Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A Trường tiểu học TT Hương Sơnhọc tốt môn tập làm văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.5 KB, 31 trang )

m

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc

BÁO CÁO NỘI DUNG SÁNG KIẾN
Họ tên tác giả: Nguyễn Thị Vân Anh
Trình độ chun mơn: Đại học tiểu học
Chức vụ: Giáo viên – Chủ tịch cơng đồn
Đơn vị công tác: Trường tiểu học TT Hương Sơn- huyện Phú Bình.

1. Lĩnh vực áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến kinh nghiệm "Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A học tốt môn
tập làm văn” thuộc lĩnh vực chuyên môn Tiểu học, môn Tiếng Việt, phân môn Tập
làm văn.
Phân mơn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 có rất nhiều thể loại, sáng kiến
này tôi đi nghiên cứu kỹ thể loại văn miêu tả trong chương trình tập làm văn lớp 5
với hi vọng sẽ giúp học sinh lớp 5 đặc biệt là học sinh lớp 5A mà tôi đang chủ
nhiệm và giảng dạy học tốt hơn môn tập làm văn.

2 Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến:
Trong chương trình Tiểu học mơn Tiếng Việt là mơn học chiếm vị trí quan
trọng, chiếm thời lượng nhiều nhất so với các môn học khác. Trong đó phân mơn
Tập làm văn lại chiếm thời lượng nhiều trong mơn Tiếng Việt. Vì vậy, việc dạy tập
làm văn có vai trị hết sức cần thiết và là nền tảng để học sinh học tốt các môn học
khác và được nhiều thầy cô giáo quan tâm.
Học sinh tiểu học ngay từ lớp 1,2,3 đã được học được tiếp xúc với nhiều loại văn
bản khác nhau có nội dung gần gũi với cuộc sống và kỹ năng giao tiếp của các em
với cộng đồng. Tuy nhiên chương trình mới chuyển tải sự thay đổi cả về nội dung
và kỹ năng rèn luyện đến hình thức biện pháp và quy trình lên lớp. Là giáo viên
nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 5, lớp cuối cùng của bậc tiểu học không ai



1


tránh khỏi những băn khoăn. Trăn trở là làm thế nào để giúp học sinh rèn luyện tốt
kỹ năng làm văn.
Qua thực tế 14 năm giảng dạy lớp 5 tại Trường Tiểu học TT Hương Sơn tôi
nhận thấy học sinh làm văn tốt chiếm tỉ lệ chưa cao. Tôi thầm hỏi: Tại sao học sinh
giỏi văn ít ỏi như vậy? Trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, chúng ta
luôn tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu
cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn lòng cho thầy cơ giáo chúng tơi vì học
sinh giỏi văn cịn khiêm tốn. Trường tiểu học TT Hương Sơn là trường đã nhiều
năm giành lá cờ đầu của bậc tiểu học trong toàn huyện mà số lượng học sinh giỏi
văn cũng chưa được nhiều đặc biệt là học sinh lớp 5A mà tôi đang trực tiếp giảng
dạy các em làm văn cũng chưa được tốt. Khi chấm bài tập làm văn, tôi nhận thấy
đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan,
nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa, câu văn miêu tả chưa hay, bài viết
thiếu sự hấp dẫn người đọc , người nghe. Học sinh xác định yêu cầu của đề bài còn
sai hay dùng từ đặt câu chưa đúng...
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy, học môn tập làm văn ở trường tiểu
học? Câu hỏi này lâu nay đã làm bao thế hệ thầy cơ phải trăn trở suy nghĩ tìm lời
giải. Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của môn học và từ thực tế học sinh là động
lực để tôi nghiên cứu và chọn viết đề tài:
“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A Trường tiểu học TT Hương Sơn
học tốt môn tập làm văn”
3. Mô tả nội dung của sáng kiến:
3.1 Tính mới:
Như chúng ta đã biết tiểu học là bậc học nền tảng, nó góp phần tạo dựng nên
nhân cách con người và là động lực thúc đẩy để chúng ta tiếp tục bước vào các cấp
học tiếp theo. Các môn học trong trường Tiểu học đều có vị trí quan trọng khác

nhau. Chúng có những nét riêng biệt nhưng đồng thời cũng có mối quan hệ tương
trợ lẫn nhau trong việc xây dựng nên nội dung giáo dục. Mơn học có khối lượng
2


kiến thức và thời lượng học nhiều nhất là môn Tiếng Việt. Mơn Tiếng Việt ở bậc
Tiểu học có nhiệm vụ hình thành những năng lực hoạt động ngơn ngữ cho học sinh.
Năng lực hoạt động ngôn ngữ thể hiện trong bốn dạng hoạt động tương ứng với
chúng là bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết.
Đặc biệt là phân mơn tập làm văn đây là phân môn rèn cho học sinh có thể
trình bày bằng văn bản một cách rõ ràng hay trình bày bằng ngơn ngữ nói một cách
lưu lốt. Để có được những kỹ năng này theo tơi cần phải cung cấp cho học sinh
ngay từ khi các em bước vào cấp học cụ thể qua các tiết học văn vì vậy trong các
tiết học văn tơi đặc biệt quan tâm đến việc rèn cho các em các kỹ năng cần thiết
trang bị cho các em những kiến thức cơ bản giúp các em có thể cảm thụ sâu sắc
cảnh vật mình miêu tả.
Với nguyện vọng giúp học sinh lớp 5A có được những kỹ năng cơ bản khi học tập
làm văn ngay từ đầu năm học sau khi nhận lớp tôi đã tiến hành điều tra thực trạng
việc học văn và viết văn miêu tả của học sinh lớp tơi.
- Khảo sát thực tế.
- Tìm hiểu ngun nhân dẫn đến thực trạng này.
- Tìm ra biện pháp khắc phục.
- Đánh giá kết quả.
* Tôi nhận thấy rằng để học sinh có thể học văn tốt, biết trình bày thành văn bản,
biết sử câu văn hay có hình ảnh thì chúng ta cần cung cấp hướng dẫn cho học sinh
qua các tiết học tập làm văn. Giáo viên cần năm vững nội dung chương trình mơn
học và sau đó rèn cho học sinh những kỹ năng quan sát, và việc xác định được
trọng tâm của bài là quan trọng nhất các em cần biết bài văn ấy yêu cầu tả gì? Từ
đó mới miêu tả đúng trọng tâm bài. Việc tiếp theo cũng rất quan trọng đó là các em
phải biết phân biệt từng dạng bài văn, đặc điểm từng thể loại.

