia thành tầng lớp. Có ý kiến cho rằng phân tầng là thuật
ngữ bắt nguồn từ địa chất học, được xã hội học sử dụng như một khái niệm cơ bản để mô tả trạng
thái phân chia xã hội thành các tầng lớp. Thật ra, khái niệm này mới chỉ nhấn mạnh yếu tố “tĩnh”,
trong khi xã hội luôn vận động và biến đổi. Mặt khác, trong xã hội không có sự phân biệt rạch ròi,
giản đơn giữa các tầng lớp, mà thường xuyên có sự đan xen, giao thoa, chuyển hóa lẫn nhau do
tính cơ động xã hội tạo nên. Mặc dù vậy, có thể nói việc sử dụng khái niệm phân tầng cũng giúp mô
tả được trạng thái nhiều tầng lớp của xã hội trong những điều kiện thời gian và không gian nhất
định.
Có nhiều định nghĩa về phân tầng xã hội. Chẳng hạn, GS,TS. Trịnh Duy Luân, Viện Xã hội học
cho rằng: Phân tầng xã hội là “sự xếp hạng một cách ổn định các vị trí trong xã hội xét từ góc độ
quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền, đặc lợi không ngang nhau”. Trong sự phân tầng xã hội có các
“tầng” (stratum), mỗi tầng là một tập hợp người (cá nhân), giống nhau về địa vị, bao gồm địa vị kinh
tế (tài sản, thu nhập), địa vị chính trị (quyền lực), hay địa vị xã hội (như uy tín), từ đó mà họ có được
những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất định trong xã hội. Sự phân tầng
xã hội thường được mô tả dưới dạng các “tháp phân tầng” với những hình dáng khác nhau, tùy
thuộc vào đặc trưng của các loại xã hội.
Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở Wikipedia thì phân tầng xã hội “là một khái niệm để chỉ
sự phân chia các cá nhân hay các nhóm xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Mỗi tầng bao gồm
các cá nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị, uy tín giống nhau”.


Cũng có tác giả cho rằng: “Phân tầng xã hội là sự sắp xếp cá nhân trong một hệ thống xã hội
vào các tầng lớp xã hội khác nhau trên cơ sở phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn
chung về giá trị được thừa nhận” .
Từ các định nghĩa trên cho thấy, về cơ bản, phân tầng xã hội là một sự phân chia mang tính
cấu trúc các tầng lớp, giai tầng xã hội dựa trên những đặc trưng về vị thế kinh tế - xã hội của các cá
nhân. Phân tầng xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội…
Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và khó tránh khỏi của xã hội có giai
cấp. Nó là kết quả của sự phân công lao động xã hội và sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất
cả mọi chế độ xã hội có giai cấp. Khi nói đến phân tầng xã hội, các nhà xã hội học đề cập đến bất
bình đẳng xã hội như là một yếu tố cơ bản dẫn đến phân tầng xã hội. Sự bất bình đẳng ở đây được


hiểu theo nghĩa là sự không ngang bằng nhau giữa các cá nhân, giữa nhóm xã hội về thể chất, trí
tuệ, điều kiện, cơ may…Khái niệm phân tầng xã hội có quan hệ gần gũi với các khái niệm như:
phân hóa giai cấp, phân hóa giàu nghèo, phân cực xã hội và có thể coi như là những biến thể, hay
là trường hợp riêng của phân tầng xã hội. Tuy nhiên, phân tầng xã hội có ý nghĩa rộng lớn hơn phân
chia giai cấp xã hội, vì giai cấp chỉ là một trong những tiêu chuẩn hay chiều cạnh của phân chia xã
hội thành các tầng lớp khác nhau. Phân tầng xã hội không có ý nghĩa tuyệt đối, bất biến, mà có thể
thay đổi do sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội dẫn đến sự thay đổi vị thế xã hội của
các cá nhân. Trong sự phân tầng xã hội có cả mặt “tĩnh” và mặt “động”, có cả sự ổn định tương đối
và sự cơ động của các nhóm xã hội và các cá nhân từ tầng xã hội này sang tầng xã hội khác, hoặc
chỉ trong một tầng xã hội đó.
Trong lịch sử, tương ứng với các loại xã hội khác nhau, có những hệ thống phân tầng khác
nhau. Theo các nhà xã hội học, có 4 kiểu chủ yếu về hệ thống phân tầng xã hội là: nô lệ, đẳng cấp,
phong kiến và các giai cấp xã hội. Khái quát lại, người ta thường đề cập tới 2 kiểu phân tầng xã hội
là phân tầng đóng và phân tầng mở.
Phân tầng đóng: là loại phân tầng diễn ra trong xã hội đẳng cấp, ở đó ranh giới giữa các tầng
lớp xã hội được xác định rất rõ ràng và được duy trì một cách nghiêm ngặt. Các cá nhân không có
cơ hội để thay đổi vị trí của mình từ tầng lớp này sang tầng lớp khác.

