PHỊNG GD & ĐT HUYỆN PHÚ BÌNH
CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TRƯỜNG TIỂU HỌC TT HƯƠNG SƠN
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
Phú Bình, ngày 25 tháng 4 năm 2014
BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NĂM HỌC 2013- 2014
SƠ LƯỢC LÝ LỊCH
1.Họ tên:
- Nguyễn Thị Vân Anh
- Sinh ngày 1 tháng 12 năm 1976
- Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Đại học tiểu học
2. Đơn vị công tác:
- Trường tiểu học TT Hương Sơn- huyện Phú Bình.
3. Tên sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A Trường tiểu học TT
Hương Sơn học tốt môn tập làm văn.”
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm:
Trong chương trình Tiểu học mơn Tiếng Việt là mơn học chiếm vị trí
quan trọng, chiếm thời lượng nhiều nhất so với các mơn học khác. Trong đó
phân mơn Tập làm văn lại chiếm thời lượng nhiều trong môn Tiếng Việt. Vì
vậy, việc dạy tập làm văn có vai trò hết sức cần thiết và là nền tảng để học
sinh học tốt các môn học khác và được nhiều thầy cô giáo quan tâm.
Học sinh tiểu học ngay từ lớp 1,2,3 đã được học được tiếp xúc với nhiều
loại văn bản khác nhau có nội dung gần gũi với cuộc sống và kỹ năng giao
tiếp của các em với cộng đồng. Tuy nhiên chương trình mới chuyển tải sự
thay đổi cả về nội dung và kỹ năng rèn luyện đến hình thức biện pháp và quy
trình lên lớp. Là giáo viên nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy lớp 5, lớp
cuối cùng của bậc tiểu học không ai tránh khỏi những băn khoăn. Trăn trở là
làm thế nào để giúp học sinh rèn luyện tốt kỹ năng làm văn.
Qua thực tế 14 năm giảng dạy lớp 5 tại Trường tiểu học TT Hương Sơn
tôi nhận thấy học sinh làm văn tốt chiếm tỉ lệ chưa cao. Tôi thầm hỏi: Tại
sao học sinh giỏi văn ít ỏi như vậy? Trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của
chúng ta, chúng ta luôn tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa
dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế làm buồn lòng
cho thầy cơ giáo chúng tơi vì học sinh giỏi văn cịn khiêm tốn. Trường tiểu
học TT Hương Sơn là trường đã nhiều năm giành lá cờ đầu của bậc tiểu học
trong toàn huyện mà số lượng học sinh giỏi văn cũng chưa được nhiều đặc
biệt là học sinh lớp 5A mà tôi đang trực tiếp giảng dạy các em làm văn cũng
chưa được tốt. Khi chấm bài tập làm văn, tôi nhận thấy đa số học sinh đã
biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn
về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa, câu văn miêu tả chưa hay, bài viết thiếu sự
hấp dẫn người đọc , người nghe. Học sinh xác định yêu cầu của đề bài còn
sai hay dùng từ đặt câu chưa đúng...
Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy, học môn tập làm văn ở
trường tiểu học? Câu hỏi này lâu nay đã làm bao thế hệ thầy cơ phải trăn trở
suy nghĩ tìm lời giải. Xuất phát từ yêu cầu quan trọng của môn học và từ
thực tế học sinh là động lực để tôi nghiên cứu và chọn viết đề tài:
“ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5A Trường tiểu học TT Hương
Sơn học tốt mơn tập làm văn”
II. Mục đích nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm:
- Giúp học sinh thấy được tầm quan trọng của phân mơn tập làm văn từ đó
có ý thức học tập tốt hơn.
- Tìm ra phương pháp để giảng dạy nhằm giúp học sinh học tập làm văn
tốt hơn, góp phần học tốt các môn học khác.
- Rèn kỹ năng làm văn cho học sinh.
- Tập dược bồi dưỡng nghiên cứu khoa học cho bản thân.