Đặc biệt khi chấm bài văn giáo viên cần chỉ ra được ưu nhược điểm cụ thể của
học sinh rõ ràng từng lỗi sai,có thể cho học sinh khác phát hiện lỗi của bạn mình đó
cũng là việc giúp học tự chữa lỗi của mình thơng qua bài văn của bạn. Tôi đã vận
3


dụng cách tìm và phát hiện lỗi cũng như câu văn đọan văn hay của bạn bằng cách
cho các em học nhóm khoảng từ 2 đến 4 học sinh cùng nhau đọc và phân tích bài
văn của bạn trong giờ trả bài. Cách làm này tôi thấy đạt hiệu quả rất tốt việc học
sinh đã phát hiện ra lỗi của bạn thì mình cũng sẽ khơng mắc lỗi này nữa.
Việc trình bày bài văn cũng là khâu quan trọng thể hiện học sinh hiểu bài hay
khơng? Có miêu tả được khơng ?...Trình bày được bài văn hồn chỉnh với đầy đủ
các yếu tố cần thiết phải đạt được là thành cơng lớn của người viết. Do vậy trong
q trình dạy học tôi cũng rất chú ý đến việc rèn cho học sinh những kỹ năng này.
Trong qua trình nghiên cứu sáng kiến này bản thân tơi tự mình tìm tịi và ứng dụng
những biện pháp đó vào bài dậy của mình và thấy được những kết quả tốt hơn
nhiều, và cũng thấy được mình đã tạo cho các em có hứng thú học văn đây là thành
công bước đầu của sáng kiến này.
3.2 Tính khoa học:
Tập làm văn là phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao, tổng hợp các kiến
thức kỹ năng từ tập đọc, kể chuyện, chính tả đến luyện từ và câu….để có thể viết
được một bài văn. Theo quan điểm tích hợp các phân môn được tập hợp lại xung
quanh chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng
gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy muốn dạy - học có hiệu quả tập làm văn miêu tả
nhất thiết người giáo viên phải dạy học và hướng dẫn học sinh học tốt các môn học
tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu vì trong các bài đọc, các câu chuyện,
hay trong các bài luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội
dung miêu tả rất rõ về cảnh vật con người.
Do vậy bài tập làm văn cần có tính sáng tạo nếu không sẽ trở nên khô cứng,
hoặc mang tính góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên,

trong sáng mới mẻ để tạo sức hấp dẫn cho người đọc người nghe.
Chất lượng của bài văn là chất lượng của cảm thụ văn học của các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ cho nên cả thầy cô và các em học sinh phải dạy và
học tích cực, nghiêm túc, hiệu quả mới mong nâng cao một cách bền vững chất
4


lượng môn Tiếng Việt, đặc biệt là tập làm văn ở lớp cuối cấp bậc tiểu học. Trang bị
cho các em những kiến thức cơ bản chuẩn bị cho cấp học tiếp theo, chính vì vậy
việc hình thành và rèn luyện kỹ năng viết văn cho học sinh là một u cầu rất cần
thiết.
Phân mơn tập làm văn góp phần rèn luyện cho hoc sinh các kỹ năng sử dụng
Tiếng Việt nghe, nói, đọc, viết. Bên cạnh đó thơng qua học tập làm văn học sinh có
điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn
điển hình. Khi phân tích đề văn học sinh lại có dịp hướng tới cái chân, thiện, mỹ
được định hướng trong các đề bài. Những kiến thức đó dã làm nảy nở tình cảm u
mến, gắn bó với thiên nhiên với con người và những việc xung quanh các em giúp
cho tâm hồn tình cảm của các em thêm phong phú.
Dạy tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến thức kỹ
năng của chương trình giáo dục phổ thơng cấp tiểu học theo chuẩn kiến thức kỹ
năng của từng môn học và phù hợp độ tuổi, trình độ học tập của học sinh trong lớp.
Đó là những nhân tố quan trọng góp phần mở rộng vốn sống rèn luyện tư duy bồi
dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ hình thành nhân cách tốt đẹp của các em.
3.3. Tính thực tiễn:
I. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thực trạng của học sinh
Năm học 2013 - 2014 tôi được Ban giám hiệu Nhà trường phân công chủ nhiệm và
giảng dạy lớp 5A..
* Tổng số học sinh: 35 em. Trong đó : Nam: 16 em ; Nữ: 19 em
Dân tộc: 4 em. Khuyết tật: 1 em

Qua kết quả thi khảo sát đầu năm.
* Tôi thống kê được chất lượng học phân môn Tập làm văn như sau:
TSHS
35

GIỎI
SL
TL
4
11,4%

KHÁ
SL
TL
8
22,9%
5

TRUNG BÌNH
SL
TL
15
42,8%

YẾU
SL
8

TL
22,9%



Nhìn bảng thơng kê cho thấy các em học văn cịn có nhiều hạn chế mặc dù
các thể loại văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật các em đã được học từ lớp 4 nhưng
kết quả cho thấy có nhiều em cịn yếu về tập làm văn dẫn đến chất lượng mơn
Tiếng Việt của lớp cịn thấp.
Cũng như tất cả các trường tiểu học khác, trường Tiểu học Thị trấn Hương
Sơn cũng có hoạt động chủ đạo là hoạt động giáo dục với mục tiêu nâng cao chất
lượng dạy học mà đối tượng của hoạt động dạy học là học sinh. Học sinh lớp 5A
mà tôi phụ trách và tìm hiểu có đến 85% học sinh gia đình thuần nông. Đây là 1
trong những ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của các em. Qua việc điều tra
thực trạng tôi đã thấy được những nguyên nhân, hạn chế mà học sinh thường gặp.
* Những sai lầm mà học sinh thường mắc khi làm văn:
- Nhiều em khi viết văn còn liệt kê, kể lể dài dòng, diễn đạt vụng về, lủng củng,
khi miêu tả chưa biết miêu tả kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài yêu cầu.
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em còn nhiều
hạn chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay.
- Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn.
- Chưa biết cách sử dụng câu nêu ý bao trùm của đoạn, chuyển ý giữa các đoạn,
làm cho các đoạn văn trong một bài văn rời rạc, chưa logic.
- Trong khi viết, các em chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình.
- Các em chưa biết sử dụng các biện pháp miêu tả.
Từ thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học. Ý nghĩ cho
rằng tập làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là
nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo.

