MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HÓA..................................2
1. Khái niệm toàn cầu hóa (WTO, TPP…).....................................................2
1.1. Khái niệm.................................................................................................2
1.2. Giới thiệu sơ lược về WTO,TPP..............................................................2
2. Lịch sử, ý nghĩa toàn cầu hóa......................................................................3
2.1. Lịch sử......................................................................................................3
2.2. Ý nghĩa.....................................................................................................4
CHƯƠNG II. BIỂU HIỆN, TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA VÀ LỢI
ÍCH CỦA HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI WTO, TPP.......................................6
1. Biểu hiện, tác động của toàn cầu hóa..........................................................6
1.1. Biểu hiện..................................................................................................6
1.2. Tác động của toàn cầu hóa hiện nay........................................................7
1.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế...........................................................................7
1.2.2. Trong lĩnh chính trị...............................................................................9
1.2.3. Trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trật tự xã hội.....................................9
1.2.4. Trong việc gìn giữ văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc..............10
2. Lợi ích của hệ thống thương mại WTO,TPP.............................................11
2.1. Hệ thống này giúp gìn giữ hoà bình.......................................................11
2.2. Giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng....................12
2.3. Một hệ thống dựa trên những nguyên tắc chứ không phải là sức mạnh để
làm cho cuộc sống dễ dàng hơn với tất cả mọi người...................................13
2.4. Thương mại tự do hơn giúp giảm chi phí cuộc sống.............................13
2.5. Đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, và phạm vi chất
lượng rộng hơn để lựa chọn..........................................................................13
2.6. Thương mại làm tăng thu nhập..............................................................14
2.7. Thương mại kích thích tăng trưởng kinh tế và đó có thể là tin tốt lành
cho vấn đề việc làm.......................................................................................14
2.8. Các nguyên tắc cơ bản làm cho hệ thống có hiệu quả hơn, và giảm bớt
chi phí............................................................................................................15
2.9. Hệ thống này bảo vệ các chính phủ khỏi những quyền lợi hẹp hòi.......16
2.10. Hệ thống khuyến khích chính phủ hoạt động tốt.................................16
CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TÁC ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA 18
3.1. Đầu tiên và quan trọng nhất là vấn đề giáo dục....................................19
3.2. Cần có chiến lược tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế một cách
chủ động tích cực với một “lộ trình " phù hợp..............................................19
3.3. Cần thực hiện tốt phương châm tranh thủ và lơi dụng mặt tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực, trong quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế...................19
3.4. Cần phát huy và nghiên cứu năng lực nội sinh, khả năng cạnh tranh và
khả năng "tự miễn dịch " trước các tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh
tế....................................................................................................................20
3.5. Hoạch định, nắm rõ các chính sách về chính trị, kinh tế, quốc phòng, an
ninh................................................................................................................20
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN...............................................................................22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:........................................................23
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay cả thế giới đang có xu hướng nói đến toàn cầu hóa nhiều hơn.
Toàn cầu hóa đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu không chỉ của riêng
mỗi quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề chung của toàn thế giới. Toàn cầu hóa
tác động tới tất cả các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa…ở trên hai
mặt vừa tích cực, vừa tiêu cực. Cũng như các quốc gia khác, Việt Nam không
nằm ngoài xu thế chung đó. Việt Nam làm gì để ngăn chặn tác động tiêu cực của
toàn cầu hóa đối với chủ quyền quốc gia hiện nay để làm rõ thêm về xu thế
chung và những tác động của nó lên lĩnh vực nhà nước nói chung cũng như chủ
quyền quốc gia nói riêng. Trong ngân hàng câu hỏi, câu 4 là “Toàn cầu hóa
(WTO,TPP…)” bài tập này em xin phép tìm hiểu đề tài: “Tác động của toàn cầu
hóa tới nhà nước Việt Nam hiện nay” để làm bài tiểu luận môn Quản trị học. Em
hi vọng với đề tài nghiên cứu của mình sẽ giúp được một phần nhỏ cho đất
nước. Tuy nhiên vì đề tài nghiên cứu khá rộng, trình độ nghiên cứu tìm hiểu có
hạn chế không thể tránh khỏi thiếu sót.
Rất mong được sự đóng góp ý kiến, đánh giá và nhận xét của thầy cô để
em nhận thức được vấn đề một cách sâu sắc hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!.
1
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TOÀN CẦU HÓA
1. Khái niệm toàn cầu hóa (WTO, TPP…)
1.1. Khái niệm
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và
trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa
các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế, v.v... trên
quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, toàn cầu hoá hầu như được
dùng để chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hóa thương mại hay
"tự do thương mại" nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng
chảy tư bản ở quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ
thuật, công nghệ, thông tin, văn hóa.
1.2. Giới thiệu sơ lược về WTO,TPP
- WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (World Trade
Organization). Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 01/01/1995 với mục
tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi và minh
bạch.
Tổ chức này kế thừa và phát triển các quy định và thực tiễn thực thi Hiệp
định chung về Thương mại và Thuế quan - GATT 1947 (chỉ giới hạn ở thương
mại hàng hoá) và là kết quả trực tiếp của Vòng đàm phán Uruguay (bao trùm
các lĩnh vực thương mại hàng hoá, dịch vụ, sở hữu trí tuệ và đầu tư).