III. Đối tượng nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm:
- Học sinh lớp 5A Trường tiểu học TT Hương Sơn-Phú Bình.
- Sách giáo khoa và sách giáo viên Tiếng Việt lớp 5, các tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên và các chuyên đề giáo dục.
IV. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu:
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu chuẩn chương trình về nội dung dạy học phân môn tập làm
văn lớp 5.
- Nghiên cứu tình hình học tập của học sinh về phân mơn tập làm văn.
- Nghiên cứu chương trình Sách giáo khoa hiện hành để từ đó xây dựng
biện pháp thích hợp.
- Nghiên cứu hệ thống các biện pháp để thực hiện.
- Nghiên cứu những khó khăn vướng mắc của giáo viên và học sinh khi dạy
tập làm văn.
- Đề xuất những biện pháp khắc phục.
* Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp điều tra quan sát.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp chọn lọc chi tiết.
- Phương pháp thảo luận nhóm.
- Phương pháp thơng kê tổng hợp và một số phương pháp khác.
V.Phạm vi nghiên cứu:
Phân mơn Tập làm văn trong chương trình lớp 5 có rất nhiều thể loại, đề
tài này chỉ trình bày về kinh nghiệm dạy tập làm văn miêu tả.
VI.Thời gian nghiên cứu
- Từ giữa tháng 9 năm học 2013-2014 tôi đã xây dựng ý tưởng và viết đề
cương cho đề tài sau đó tiến hành khảo sát, ứng dụng các biện pháp và chỉnh
sửa hoàn thiện đề tài vào tháng 5 năm 2014.
PHẦN II. NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÍ LUẬN:
Tập làm văn là phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao, tổng hợp
các kiến thức kỹ năng từ tập đọc, kể chuyện, chính tả đến luyện từ và
câu….để có thể viết được một bài văn. Theo quan điểm tích hợp các phân
môn được tập hợp lại xung quanh chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung
cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng gắn bó chặt chẽ với nhau. Như vậy muốn
dạy - học có hiệu quả tập làm văn miêu tả nhất thiết người giáo viên phải
dạy học và hướng dẫn học sinh học tốt các môn học tập đọc, kể chuyện,
chính tả, luyện từ và câu vì trong các bài đọc, các câu chuyện, hay trong các
bài luyện từ và câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung
miêu tả rất rõ về cảnh vật con người.
Do vậy bài tập làm văn cần có tính sáng tạo nếu không sẽ trở nên khô
cứng, hoặc mang tính góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không
hồn nhiên, trong sáng mới mẻ để tạo sức hấp dẫn cho người đọc người nghe.
Chất lượng của bài văn là chất lượng của cảm thụ văn học của các kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ cho nên cả thầy cô và các em học sinh
phải dạy và học tích cực, nghiêm túc, hiệu quả mới mong nâng cao một cách
bền vững chất lượng môn Tiếng Việt, đặc biệt là tập làm văn ở lớp cuối cấp
bậc tiểu học. Trang bị cho các em những kiến thức cơ bản chuẩn bị cho cấp
học tiếp theo, chính vì vậy việc hình thành và rèn luyện kỹ năng viết văn cho
học sinh là một yêu cầu rất cần thiết.
Phân mơn tập làm văn góp phần rèn luyện cho hoc sinh các kỹ năng sử
dụng Tiếng Việt nghe, nói, đọc, viết. Bên cạnh đó thơng qua học tập làm văn
học sinh có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, của thiên nhiên qua các
bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề văn học sinh lại có dịp hướng
tới cái chân, thiện, mỹ được định hướng trong các đề bài. Những kiến thức
đó dã làm nảy nở tình cảm u mến, gắn bó với thiên nhiên với con người và
những việc xung quanh các em giúp cho tâm hồn tình cảm của các em thêm
phong phú.