6



Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng học tập làm văn của học sinh
không đạt yêu cầu? Qua q trình giảng dạy lớp 5 tơi nhận thấy học sinh học yếu
môn tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
2. Nguyên nhân của thực trạng
Qua quá trình giảng dạy và điều tra thực trạng của giáo viên và học sinh lớp 5
trường tiểu học TT Hương Sơn Tôi nhận thấy có những nguyên nhân cơ bản sau
dẫn đến thực trạng các em học sinh lớp 5 học chưa tốt môn tập làm văn:
a, Nguyên nhân khách quan
- Đa số học sinh con gia đình làm nơng nghiệp, điều kiện và thời gian học tập có
hạn
- Phụ huynh ít quan tâm tới việc học tập của học sinh
- Các cấp các nghành ở địa phương còn nghèo, chưa thực sự quan tâm động viên
các em kịp thời
-Tại tệ nạn xã hội dẫn đến nhiều em ham chơi không chịu học.
b, Nguyên nhân chủ quan

*Giáo viên:
Chất lượng học môn tập làm văn chưa cao cũng một phần thuộc về trách
nhiệm của giáo viên, phân môn tập làm văn là một mơn học mang tính tổng hợp và
sáng tạo, nhưng lâu nay giáo viên chưa tìm ra cách phát huy tối đa năng lực học tập
và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng
Việt.
Giáo viên, chưa đầu tư nhiều vào công tác chuẩn bị cho tiết dạy, cịn thiếu tính
tự giác trong vấn đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Nhiều giáo viên phải dạy 2
buổi/ ngày gây ảnh hưởng đến chất lượng dạy học.
*Học sinh:
1. Khi làm bài học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
2. Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
7



3. Khi quan sát thì các em chưa được hướng dẫn cụ thể kỹ năng quan
sát,quan sát những gì quan sát từ đâu? Làm thế nào để phát hiện được nét
tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
4. Không biết hình dung bằng hỉnh ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả
khi quan sát.
5. Vốn từ ngữ của các em cịn nghèo nàn lại khơng biết sắp xếp như thế nào
để bài viết được mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ
của mình về một sự vật, cảnh vật về một con người cụ thể nào đó.
Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em, tôi suy nghĩ
làm sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh học tập làm văn tốt
hơn.
II: BIỆN PHÁP NGHIÊN CỨU

Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm
vụ của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp
sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho học sinh
lớp 5A của tôi.

1. Giáo viên cần nắm vững nội dung, chương trình và phương pháp
dạy Tập làm văn:
Tơi đã được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 5 đã nhiều năm với kinh
nghiệm bản thân cho thấy người giáo viên cần: Dạy như thế nào để học sinh học
giỏi Tập làm văn, viết được những bài văn miêu tả sinh động? Điều cơ bản là người
dạy phải nắm vững nội dung chương trình, đồng thời biết chọn và vận dụng
phương pháp phù hợp để truyền thụ kiến thức cho học sinh. Biết được học sinh cần
gì, chưa biết những gì? để xác định đúng mục tiêu bài dạy, xác lập được mối quan
hệ giữa kiến thức bài dạy với kiến thức cũ và kiến thức sẽ cung cấp tiếp theo. Cụ
thể, giáo viên phải nắm vững những vấn đề sau :

a. Nội dung chương trình Tập làm văn lớp 5:
Chương trình tập làm văn lớp 5 được thiết kế như sau:
8


- Cả năm: 62 tiết
+ trong đó Tập làm văn miêu tả: 43 tiết (chiếm 69,4% số tiết)
+ Các thể loại văn khác: 19 tiết ( chiếm 30,6% số tiết)
Qua đó cho thấy thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong chương
trình tập làm văn 5. Bởi văn miêu tả vẽ ra các sự vật,sự việc hiện tượng con
người…bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Với mục tiêu là trang bị kiến
thức và rèn luyện kĩ năng làm văn, góp phần cùng với các môn học khác làm giàu
vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân
cách cho học sinh.
b. Biện pháp dạy học từng kiểu bài:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu và làm bài tập thực hành
theo các biện pháp sau:
 Giúp học sinh nắm vững yêu cầu đề bài.
 Chuẩn bị kỹ nội dung cần theo yêu cầu của đề.
 Tổ chức cho học sinh thực hiện bài tập.
c. Trình tự dạy Tập làm văn:
Trong phần dạy bài mới, giáo viên phải nắm vững trình tự dạy đối với hai loại
bài Tập làm văn:
+ Loại bài dạy lý thuyết và loại bài dạy thực hành.
Khi dạy từng loại bài, giáo viên cần chú ý đến các đối tượng học sinh trong
lớp: có nội dung học tập phù hợp với từng loại đối tượng học sinh
Chẳng hạn:
Muốn dạy học sinh làm văn miêu tả đạt yêu cầu thì giáo viên cần biết thế
nào là văn miêu tả, đặc điểm thể loại văn miêu tả, biết yếu tố nào là quan trọng và
cần thiết để giúp học sinh làm được bài văn miêu tả sinh động thông qua quan sát

đối tượng miêu tả (Nội dung này nằm trong phần chuẩn bị bài của giáo viên).

2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh

9


“Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy” (Tiếng Việt 4 tập 1,
trang 140), tức là lấy câu văn để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp
người đọc như được nhìn tận mắt, sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn
miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình
tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự khơng gian:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh quan sát toàn bộ cảnh vật hoặc đồ vật trước
rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua
phải,... (hoặc ngược lại). Ở lớp 5 trình tự này được vận dụng khi miêu tả lồi vật,
đồ vật, cảnh vật,...
Ví dụ 1:
Tả bao quát sau đó tả chi tiết cảnh vật:
“Một buổi có những đám mây lạ bay về. Những đám mây lớn, nặng đặc xịt lổm
ngổm đầy trời. Mây tản ra từng nắm nhỏ rồi san đều trên một nền đen xám xịt. Gió
nam thổi giật mãi. Gió bỗng đổi mát lạnh, nhuốm hơi nước. Từ phía nam bỗng nổi
lên một hồi khua động dạt dào. Mưa đã xuống bên kia sơng: gió càng thêm mạnh,
mặc sức điên đảo trên cành cây.”
Ví dụ 2:
Tả cảnh vật từ dưới lên trên
“ Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi
phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
b. Tả theo trình tự thời gian:

Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh
vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
Ví dụ 1:
“Con kênh này có tên là kênh mặt trời. Nơi đây, suốt ngày, ánh nắng rừng rực
đổ lửa xuống mặt đất. Bốn phía chân trời trống huếch trống hốc. Từ lúc mặt trời
10


mọc đến lúc mặt trời lặn không kiếm đâu ra một bóng cây để tránh nắng. Buổi
sáng, con kênh cịn phơn phớt màu đào, giữa trưa bỗng hóa ra một dịng thủy ngân
cuồn cuộn lóa mắt, rồi dần biến thành một con suối lửa lúc trời chiều. Có lẽ bởi vậy
mà nó được gọi là kênh mặt trời.”
Ví dụ 2:
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương
thơm lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả
gieo trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ
một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
Qua việc phân tích cách miêu tả của hai đoạn văn trên học thấy được cách
miêu tả theo trình tự thời gian mà cảnh vật đã thay đổi.
c. Tả theo trình tự đặc điểm tâm lí của nhân vật:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm
xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau.
Khi miêu tả đồ vật, lồi vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả
những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối
tượng.
Ví dụ: Mỗi lần nghe ai nói: “ Đơi mắt là cửa sổ tâm hồn”, tôi lại nghĩ ngay đến
mẹ, nhớ đến đơi mắt đong đầy tình u thương của mẹ. Tơi u q đơi mắt của
mẹ biết bao! Chính đơi mắt mẹ đã cho tôi bao nhiêu niềm vui sống.”
* Ngồi các trình tự miêu tả trên, Tơi nghĩ người giáo viên cần hướng dẫn

và rèn luyện cho học sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác,
xúc giác, vị giác,...) để quan sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
Ví dụ 3:
Phân tích bài “Mưa rào” (Tiếng Việt 5- Tập 1- Trang 31) ta thấy tác giả đã
quan sát bằng các giác quan như sau:
 Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy mưa rơi.
 Xúc giác: Gió bỗng thấy mát lạnh, nhuốm hơi nước.
11


 Khứu giác: Biết được mùi nồng ngai ngái, xa lạ man mác của những
trận mưa đầu mùa.
 Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng
hót của chào mào.

3. Xác định yêu cầu trọng tâm đề bài:
Khi làm văn học sinh cầ dựa vào đề bài cụ thể do vậy yêu cầu các em phải
viết đúng theo đề bài yêu cầu. Một đề văn đưa ra bao giờ cũng ẩn chứa các yêu cầu
cụ thể: “ Thể loại,( kiểu bài), nội dung và trọng tâm yêu cầu tả gì?”
Với đề bài sau:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
* Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định được yêu cầu trọng tâm của đề
bài, phải làm sao giúp học sinh hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là
yếu tố quan trọng quyết định nội dung bài viết đúng hay sai:
+Với đề bài trên, giáo viên hướng dẫn các em thấy rõ các yêu cầu sau:
- Đề văn thuộc thể loại văn gì? : Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
- Nội dung của bài văn tả gì?: Tả Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ
“cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
-Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).

Khi xác định đúng được yêu cầu trọng tâm của đề bài học sinh sẽ không bị lạc
đề trong khi trình bài bài viết của mình. Đây là một yêu cầu quan trọng trong qua
trình học văn của học sinh.
Vẫn là thể loại văn miêu tả nhưng cũng có nhiều loại đề bài khác nhau khơng
phải đề bài nào học sinh cũng dập khuôn cách làm theo trình phải có đủ các u
cầu của đề như đã phân tích ở trên.
Chẳng hạn như đề bài:
“Tả ngơi nhà của em( hoặc căn hộ, phịng ở của gia đình em).

12


Đề văn này chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên cần
giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn: Nhà
em là loại nhà gì?( cấp 3 hay cấp 4…..)căn hộ của gia đình em là chung cư hay gia
đình tự xây dựng lên.
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết có nội dung được thu
hẹp, đúng yêu cầu nên các em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan,
chung chung,...

4. Đặc điểm của từng dạng bài văn miêu tả:
Để học sinh học tốt môn tập làm văn, trước khi thực hiện một yêu cầu của đề
bài nào đó tơi thường giúp học sinh biết dùng lời văn phù hợp với yêu cầu về nội
dung và thể loại cho trước, hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề bài học để học
sinh có vốn từ ngữ mà vận dụng đúng thể loại văn khi làm bài. Giáo viên cũng cần
lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm của mỗi thể loại, mỗi dạng bài và
xác định đối tượng miêu tả. Trong mỗi bài văn phải thể hiện cái mới cái hay, cái
riêng và cảm xúc của mình.
Trong từng kiểu bài văn thuộc thể loại văn miêu tả trong quá trình giảng dạy
giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách làm cụ thể phù hợp với kiểu bài tả cảnh hay

tả người:
*KIỂU BÀI TẢ CẢNH:
Khi trình bày bài văn thuộc kiểu này giáo viên hướng dẫn học sinh xác định các
yêu cầu sau:
A. Trình tự miêu tả:
Khi làm văn các em cần dựa vào dàn ý chung của thể loại văn tả theo trình tự
nào cho phù hợp với yêu cầu của đề bài. Tả theo trình tự thời gian hay tả theo từng
bộ phận, từng phần của cảnh. Tả từ trên xuống hay từ dưới lên, từ phải sang trái
hay từ ngoài vào trong... là tuỳ thuộc đặc điểm của cảnh mà đề bài yêu cầu.
* Chẳng hạn với đề văn:
“Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em”.(SGK TV5- T 144)
13


Với đề văn này giáo viên nên hướng học sinh tả cánh theo trình tự thời gian thì ta
có thể thấy rõ sự thay đổi của cảnh vật,tạo sự hấp dẫn người đọc người nghe.
* Hay như đề văn:
“Tả một khu vui chơi giải trí mà em thích”( SGK TV5-T144)
Khác với đề bài trên thì ở đây giáo viên có thể hướng dẫn mở để học sinh tự chọn
trình tự miêu tả cho bài văn của mình có thể tả theo trình tự nào. Tuy nhiên nếu tả
theo trình tự từng phần của cảnh sẽ dễ miêu tả hơn và tạo sự hấp dẫn hơn cho cảnh
đã miêu tả.
B. Không gian, thời gian nhất định của cảnh sẽ tả:
Sau khi đã chọn được tả cảnh theo trình tự nào thì việc xác định thời gian,
không gian để miêu tả cũng rất quan trọng việc quan sát có thể tiến hành ở những
vị trí khác nhau nhưng vẫn phải có một vị trí quan sát chủ yếu .Từ vị trí này ta có
thể quan sát được tồn bộ cảnh vất và cũng thấy rõ được những đặc điểm cơ bản
trọng tâm . Khi đã xác định được vị trí quan sát rồi, ta nên có cái nhìn bao qt tồn
cảnh đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để quan sát.
* Với đề văn: “Tả khu vui chơi giải trí mà em thích”