- TPP là một Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với phạm vi
cam kết rộng (bao gồm cả các vấn đề thương mại và phi thương mại), và mức độ
cam kết rất cao (được đánh giá là FTA có mức độ cam kết cao nhất từ trước tới
nay của Việt Nam).
Ngày 04/02/2016, TPP đã được ký kết chính thức vào, hiện tại các nước
thành viên đang tiến hành các thủ tục nội bộ để thông qua Hiệp định.
Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) bao gồm 12 nước thành
viên là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật
Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam.
2
2. Lịch sử, ý nghĩa toàn cầu hóa
2.1. Lịch sử
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15,
sau khi có những thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu
tiên vòng quanh thế giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng
như việc xuất hiện các trục đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu
Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi
về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng được đem trồng từ vùng khí hậu
này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây, cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch
sử khác nhau. Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính
trị học, toàn cầu hoá chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng
giữa các nước dựa trên những cơ sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty
trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế
về thị trường tự do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông
hàng hoá. Điều này dẫn tới sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong
lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ
và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng vàng làm tiêu chuẩn của hệ thống tiền
tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19 thường được chính thức gọi là
"thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành trướng của đế quốc
Anh (Pax Britannica) và việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ có sử dụng
tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là
công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật cân bằng
chung của Jean-Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương
mại một cách hiệu quả, và bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ
tự động được điều chỉnh. Việc thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công
nghiệp hoá chính khoảng giữa năm1850 và năm 1880, mặc dù chính xác khi nào
các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài gây nhiều tranh cãi.
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước
3
vào Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng
hoảng bản vị vàng vào cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc
tế đã tăng trưởng đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các
chương trình tái kiến thiết. Kể từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm
phán thương mại do GATT khởi xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó
dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ các hạn chế đối với "thương mại tự
do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành lập Tổ chức thương mại
thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại. Các hiệp ước
thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht của
châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết
nhằm mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970,
các tác động của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu
cực.
2.2. Ý nghĩa
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến
các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và
được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những
tiến bộ trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế
giới ngày càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở
mức độ cá nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công
dân thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu,
Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ
giữa các thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên
thế giới (toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong
phạm vi kinh tế.
Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc
sử dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới
4
hạn của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch
vụ của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau. Sự lan rộng của chủ nghĩa tư
bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia đang phát triển.
Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và
có thể dùng thay cho nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu
hoá" để nhấn mạnh sự mờ nhạt của ý niệm nhà nước hay biên giới quốc gia.
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc
qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có
thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội.... Rõ
ràng cần phân biệt toàn cầu hoá kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn cầu hoá
nói chung.
Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh
tế, có thể được xem là trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghĩa kinh tế quốc
gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó có liên quan đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không
can thiệp và chủ nghĩa tân tự do.
5
CHƯƠNG II. BIỂU HIỆN, TÁC ĐỘNG CỦA TOÀN CẦU HÓA VÀ LỢI
ÍCH CỦA HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI WTO, TPP
1. Biểu hiện, tác động của toàn cầu hóa
1.1. Biểu hiện
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu
hướng đó bắt đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông
quốc tế ngày càng tăng đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với
việc phát triển các công nghệ, tổ chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc
lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều tranh luận xung quanh sự tồn tại của một
số xu hướng.
Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế
thế giới
Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,
gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ
như Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn
hoá phẩm như phim ảnh hay sách báo.
Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý
hơn đến những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí
hậu, khủng bố, buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo.
Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu
hướng hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá
thông qua sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua
các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC, gia
tăng việc đi lại và du lịch quốc tế, gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép,
phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu
Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế, gia tăng thị phần thế giới của các
tập đoàn đa quốc gia, gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế
như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các giao dịch quốc tế
6
Gia tăng số lượng các tiêu chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ
Chiến tranh thế giới lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về
thuế quan và mậu dịch(GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm:
Thúc đẩy thương mại tự do
Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu
dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có
Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản, giảm, bỏ hẳn
hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương, hoà hợp luật sở hữu
trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt chặt hơn)
Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. bằng sáng
chế do Việt Nam cấp có thể được Mỹ thừa nhận).
1.2. Tác động của toàn cầu hóa hiện nay
Toàn cầu hóa là một quá trình phát triển (cho đến nay) không cưỡng lại
được, vừa có thể đem lại sự tăng trưởng kinh tế, sự phồn vinh cho nhiều nơi,
nhiều người nhưng lại vừa gây ra những xáo động to lớn trong lối sống của
nhiều người khác.
Nhà nước, với vai trò là chủ thể quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa
không thể tránh khỏi những tác động, ảnh hưởng từ xu thế tất yếu đó. Nhìn ở
góc độ tích cực, toàn cầu hóa với những áp lực của nó sẽ thúc đẩy các quốc gia
tăng cường, củng cố hơn nữa vai trò, vị trí của mình để chống chọi lại với sự
cạnh tranh khốc liệt trên các phương diện đời sống chính trị, kinh tế xã hội. Nhà
nước với quyền lực to lớn của mình sẽ điều chỉnh, sửa đổi những chế định pháp
luật, những đường lối, chính sách…cho phù hợp với xu thế chung của thế giới.
