Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.55 KB, 11 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HUẾ


Tên đề tài:

“PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN
GIAO DỊCH BẢO ĐẢM”
Họ và tên: Lê Thị Thuý Hằng
Sinh ngày: 02/3/1992
Lớp: Cao học Luật khoá 5
Môn học: Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh

Quảng Bình, tháng 5 năm 2017
I.

KHÁI QUÁT CHUNG


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

Khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể có quyền và nghĩa vụ
tương ứng với nhau, lợi ích của chủ thể quyền, phụ thuộc vào hành vi thực hiện
nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ.
Trong trường hợp chủ thể có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng thì lợi ích của chủ thể quyền bị ảnh hưởng. Để bảo đảm nghĩa vụ dân sự được
thực hiện, pháp luật Dân sự Việt Nam quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, theo các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, theo đó,
khi chủ thể có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ của mình thì quyền và lợi ích của chủ thể


được bảo vệ thông qua việc xử lý tài sản bảo đảm hoặc thông qua hành vi thực hiện
nghĩa vụ của bên thứ ba (trong trường hợp bảo lãnh). Việc các chủ thể thiết lập
một hay nhiều biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng có nghĩa là các
chủ thể đã giao kết một hay nhiều giao dịch bảo đảm.Về nguyên tắc để giao dịch
bảo đảm có hiệu lực pháp luật thì giao dịch bảo đảm phảo đáp ứng các điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung.
Tại Điều 292 Bộ luật Dân sự năm 2015( sau đây là viết tắt BLDS năm 2015)
quy định biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp
tài sản, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tính chấp và cầm
giữ tài sản.
Điều 331 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh có
hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký”.
Tuy nhiên, Nghị định số 163/NĐ-CP và nghị định số 11/2012 NĐ-CP ngày
22/2/2012 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
163/2006/NĐ-CP ngày 29-12-2006 chưa có quy định về bảo lưu quyền sở hữu và
cầm giữ tài sản với tư cách là biện pháp bảo đảm.
Nghị định số 83/2010/ NĐ-CP chưa quy định về đăng ký bảo lưu quyền sở
hữu .
Sửa đổi, bổ sung Nghị định só 163/2006/NĐ-CP theo hướng bổ sung quy định
hướng dẫn cụ thể về hai biện pháp bảo đảm mới làbảo lưu quyền sở hữu và cẩm
2


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

giữ tài sản, sửa đổi bổ sung Nghị định số 83/2010/NĐ-CP và các thông tư hướng
dẫn thi hành theo hướng bổ sung quy định về đăng ký biện pháp quyền bảo lưu sở

II.

hữu.
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1. Tài sản bảo đảm
Tài sản bảo đảm được quy định tại Khoản 2 Điều 295 Bộ Luật Dân sự năm
2015:
“ 1. Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường
hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu.
2. Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được.
3. Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thanh trong tương lai.
4. Giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ

được bảo đảm.”
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 1 Nghị định số 11/ 2012/NĐ-CP không quy định nội
dung này.
Bên cạnh đó, Bộ Luật Dân sự 2015 cho phép sử dụng quyền tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị
định só 11/2012/NĐ_CP chỉ có quy định hướng dẫn về một số vấn đề pháp lý liên
quan đến việc thế chấp quyền đòi nợ, quyền sử dụng đất, còn quyền tài sản đối với
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ và các quyền tài sản khác (như quyền được nhận số
tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh
nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền khai thác quyền tài nguyên
thiên nhiên…) chưa có hướng dẫn cụ thể.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP theo hướng quy định tài sản
bảo đảm là tài sản hieenjc ó hoặc tài sản hình thành trong tương lai, tài sản bảo
đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được, bổ sung hướng dẫn các
quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và cách thức xử lý đối
với các quyền tài sản này.
3



Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

2. Về hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm.
Khoản 1 Điều 297 BLDS năm 2015 quy định biện pháp bảo đảm phát sinh
hiệu lực đói kháng với người thứ ba từ khi đăng ký biện pháp bảo đảm hoặc bên
nhận bảo đảm nắm giữ hoặc chiếm giữ tài sản bảo đảm.
Tuy nhiên khoản 1, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP quy định: “ Giao dịch bảo
đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.”
Bên cạnh đó, Nghị định số 163/2006/NĐ- CP và Nghị định số 11/2012/NĐCP được ban hành trên cơ sở cụ thể hóa BLDS naem 2005 nên chưa có hướng dẫn
cụ thể về nắm giữ và chiếm giữ tài sản bảo đảm, ví dụ đối với một số tài sản đặc
thù như chứng khoán, bên nhận thế chấp không trực tiếp nắm giữ, quản lý mà giao
cho người khác quản lý thì có được coi là nắm giữ không?...
Sửa đổi, bổ sung quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định
số 11/2012/NP-CP để phù hợp với cách tiếp cận mới của BLDS năm 2015 về
phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo
đảm.
3. Về đăng ký biện pháp bảo đảm.
Điều 298 BLDS năm 2015 quy định đối tượng của hoạt động đăng ký là biện
pháp bảo đảm.
Tuy nhiên, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định đối
tượng của hoạt động đăng ký là “giao dịch bảo đảm”- là giao dịch dân sự có nội
dung thỏa thuận về biện pháp bảo đảm. Ngoài ra, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
quy định hệ quả pháp lý của việc đăng ký biện pháp bảo đảm khác với BLDS
nawm 2015. Theo quy định của BLDS năm 2015. Theo đó, đăng ký biện pháp bảo
đảm có ý nghĩa trong việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng

nhận bảo đảm trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ, nghĩa là, có sự đối kháng về lợi ích xác lập lên một tài sản bảo đảm, chứ
4


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

không phải là điều kiện đẻ giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối với người thứ
ba. Tuy nhiên, theo quy định của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP thì đăng ký có ý
nghĩa làm phát sinh giá trị pháp lý của giao dịch bảo đảm đối với người thứ ba.
Sửa đổi, bổ sung quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP và Nghị định số
163/2006/NĐ-CP nhằm bảo đảm sự phù hợp thống nhất với cách tiếp cận của
BLDS năm 2015 về đối tượng của hoạt động đăng ký và giá trị pháp lý của việc
đăng ký biện pháp bảo đảm.
4.Về phương thức xử lý tài sản cẩm cố, thế chấp
Khoản 1 Điều 303 BLDS năm 2015 quy định việc bên nhân bảo đảm tự bán
tài sản là một phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp.
Tuy nhiên, Điều 59 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP chưa quy định về phương
thức này.
Sửa đổi bổ sung quy định của Nghị định số 163/NĐ-CP theo hướng bổ sung
nội dung hướng dẫn về phương thức “bên nhân bảo đảm tự bán tài sản bảo đảm”.
5. Về thứ tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm

Theo quy định tại khoản 1 Điều 308 BLDS năm 2015 thì thứ tự ưu tiên thanh
toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối
kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm (đăng ký hoặc nắm giữ hoặc xác
lập biện pháp bảo đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu

lực đối kháng với người thứ ba).
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 163/2006/ND-Cp thì thứ tự
ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định theo tiêu chí
đăng ký ( không bao gồm nắm giữ tài sản) và xác lập giao dịch bảo đảm (trong
trường hợp giao dịch bảo đảm không được đăng ký).
Sửa đổi, bổ sung quy định của Nghị định sô 163/NĐ-Cp theo hướng thứ tự ưu
tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định theo thứ tự xác lập
5


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm (đăng ký hoặc nắm
giữ, chiếm giữ tài sản bảo đảm hoặc xác lập biện pháp bảo đảm trong trường hợp
biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba).
Theo quy định tại Điều 342 BLDS năm 2015 thì bên nhận bảo lãnh không có
quyền xử lý tài sản của bên bảo lãnh mà chỉ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thanh
toán giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, tại khoản 14 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP quy định về
quyền ưu tiên thanh toán số tiền thu được từ việc xử lý tài sản cầm cố, thế chấp của
bên nhận bảo lãnh.
Bỏ qua quy định tại khoản 14 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NGG-CP.
6.Về hiệu lực của cầm cố tài sản
Khoản 1 Điều 310 BLDS năm 2015 quy đinh: “ Hợp đồng cầm cố tài sản có
hiệu lực từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy
định khác”.
Tuy nhiên điểm b khoản 10 Nghị định số 163/2006/ NĐ-Cp quy định : “Cầm

cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho bên nhận cầm cố”.
Sửa đổi điểm b, khoản 1, Điều 10 Nghị định số 163/ 2006/NĐ-Cp về hiệu lực
của cầm cố tài sản theo tinh thần mới của BLDS năm 2015.
7.