Dạy tập làm văn lớp 5 phải đảm bảo mục tiêu yêu cầu cần đạt về kiến
thức kỹ năng của chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học theo chuẩn
kiến thức kỹ năng của từng môn học và phù hợp độ tuổi, trình độ học tập của
học sinh trong lớp.
Đó là những nhân tố quan trọng góp phần mở rộng vốn sống rèn luyện tư
duy bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ hình thành nhân cách tốt đẹp của
các em.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:
1. Thực trạng của học sinh
Năm học 2013-2014 tôi được Ban giám hiệu Nhà trường phân công chủ
nhiệm và giảng dạy lớp 5A..
* Tổng số học sinh: 35 em
Nam: 16 em.
Nữ: 19 em
Dân tộc: 4 em. Khuyết tật: 1 em
Qua kết quả thi khảo sát đầu năm, tôi thống kê được chất lượng học
phân môn Tập làm văn như sau:
GIỎI
KHÁ
TRUNG BÌNH
YẾU
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
35
4
11,4%
8
22,9%
15
42,8%
8
22,9%
Nhìn bảng thơng kê cho thấy các em học văn cịn có nhiều hạn chế
mặc dù các thể loại văn miêu tả đồ vật, cây cối, con vật các em đã được học
từ lớp 4 nhưng kết quả cho thấy có nhiều em cịn yếu về tập làm văn dẫn đến
chất lượng môn Tiếng Việt của lớp còn thấp.
Cũng như tất cả các trường tiểu học khác, trường Tiểu học Thị trấn
Hương Sơn cũng có hoạt động chủ đạo là hoạt động giáo dục với mục tiêu
nâng cao chất lượng dạy học mà đối tượng của hoạt động dạy học là học
sinh. Học sinh lớp 5A mà tơi phụ trách và tìm hiểu có đến 85% học sinh gia
đình thuần nơng . Đây là 1 trong những ảnh hưởng không nhỏ đến việc học
tập của các em. Qua việc điều tra thực trạng tôi đã thấy được những nguyên
nhân, hạn chế mà học sinh thường gặp.
* Những hạn chế của học sinh khi làm văn:
- Nhiều em khi viết văn còn liệt kê, kể lể dài dòng ,diễn đạt vụng về, lủng
củng, khi miêu tả chưa biết miêu tả kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật.
- Học sinh chưa xác định được trọng tâm đề bài yêu cầu.
- Đa số học sinh tỏ ra lúng túng khi làm bài, do vốn từ ngữ của các em còn
nhiều hạn chế, chưa biết cách mở rộng câu đúng thành câu hay.
- Các em chưa nắm chắc cách trình bày bài văn.
- Chưa biết cách sử dụng câu nêu ý bao trùm của đoạn, chuyển ý giữa các
đoạn, làm cho các đoạn văn trong một bài văn rời rạc, chưa logic.
- Trong khi viết, các em chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình.
- Các em chưa biết sử dụng các biện pháp miêu tả.
Từ thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết tập
làm văn trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với giáo viên tiểu học.
TSHS
Ý nghĩ cho rằng tập làm văn là một phân mơn khó dạy, khó học và khó đạt
hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng học tập làm văn của
học sinh không đạt yêu cầu? Qua q trình giảng dạy lớp 5 tơi nhận thấy học
sinh học yếu môn tập làm văn là do nhiều nguyên nhân.
2. Nguyên nhân của thực trạng
Qua quá trình giảng dạy và điều tra thực trạng của giáo viên và học sinh
lớp 5 trường tiểu học TT Hương Sơn Tôi nhận thấy có những nguyên nhân
cơ bản sau dẫn đến thực trạng các em học sinh lớp 5A học chưa tốt môn tập
làm văn:
a, Nguyên nhân khách quan
- Đa số học sinh con gia đình làm nơng nghiệp, điều kiện và thời gian học
tập có hạn
- Phụ huynh ít quan tâm tới việc học tập của học sinh
- Các cấp các nghành ở địa phương còn nghèo, chưa thực sự quan tâm động
viên các em kịp thời
-Tại tệ nạn xã hội dẫn đến nhiều em mồ côi và không đủ điều kiện
b, Nguyên nhân chủ quan
*Giáo viên:
Chất lượng học môn tập làm văn chưa cao cũng một phần thuộc về
trách nhiệm của giáo viên, phân môn tập làm văn là một mơn học mang tính
tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay giáo viên chưa tìm ra cách phát huy tối
đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho
các em lòng yêu quý Tiếng Việt.