1.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế
Để phù hợp với nền kinh tế chung của thế giới, nước ta đã tiến hành đàm
phán, ký kết các điều ước, các hiệp ước quốc tế, các hiệp định song phương, đa
phương với các quốc gia khác để hình thành nên hành lang pháp lý, những cách
xử sự chung cho các quốc gia trong hoạt động kinh tế. Để gia nhập WTO, Việt
Nam đã phải đàm phán, ký kết rất nhiều hiệp định như: Hiệp định chung về
7
Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994), Hiệp định chung về Thương mại
Dịch vụ (GATS), Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của
Quyền Sở hữu Trí tuệ (TRIPS), Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan
đến Thương mại (TRIMS), Hiệp định về Nông nghiệp (AoA), Hiệp định về
Hàng Dệt may (ATC), Hiệp định về Chống bán Phá giá...Trong khuôn khổ khu
vực và quốc gia, nước ta đã tiên hành đàm phán, ký kết nhiều hiệp định để thỏa
thuận cách xử sự chung, hợp lý, có lợi cho các bên trong hoạt động kinh tế.
Chủ tịch nước Trần Đại Quang tham dự cuộc gặp Cấp cao Hiệp định Đối tác
Xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Những liên kết kinh tế sâu rộng mang tính bước ngoặt của khu vực đã và
đang hình thành mạnh mẽ, nổi bật là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
(TPP), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), Cộng đồng
ASEAN…. Xu thế đó hứa hẹn mang lại không gian phát triển rộng lớn với
những tiềm năng hợp tác mới. Do đó, chúng ta cần đẩy mạnh kết nối trên cả ba
phương diện hạ tầng cơ sở - thể chế - con người, phát triển các chuỗi giá trị toàn
cầu, tăng cường hợp tác về kinh tế, thương mại, đầu tư, dịch vụ, du lịch... nhằm
nâng cao năng lực tự cường của các nền kinh tế.
Tất cả những động lực đó là nền tảng để vượt qua thách thức, cùng xây
dựng tương lai tươi sáng. Đó là kiến tạo một APEC vì người dân, vì doanh
nghiệp, góp phần duy trì châu Á - Thái Bình Dương là động lực của tăng trưởng
8
và liên kết toàn cầu.
1.2.2. Trong lĩnh chính trị
Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ giữa các công dân
trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt ra vấn đề
là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện tại
dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những
tác động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh
hưởng của chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều
thách thức mang tính toàn cầu ngày nay.
Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể
chế nào đó. Kiểu toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng
cách kêu gọi mọi người sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết
định những việc liên quan đến họ, mà không thông qua một bức màn "quốc tế".
Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ
thiếu tính hợp pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có
thể đại diện tất cả công dân trên thế giới.
1.2.3. Trong lĩnh vực an ninh quốc gia, trật tự xã hội.
Toàn cầu hóa làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn, sự giao lưu,
trao đổi giữa các quốc gia trở nên dễ dàng hơn, do vậy nguy cơ đe dọa an ninh
quốc gia cùng tăng cao. Để hạn chế bớt tác động tiêu cực này của toàn cầu hóa,
nước ta đã có nhũng biện pháp thiết thực, rõ ràng trong công tác phòng chống
tội phạm. Đồng thời với việc tăng cường an ninh quốc gia, nước ta cũng đã và
đang tích cực hợp tác với các nước khác trong công tác phòng chống tội phạm
quốc tế
Toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói
riêng phải cải cách thủ tục hành chính, giảm bớt sự phức tạp, hướng tới xây
dựng một hệ thống thủ tục hành chình tinh gọn, đơn giản nhưng hiệu quả…Đó
là một phần quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, chính
trị xã hội diễn ra một cách hiệu quả…Đặc biệt, ngày nay yếu tố thủ tục hành
chính lại càng trở nên quan trọng, quyết định một phần hiệu quả thu hút và đầu
9
tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta… Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng có
những mặt trái của nó.
Toàn cầu hóa với những định chế như WTO đã hạn chế năng lực điều
hành của nhà nước, không chỉ trong quan hệ với bên ngoài mà còn ở các chính
sách trong nước. Hầu hết các đạo luật chúng ta thông qua trong những năm gần
đây là nhằm sửa đổi cách điều hành đất nước phù hợp với thông lệ quốc tế - tức
là theo khuôn mẫu chung, không được quyền có ngoại lệ. Bản báo cáo của Ban
công tác WTO về việc Việt Nam gia nhập WTO liệt kê rất rõ, rất chi tiết các cam
kết của Việt Nam mà nhìn ở một góc độ nào đó, là sự thu hẹp việc can thiệp của
nhà nước vào hoạt động kinh doanh. Ví dụ, sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu
Á năm 1997, Việt Nam bắt đầu yêu cầu doanh nghiệp phải bán doanh thu bằng
ngoại tệ cho nhà nước từ năm 1998 nhưng sau đó phải hạ dần tỉ lệ này xuống,
còn 50% năm 1999, 40% năm 2001, 30% năm 2002 và còn 0% kể từ năm 2003.