Khi quan sát em đứng ở đâu để có thể quan sát được tồn cảnh và miêu tả được
khu vực hay trò chơi mà em yêu thích.
- Giáo viên cần lưu ý cho học sinh thấy ở góc độ quan sát khác nhau thì cảnh vật
miêu tả cũng khác nhau.
C.Lựa chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh khi làm văn miêu tả phải biết lựa chọn
những từ ngữ gợi tả, gợi cảm, dùng các biện pháp nghệ thuật ,hình ảnh so sánh
hoặc nhân hố để làm nổi bật đặc điểm của cảnh giúp người đọc người nghe thấy
như mình đang đứng trước cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người
viết.
Qua một số tác phẩm mẫu giáo viên cần hướng dẫn học sinh thấy được cách
miêu tả và sử dụng biện pháp khi miêu tả từ đó giúp các em có thể làm bài văn tốt
hơn.
14


* Chẳng hạn trong tác phẩm:
Buổi sáng ở thành phố Hồ Chí Minh( sgk TV5)
Tác giả đã viết: “ Mặt trời chưa xuất hiện nhưng tầng tầng lớp lớp bụi hồng ánh
sáng đã tràn lan khắp không gian như thoa phấn trên những tòa nhà cao tầng của
thành phố, khiến chúng trở nên nguy nga, đậm nét. Màn đêm mờ ảo đang lắng dần
rồi chìm vào đất. Thành phố như bồng bềnh nổi giữa một biển hơi sương”…
Những chi tiết trên cho thấy tác giả quan sát cảnh vật rất tinh tế qua đó ta thấy
được sự chuyển hóa của ánh sáng bằng các từ ngữ “tầng tầng, lớp lớp bụi hồng
ánh sáng, tràn lan khắp không gian’Tác giả cũng đã dùng mắt để quan sát sự
biến đổi của ánh sáng và bóng tối, cũng đã sử dụng nghệ thuật so sánh , nhân hóa
làm cho câu văn sinh động một cách rất tinh tế, khi viết:
“Mặt trời dâng chầm chậm, lơ lửng như một quả bóng bay mềm mại.”
Tác giả đã dùng hình ảnh so sánh mặt trời như một quả bóng bay làm cho người
đọc thấy hết được vẻ đẹp của bình minh qua việc sử dụng các từ ngữ so sánh.

D.Tả những nét tiêu biểu của cảnh vật, tả cảnh cần gắn với cảm xúc bằng
các giác quan:
Trong khi hướng dẫn học sinh quan sát cảnh để miêu tả giáo viên nên hướng
dẫn học sinh chọn những nét tiêu biểu của cảnh để miêu tả tránh tình trạng học sinh
miêu tả tràn lan không trọng tâm làm cho bài văn sơ sài, cảnh vật thì khơng thể
hiện rõ lại mang tính chất liệt kê cảnh. Khi miêu tả cảnh vật có thể tả xen hoạt động
của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho cảnh sinh động hơn, đẹp
hơn.
Với đề bài: “Tả cảnh một buổi sáng ( hoặc trưa,chiều) trong một vườn cây
(hay trong công viên,trên đường phố, trên cánh đông nương rẫy.)
Nếu tả cảnh cánh đồng thì vào buổi sáng thì em cần tập trung tả trọng tâm cảnh,
các hoạt động diễn ra trên cánh đồng là chính các hoạt động khác chỉ là cảnh phụ
không cần miêu tả kỹ.
Trong văn miêu tả người viết cần thể hiện được cảm xúc khi viết. Cảnh vật
mang theo trong nó cuộc sống riêng với những đặc điểm riêng. Con người cảm
15


nhận cảnh vật như thế nào? sẽ đem đến cho cảnh những tình cảm như thế. Khi viết
tác phẩm: Buổi sáng ở thành phố Hồ Chí Minh xúc động trước vẻ đẹp của thành
phố vào buổi binh minh tác giả đã phải thốt lên nhận xét ở cuối bài viết của mình “
Thành phố mình đẹp quá! Đẹp quá đi!”
Đây chính là thành cơng của người viết đã làm cho cảnh vật có sức sống tạo sự
gần gũi với người đọc người nghe.
* KIỂU BÀI TẢ NGƯỜI:
Khác với kiểu bài tả cảnh văn tả người yếu tố quan sát lại càng quan trọng. Tả
người phạm vi miêu tả không rộng như tả cảnh mà nhân vật miêu tả lại là con
người mà các em tiếp xúc gần gũi thường ngày hay con người mới gặp lần đầu.
Nhìn chung, mọi người đều có những đặc điểm giống nhau nhưng lại hồn toàn
khác nhau ở những đặc điểm riêng. Người giáo viên có nhiệm vụ hướng dẫn học

sinh quan sát tìm ra những đặc điểm riêng ấy khi miêu tả hoặc có thể gắn với công
việc mà nhân vật đang làm qua đó thể hiện được tính cách của nhân vật trong khi
miêu tả làm cho các em thấy rằng phải miêu tả ngắn gọn mà chân thực, sinh động
về hình ảnh và hoạt động của nhân vật mình tả.
Vì thế, để làm được bài văn tả người thành công, giáo viên cần giúp học sinh xác
định các yêu cầu sau:
a. Quan sát, trị chuyện với nhân vật miêu tả:
Để có thể tả được các đặc điểm của nhân vật, điều cần thiết nhất là quan sát trực
tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý kiến với người đó. Quan sát khn mặt, dáng đi,
nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ, thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi
bật... (chọn và quan sát người định tả trong thời gian chuẩn bị bài mới ở nhà). Việc
quan sát còn giúp ta ghi nhớ các đặc điểm của nhân vật giúp cho việc miêu tả được
chính xác hơn. Ngồi ra với đề văn mà nhân vật miêu tả là người đã gặp hoặc tả
người đã đi xa thì ta cũng cần dùng cách quan sát gián tiếp là thơng qua trí nhớ
hoặc nhận xét của một người khác về người định tả để bổ sung những thông tin cần
thiết khi miêu tả.
b.Tả ngoại hình nhân vật:
16