Giáo viên chưa nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, khơng nắm chắc
mục tiêu của bài dạy, chưa đầu tư nhiều vào cơng tác chuẩn bị cho tiết dạy,
cịn thiếu tính tự giác trong vấn đề bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Nhiều
giáo viên phải dạy 2 buổi/ ngày gây ảnh hưởng đến chất lượng dạy học.
*Học sinh:
1. Khi làm bài học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề
bài.
2. Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
3. Khi quan sát thì các em chưa được hướng dẫn cụ thể kỹ năng quan
sát,quan sát những gì quan sát từ đâu? Làm thế nào để phát hiện
được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
4. Khơng biết hình dung bằng hỉnh ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật
miêu tả khi quan sát.
5. Vốn từ ngữ của các em còn nghèo nàn lại không biết sắp xếp như
thế nào để bài viết được mạch lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ
ngữ, ngơn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật về một con người
cụ thể nào đó.
Từ những lí do trên, là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em, tơi
suy nghĩ làm sao tìm ra biện pháp giảng dạy phù hợp để giúp học sinh học
tập làm văn tốt hơn.
CHƯƠNG II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu chương trình tập làm văn lớp 5, tôi nhận thấy phân môn
Tập làm văn trong chương trình lớp 5 mới gồm các tuyến kiến thức:
- Văn miêu tả: + Tả cảnh
+ Tả người
- Các loại văn bản khác: + Báo cáo thống kê.
+ Làm đơn.
+ Thuyết trình, tranh luận.
+ Làm biên bản. . .
Trong đó thể loại văn miêu tả khá trọng tâm và quan trọng trong
chương trình Tập làm văn lớp 5. Bởi văn miêu tả vẽ ra các sự vật, sự việc,
hiện tượng, con người. . . bằng ngôn ngữ một cách sinh động, cụ thể. Văn
miêu tả giúp người đọc nhìn rõ chúng, tưởng như mình đang “xem tận mắt,
bắt tận tay”. Tuy nhiên, để thực hiện được các điều này quả là một điều
không đơn giản. Việc làm trước tiên của tôi là tiến hành điều tra thực trạng
học sinh trong lớp qua kết quả chất lượng đầu năm, đánh giá kĩ năng làm
văn theo 4 mức: Giỏi –khá – trung bình – yếu.
TSHS
21
GIỎI
SL
TL
2
9,5%
KHÁ
SL
TL
6
28,6%
TRUNG BÌNH
SL
TL
11
52,4%
YẾU
SL
TL
2
9,5%
I. Biện pháp tiến hành:
- Nghiên cứu sách giáo viên, các tài liệu tham khảo liên quan đến việc
dạy và học phân môn Tập làm văn lớp 5 mới.
- Dạy học bằng các phương pháp và hình thức phù hợp nhằm phát huy
tính tích cực học tập môn tập làm văn của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học có hiệu quả ( Tranh ảnh, vật thật ).
- Quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp - đặc biệt là các đối
tượng học sinh yếu; trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ khi các em gặp lúng túng
trong giờ học.
- Kết hợp với các môn học khác cung cấp thêm vốn từ cho học sinh.
- Bản thân giáo viên ln tìm tịi, học hỏi kinh nghiệm qua sách báo, qua
đồng nghiệp để cải tiến, đầu tư cho mỗi bài dạy.