Trong đàm phán, đã có nước nhắc lại chuyện này và yêu cầu Việt Nam
cam kết không làm trái với các qui định của WTO và IMF. Các nhà đàm phán
các nước, xuất phát từ lợi ích của dòng chảy tài chính tự do của các công ty đã
thu hẹp khả năng chống đỡ của nhà nước, mà nó từng phát huy tác dụng trong
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Thậm chí, có những cam kết mà để thực
hiện phải sửa đổi nhiều luật lệ. Hiện tượng thu hẹp vai trò nhà nước trong điều
hành kinh tế không chỉ xảy ra ở những nước chuyển đổi như Việt Nam mà còn ở
các nước phát triển.
1.2.4. Trong việc gìn giữ văn hóa truyền thống và bản sắc dân tộc.
Ngày càng trở thành mối quan tâm của các nước và có xu hướng được
coi là một nội dung của khái niệm an ninh quốc gia. Bởi quá trình toàn cầu hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng giao lưu quốc tế và tính đồng nhất trên
nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Các nền kinh tế mạnh ảnh hưởng nhiều đến các
nước khác. Nhiều giá trị vốn dĩ xuất phát từ một nước, thông thường là những
nước lớn, có nền kinh tế mạnh, được thừa nhận và trở thành những giá trị gần
như chung của các xã hội khác nhau. Nhiều giá trị riêng của dân tộc bị xói mòn
và mất dần ảnh hưởng.
10
Do vậy, cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, cũng đồng thời diễn
ra quá trình các nước bị mất dần phong tục tập quán, làm xói mòn dần bản sắc
văn hóa dân tộc. Những giá trị chung của con người với khuynh hướng đồng
nhất ở góc độ nào đó hay có thể lai tạp nhiều giá trị của các nền văn hóa khác
nhau đã và đang diễn ra ngày càng rõ…
2. Lợi ích của hệ thống thương mại WTO,TPP
2.1. Hệ thống này giúp gìn giữ hoà bình
Hoà bình phần nào là một thành quả của hai nguyên tắc cơ bản nhất của
hệ thống thương mại: giúp thương mại được thuận buồm xuôi gió và đưa đến
cho các nước một lối thoát bình đẳng và mang tính xây dựng để giải quyết
những bất đồng về các vấn đề thương mại. Đó cũng là một kết quả của sự hợp
tác và lòng tin quốc tế do hệ thống này tạo ra và duy trì.
Lịch sử bị vấy bẩn bởi những tranh chấp thương mại dẫn đến chiến tranh.
Một trong những ví dụ sống động nhất là cuộc chiến tranh thương mại những
năm 1930, khi các nước cạnh tranh với nhau nhằm tăng thêm các hàng rào mậu
dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và để trả đũa rào cản của các nước
khác. Điều này càng làm cho cuộc đại suy thoái thêm tồi tệ và cuối cùng góp
phần làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Hai bước phát triển ngay Chiến tranh Thế giới thứ 2 đã giúp tránh được
nguy cơ những căng thẳng thương mại thời kỳ trước chiến tranh xuất hiện trở
lại. Thứ nhất, ở châu Âu, hợp tác quốc tế phát triển trong các ngành công nghiệp
than, sắt và thép. Thứ hai, trên phạm vi toàn cầu, Hiệp định chung về thương
mại và thuế quan (GATT) đã hình thành.
Cả 2 bước phát triển trên đều tỏ ra thành công, thành công đến mức hiện
nay chúng được mở rộng rất mạnh – một trở thành Liên minh châu Âu và một
trở thành Tổ chức Thương mại Thế giới.
Hệ thống GATT/WTO là một chủ thể kiến tạo niềm tin quan trọng. Các
cuộc chiến tranh thương mại những năm 1930 là bằng chứng cho thấy rằng chủ
nghĩa bảo hộ có thể dễ dàng đẩy các nước vào một tình thế trong đó không có kể
thắng mà chỉ toàn người thua. Quan điểm bảo hộ thiển cận cho rằng việc bảo vệ
11
một số khu vực nhất định chống lại hàng nhập khẩu là rất có lợi. Những quan
điểm này lại lờ đi chuyện các nước khác sẽ phản ứng như thế nào. Thực tế dài
hạn hơn cho thấy rằng một bước bảo hộ của một quốc gia có thể dễ dàng dẫn
đến hành động trả đũa từ các quốc gia khác, dẫn đến mất mát niềm tin vào
thương mại từ do hơn và làm cho tất cả, bao gồm cả các khu vực được bảo hộ
ngay từ đầu – sa lầy vào rắc rối kinh tế nghiêm trọng.
Niềm tin là chìa khoá giúp tránh được viễn cảnh không có kẻ thắng ấy.
Khi các chính phủ đều tin tưởng rằng các nước khác sẽ không tăng cường các
hàng rào mậu dịch thì chính họ cũng sẽ không có ý định làm như vậy. Hệ thống
thương mại WTO đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra và củng cố niềm tin
đó. Đặc biệt quan trọng là những cuộc thương lượng đưa đến những thoả thuận
trên cơ sở nhất trí ý kiến và tập trung vào việc tuân thủ các nguyên tắc.