Về việc thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử

dụng đất.
Điều 326 BLDS năm 2015 quy dịnh về trường hợp thế chấp tài sản gắn liền
với đất và chủ sở hữu gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất và trường
hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thể chấp quyền sử dụng đất và
chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất mà không thể chấp quyền sử dụng đất và chủ sở
hữu tài sản gắn liền với đất không đồng thời là người sự dụng đất.

6


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

Tuy nhiên, khoản 19 Điều 1 Nghị định sô 11/2012/NĐ-CP chưa quy định về
xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn liền với đất mà
không thế chấp quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sửu dụng
đất.
Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP theo hướng bổ sung nội dung
hướng dẫn về việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp chỉ thế chấp tài sản gắn
liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng và chủ sở hữu tài sản gắn liền với
đất đồng thời là người sử dụng đất.

Bộ Luật Dân sự năm 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện được một số nội
dung của vật quyền bảo đảm để tang cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm
trong việc xử lý tài sản bảo đảm. Cụ thể, BLDS năm 2015 đã quy định một cách
minh thị hai đặc điểm quan trọng của vật quyền bảo đảm, đó là quyền truy đòi tài
sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo
đảm trong trường hợp biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người
thứ ba. Theo quy định của khoản 2 Điều 297 BLDS năm 2015 thì: “ Khi biện pháp
bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được
quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều
308 của Bộ Luật này và luật khác có liên quan”. Việc bổ sung quy định về quyền
truy đòi tài sản bào đảm và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm
thể hiện sự hài hòa hóa yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh
quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của Bộ Luật Dân sự năm 2015. Việc hài hóa
này là phù hợp với bản chất “chứa đựng cả yếu tố trái quyền và yếu tố vật quyền”
của biện pháp bảo đảm; đồng thời cũng rất cần thiết vì nó xử lý được những vấn đề
mà thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm đang đặt ra.
Bộ Luật Dân sự năm 2015 cũng đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện
hợp đồng bảo đảm nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm
7


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

thực hiện nghĩa vụ, ví dụ như BLDS năm 2015 cho phép các bên chỉ cần tiến hành
thỏa thuận, giao kết một lần về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương
lai. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại
biện pahsp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó, bao gồm cả việc ký kết lại hợp đồng bảo

đảm, công chứng chũng như đăg ký biện pháp bảo đảm (khoản 2 Điều 294 Bộ luật
Dân sự năm 2015)…
Tại Điều 292 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy địn 9 biện pháp đảm bảo thực
hiện nghĩa vụ lần lượt: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ,
bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tính chấp và cầm giữ tài sản. Việc sắp xếp như vậy
nhằm ngầm định phân loại nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo thỏa thuận
gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo
lãnh, tín cháp và nhóm biện pháp bảo đảm được xác lập theo quy định của luật
gồm: cầm giữ tài sản. Việc phân định các biện pháp bảo đảm này của BLDS năm
2015 không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu, mà nó cho thấy cách tiếp cận khoa
học của Bộ luật này khi xây dựng phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Bỡi lẻ, mỗi biện pháp bảo đảm có những tính chất, đặc điểm và vai trò khác nhau
trong việc thúc đẩy tiếp cận tín dụng có bảo đảm của nền kinh tế, do đó, về mặt tư
duy pháp lý, cần phải phân định rõ để từ đó xây dựng và thiết lập cơ chế điều chỉnh
cho phù hợp với đặc tính của từng biện pháp, qua đó, giúp khuyến khích và phát
huy tối đa ưu thế của từng biện pháp.
Việc bổ sung năm giữ là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba của biện pháp bảo đảm, độc lập và bình đẳng với phương thức đăng
ký là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ tình trạng hòa bình của việc
chiếm hữu thực tế mà Bộ Luật Dân sự năm 2015 hướng đến. Về nguyên tắc ai
đang nắm giữ trực tiếp tài sản thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản
được năm giữ (khoản 1, Điều 184 Bộ Luật Dân sự năm 2015). Quan điểm này tiếp
8


