Chủ đề: Phân tích các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc dẫn độ.
A. MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, các quốc gia trên thế giới luôn
có xu hướng hợp tác với nhau với mục tiêu cùng có lợi cho các bên. Sự phát
triển của cộng đồng quốc tế trên mọi lĩnh vực đã mang lại nhiều thuận lợi cho
các quốc gia về kinh tế, văn hóa và xã hội trong quá trình phát triển của mình.
Tuy nhiên, điều gì cũng có hai mặt của nó, mặt trái của toàn cầu hóa là việc gia
tăng các tội phạm có tính chất xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế. Trong quá trình
đấu tranh phòng chống tội phạm, nếu chỉ có một quốc gia thực hiện thì sẽ gặp
rất nhiều khó khăn, vì vậy hoạt động dẫn độ là một giải pháp hữu hiệu cho các
quốc gia cùng nhau chung tay đẩy lùi tội phạm.
Để đạt được dẫn độ, các quốc gia luôn ý thức được tầm quan trọng của
việc hợp tác với quốc gia khác trên cơ sở xây dựng các điều ước quốc tế song
phương và đa phương về dẫn độ. Tuy vậy, hoạt động dẫn độ chủ yếu được các
quốc gia tiến hành trên cơ sở hợp tác song phương và những điều ước quốc tế
song phương được xây dựng đòi hỏi phải có được sự tương thích nhất định trong
hệ thống pháp luật về hình sự của các bên ký kết. Chưa dừng lại ở đó, việc giải
thích và áp dụng các nguyên tắc dẫn độ giữa các quốc gia còn gặp nhiều khó
khăn bởi các nguyên tắc này còn tồn tại nhiều ngoại lệ.
Ở nước ta, Nhà nước đã chú trọng xây dựng pháp luật về dẫn độ trên cơ
sở tuân thủ các nguyên tắc của dẫn đô nhưng cũng không tránh khỏi nhiều
vướng mắc, bất cập vì lý do ngoại lệ. Vì vậy, sinh viên lựa chọn đề tài: “Phân
tích các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc dẫn độ” nhằm nghiên cứu làm ro
hơn những trường hợp ngoại lệ này trong quá trình dẫn độ.
1
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm dẫn độ
Dẫn độ là một hình thức tương trợ tư pháp đã được hình thành rất lâu
trong lịch sử khoa học pháp lý thế giới. Trong quá trình phát triển của các quy
định về dẫn độ, có rất nhiều quan điểm khác nhau được ghi nhận trong các từ
điển, công trình nghiên cứu và cả quan điểm của các quốc gia khi đưa ra khái
niệm dẫn độ. Tại Việt Nam ghi nhận khái niệm dẫn độ tại khoản 1 Điều 32 Luật
tương trợ tư pháp 2007: Dẫn độ là việc một nước chuyển giao cho nước khác
người có hành vi phạm tội hoặc người bị kết án hình sự đang có mặt trên lãnh
thổ nước mình để nước được chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi
hành án đối với người đó.
Trên cơ sở nghiên cứu các khái niệm về dẫn độ, dựa vào bản chất, mục
đích của hoạt động dẫn độ có thể đưa ra khái niệm dẫn độ như sau: Dẫn độ là
một hình thức tương trợ tư pháp giữa các quốc gia. Trong đó, quốc gia được yêu
cầu dẫn độ, dựa trên cơ sở của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, chuyển
giao người có hành vi phạm tội hoặc người đã bị kết án bằng một bản án có hiệu
lực pháp luật đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu để quốc gia
yêu cầu tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành bản án đối với
người đó.
Từ định nghĩa trên, có thể thấy hoạt động dẫn độ trước hết là một hình
thức tương trợ tư pháp giữa các quốc gia, dựa trên cơ sở của pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia, chủ thể của hoạt động này là quốc gia yêu cầu và quốc gia
được yêu cầu, đối tượng là cá nhân có hành vi phạm tội hoặc đã bị kết án bằng
một bản án có hiệu lực pháp luật đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia được
yêu cầu và mục đích của hoạt động dẫn độ là nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự
hoặc thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với cá nhân bị dẫn độ.