2.2. Giải quyết các mâu thuẫn thương mại một cách xây dựng
Do thương mại tăng lên về khối lượng, số lượng sản phẩm được trao đổi,
và số lượng các nước và công ty tham gia thương mại, nên có thêm nhiều cơ hội
để những tranh chấp thương mại nảy sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các
tranh chấp này một cách hoà bình và mang tính xây dựng.
Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung
đột nghiêm trọng. Một trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có
nghĩa vụ phải đưa những tranh chấp của mình tới WTO và không được đơn
phương giải quyết. Khi họ đưa ra các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục
giải quyết của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc. Một khi
nguyên tắc được thiết lập, các nước phải chú trọng nỗ lực tuân thủ nguyên tắc,
và có lẽ sau đó tái thương lượng về các nguyên tắc – chứ không phải là tuyên
chiến với nhau. Gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi
tổ chức này thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các tranh chấp này
một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có thể dẫn đến những cuộc
xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.
2.3. Một hệ thống dựa trên những nguyên tắc chứ không phải là sức
mạnh để làm cho cuộc sống dễ dàng hơn với tất cả mọi người
12
WTO không thể tuyên bố sẽ làm cho tất cả các nước đều bình đẳng.
Nhưng WTO thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn
có nhiều tiếng nói hơn. Đồng thời cũng giải thoát cho các nước lớn khỏi sự phức
tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại với các đối tác của mình.
Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý
kiến. Các hiệp định này áp dụng cho mọi người. Các nước giàu cũng như nước
nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi phạm một hiệp ước, và họ có quyền chất
vấn các nước khác trong quy trình giải quyết tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ
chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn
phương áp đặt ý muốn của mình cho các nước yếu hơn. Các nước lớn hơn cũng
được hưởng những lợi ích tương xứng. Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng
diễn đàn duy nhất của WTO để thương lượng với tất cả hay với hầu hết các đối
tác thương mại của họ cùng một lúc.
Trên thực tế, có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các
nước thành viên, điều đó đã đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại.
2.4. Thương mại tự do hơn giúp giảm chi phí cuộc sống
Hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua
thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí
sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí
cuộc sống thấp hơn.
Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả chúng ta đều có lợi.
2.5. Đem đến cho người tiêu dùng nhiều lựa chọn hơn, và phạm vi
chất lượng rộng hơn để lựa chọn
Hiện nay chúng ta có thể có được tất cả các hàng hoá bởi chúng ta có thể
nhập khẩu chúng. Nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn – cả
hàng hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản
xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều
lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm
của nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện
13
và thiết bị cho sản xuất trong nước.
Điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản
xuất trong nước làm và nó làm tăng phạm vi những công nghệ mà họ có thể sử
dụng. Chẳng hạn, khi thiết bị điện thoại di động trở nên phổ biến, các dịch vụ
phát triển mạnh, thậm chí ngay tại nước không hề sản xuất thiết bị. Đôi khi, sự
thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị trường trong nước
cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh, làm gia tăng
lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như tăng phạm vi hàng
hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. Nếu thương mại cho hép chung ta nhập
khẩu nhiều hơn, nó cũng cho hép những người khác mua nhiều hàng sản xấut
của chúng ta hơn. Nó làm tăng thu nhập của chúng ta, cung cấp cho cũng ta
những phương tiện dể hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.
2.6. Thương mại làm tăng thu nhập
Giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều
này làm tăng thu nhập – cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân.
Dự tính của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng
đàm phán Uruguay 1994 là thu nhập của thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến
510 tỷ USD.
Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất
trong nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Nhưng thực tế
rằng có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính
phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi nhiều nhất, chẳng hạn để
giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng cách trở nên năng suất và có khả
năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm, hoặc bằng cách
chuyển sang các hoạt động mới.
2.7. Thương mại kích thích tăng trưởng kinh tế và đó có thể là tin tốt
lành cho vấn đề việc làm
Trên thực tế đã có bằng chứng căn cứ trên sự việc cho thấy rằng việc giảm
các rào cản thương mại là điều kiện tốt cho công ăn việc làm. Nhưng bức tranh
này rất phức tạp do nhiều yếu tố. Tuy nhiên, bảo hộ cũng không phải là cách để
14
giải quyết các vấn đề việc làm.
Có ít nhất hai luận điểm được chỉ ra về vấn đề này. Thứ nhất, sẽ có những
nhân tố khác xuất hiện. Chẳng hạn, tiến bộ công nghệ cũng có tác động mạnh
đến việc làm và năng suất lao động, làm lợi cho một số loại công việc song lại
làm tổn thương một số khác. Thứ hai, trong khi thương mại rõ ràng là làm tăng
thu nhập quốc dân (và sự thịnh vượng), điều này không phải luôn đựơc hiểu là
tạo ra công ăn việc làm mới cho những người bị mất việc do sự cạnh tranh của
hàng nhập khẩu.
Có nhiều tình huống cho thấy rằng cơ hội đã được nắm bắt – đó là những
trường hợp thương mại tự do hơn có lợi cho việc làm. Uỷ ban EU tính toán rằng
việc thiết lập thị trường duy nhất của nó có nghĩa là có thêm khoảng từ 300.000
đến 900.000 việc làm nữa so với lúc không có thị trường duy nhất. Thực tế cũng
cho thấy, chế độ bảo hộ đã làm hại công ăn việc làm như thế nào. Ví dụ điển
hình là ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ. Các hàng rào mậu dịch được thiết lập
để bảo vệ việc làm ở nước này bằng cách hạn chế nhập khẩu từ Nhật Bản lại dẫn
đến việc làm cho xe hơi ở Mỹ đắt thêm, lượng xe hơi vì thế được bán ít đi và
việc làm giảm.