Đây là nội dung quan trọng trong bài văn vì thơng qua các đặc điểm ngoại hình
mà người đọc, người nghe hình dung được hình dáng cũng như các đặc điểm bên
ngoài của nhân vật. Khi học sinh tả phần này giáo viên cần hướng dẫn các em phải
chú ý đến tuổi tác của nhân vật - mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về cơ
thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính,
thói quen sinh hoạt, hồn cảnh sống…. Khi miêu tả ngoại hình nhân vật, cần chọn
tả những chi tiết tiêu biểu. Những chi tiết ấy phải có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ
sung cho nhau, giúp khắc họa rõ nét hình ảnh nhân vật. Bằng cách tả như vậy, ta sẽ
thấy không chỉ ngoại hình nhân vật mà cả nội tâm,tính tình và những chi tiết tả
ngoại hình cũng nói lên tính tình nội tâm nhân vật. Cần tập trung vào việc làm sao

nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động, đặc điểm tiêu biểu của nhân
vật:
Cấu tạo của bài văn tả người phần thân bài trong khi miêu tả chúng ta có thể
miêu tả từng phần, từng bộ phận, tả ngoại hình rồi tả đến hoạt động, tính cách của
nhân vật. Nhưng để bài văn hay hơn, có sự liên kết hơn trong miêu tả để các chi tiết
có sự liên quan có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ hơn thì giáo viên nên hướng cho
học sinh khi miêu tả cố gắng đan xen các đặc điểm ngoại hình cũng như tính cách
nhân vật. Nếu làm được như vậy thì bài văn sẽ có sức lơi cuốn người đọc người
nghe hơn, bài viết sẽ thành công hơn.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân
thật những nét tiêu biểu về người đó, khơng cần phải tơ điểm người mình tả bằng
những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên một hình ảnh tồn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở
nên khn sáo, thiếu sự chân thật làm người đọc cảm thấy khó chịu.
Thầy cơ giáo cần lưu ý học sinh rằng, trong mỗi con người ai cũng có chỗ
khiếm khuyết nhưng nét đẹp thì bao giờ cũng nhiều hơn ( đẹp về hình thể, đẹp về
tính cách, đẹp về tâm hồn….) Nếu học sinh phát hiện, cảm nhận được và biết tả hết
các đặc điểm đó thì sẽ làm cho bài văn miêu tả của các em sinh động, hồn nhiên
đầy cảm xúc và người đọc dễ chấp nhận hơn.
17


Ví dụ:
Trong bài văn tả “Cơ Chấm” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 156) nhà văn
Đào Vũ đã viết: “Chấm không phải là cô con gái đẹp, nhưng là người mà ai đã gặp
thì khơng thể lẫn lộn với bất cứ một người nào khác.”
“Chấm cứ như một cây xương rồng. Cây xương rồng chặt ngang chặt dọc, chỉ
cần cắm nó xuống đất, đất cằn cũng được, nó sẽ sống và sẽ lớn lên. Chấm thì cần
cơm và lao động để sống .”
“Chấm mộc mạc như hòn đất. Hòn đất ấy bầu bạn với nắng với mưa để cho

cây lúa mọc lên hết vụ này qua vụ khác, hết năm này qua năm khác...”
5. Cung cấp và hệ thống hóa vốn từ ngữ, mở rộng câu văn cho học sinh
Để học sinh học và làm tốt bài tập làm văn, trước khi thực hiện yêu cầu của đề
bài giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề
bài học để các em có vốn từ ngữ mà vận dụng trong khi làm bài thông qua từng bài
đọc, từng bài tập ở các môn Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu cùng chủ điểm.
Từ đó sẽ giúp các em khơng bị lúng túng khi làm bài.
* Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn:
( Viết một đoạn văn miêu tả cảnh sông nước- Tiếng Việt5- tập 1 T74)
Với đề văn trên giáo viên cần giúp các em hệ thống hóa các từ ngữ thuộc chủ đề
sông nước.
Chẳng hạn: lăn tăn,êm đềm, quanh co, xanh lục, lung linh,…
Cần tạo cho học sinh thói quen quan sát, đánh giá, nhìn nhận một sự vật, một
cảnh vật hay một con người nào đó và thể hiện những điều đã quan sát và đánh giá
được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình, kịp thời điều chỉnh những lỗi về dùng
từ, viết câu, làm văn...
a. Bài tập làm giàu vốn từ cho học sinh thông qua các phân môn Tiếng Việt:
Việc cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh được thông qua các môn học khác như
tập đọc hay luyện từ và câu:
 Thông qua môn Tập đọc giúp các em hiểu được từ ngữ khi sử dụng mang
nghĩa đen hay nghĩa bóng, hiểu được ý nghĩa nội dung miêu tả của các đoạn văn,
18


khổ thơ (cảnh vật, con người. Trong các bài tập đọc giáo viên nên dùng hệ thống
câu hỏi và qua đó cho học sinh thấy được bố cực bài văn và thấy được việc sử
dụng từ ngữ miêu tả của tác giả và bố cục của bài văn.
Ví dụ:
Qua bài tập đọc: “ Quang cảnh làng mạc ngày mùa” sgk TV5 T10.
Sau khi học song bài này giáo viên nên cho học thấy được việc tác giả sử dụng

một loạt các từ ngữ miêu tả màu vàng ở các mức độ khác nhau đã làm cho bài văn
sinh động hấp dẫn hơn và quan trọng hơn là đã làm nổi bật màu sắc của làng quê
vào ngày mùa, và cũng cho thấy trình tự miêu tả của bài văn.
 Khơng chỉ có tập đọc mà Luyện từ - và câu cũng là môn học cung cấp cho
học sinh vốn từ nhiều nhất khi dạy các tiết Mở rộng vốn từ. Trong các tiết này có
các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, phát hiện từ
miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ
miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt
động,...
Ví dụ: Bài Luyện từ và câu: Mở rộng vốn từ: Thiên nhiên
Sau khi học song tiết này học sinh đã tự tìm hiểu cũng như đã được cung cấp thêm
các từ ngữ miêu tả sóng nước, miêu tả khơng gian, sự vật hiện tượng thiên
nhiên……
Khi dạy bài này giáo viên cần hướng dẫn các em tìm và hệ thống các từ ngữ
nhằm phục vụ cho việc sử dụng chúng trong khi viết văn miêu tả.
* Đặc biệt ở chính phân mơn Tập làm văn, giáo viên có thể giúp học sinh làm
giàu vốn từ theo các nhóm đề tài:
Ví dụ 1:
Tìm từ láy gợi tả âm thanh trên dịng sơng (lăn tăn, ì ầm, xơn xao, ào ào...)
Ví dụ 2:
Tìm những hình ảnh so sánh để so sánh với dịng sơng: dịng sơng như dải lụa,
dịng sơng như con trăn khổng lồ, dịng sơng như người mẹ hiền ơm ấp đồng lúa
chín vàng...
19


b. Sử dụng từ ngữ trong miêu tả:
Khi đã cung cấp vốn từ ngư ngữ nhất định cho học sinh thì giáo viên cần lưu ý
học sinh cách sử dụng các từ ngữ đó trong miêu tả và sử dụng nhóm tữ ngữ ngữ
miêu tả như: sử dụng các từ láy, sử dụng tính từ tuyệt đối (vàng xọng, vàng giòn,