Công việc này được tôi tiến hành xuyên suốt ngay từ đầu năm học.
Đối với học sinh lớp 5 ở địa bàn tôi trực tiếp giảng dạy, vốn ngơn ngữ
của các em cịn rất nhiều hạn chế - đặc biệt là các em chưa biết cách trau
chuốt, gọt giũa lời văn, câu văn được bóng bẩy, mang tính “Nghệ thuật”, mà
đa số các em “nghĩ sao thì viết vậy”; Cho nên việc trước tiên là giáo viên
cần kết hợp với các phân môn trong môn Tiếng Việt – nhất là phân môn
luyện từ và câu - cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh, uốn nắn cho các em
cách dùng từ, đặt câu, hướng cho các em từ “ngôn ngữ tự nhiên” thành
“ngôn ngữ nghệ thuật”. Kết quả cuối cùng của việc dạy Tập làm văn là hiệu
quả của những bài văn. Bài văn hay là bài văn đạt tốt các yêu cầu về nội
dung, nghệ thuật và cảm xúc. Vì vậy, trong mỗi giờ Tập làm văn giáo viên
cần thực hiện tốt các yêu cầu này.
Ở lớp 5, để viết bài văn miêu tả, học sinh thường trải qua các khâu cơ
bản là:
- Tìm hiểu cấu tạo của bài văn tả cảnh hoặc tả người.
- Phân tích các văn bản mẫu.
- Quan sát, lập dàn ý chi tiết.
- Viết thành bài văn hoàn chỉnh.
- Học tập, rút kinh nghiệm qua giờ trả bài.
Để tiến hành mỗi hoạt động trong từng tiết học có hiệu quả, giáo viên
và học sinh lần lượt giải quyết các yêu cầu nói trên.
1. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
Để học sinh học tốt tập làm văn, trước khi thực hiện một yêu cầu của đề
bài nào đó, giáo viên cần giúp học sinh hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ để
bài học để học sinh có vốn từ ngữ mà vận dụng trong khi làm bài. Từ đó
giúp các em đỡ phải lúng túng.
Ví dụ: Khi dạy bài tập làm văn: Viết một đoạn miêu tả cảnh sông nước
( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 74 ).
Giáo viên cần giúp các em hệ thống hoá các từ ngữ thuộc chủ đề sông
nước.
Chẳng hạn: lăn tăn, êm đềm, man mác, quanh co, xanh thẳm, lung
linh,...
2. Mở rộng câu đúng thành câu hay:
Do kĩ năng đặt câu của học sinh còn nhiều hạn chế nên giáo viên cần
giúp choi các em ôn luyện cách đặt câu đúng và từ câu đúng biết cách mở
rộng thành câu hay để sử dụng trong bài văn.
Ví dụ : Khi dạy bầi : Viết đoạn văn tả cảnh một buổi sáng ( hoặc trưa,
chiều ) trong vườn cây ( hay trong công viên, trên đường phố, trên cánh
đồng, nương rẫy ).
( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 22 ). Sau khi giúp học sinh xác định đề bài,
giáo viên cần giúp các em cách đặt câu đúng và từ câu đúng mở rộng thành
câu hay để vận dụng vào bài văn.
Chẳng hạn: Mặt trời mọc. ( Câu đúng )
Mở rộng : Ở chân trời phía đơng, Ơng mặt trời từ từ dâng cao trên
đỉnh núi.
Chim hót. ( Câu đúng )
Mở rộng : Trong vịm là xanh, con chim chào mào hót líu lo như đón
chào ngày mới.
3. Tìm hiểu cấu tạo bài văn tả cảnh hoặc tả người:
- Từ một văn bản mẫu, giáo viên hướng dẫn học sinh xác định mở bài,
thân bài, kết bài cua bài văn tả cảnh, tả người.
- Cho học sinh rút ra ghi nhớ về cấu tạo của bài văn tả cảnh ( tả người ).