2.8. Các nguyên tắc cơ bản làm cho hệ thống có hiệu quả hơn, và
giảm bớt chi phí
Thương mại cho phép thực hiện phân công lao động giữa các nước. Nó
cho phép sử dụng một cách phù hợp và hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất.
Nhưng hệ thống thương mại WTO còn đem lại nhiều hơn như thế. Nó giúp làm
tăng hiệu quả và thậm chí còn giảm bớt chi phí nhiều hơn bởi những nguyên tắc
quan trọng được thiết lập trong hệ thống.
Không phân biệt đối xử chỉ là một trong những nguyên tắc của hệ thống
thương mại WTO. Những nguyên tắc khác gồm có:
- Minh bạch. Thông tin rõ rằng về các chính sách, nguyên tắc và quy định.
- Tin chắc vào các điều kiện thương mại. Những cam kết cắt giảm các
hàng rào thương mại và làm tăng khả năng tiếp cận các thị trường của một số
nước cho các nước khác có sự ràng buộc pháp lý.
15
- Đơn giản hoá và chuẩn hoá các thủ tục hải quan, xoá bỏ tình trạng quan
liêu, tập trung hoá cơ sở dữ liệu thông tin và các biện pháp khác được thiết lập
nhằm đơn giản hoá thương mại theo phương châm ‘kích thích thương mại’.
Tất cả những nguyên tắc này làm cho thương mại đơn giản hơn, giảm bớt
phí tổn cho các công ty, tăng niềm tin vào tương lai. Đổi lại, điều đó cũng có
nghĩa là có nhiều việc làm hơn, người tiêu dùng có hàng hoá và dịch vụ tốt hơn.
2.9. Hệ thống này bảo vệ các chính phủ khỏi những quyền lợi hẹp hòi
Hệ thống GATT/WTO phát triển trong nửa cuối của thế kỷ XX giúp cho
các chính phủ có một nhãn quan cân bằng hơn về chính sách thương mại. Các
chính phủ vững vàng hơn trong việc tự bảo vệ mình tránh khỏi những vận động
ngoài hành lang của những nhóm có quyền lợi hẹp hòi bằng việc tập trung vào
những cân đối vì lợi ích của tất cả mọi người trong nền kinh tế.
Một trong những bài học nổi bật của chủ nghĩa bảo hộ nổi bật trong
những thập kỷ đầu thế kỷ XX là có thể gây ra thiệt hại nếu những quyền lợi cục
bọ hẹp hòi chiếm ưu thế về ảnh hưởng chính trị. Kết quả là một chính sách ngày
càng hạn chế mà đã dẫn đến một cuộc chiến tranh thương mại không có ai thắng
chỉ toàn kẻ bại. Các chính phủ phải được vũ trang để chống lại sức ép của những
nhóm quyền lợi hẹp hòi, và hệ thống thương mại WTO có thể giúp được điều
này.
Hệ thống GATT/WTO bao trùm một phạm vi rất rộng. Vì vậy, nếu trong
một cuộc thương lượng thương mại GATT/WTO có một nhóm áp lực vận động
chính phủ của mình phải coi nhóm là một trường hợp đặc biệt cần được bảo hộ
thì chính phủ có thể chống lại sức ép bảo hộ bằng cách lập luận rằng chính phủ
cần phải có một thoả thuận trên phạm vi rộng để bảo đảm rằng mọi khu vực
trong nền kinh tế đều có lợi.
2.10. Hệ thống khuyến khích chính phủ hoạt động tốt
Theo các nguyên tắc của WTO, khi đã có cam kết tự do hoá một khu vực
thương mại nào đó, thì khó có thể đảo ngược được. Các nguyên tắc cũng không
khuyến khích những chính sách thiếu thận trọng. Đối với giới kinh doanh, điều
này có nghĩa là độ chắc chắn cao hơn và rõ ràng hơn về các điều kiện thương
16
mại. Đối với các chính phủ, điều này thường đồng nghĩa với kỷ luật tốt.
Các cam kết bao gồm những cam kết không sa vào những chính sách
thiếu thận trọng. Chủ nghĩa bảo hộ nhìn chung không phải là một giải pháp khôn
ngoan bởi những thiệt hại do nó gây ra trong nước và trên trường quốc tế.
Một hình thức hàng rào thương mại đặc biệt gây thêm thiệt hại vì chúng
tạo cơ hội cho tham nhũng và những mô hình chính phủ xấu xa khác.
Một loại rào cản thương mại mà các nguyên tắc của WTO cố gắng giải
quyết là hạn ngạch. Do hạn ngạch hạn chế cung nên đẩy giá cả tăng lên một
cách giả tạo, đồng thời tạo ra một số lợi nhuận lớn khác thường. Các nhà kinh tế
gọi đó là ‘thuế hạn ngạch’. Lợi nhuận này có thể được dùng để gây ảnh hưởng
đối với các chính sách, vì cũng có nhiều tiền hơn để thực hiện các cuộc vận
động ngoài hành lang. Nói cách khác, hạn ngạch là một biện pháp hạn chế
thương mại đặc biệt tồi tê. Thông qua các nguyên tắc của WTO các chính phủ đã
nhất trí rằng họ không khuyến khích sử dụng hạn ngạch.