2
II. Đặc điểm của hoạt động dẫn độ
Thứ nhất, dẫn độ là một hình thức tương trợ tư pháp giữa các quốc gia.
Trong các hình thức hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp luôn là hoạt động được
các quốc gia quan tâm đặc biệt do hiệu quả ro ràng của hoạt động này. Theo quy
định về phạm vi điều chỉnh của luật tương trợ tư pháp 2007 bao gồm: nguyên
tắc, thẩm quyền, trình tự, thủ tục thực hiện tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự,
dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam với
nước ngoài; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong tương trợ tư
pháp. Như vậy, tại Việt Nam, dẫn độ được ghi nhận là một hình thức của hoạt
động tương trợ tư pháp. Bên cạnh đó, Điều 491, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015
cũng quy định phạm vi hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự bao gồm: tương trợ
tư pháp về hình sự; dẫn độ; tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án
phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác. Điều này cùng với Điều 4, Luật
mẫu của Liên hợp quốc về tương trợ tư pháp về hình sự năm 2006 giúp phân
biệt dẫn độ và tương trợ tư pháp về hình sự là hai lĩnh vực hoàn toàn độc lập.
Thứ hai, dẫn độ là hình thức hợp tác giữa các quốc gia, trong đó nước
được yêu cầu chuyển giao người có hành vi phạm tội hoặc đã bị kết án bởi một
bản án có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu. Thực chất là sự giúp đỡ lẫn nhau
giữa các quốc gia trong việc giải quyết thỏa đáng các vấn đề tư pháp. Yêu cầu
dẫn độ là cơ sở để nước được yêu cầu chuyển giao người có hành vi phạm tội
cũng là căn cứ để phát sinh quan hệ về dẫn độ giữa các quốc gia hữu quan.
Người bị dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội và đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án bằng một bản án có hiệu lực pháp luật nhưng đã
bỏ trốn sang nước được yêu cầu.
Thứ ba, yêu cầu dẫn độ phải phù hợp với pháp luật của nước được yêu
cầu. Đối tượng dẫn độ chỉ có thế là cá nhân nhưng không phải cá nhân nào cũng
bị dẫn độ. Thông thường, nước yêu cầu dẫn độ phải đưa ra căn cứ cụ thể như:
quốc tịch của người bị dẫn độ, nơi thực hiện hành vi hoặc nơi tội phạm hoàn
thành, dấu hiệu lợi ích bị xâm phạm. Quốc gia được cầu là quốc gia có sự hiện
3
diện của người có hành vi phạm tội. Khi nhận được yêu cầu dẫn độ, quốc gia
được yêu cầu sẽ xem xét tính phù hợp của yêu cầu đối với pháp luật hình sự của
quốc gia mình. Nếu yêu cầu dẫn độ không phù hợp với pháp luật quốc gia thì
nước được yêu cầu sẽ từ chối dẫn độ, ngược lại , nếu phù hợp thì sẽ xem xét
quyết định dẫn độ.
Thứ tư, mục đích của dẫn độ nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi
hành bản án đã có hiệu lực pháp luật đối với người đó. Quốc gia yêu cầu thường
hướng tối mục đích hành vi phạm tội của người đó phải bị trừng trị, đảm bảo ổn
định xã hội, thực thi công lý. Điều này được quy định cụ thể tại khoản 2, Điều
32, Luật tương trợ tư pháp 2007, quy định mục đích dẫn độ là:
Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài dẫn độ cho Việt Nam
người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp
luật để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án;
Thực hiện việc dẫn độ người nước ngoài đang ở trên lãnh thổ Việt Nam có
hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật cho
nước yêu cầu để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án.
Ngoài ra, hoạt động dẫn độ còn nhằm tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế
trong đấu tranh phòng chống tội phạm; đảm bảo ổn định, trật tự trị an của mỗi
quốc gia.