Phân tầng mở: là loại phân tầng trong xã hội có giai cấp, ở đó ranh giới giữa các tầng lớp rất
linh hoạt, các cá nhân trong xã hội có cơ hội, điều kiện để di chuyển sang các tầng lớp khác.
Ngoài ra, khi nghiên cứu phân tầng xã hội có nhà xã hội học còn đề cập đến phân tầng xã hội
hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức, theo đó, phân tầng xã hội hợp thức là sự phân tầng
dựa trên sự khác biệt một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), về điều kiện cơ may cũng
như sự phân công lao động căn cứ vào năng lực của mỗi cá nhân và nhóm xã hội. Thực chất của
phân tầng xã hội hợp thức là sự vận hành xã hội theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo
lao động”, là sự phân tầng theo hướng lành mạnh, tích cực, giúp xã hội ổn định và phát triển.
Phân tầng xã hội không hợp thức là phân tầng không dựa trên sự khác biệt tự nhiên của cá
nhân về tài, đức, sự cống hiến cho xã hội, mà dựa trên những hành vi bất chính như tham nhũng,
lừa gạt, trộm cắp, buôn bán phi pháp, xu nịnh, cơ hội…để trở nên giàu có, được nắm giữ quyền lực,
có địa vị xã hội, hoặc ngược lại, do lười biếng dựa dẫm, ỷ lại, không chịu lao động, phấn đấu, để rơi
vào tình trạng khốn khó, nghèo túng. Phân tầng không hợp thức góp phần tạo nên và làm trầm
trọng thêm sự bất công bằng xã hội, là mầm mống gây nên sự bất ổn định và xung đột xã hội.

Nguyên nhân
- Sự xuất hiện chế độ tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất
- Quá trình phân công lao động xã hội
- Những suy nghĩ về phân hoá giàu , nghèo trong xã hội .
"Phân hoá giàu nghèo" khái niệm và chỉ tiêu đánh giá:Trong quá trình chuy ển đổi t ừ m ột n ền kinh t ế
kém phát triển sang nền kinh tế thị trường, xu hướng biến động của cơ cấu xã hội ở nước ta hi ện
nay, ngày càng trở nên rõ nét.Từ thực trạng đó, đã có một số luận điểm có quan h ệ đến quan ni ệm
s ự phân hoá giàu nghèo.+PHGN g ắn li ền v ới b ất bình đẳng xã h ội và phân công lao động
+PHGN giàu nghèo là sự phân cực về kinh tế.
+ PHGN là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh t ế và đến l ượt mình s ự phân


hoá đó lại trở thành nguyên nhân kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển kinh t ế.
+ PHGN là một hiện tượng xã hội phản ánh quá trình phân chia xã hội thành các nhóm xã h ội có
điều kiện kinh tế khác biệt nhau. PHGN là phân tầng xã hội về mặt kinh t ế, thể hiện trong xã h ội có