Tuy nhiên, nhiều loại hạn ngạch khác nhau vẫn được áp dụng ở hầu hết
các nước, và nhiều chính phủ lập luận rằng hạn ngạch rất cần thiết. Song họ bị
các hiệp định của WTO ràng buộc và có nhữn cam kết giảm bớt hay loại bỏ
nhiều loại hạn ngạch, đặc biệt là đối với ngành dệt.
Nhiều lĩnh vực khác của các hiệp định WTO cũng có thể giúp giảm bớt tệ
tham nhũng và chính phủ xấu xa. Sự minh bạch, các tiêu chí rõ ràng hơn về các
quy định đối với sự an toàn và chuẩn mực của sản phẩm, và sự không phân biệt
đối xử cũng giúp giảm bớt tình trạng gian dối và việc ra quyết định mang tính
độc đoán.
Thực sự các chính phủ đã dùng WTO như là một sức ép bên ngoài đáng
được hoan nghênh đối với các chính sách của họ.
17
CHƯƠNG III. BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TÁC ĐỘNG TOÀN CẦU HÓA
Chủ quyền quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ quyền làm chủ thiêng liêng,
bất khả xâm phạm của một quốc gia độc lập nhất định, được thể hiện trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao
và được đảm bảo toàn vẹn, đầy đủ về mọi mặt, cả lập pháp, hiến pháp lẫn tư
pháp của một quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia đó.
Chủ quyền quốc gia là đặc trưng chính trị và pháp lý thiết yếu của một
quốc gia độc lập, được thể hiện trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và
trong hệ thống pháp luật quốc gia. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Một trong những nguyên tắc cơ bản nhất được
Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định là tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng
về chủ quyền quốc gia, không một quốc gia nào được can thiệp hoặc khống chế,
xâm phạm chủ quyền của một quốc gia độc lập khác.
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm hơn là, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh
tế hiện nay, chủ quyền quốc gia đang phải đối đầu với nhiều thách thức. Những
thách thức đó khó nhận biết hơn, mang sắc thái mới hơn trước đây (trong điều
kiện có chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc). Đó là những thách thức
được che dấu dưới những chiếc áo khoác nhiều màu sắc hấp dẫn của lợi ích kinh
tế, của sự cám dỗ về vật chất, được nhìn nhận qua những lăng kính ảo của tham
vọng cá nhân, của những chuẩn mực giá trị đạo đức, lối sống sai lệch. Báo chí
phương Tây ra sức tuyên truyền rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chủ
quyền dần dần mất đi, khái niệm chủ quyền đã lỗi thời… Sự thật hoàn toàn
không phải như vậy. Đó chỉ là những luận điệu mở đường cho việc tiến hành
xâm phạm chủ quyền, can thiệp chủ quyền đối với các nước đang phát triển.
Cần thấy rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là một xu thế phát triển trong
điều kiện thế giới vẫn ở vào thời đại quốc gia dân tộc, quan niệm "chủ quyền
quốc gia" vẫn là chuẩn tắc hành động cao nhất của các bên tham gia vào quá
trình toàn cầu hoá kinh tế. Để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện toàn
cầu hoá kinh tế, chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản
sau đây:
18
3.1. Đầu tiên và quan trọng nhất là vấn đề giáo dục.
Giáo dục trong mọi thời đại luôn được coi là quốc sách, đặc biệt là ngày
nay, khi xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa diễn ra một cách mạnh mẽ. Trong
thời đại toàn cầu hóa, tri thức trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, đội ngũ trí
thức là động lực thúc đẩy quá trình hội nhập nhanh hơn. Vì vậy, đầu tư cho giáo
dục là một phương án tối ưu, mang tính lâu dài, bền vững, đem lại hiệu quả to
lớn, góp phần đưa đất nước hội nhập sâu rộng hơn cùng với bạn bè quốc tế. Hơn
nữa, đối tượng của giáo dục đào tạo chủ yếu là thế hệ trẻ - chủ nhân tương lai
của đất nước, những con người nắm giữ trong tay quyền quyết định vận mệnh
của đất nước. Nếu họ được đào tạo, giáo dục chu đáo, được chuẩn bị một nền
tảng kiến thức và bản lĩnh vững vàng thì chính họ sẽ là những con người đưa đất
nước phát triển, hội nhập thế giới một cách nhanh chóng, mạnh mẽ và hiệu quả.
3.2. Cần có chiến lược tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế
một cách chủ động tích cực với một “lộ trình " phù hợp.
Không nên cho rằng vì toàn cầu hoá 5 kinh tế mang dấu ấn "tư bản chủ
nghĩa", có ảnh hưởng xấu nên không đám hoặc không tự nguyện tham gia. Để
không bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần
có thái độ tích cực, chủ động. Hiện nay, đối mặt với những vấn đề những ảnh
hưởng xấu của toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần nghiên cứu hết sức
nghiêm túc, hết sức cẩn thận và có đối sách hữu hiệu tương ứng. Nhưng đối với
xu thế phát triển mang ý nghĩa tiến bộ, về tống thể, chúng ta phải có thái độ
khẳng định và tích cực, đồng thời phải lợi dụng triệt để nhưng cơ hội do nó đem
lại để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.