Thứ năm, dẫn độ phải tuân thủ nguyên tắc chung của pháp luật quốc tế và
nguyên tắc riêng của dẫn độ. Về cơ bản, các quốc gia khi tiến hành hoạt động
dẫn độ phải tuân thủ nguyên tắc: có đi có lại; không dẫn độ công dân của nước
mình; không dẫn độ tội phạm chính trị và nguyên tắc tội phạm kép.
III. Nguyên tắc dẫn độ và các trường hợp ngoại lệ
Nguyên tắc của hoạt động dẫn độ là những tư tưởng chính trị – pháp lý
mang tính chất chỉ đạo, xuyên suốt, bao trùm toàn bộ hoạt động của các chủ thể
4
khi tiến hành dẫn độ. Các quốc gia khi tiến hành các hoạt động hợp tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm bằng hình thức dẫn độ phải tuân thủ các nguyên tắc:
1. Nguyên tắc có đi có lại
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, sự đối xử có đi có lại được hiểu là sự
tương ứng về cách đối xử trong quan hệ giữa hai quốc gia. Quan hệ giữa các
quốc gia và cộng đồng quốc tế phát triển trên cơ sở sự bình đẳng, tự nguyện và
có đi có lại, thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau khi xây dựng các quan hệ quốc tế.
Theo đó, mỗi quốc gia sẽ dành sự đối xử tương xứng với những điều đã nhận
được trong quan hệ với quốc gia khác, sự tương xứng ở đây có thể là những lợi
ích tương xứng, hoặc cũng có thể là thiệt hại tương xứng.
Trong quan hệ với các quốc gia khác, sẽ không thể đòi hỏi một quốc gia
dành những ưu đãi và lợi thế cho quốc gia khác mà không được nhận lại sự đối
xử tương xứng. Trong hoạt động hợp tác giữa các quốc gia về dẫn độ tội phạm
cũng như vậy, các quốc gia được yêu cầu dẫn độ chỉ tiến hành các hoạt động dẫn
độ, nếu nhận được sự bảo đảm chắc chắn từ phía quốc gia yêu cầu rằng trong
trường hợp dẫn độ tương tự phát sinh thì quốc gia này cũng sẽ thực hiện dẫn độ
tội phạm cho quốc gia đối tác hữu quan theo yêu cầu.
Cơ sở pháp lý cho nguyên tắc này tại Việt Nam là khoản 2, Điều 4, Luật
tương trợ tư pháp 2007: Trường hợp giữa Việt Nam và nước ngoài chưa có điều
ước quốc tế về tương trợ tư pháp thì hoạt động tương trợ tư pháp được thực hiện
trên nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp với
pháp luật và tập quán quốc tế. Khoản 2, Điều 492, Bộ luật tố tụng hình sự 2015
cũng quy định: Trường hợp Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập điều ước
quốc tế có liên quan thì việc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự được thực
hiện theo nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật Việt Nam, phù hợp
với pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
2. Nguyên tắc tội phạm kép
Theo nguyên tắc này, hoạt động dẫn độ chỉ được tiến hành khi hành vi do
cá nhân bị dẫn độ thực hiện được quy định là hành vi phạm tội theo pháp luật
5
của cả hai quốc gia (quốc gia yêu cầu và quốc gia được yêu cầu dẫn độ). Hành
vi phạm tội không nhất thiết phải thuộc cùng một nhóm tội hoặc cùng một tội
danh, các yếu tố cấu thành tội phạm không nhất thiết phải giống nhau theo quy
định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước yêu cầu (khoản 2, Điều 33,
Luật tương trợ tư pháp 2007).
Nguyên tắc tội tội phạm kép được nhiều nước công nhận và là nguyên tắc
cốt loi trong xem xét dẫn độ. Việc quyết định dẫn độ hay không đều phải xem
xét nghiên cứu nghiêm túc trên tinh thần nguyên tắc này. Nguyên tắc tội phạm
kép được quy định góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh, phòng chống tội
phạm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các quốc gia cũng quy
định về các trường hợp không được dẫn độ. Đây cũng là sự cụ thể hóa nguyên
tắc tội phạm kép trong hoạt động này.