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý


cận vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở chỗ, việc nắm giữ tài sản
bảo đảm cũng được xem là căn cứ xác định biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhậ
bảo đảm đang nắm giữ tài sản bảo đảm hoàn toàn bình đẳng với phương thức đăng
ký và bên nhận bảo đảm được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa
vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người
thứ ba trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa
vụ. (Điều 308 Bộ Luật Dân sự).
Bộ luật Dân sự năm 2015 lần đầu tiên đã thể hiện một cách minh thị hơn định
hướng xây dựng Hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm là quyền, chứ không phải là
nghĩa vụ (khoản 4 Điều 323). Ngoài ra, theo quy định của khoản 2 Điều 298 Bộ
luật Dân sự năm 2015, trường hợp được đăng ký thì biện pháp bảo đảm phát sinh
hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký. Theo đó, đăng ký
biện pháp bảo đảm chỉ mang tính bắt buộc và là điều kiện để giao dịch bảo đảm có
hiệu lực chỉ trong trường hợp luật có quy định (khoản 1 Điều 298 Bộ luật Dân sự
năm 2015). Những quy định nói trên cho thấy, Bộ luật dân sự năm 2015 đang
hướng đến xây dựng một hệ thống đăng ký chỉ có giá trị đối kháng với người thứ
ba.
Bộ luật dân sự năm 2015 đã tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm
trong việ xử lý tài sản bảo đảm, ví dụ như ghi nhận quyền đòi tài sản bảo đảm để
xử lý của bên nhận bảo đảm(khoản 2 Điều 297); quyền tự bán tài sản bảo đảm của
bên nhận bảo đảm theo thỏa thuận của các bên trong quan hệ bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự (Điều 303)…
Bộ Luật dân sự năm 2015 đã xây dựng cơ chế xử lý đồng thời quyền sử dụng
đất đai và tài sản gắn liền với đất nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lý tài
sản bảo đảm. Trên thực tế, vì đặc tính tự nhiên vốn có của tài sản nên đất và tài sản
9


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh

Hằng

Lê Thị Thuý

gắn liền với đất thường là một thể thoongsnhaats về hiện trạng và tình trạng pháp
lý, do vậy, nếu không có cơ chế xử lý đồng thời trong trường hợp chỉ thế chấp
quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất hoặc chỉ thế chấp tài
sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng đất sẽ dẫn đến tình trạng
khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm, đặc biệt là vấn đề bán tài sản thế chấp
cho người mua.
Do vậy để giải quyết điểm nghẽn về xử lý tài sản bảo đảm trong trương hợp
nói trên, trên cơ sở kế thừa phát triển quy định tại khoản 19 Điều 1 Nghị định số
11/2012/NĐ-Cp ngày 22/2/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 163/2006/NĐ-Cp ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm, khoản 1 Điều 325 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy đinh: “ Trường hợp
thế chấp quyền sử dụng đất mà không thế chấp tài sản gắn liền với đất vafngwowif
sử dụng đất đồng thời là chủ sở hữ tài sản gắn liền với đất thì tài sản được xử lý
bao gồm cả tài sản gắn liền với đát, trừu trường hợp có thỏa thuận khác.” Tương tự
cách tiếp cận như trên, khoản 1 Điều 326 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “
trường hợp chỉ có thể thế chấp tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử
dụng đất và chủ sở hữ tài sản gắn liền với đất mà không thế chấp quyền sử dụng
đất và chủ sở hữ tài sản gắn liền với đất đồng thời là người sử dụng đất thì tài sản
được xử lý bao gồm cả quyền sử dụng đất, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. “
Đây được xem là giải pháp quan trọng có tính chất đột phá của Bộ luật dân sự năm
2015 trong việc tháo gỡ vướng mắc, khó khăn khi xử lý tài sản bảo đảm trong
trường hợp chỉ thế chấp quyền sử dụng đát mà không thế chấp tài sản gắn liền với
đất và ngược lại.
Tuy nhiên cần thống nhất về mặt nhận thức, việc xử lý đồng thừi tài sản gắn
liền với đất hoặc quyền sử dụng đất nhằm tạo thuận lợi cho việc xử lý tài sản bảo
đảm chứ không đồng nghĩa với việc nó là căn cứ để xác định tài sản được xử lý

10


Bài tiểu luận môn Pháp luật về giao dịch đảm bảo trong kinh doanh
Hằng

Lê Thị Thuý

đồng thời với tài sản thế chấp cũng trở thành tài sản thế chấp. Theo đó, trên nguyên
tắc tài sản được xử lý đồng thời không phải là tài sản thế chấp, nên khoản tiền thu
ddowcj từ việc bán tài sản này sẽ chỉ được thanh tóa cho bên nhận thế chấp trong
trường hợp các bên có thỏa thuận và việc thanh toán sẽ phải được thực hiện theo
quy định của Pháp luật.

11



×