3.3. Cần thực hiện tốt phương châm tranh thủ và lơi dụng mặt tích
cực, hạn chế mặt tiêu cực, trong quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế là “con dao hai lưỡi", mặt tích cực và tiêu cực mà
nó mang lại cho từng quốc gia sẽ không giống nhau. Do vậy, bước đi của chúng
ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế cần phải hết sức thận trọng để có
thể tranh thủ và lợi đụng triệt để mặt tích cực trên cơ sở phát huy thế mạnh của
19
chính mình, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực do nó đem
lại. Đó cũng chính là phương thức để chúng ta từng bước khẳng định chủ quyền
quốc gia thực sự của mình, không để các nước khác chèn ép và áp đặt quan hệ
sản xuất và quan hệ xã hội của họ đối với chúng ta. Vấn đề có tính nguyên tắc và
đặt lên hàng đầu mà chúng ta phải luôn luôn quán triệt và thực toàn nhất quán
khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là phát triển lực lượng sản xuất
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vì
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
3.4. Cần phát huy và nghiên cứu năng lực nội sinh, khả năng cạnh
tranh và khả năng "tự miễn dịch " trước các tác động tiêu cực của toàn cầu
hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế phát triển khách quan mà các nước
tham gia phải tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế nhất định. Nếu
chúng ta không tự "lớn lên", không tự "trưởng thành" thì sớm muộn cũng bị mất
chủ quyền quốc gia một cách rất "êm dịu”. Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế hiện
nay còn là ý muốn chủ quan của thế giới phương Tây, của chủ nghĩa tư bản độc
quyền, là một “cuộc chiến" không cân sức đối với những nước có nền kinh tế
kém phát triển như nước ta. Do đó, nếu chúng ta không tự tìm ra và phát huy
mạnh mẽ năng lực nội sinh, không tìm ra được những phương thức "tác chiến"
phù hợp, có hiệu quả thì trước sau cũng bị các thế lực "cá lớn" nuốt trôi.
3.5. Hoạch định, nắm rõ các chính sách về chính trị, kinh tế, quốc
phòng, an ninh.
Việc hoạch định và thực thi mọi chủ trương, chính sách ở tất cả các cấp,
các ngành trong quá trình tham gia toàn cầu hóa kinh tế cần được đặt trong mối
tương quan giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...
Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là sự bành trướng của
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đi liền với nó là các giá trị chính trị, tinh
thần, đạo đức tư sản. Các công cụ tài chính, vốn, mậu dịch, thương mại đang
được các nước tư bản phát triển sứ dụng như những "vũ khí" lợi hại nhất để
20
"thôn tính", "quy phục" những quốc gia không cùng lợi ích, không cùng ý thức
hệ với họ.
Đó là một thực tế nghiệt ngã mà chúng ta không thể coi thường trong quá
trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế. Đặc biệt, trong lĩnh vực quốc phòng - an
ninh, sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế đang đặt ra nhiều bài toán hết sức hóc
búa cần có lời giải chính xác.
21
CHƯƠNG IV. KẾT LUẬN
Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu của thế giới vì vậy không có một quốc
gia nào có thể đừng ngoài xu thế đó và cả Việt Nam cũng không ngại lệ. Toàn
cầu hóa tác động vừa tiêu cực, vừa tích cực lên mọi mặt của đời sống kinh tế,
chính trị, xã hội. Điều quan trọng là chúng ta phải biết tận dụng thời cơ thuận lợi
đồng thời khắc phục những hạn chế, mặt trái của toàn cầu hóa để phát triển đất
nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia
là hai mặt, hai quá trình vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Vấn đề có ý nghĩa quyết
định là chúng ta cần xác định đúng những quyết sách chiến lược, những bước đi
cụ thể, phù hợp, hết sức tỉnh táo để đảm bảo cho cả hai quá trình đó đều phát
triển theo chiều thuận.
Tham gia hội nhập quốc tế thực chất là tham gia cuộc đấu tranh phưc tạp
để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh, chính trị, độc lập kinh tế. Và
bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc
lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các quốc gia khác. Chúng ta
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước, phục vụ công cuộc
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng dân chủ, văn minh.
Hội nhập nhưng phải giữ độc lập,tự chủ, tự lực tự cường, bảo đảm an
ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Toàn cầu hóa hội nhập và phát triển bền vững – Nhà xuất bản chính trị
quốc gia;
2.Toàn cầu hóa kinh tế, khu vực hóa và Việt Nam hội nhập vào nền kinh
tế Thế giới;
3. Báo dân trí (diễn đàn dân trí Việt Nam 20/11/2016);
4. Nhìn về toàn cầu hóa (Tủ sách danh trí do PACE tuyển chọn và giới
thiệu, Nhà xuất bản trẻ);
5. Những vấn đề của toàn cầu hóa kinh tế (Nhà xuất bản khoa học xã hội
Hà Nội 2001).
23