- Sau đó lưu ý cho học sinh về cách trình bày bài văn sao cho tách bạch
rõ 3 phần của một bài tập làm văn.
4. Phân tích các văn bản mẫu:
- Với các văn bản mẫu, giáo viên cần hướng dẫn học sinh tập trung vào
việc tìm hiểu cái hay, cái đẹp trong bài văn. Đồng thời cũng chú tâm vào
việc tìm hiểu cách sử dụng các giác quan khi quan sát và cách chọn lọc chi
tiết để tả. Ngồi ra cịn có thể kết hợp với việc quan sát các cảnh thông qua
tranh, ảnh, ...
Ví dụ:
•
Bài “Luyện tập tả cảnh”- Sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 14.
- Cho học sinh đọc bài văn “Buổi sớm trên cánh đồng”.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích bài văn bằng các câu hỏi:
+ Tác giả tả những sự vật gì trong buổi sớm mùa thu ?
+ Tác giả quan sát sự vật bằng những giác quan nào ?
+ Tìm một chi tiết thể hiện sự quan sát tinh tế của tác giả.
- Sau khi tìm hiểu xong bài văn, Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh
thấy nghệ thuật quan sát và chọn lọc chi tiết tả cảnh của tác giả bài văn.
* Bài “Luyện tập tả cảnh”- sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 21.
- Yêu cầu của bài này là học sinh phân tích 2 văn bản “Rừng trưa” và
“Chiều tối” để thấy được những hình ảnh đẹp trong mỗi bài văn.
- Cách tiến hành bài này là:
+ Cho học sinh đọc lần lượt từng bài văn.
+ Giáo viên giới thiệu tranh, ảnh về rừng tràm cho học sinh quan sát.
+ Cho học sinh nêu ý kiến về hình ảnh mà các em thích trong mỗi bài
văn. Có thể u cầu các em nêu lí do vì sao mình thích hình ảnh đó.
- Giáo viên cần tôn trọng ý kiến của học sinh, đặt biệt khen ngợi
những em tìm được những hình ảnh đẹp.
+ Sau cùng, giáo viên chốt lại các hình ảnh đẹp ở từng bài văn và
hướng cho học sinh nên đưa các hình ảnh đẹp vào bài văn miêu tả.
5. Quan sát, lập dàn ý chi tiết:
- Để làm tốt được bài văn miêu tả, giáo viên cần yêu cầu học sinh có
sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp – đó là nhắc các em quan sát kĩ cảnh vật,
sự vật hoặc một người nào đó trước khi vào học bài mới, điều này giáo viên
nhắc nhở các em trong phần dặn dò cuối buổi học. Bởi học sinh hay nghĩ
rằng với cảnh vật quen thuộc hằng ngày thì khơng cần phải quan sát lại, điều
này là hoàn toàn sai lầm. Sự tiếp xúc hằng ngày chỉ cho ta những nhận biết
hời hợt, chung chung, chưa tồn diện. Có quan sát kĩ nhiều mặt, nhiều lượt,
bằng nhiều giác quan thì mới có những hiểu biết đầy đủ, phong phú và chính
xác. Quan sát trực tiếp còn cho ta những cảm xúc “nóng hổi” để đưa vào bài
viết, tránh được sự tẻ nhạt.
- Bên cạnh, giáo viên cần nhắc các em quan sát phải đi đơi với việc tìm
từ ngữ để diễn tả đúng và sinh động điều đã quan sát được.
- Cân nhắc để lựa chọn được một thứ tự sắp xếp các chi tiết sẽ tả mà
mình coi là thích hợp hơn cả.
- Khi vào học bài mới, giáo viên ln nhắc học sinh nhớ: Mỗi bài văn
cần có bố cục 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài. Với mỗi bài văn, công việc
đầu tiên của tôi là yêu cầu học sinh tìm hiểu đề bài; học sinh đọc kĩ đề bài
nhiều lần rồi trả lời các câu hỏi về vấn đề chính trong đề bài.