đặc sệt, trong suốt, đen kịt...), sử dụng các biện pháp nghệ thuật (so sánh, nhân
hố, ẩn dụ...).
Ví dụ : Hãy chọn từ ngữ thích hợp trong ngoặc điền vào chỗ trống để được các câu
văn có hình ảnh so sánh phù hợp nhất (tiếng chng, chùm sao, dịng lửa, dải lụa,
giọng bà tiên, giải lụa đào).
- Dịng sơng như một………..
- Hoa xoan nở từng chùm trông giống như...
- Nắng cứ như...xối xuống mặt đất.
- Giọng bà trầm ấm ngân nga như...
Ở ví dụ đầu bài tập yêu cầu điền từ ngữ cho sẵn nhưng số lượng từ ngữ đã cho
nhiều hơn số chỗ trống cần điền, buộc HS phải suy nghĩ kĩ hơn khi lựa chọn từ ngữ
để điền vào chỗ chấm sao cho phù hợp với ý nghĩa câu văn.
C Mở rộng câu đúng thành câu hay
Do kỹ năng đặt câu của học sinh còn nhiều hạn chế nên giáo viên cần giúp các em
ôn luyện cách đặt câu đúng và phải biết mở rộng thành câu văn hay để sử dụng
trong bài văn của mình.
*Ví dụ khi dạy bài: Viết đoạn văn tả cảnh một buổi sáng( hoặc trưa, chiều )
trong vườn cây( hay trong công viên ,trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)
Tiếng Việt 5 tập 1.
Sau khi giúp học sinh xác định đề bài, giáo viên cần giúp các em đặt câu đúng và
từ câu đúng mở rộng thành câu văn hay để vận dụng vào bài văn.
+ Chẳng hạn: ‘Mặt trời mọc.’( Câu đúng)
Câu mở rộng :
“Ở chân trời phía đơng, ơng mặt trời từ từ dâng cao trên đỉnh núi.”
+ Hay như câu văn: ‘Chim hót’
20


Từ câu văn trên giáo viên hướng cho các em chuyển thành câu văn hay hơn gọi
là câu mở rộng:

“Trong vịm lá xanh,con chim chào mào hót líu lo như đón chào ngày mới.”
Việc hướng dẫn các em tìm câu văn hay để sử dụng trong bài viết của mình là việc
làm rất quan trọng trong quá trình hướng dẫn của giáo viên, và cũng là thành công
lớn của học sinh khi biết cách sử dụng trong bài viết của mình.
6. Lập và hồn thiện dàn ý
Muốn làm tốt một bài văn miêu tả đúng trình tự, đầy đủ nội dung, hay về ý tứ
lời văn, đẹp về hình ảnh sống động, dùng từ viết câu chính xác, rõ ràng giáo viên
cần yêu cầu học sinh chuẩn bị bài tốt trước khi đến lớp nhắc các em quan sát kĩ
cảnh vật, sự vật hoặc nhân vật nào đó trước khi vào học bài mới điều này giáo viên
cần dăn học sinh chuẩn bị trước. Trong khi giảng dạy tôi thấy học sinh lớp 5A của
tơi nhiều em có suy nghĩ cảnh vật quen thuộc hằng ngày rồi thì khơng cần phải
quan sát lại, điều này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hàng ngày chỉ cho ta những
nhận biết hời hợt, chung chung, chưa tồn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều
lượt bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú chính xác,
Quan sát trực tiếp cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài viết , tránh
được sự tẻ nhạt. Để làm được điều đó địi hỏi học sinh phải có vốn kiến thức về từ
ngữ, kiến thức về câu, về cách xây dựng văn bản, và đặc biệt là cách sắp xếp các
chi tiết miêu tả.
Khi học sinh đã được cung cấp những từ ngữ miêu tả rồi, giáo viên cần tổ
chức, hướng dẫn cho các em lập dàn ý, lựa chọn sắp xếp ý để miêu tả. Mục đích
xây dựng dàn ý là giúp học sinh xác định được đúng yêu cầu của từng phần: mở
bài, thân bài, kết bài, xác định thể loại và đối tượng miêu tả để tránh tình trạng học
sinh viết tràn lan, lạc đề và miêu tả không trọng tâm.
Giáo viên cần cho học sinh xác định đề văn thuộc thể loại văn gì? Đề bài yêu
cầu tả gì?
- Giáo viên nên gạch chân dưới những từ ngữ quan trọng để học sinh chú ý.
21


- Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh( Tả cảnh con

sông, tả cảnh cơng viên,….) thì giáo viên cần giới thiệu một số tranh ảnh minh họa
cho học sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều quan sát được.
*Hoạt động tiếp theo sau khi lập dàn ý là hoàn thiện dàn ý. Đây là bước quan
trọng, cần thiết để có được một bài tập làm văn viết tốt nhất.
Ví dụ đề văn: “ Quan sát trường em, từ những điều quan sát được, lập
dàn ý cho bài văn miêu tả ngôi trường( sách Tiếng Việt 5 )
- Giáo viên hướng dẫn học sinh cách lập dàn bài
+ Giúp học sinh nắm yêu cầu của đề bài: Miêu tả ngơi trường.
+ Hỏi dàn ý có mấy phần? là những những phần nào?
- Phần mở bài cần giới thiệu bao qt:
+ Vị trí ngơi trường: Ngơi trường nằm ở đâu? Quay mặt về hướng nào?
+ Đặc điểm của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý :
Tả từng phần của cảnh trường
+ Cổng trường( cổng như thế nào ? bản tên trường?)
+ Sân trường( sân trường ra sao? Cột cờ cây cối như thế nào?)
+ Lớp học các dãy lớp học như thế nào? Cách trang trí ra sao?...)
- Phần kết bài nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
Với cách làm như vậy, mỗi em sẽ có một ý khác nhau, một vẻ khác nhau nhưng
đều đảm bảo đủ ý chính của bài văn.
7 Trình bày bài viết hồn chỉnh.
Đây là khâu cuối cùng và quan trọng đánh giá cả một quá trình từ khâu chuẩn bị,
quan sát, tìm ý,lập dàn ý cho đến viết đoạn văn và hoàn chỉnh bài viết của mình.
Đến bước này thì trước khi học sinh làm bài giáo viên cần lưu ý các em khi làm
bài vào vở, học sinh cần chú ý cách trình bày bài văn hồn chỉnh.dựa theo cấu tạo
chung của thể loại văn. Bài viết phải được bố cục đầy đủ ba phần rõ ràng. Câu văn
có hình ảnh và đặc biệt các em cần sử dụng một số biện pháp nghệ thuật đã học.
22