nhóm giàu tầng đỉnh, nhóm nghèo tầng đáy. Giữa nhóm giàu và nhóm nghèo là kho ảng cách v ề thu
nhập và mức sống.
Từ việc phân tích những khái niệm "nghèo","sự phân hoá giàu nghèo" ta cũng thấy được nguyên
nhân và tính chất hai mặt của sự phân hóa giàu nghèo đối với nền kinh tế. Từ đó cũng có thể thấy
sự tác động nhất định của nó đối với kinh tế- xã hội Việt Nam.Nước ta chuyển sang nền kinh tế th ị
trường định hướng xã hội chủ ngh ĩa tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân
từng bước được cải thiện, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày
càng rõ nét hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo giửa thành th ị và nông thôn đang là m ột trong
những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay. Khi nói về phân hoá giàu nghèo ở nước ta có rất nhiều
nguyên nhân và nhận định khác nhau , nhưng nhìn chung cơ bản có mấy v ần đề như sau :
* Nguyên nhân :
Thứ nhất,
+ Nước ta là nước nông nghiệp chậm phát triển, chiến tranh kéo dài làm cho c ơ sở hạ tầng b ị tàn
phá nghiêm trọng .
+Cơ chế chính sách thiếu thông thoáng làm cho sản xuất nông nghiệp , công thương nghi ệp , ch ậm
phát triển.
- Thứ hai,
+ Có sự dư thừa , nhàn rỗi lao động ở nông thôn chưa dược khuyến khích ra thành thị để lao động
+Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở nông thôn còn thấp kém .
( Theo số liệu thống kê trong tổng số 16,5 triệu thanh niên ở nông thôn ch ỉ có 12% t ốt nghi ệp ph ổ
thông trung học, 3,11% có chuyên môn kỹ thuật)
+Diện tích đất nông nghiệp cũng đang có xu hướng giảm dần trong quá trình công nghiệp hóa, hi ện
đại hóa.
- Thứ ba,
+ Đối mặt với nhiều rũi ro , thách thức như thiên tai, dịch bệnh, sâu h ại, tai nạn lao động, thất nghi ệp

+ Cơ chế thị trường thiếu ổn định , làm cho gái trị sản phẩm chưa tương xứng với công sức mà
người lao động đổ vào .
+ Thủ tục hành chính rườm rà , tình trạng quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ nhà mước , đôi
khi làm mất đi cơ hội để phát triển kinh tế gia đình , các công ty và doanh nghi ệp ….

- Thứ tư
+ Chỉ số GDP có mức tăng trưởng khá nhưng thiếu bền vững. . Theo cách tính của Ngân hàng Th ế
giới (WB ), nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm 2009 đã lên đến mức 47,5% GDP; trong khi đó
cách tính nợ của Việt Nam, do Bộ Tài chính cung cấp là 44,7%. Hai cách tính này có khác nhau d ựa
trên cơ sở thâm hụt ngân sách, Tổng cục Thống kê thông báo, thâm hụt ngân sách c ủa Việt Nam
năm 2009 là 6,9%, còn WB lại đưa ra con số là 8,4%.
Theo Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, nợ nước ngoài của Việt Nam tính đến tháng 6 n ăm
2009 là 29,8 tỉ USD, tương đương 30,5% GDP và có xu hướng giảm, ổn định, ngh ĩa là đang trong
tầm kiểm soát an toàn. Thế nhưng nợ trong nước lại có xu hướng tăng, nếu tính cả số nợ trái phiếu
của các công trình xây dựng để ngoài ngân sách, thì tỷ lệ nợ đã và quá 50% GDP. Đi ều đó đã hạn
chế phần nào trong việc thực hiện các chính sách xã hội và an sinh xã h ội.
* Tác động của sự phân hoá giàu nghèo đối với nền kinh tế - Xã hội


- Về mặt tích cực :
+ Phân hoá giàu nghèo góp phần khơi dậy tính năng động , sáng tạo , kích thích họ tìm kiếm và
khai thác cơ may , vận hội để phát triển , vươn lên trong cuộc sống .
- Về mặt tiêu cực sự phân hoá giàu nghèo dẩn đến bất bình đẳng trong xã h ội nh ư :
+ Những người giàu , thì giàu thêm do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật nh ư có dư thừa đất
sản xuất và phương tiện sản xuất , có điều kiện để làm giàu nhanh chóng nhờ kinh doanh các lo ại
hình dịch vụ , bất động sản , thị trường chứng khoáng ……Tuy nhiên bên cạnh đó c ũng có m ột bộ
phận những người giàu lên do làm ăn bất hợp pháp như : Buôn lậu , cho vay n ặng lãi …..làm cho
những người nghèo càng nghèo thêm .Sự phân hoá giàu nghèo luôn luôn tồn t ại bất cứ trong đời
sống xã hội nào , giai cấp nào . Đảng ta đã khẳng định “dân giàu , nước mạnh ” đôi khi lắm c ủa ,
nhiều tiền của một bộ phận những người giàu có , đôi lúc lại là mắt trái của đời sống xã hội , h ọ sử
dụng đồng tiền theo lối sống buôn thả , xa hoa lãng phí , không rõ m ục đích , làm m ất đi giá tr ị
chuẩn mực đạo đức của con người . Bên cạnh đó là thiếu đi sự quan tâm giáo dục con cái , để trở
thành người công dân có ích cho xã hội , ngược lại tạo tiền đề xấu cho l ớp trẻ lao vào cuộc s ống
thác loạn , ăn chơi , đua đòi , nghiện ngập và cuối cùng là vi phạm vào các tệ n ạn xã hội . Trong
những năm gần đây , tỷ lệ tội phạm đang có chiều hướng gia tăng trong lứa tuổi thanh, thiếu niên