+ Đề bài thuộc thể loại gì ? Đề bài yêu cầu tả gì ?
- Giáo viên gạch chân bằng phấn màu dưới các từ ngữ quan trọng để
học sinh chú ý.
- Nếu đối tượng miêu tả không thực tế và gần gũi với học sinh (tả
cảnh con sông, tả cảnh ở cơng viên, …) thì giáo viên cần giới thiệu một số
tranh ảnh minh họa cho học sinh quan sát.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý từ những điều đã quan sát được.
Ví dụ:
* Quan sát trường em. Từ những điều đã quan sát được, lập dàn ý cho
bài văn miêu tả ngôi trường ( sách Tiếng Việt 5 tập 1 trang 43 ).
- Trước khi hướng dẫn học sinh lập dàn ý, nhắc học sinh một số điểm
lưu ý:
+ Có thể tả ngơi trường vào một thời điểm nhất định ( sáng – trưa chiều; mùa đông - mùa hè…); Cũng có thể tả ngơi trường với cảnh sắc thay
đổi theo thời gian ( Từ sáng đến chiều; từ mùa xuân đến mùa hè…).
+ Nên tả theo trình tự quan sát sát từ xa đến gần, từ ngoài vào trong…
hoặc ngược lại, tả gần đến xa, từ trong ra ngồi…
+ Ngơi trường nào cũng gắn với các hoạt động của thầy và trò. Tuy
nhiên chỉ nên tả lướt qua hoạt động này để không biến bài văn tả cảnh thành
bài văn tả cảnh sinh hoạt.
Sau khi nêu một số điểm lưu ý để học sinh nhớ, giáo viên hướng dẫn
học sinh cách lập dàn bài.
- Giúp học sinh nắm yêu cầu của bài: Miêu tả ngôi trường.
- Nhắc học sinh: Dàn ý cũng cần có đủ 3 phần: Mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần mở bài cần giới thiệu bao qt:
+ Vị trí của ngơi trường: Ngơi trường nằm ở đâu ? Quay mặt về
hướng nào?
+ Đặc điểm nổi bật của ngôi trường.
- Phần thân bài gồm các ý:
+ Tả từng phần của cảnh trường:
Cổng trường ( cổng như thế nào ? Bản tên trường ra sao ? ).
Sân trường ( sân trường ra sao ? Cột cờ, cây cối như thế nào? ).
Lớp học ( các tòa nhà như thế nào? Các lớp học được trang trí ra
sao?...).
- Phần kết bài cần nêu cảm nghĩ của em về ngôi trường.
Như vậy, mỗi em mỗi ý, mỗi vẻ khác nhau nhưng đều bảo đảm đủ ý
chính.
6. Chuyển một phần dàn ý thành đoạn văn:
Để học sinh diễn đạt được bài văn của mình một cách sinh động, có
nghệ thuật, các em thường được trau dồi qua tiết học “Chuyển một phàn dàn
ý thành đoạn văn”.
- “Một phần của dàn ý” có thể là mở bài, kết bài, cũng có thể là một
phần của thân bài.
- Phần này, giáo viên cần nhắc nhở các em vận dụng cách mở rộng câu
đúng thành câu hay để đưa vào bài văn
* Phần mở bài:
Các em có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp; có em mở bài chỉ bằng
một câu nhưng cũng có em mở bài bằng cả một đoạn văn. Nhưng không ai
được tách rời nội dung đã xây dựng được. Ở đây, tùy nghệ thuật vào bài của
mỗi em mà giáo viên góp ý, khơng nên gị bó, áp đặt.
Ví dụ:
Đề bài: “…..Miêu tả một cảnh sông nước ( một vùng biển, một con
sông, một con suối hay một hồ nước ) ( Tiếng Việt 5 - Tập 1 – Trang 62)
- Có em mở bài thẳng ln vào đề: “Q em có một con suối rất đẹp”.