Giáo viên cần gợi ý các em bằng một số câu hỏi dễ nhớ, dễ hiểu. Hướng cho các
em cách chọn chi tiết diễn đạt bắng câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện
pháp tu từ đã học. Tuy nhiên việc sử dụng hình ảnh so sánh nhân hóa đơi khi học
sinh sử dụng hình ảnh đó chưa chính xác.
Chẳng hạn với đề bài: “ Tả một người thân trong gia đình em” có em chọn tả mẹ:
Tơi đưa ra câu hỏi:
H: Khi tả mái tóc, nước da….. của mẹ em tả như thế nào?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của mẹ đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của mẹ đen như mun.
Chính vì thế, giáo viên nên lưu ý cho học sinh cách dừng hình ảnh sao cho đúng
và hợp lí.
* Ngồi việc giúp học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu văn
giáo viên cần giúp học sinh khi viết biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một bài
văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. cám xúc không chỉ bộc lộ ở
phần kết bài mà còn bộc lộ trong từng câu văn, từng đoạn văn. Để làm được điều
này chúng ta nên gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng bài.
Ví dụ: Hàng ngày được mẹ chăm sóc em có suy nghĩ gì?
( Mẹ là người đã dành nhiều tình cảm cho em chắp cánh cho em vững bước trong
cuộc đời.)
H: Được sống với mẹ em cảm thấy thế nào?
( Mẹ như một bà tiên hiền hậu luôn gần gũi yêu thương em.
* Tương tự như thế ở các đề văn khác tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ,
cảm xúc nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ nào đó của cảnh vật được
miêu tả. Nhờ đó mà bài văn của các em tránh được sự khơ khan, hay là mang tính
chất liệt kê sự việc mà thắm đượm cảm xúc của người viết
8 Chấm điểm và nhận xét bài viết

23



Việc chấm và chữa bài cho học sinh là việc làm rất quan trọng nó đánh giá cả
q trình chuẩn bị và làm bài của học sinh, đánh giá thành quả mà các em đạt được.
Vì vậy giáo viên cần làm kĩ bước này.
Chương trình Tập làm văn lớp 5 có:
+ 3 tiết trả bài tả cảnh.
+ 3 tiết trả bài tả người.
+ 4 tiết trả bài kể chuyện, đồ vật, cây cối, con vật.
Chúng ta thấy rằng có chấm và nhận xét bài đúng thì mới có tiết trả bài đạt
hiệu quả.
a. Chấm, nhận xét bài viết của học sinh:
Khi chấm bài Tập làm văn cho học sinh, trước hết tơi thường đọc để tìm hiểu
xem bài viết có đúng yêu cầu không? về bố cục của học sinh xem đã đầy đủ ba
phần rõ ràng chưa? Diễn đạt có chỗ nào chưa đúng , chưa hay, bài văn miêu tả có
trọng tâm khơng? Trong bài có câu văn đoạn văn nào hay, sử dụng biện pháp nghệ
thuật đặc sắc đáng để các bạn học tập. Tất cả những nhận xét đó đều được ghi ra sổ
của giáo viên và được ghi cụ thể từng bài viết của từng em.
Khi chấm và nhận xét xong cho cả lớp, tôi tổng hợp lại những lỗi mà học sinh
thường mắc và đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra những tiến bộ
cần phát huy, và những thiếu sót cần sửa chữa bổ sung để cho các em tránh gặp lại
những lỗi ấy ở bài viết sau.
b. Trả bài viết:
Khi trả bài viết cho học sinh giáo viên thường làm qua các hoạt động:
- Học sinh nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
- Chữa bài( chữa những lỗi sai trong bài làm của mình).
- Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút
kinh nghiệm.
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, giáo viên cần lấy thông tin từ bài viết của học
sinh (đã chấm và nhận xét ghi ở sổ ) và thực hiện các hoạt động trả bài, có linh

hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
24


* Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp gồm các bước sau:
- Bước 1: Đánh giá việc nắm vững các yêu cầu của đề bài (ghi đề, học sinh đọc đề
bài, xác định 3 yêu cầu: thể loại, nội dung và trọng tâm).
Đánh giá tình hình làm bài của lớp về mặt nhận thức đề (số bài đã đạt 3 yêu cầu
của đề, số bài chưa đạt hoặc đạt chưa đủ 3 yêu cầu. Biểu dương cá nhân, cả lớp...).
- Bước 2: Đánh giá về nội dung bài viết (cho học sinh nêu dàn ý chung của kiểu
bài tả cảnh,( tả người ….)
Đọc một vài đoạn văn của học sinh mà trong quá trình kiểm tra đánh giá giáo
viên đã chọn sẵn cho học sinh nghe và nhận xét, cuối cùng giáo viên đánh giá
chung về nội dung đoạn văn đó.
* Hoạt động 2: Chữa bài:
Nội dung và cách thức thực hiện sửa chữa lỗi diễn đạt:
- Đối với học sinh lớp 5A của tôi các em thường hay mắc chung lỗi nào nhất thì
tơi cho học sinh phát hiện và sửa lỗi đó trước. Phần lớn các em thường mắc lỗi
dùng từ ,đặt câu. Do vậy tôi ghi những lỗi này ra bảng yêu cầu học sinh sửa lại
thành câu văn đúng và hay. Đến lúc này GV tổ chức, hướng dẫn cho HS nhận xét,
sửa chữa. Định hướng như vậy sẽ giúp cho việc sửa chữa lỗi sát hợp và kịp thời
uốn nắn kĩ năng diễn đạt cho lớp.
- Để tránh nhàm chán trong các tiết trả bài tôi thường tập trung sửa chữa nhừng lỗi
cụ thể chính xác để khơng gặp phải ở những bài viết sau của học sinh đó, cũng như
các em khác không bị mắc phải những lỗi ấy trong bài viết của mình.
* Các bước tiến hành sửa lỗi cho học sinh:
Bước 1: Tham gia chữa lỗi chung cho cả lớp:
Bước 2: Học sinh đọc lại bài làm của mình, chú ý những chỗ mực đỏ ghi lời
khen, chê của cơ giáo. ( Ví dụ : câu hay, đoạn hay, hoặc lỗi dùng từ, lỗi viết câu, lỗi
chính tả…)

Bước 3: Học sinh tự chữa bài vào vở tập làm văn.
* Hoạt động 3:
25


×