Một vấn đề khác phức tạp xảy ra là một số tội phạm chỉ có thể xảy ra hoặc
không thế xảy ra ở một số nước nhất định vì lý do đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã
hội hay vị trí địa lý ở các quốc gia này. Ví dụ: Lào không tiếp giáp biển nên
trong luật của họ không có tội Cướp biển. Trong trường hợp này các nước cần
đàm phán áp dụng một cách linh hoạt nguyên tắc tội phạm kép.
3. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình
Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình được hiểu là quốc gia
được yêu cầu có quyền từ chối không thực hiện yêu cầu dẫn độ nếu cá nhân bị
dẫn độ là công dân nước mình. Sự áp dụng nguyên tắc này dựa trên cơ sở là
quyền lực nhà nước đối với công dân nước mình là tuyệt đối, không giới hạn về
không gian. Khoản 2, Điều 17, Hiến pháp 2013 quy định: Công dân Việt Nam
không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. Bộ luật tố tụng hình sự
2015 cũng có quy định tại Điều 498 về xử lý trường hợp từ chối dẫn độ công
dân Việt Nam.
6
Nhiều quốc gia không cho phép dẫn độ công dân nước mình nhưng điều
này thường xảy ra trong trường hợp quốc gia đó có quyền lực lớn để truy tố
công dẫn của mình về các tội ác gây ra ở nước ngoài.
Tuy nhiên, tránh trường hợp người phạm tội lẩn trốn sự trừng trị của pháp
luật hoặc xung đột lợi ích giữa các quốc gia trong dẫn độ, một số điều ước quốc
tế đã có nhưng quy định để giải quyết tình trạng đó theo nguyên tắc “không dẫn
độ thì truy tố”.
Tuy vậy, trên thực tế vẫn có nhiều trường hợp nguyên tắc không dẫn độ
công dân nước mình không được thực hiện. Ví dụ: Hiệp định dẫn độ giữa Pháp
và Savoy được ký vào năm 1376 đã quy định các bên phải dẫn độ ngay cả công
dân của nước mình. Nghị định ngày 23.10.1881 đã hoàn toàn chấp nhận việc
giao nộp công dân Pháp. Vào đầu thế kỷ 19, thực tế công dân Pháp đã bị chuyển
giao cho các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Các quốc gia nói tiếng Anh
chấp nhận dẫn độ công dân của nước mình đến các nước cam kết tương trợ.
Nước Ý tuy công nhận nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình nhưng vẫn
có ngoại lệ trong trường hợp Công ước quốc tế có quy định khác. Hà Lan chỉ
dẫn độ công dân nước mình nếu việc dẫn độ không vì mục đích truy tố và bên
yêu cầu phải giao lại người bị kết án tù cho Hà Lan để thi hành tại nước này.
Luật quốc tế cũng thừa nhận nhiều ngoại lệ đối với nguyên tắc này, đó là
trong trường hợp các cá nhân của một quốc gia phạm các tội ác quốc tế như: tội
xâm lược, tội ác chiến tranh, tội phạm diệt chủng, tội chống lại loài người.. phải
bị dẫn độ cho toà án quốc tế hoặc toà án quốc gia khác xét xử. Cộng đồng quốc
tế cũng thừa nhận ngoại lệ này là do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của loại
hình tội phạm quốc tế đối với sự ổn định và phát triển của nhân loại, thực tiễn đã
chứng minh ngoại lệ này (những toà án được thành lập xét xử tội phạm chiến
tranh sau chiến tranh thế giới II) phù hợp với sự phát triển chung của cộng đồng
quốc tế.
7
4. Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính tri
Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chínhtrị cũng là một nguyên tắc phổ
biến trong hoạt động hợp tác dẫn độ tội phạm.Nguyên tắc này được hình thành
cùng với nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình, được ghi nhận trong
các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp, dẫn độ tội phạm và cả pháp luật quốc
gia với nội dung: không dẫn độ tội phạm chính trị. Tuy nhiên, “tội phạm chính
trị” là gì thì chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này.
Việc xác định tội phạm đó có phải tội phạm chính trị hay không thực chất
tùy thuộc vào quan điểm và cách nhìn nhận của từng nước. Hơn nữa, luật pháp
về quyền con người cần được lưu ý trong việc dẫn độ người phạm tội đến một
quốc gia có thể bị tra tấn đối xử thiếu nhân đạo.