gây ra những điều nhức nhối trong xã hội . ( điển hình vụ án Lê văn Luyện ở tỉnh B ắc Giang )
+ Phân hoá giàu nghèo còn gây ra sự chênh lệch và mâu thuẩn , những thanh niên được sinh ra
trong những gia đình nhà khá vã thường có tư tưởng kêu căn ỷ lại , ăn chơi ít ch ịu học hành , ng ược
lại con nhà nghèo ham học , có ý chí vươn lên thì lại không có điều kiện để phát huy công danh , sự
nghiệp chính vì lẻ đó gây nên có sự chênh lệch văn hoá trong xã hội .
+ Phân hoá giàu nghèo còn thể hiện rõ nhất ở vai trò của người phụ nữ , họ ít được học hành , chưa
có được đối xử công bằng ( do phân biệt giới tính ) thì vai trò của người phụ nử trong các tầng lớp
nghèo càng trở nên bất công và cơ cực . Ngoài ra sự thua thiệt về vất chất những ng ười nghèo còn
thua thiệt về giá trị tinh thần , họ không có hoặc rất ít để được tiếp cận các loại hình ,dịch vụ văn
hoá tiên tiến , đặt biệt là vùng nông thôn , vùng sâu , vùng xa ,vùng miền núi và h ải đảo .
* các giải pháp :
Nước ta đang trong thời kỳ hóa độ lên chủ ngh ĩa xã hội , hướng tới một xã hội công b ằng , dân ch ủ ,
văn minh , để xóa bỏ những bất công như phân hóa giàu , nghèo hiện nay là đi ều không d ể th ực
hiện .Mặc khác Đảng ta đang ra sức phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước có
nền công nghiệp hiện đại , thì khó khăn trong việc giải quyết tình trạng phân hóa giàu , nghèo càng
trở nên phức tạp . Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đang nổ lực và làm h ết sức mình để
thu hẹp và xóa bỏ những bất công tồn tại trong xã hội như : xóa đói giảm nghèo , có s ự ưu tiên và
quan tâm và sâu xác hơn đối với người nghèo , các gia đình chính sách …..Tuy nhiên dưới góc độ
của người viết tôi xin trình bày một số các giải pháp như sau :
-Xóa đói giảm nghèo là giải pháp có hướng tích cực , tuy nhiên cần ph ải nghiên c ứu và có nh ững
giải pháp cụ thể , “ xóa ’ như thế nào để giảm “nghèo’ là việc làm cấp bách , b ởi vì hi ện nay gi ải
pháp này chỉ mang tính chất tạm thời để xóa đói , giảm nghèo chứ chưa mang tính chất bền vững ,
để người nghèo có điều kiện để vươn lên thoát nghèo một cách hiệu quả .
-Nhà nước ta cần có chế độ , chính sách thông thoáng hơn đối với những người nghèo , đặt bi ệt là
vùng nông thôn , vùng xâu , vùng xa , vùng miền núi và hải đảo như :
+ Tạo điều kiện cho họ có công ăn việc làm , đất sản xuất …
+ ưu tiên đào tạo nghề , đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn , kỹ thuật cho lực lượng lao động
nông thôn .
+ Công nghiệp hóa , hiện đại hóa nông thôn ( Hiện nay các khu công nghi ệp ch ủ y ếu t ập trung ở



những thành phố lớn , đa phần lực lượng lao động nông thôn tập trung những n ơi này ), tạo ra việc
làm ổn định cho lực lượng lao động tại chổ , góp phần nâng cao tay nghề , cũng như xóa được đói ,
giảm được nghèo một cách thiết thực và hiệu quả .
Tóm lại việc giải quyết tình trạng phân hóa giàu , nghèo như hiện nay, chúng ta cùng chung tay góp
sức của cả cộng đồng , ũng hộ cả về vật chất lẩn tinh thần , để họ có điều kiện vươn lên trong cuộc
sống . Bên cạnh đó bản thân những người nghèo cũng phải có ý chí phấn đấu , vượt qua chính
mình , không nên ỷ lại hay trông cậy vào người khác , có như vậy mới thoát nghèo một cách bền
vững ./.
Qua nghiên cứu thực trạng phân tầng xã hội ở Việt Nam cho thấy tồn tại cả hai mặt tích cực và
tiêu cực. Mặt tích cực của phân tầng xã hội là khơi dậy, thúc đẩy tính tích cực, năng động, chủ
động, sáng tạo của mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong việc phát hiện khai thác các cơ hội để làm giàu
chính đáng, vươn lên thành đạt trong các lĩnh vực của đời sống, thích ứng nhanh với cơ chế thị
trường. Những biến đổi trong cơ cấu giai tầng xã hội dưới tác động của phân tầng xã hội có tác
động tích cực, góp phần kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô hình và cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển hợp lý, bền vững, làm tăng tính cơ động xã hội và sự phân công lại lao động xã hội phù
hợp với yêu cầu phát triển mới của đất nước. Thông qua phân tầng xã hội mà sàng lọc, tuyển chọn,
hình thành được những tầng lớp mới, những nhóm ưu tú, vượt trội, có những phẩm chất và năng
lực cần thiết, thích ứng được với sự biến đổi của xã hội. Nhìn chung, sự phân tầng xã hội có xu
hướng chuyển mạnh và rõ nét từ trì trệ, khép kín sang cởi mở, năng động, linh hoạt, mềm dẻo
nhằm tạo ra các cơ hội và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của các cá
nhân và các giai tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường.
Mặt tiêu cực của phân tầng xã hội, nhất là phân tầng bất hợp thức là những hệ lụy, những
mặt trái mà nó tác động, ảnh hưởng đến xã hội. Đó là sự phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về mức
sống, bất bình đẳng xã hội gia tăng, là sự đảo lộn và nhiễu loạn các giá trị xã hội, là sự mất lòng tin
của người dân vào chế độ và những người đại diện cho chế độ, dẫn đến những hành vi tiêu cực,
bất mãn, phá hoại, làm cho xã hội mất ổn định, những động lực chân chính bị triệt tiêu, làm tăng
những yếu tố tiêu cực, rủi ro, cản trở sự phát triển xã hội.
Phân tầng xã hội với hai mặt tích cực và tiêu cực nêu trên, vừa là kết quả của sự phát triển
kinh tế - xã hội, sự phân công lao động trong cơ chế thị trường, vừa là động lực vừa là lực cản của

quá trình đó, tùy thuộc vào năng lực quản trị xã hội của hệ thống quản lý xã hội. Điều đó đòi hỏi phải
có những nghiên cứu sâu rộng hơn về phân tầng xã hội, qua đó giúp cơ quan quản lý hiểu rõ hơn
xu hướng vận động của cơ cấu xã hội với các giai tầng khác nhau trong nền kinh tế thị trường, từ
đó có những chính sách, giải pháp quản trị phù hợp, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực,
bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội bền vững.

MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG TRONG QUẢN TRỊ PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Quản trị phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay, suy cho cùng, thực chất không phải là ngăn chặn,
triệt tiêu nó, mà là trên cơ sở những quy luật khách quan, chủ thể quản lý sử dụng mọi nguồn lực và
cơ chế chính sách tác động vào khách thể quản lý nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của phân tầng xã hội, đưa xã hội phát triển theo những định hướng và mục tiêu xác định. Để
thực hiện được điều đó cần thống nhất một số định hướng sau đây:
1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện


đại, một xã hội có dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh như Nghị quyết Đại hội
Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã khẳng định.
Phát triển kinh tế tự nó không bao hàm và không giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội,
không ngăn cản được phân tầng xã hội, nhưng sẽ là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội như việc
làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, phát huy tính tích cực, năng động của các
thành phần kinh tế, huy động các nguồn lực để hỗ trợ các nhóm xã hội, các khu vực còn khó khăn,
hạn chế sự phân tầng theo hướng tiêu cực. Tuy nhiên, phát triển xã hội nói chung, trong đó có phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi phải thực hiện nhất quán nguyên tắc
công bằng, bình đẳng xã hội đối với con người, với các cộng đồng người trong cơ cấu xã hội, lấy
con người làm trung tâm, lấy chất lượng cuộc sống và triển vọng phát triển của con người làm mục
tiêu sâu xa, tối thượng.
2. Trong phát triển xã hội, quản trị phân tầng xã hội phải thấu suốt và thực hiện nhất quán
chủ trương: “Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu, chính sách kinh tế với các mục tiêu, chính sách xã hội;
thực hiện tốt tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển…Tạo cơ hội

bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã
hội”(8). Điều đó có nghĩa là, tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc cải thiện các khía cạnh liên quan
đến phát triển con người, xã hội, gắn với thực hiện các chỉ tiêu về phát triển xã hội, trong đó trọng
tâm là xóa đói, giảm nghèo, công bằng xã hội, giải quyết việc làm, các chỉ tiêu liên quan đến phát
triển toàn diện con người như giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao, các chỉ số về giới và dân tộc… Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với việc tạo cơ hội phát triển một cách công bằng cho tất cả mọi người,
mọi giai tầng và nhóm xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với việc nâng cao mức sống của đại đa
số quần chúng nhân dân thông qua chính sách phân phối và phân phối lại thu nhập một cách công
bằng, hợp lý. Thực hiện việc khuyến khích làm giàu hợp pháp, đồng thời có chính sách và giải pháp
phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành
thị.
3. Trong vận hành nền kinh tế cần “chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị
trường, không phó mặc cho thị trường hoặc can thiệp, làm sai lệch các quan hệ thị trường”, và gắn
liền với đó là “thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bảo vệ và trợ giúp các
đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường”(9).
Có chính sách an sinh xã hội cho các đối tượng thu nhập thấp, các nhóm xã hội “yếu thế”,
đồng bào miền núi, vùng dân tộc, nông thôn, vùng sâu, vùng xa…phù hợp với điều kiện và khả năng
của nền kinh tế. Cần tăng cường sự kiểm soát nhà nước để đảm bảo rằng những chính sách điều
tiết đảm bảo công bằng xã hội, an sinh xã hội được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng đối tượng,
thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
4. Cần tạo môi trường xã hội dân chủ, công khai, minh bạch, làm cho mọi người, mọi thành
phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội được cạnh tranh lành mạnh, có cơ hội bình đẳng để phát huy tài
năng, trí tuệ, vươn lên làm giàu, tham gia vào quản lý xã hội, tự khẳng định mình . Khi ban hành luật
pháp, cơ chế, chính sách, Nhà nước phải xem xét một cách toàn diện, cẩn trọng, để một mặt,
khuyến khích những nhân tố mới, những yếu tố tích cực, mặt khác, khắc phục và hạn chế các
khuyết tật và mặt trái của kinh tế thị trường về phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo, không làm
tổn hại đến quyền và lợi ích của những cộng đồng “yếu thế”, tạo điều kiện để những người bị thiệt
thòi có điều kiện vươn lên hòa nhập với cộng đồng.
5. Thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện các biện pháp, kết hợp cả các biện pháp về kinh
tế, chính trị, hành chính, luật pháp lẫn giáo dục thuyết phục… để định hướng và điều chỉnh cơ cấu

xã hội và phân tầng xã hội theo hướng phát triển bền vững, kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô
hình phát triển kinh tế, làm tăng tính cơ động xã hội và sự phân công lại lao động xã hội một cách


hợp lý, hạn chế xu thế phân tầng bất hợp thức và những tác động tiêu cực của nó đối với phát triển
xã hội.
6. Để quản trị phân tầng có hiệu quả đòi hỏi phải coi trọng và tăng cường công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về phân tầng xã hội, phân hóa giai cấp, phân hóa giàu nghèo, bất
bình đẳng xã hội…để nắm bắt, dự báo xu hướng của tình hình, trên cơ sở đó chủ động đề xuất các
quan điểm và giải pháp trước mắt và lâu dài cho hoạch định chiến lược, đường lối phát triển xã hội
và quản lý xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế.



×