Nguyên tắc này cũng có ngoại lệ: Theo đó, nếu cá nhân thực hiện các
hành vi giết hại nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu chính phủ hoặc các nhà
lãnh đạo cao cấp khác của quốc gia thì không được miễn trừ dẫn độ. Ngoại lệ
này ra đời nhằm đảm bảo cho việc cá nhân tiến hành các hành vi chống lại sự
hoà bình và ổn định của quốc gia phải chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với
hành động của mình bằng chính pháp luật của quốc gia đó.
Ngày nay có những tội phạm gây nên bởi những cá nhân, tổ chức chính trị
và vì mục đích chính trị nhưng được thực hiện dưới hình thức khủng bố, giết
hại, tàn sát một cách thảm khốc người dân vô tội nhằm lật đổ Chính phủ hoặc
thực hiện yêu sách nào đó. Rất nhiều nước đã và đang cố gắng bảo vệ hòa bình
và an ninh nhân loại đã không chấp nhận các hành vi khủng bố là tội phạm
chính trị và chấp nhận dẫn độ những người thực hiện hành vi này. Cơ sở pháp lý
của điều này là tại Điều 9, Công ước quốc tế về trấn áp hành vi khủng bố bằng
bom 1997 quy định: Các tội phạm quy định tại Điều 2 (thực hiện hành vi khủng
bố) phải được coi là các tội phạm có thể bi dẫn độ trong bất kỳ điều ước nào về
dẫn độ đang có hiệu lực giữa các quốc gia thành viên trước khi Công ước này có
hiệu lực. Các quốc gia thành viên cam kết quy định các tội phạm này là tội phạm
8
có thể bi dẫn độ trong bất kỳ điều ước về dẫn độ nào sẽ được ký kết giữa các
quốc gia thành viên.
C. KẾT LUẬN
Hiện nay, trách nhiệm đấu tranh phòng chống tôi phạm không phải chỉ
thuộc về riêng mỗi quốc gia nào mà còn phải được tiến hành trên cơ sở sự hợp
tác của các quốc gia với nhau. Hoạt động hợp tác dẫn độ tội phạm đang được
các quốc gia coi là hoạt động hợp tác hiệu quả nhằm trấn áp các loại tội phạm.
Bên cạnh những nỗ lực trong việc xây dựng và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
cùng với các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác đấu tranh
phòng chống tội phạm trong phạm vi mỗi quốc gia, các quốc gia còn chú trọng
đến các hoạt động hợp tác song phương và đa phương về dẫn độ tội phạm.
Mặc dù trong những nguyên tắc dẫn độ còn tồn tại nhiều bất cập từ những
ngoại lệ gây khó khăn trong việc áp dụng. Từ việc đánh giá đúng đắn quy định
của pháp luật và thực tiễn, chúng ta có thể tìm ra các giải pháp trên các phương
diện tương ứng nhằm nâng cao hiệu quả của dẫn độ, qua đó hoàn thiện hơn hệ
thống pháp luật, thực hiện tốt công tác đấu tranh phòng chống tội phạm giữa các
quốc gia trên toàn thế giới.
9
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình Luật tương trợ tư pháp, Nxb
Chính trị quốc gia sự thật, 2016.
2. Luật tương trợ tư pháp 2007.
3. Bộ Luật tố tụng Hình sự 2015.
4. Các website:
/> />
10
Mục Lục
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
B. NỘI DUNG.......................................................................................................2
I. Khái niệm dẫn độ............................................................................................2
II. Đặc điểm của hoạt động dẫn độ.....................................................................2
III. Nguyên tắc dẫn độ và các trường hợp ngoại lệ............................................4
1. Nguyên tắc có đi có lại................................................................................5
2. Nguyên tắc tội phạm kép............................................................................5
3. Nguyên tắc không dẫn độ công dân nước mình..........................................6
4. Nguyên tắc không dẫn độ tội phạm chính trị..............................................7
C. KẾT LUẬN......................................................................................................9
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................10
11