- Có em mở bài rất sinh động: “Mỗi miền quê có một vẻ đẹp riêng.
Quê hương tơi có dịng suối hiền hồ quanh năm nước chảy”.
Nhờ khuyến khích học sinh diễn đạt phần mở bài bằng những cách
khác nhau mà vẫn đảm bảo nội dung chính, các em đã viết được nhiều bài
văn hay, có tính nghệ thuật.
* Phần thân bài:
- Đa phần các em học sinh rơi vào tình trạng liệt kê các chi tiết của
cảnh hoặc của người. Ví dụ: Mẹ em có mái tóc dài, dáng người cao, hàm
răng trắng,.... Vì vậy giáo viên cần lưu ý việc cách mở rộng câu đúng thành
câu hay để học sinh vận dụng thì bài văn sẽ hay hơn.
- Điều quan trọng là phải lưu ý cho học sinh phải bám vào các chi tiết
đã lập ở dàn bài để chuyển thành bài văn, đoạn văn, tránh một số trường
hợp, học sinh viết bài văn một cách ngẫu hứng không bám theo dàn ý đã lập
làm cho bài văn có thể sẽ mất đi tính logic hay tính cân đối do khơng chủ
động được thời gian
* Phần kết bài:
Có nhiều cách kết bài khác nhau: Kết bài mở rộng, kết bài không mở
rộng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ nội dung chính. Vì vậy, giáo viên
cần giúp các em nêu cảm xúc một cách chân thực, tránh sáo rỗng. Đồng thời
mở rộng thêm về ý thức, trách nhiệm giữ gìn đối với cảnh và nêu việc làm
cụ thể để bày tỏ cảm xúc chân thực.
7. Viết thành bài văn hoàn chỉnh:
Để giúp học sinh viết một bài văn hoàn chỉnh, tôi tiến hành các bước:
* Tập diễn đạt câu văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp nghệ
thuật đã học.
- Để tiến hành, tôi gợi ý cho các em những câu hỏi dễ hiểu, dễ nhớ.
- Tôi luôn hướng dẫn các em biết lựa chọn chi tiết, diễn đạt bằng câu
văn có hình ảnh và sử dụng một số biện pháp tu từ đã học như: so sánh, nhân
hóa… trong các kiểu bài tập làm văn.
Tuy nhiên khi vận dụng những hình ảnh so sánh, nhân hóa- đơi khi
học sinh dùng những hình ảnh chưa chính xác.
Chẳng hạn với đề bài “Tả một người thân trong gia đình em”. Có em
chọn tả chị gái của mình. Tơi hỏi:
+ Hình dáng (mái tóc, hàm răng, nước da…) của chị tả như thế nào ?
- Học sinh nêu:
+ Mái tóc của chị đen và dài như những sợi dây.
+ Nước da của chị đen như mun.
+ Răng của chị rất trắng; …
- Chính vì thế, giáo viên cần hướng cho học sinh biết cách dùng những
hình ảnh so sánh hợp lí hơn.
Ví dụ: Mái tóc của chị gái em đen và mượt mà như dịng suối xỗ
cuống ngang vai. Mỗi khi chị cười để lộ ra hàm răng trắng đều như hạt bắp.
Chị em có làn da ngăm đen nhưng trơng chị rất có dun.
- Tương tự, trong các đề bài khác giáo viên cũng nên hướng dẫn cho
các em :
+ Cô hiền như cô Tấm trong truyện cổ tích.
+ Mái tóc của bà trắng như mái tóc của các diễn viên trong tuồng
chèo.
- Ngoài ra, giáo viên nên kết hợp những câu hỏi gợi ý để giúp học sinh
bổ sung, sửa chữa các câu văn, đoạn văn chưa sử dụng biện pháp nghệ thuật.
Bộc lộ cảm xúc trong bài văn :
- Ngoài việc giúp HS sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong các câu
văn, giáo viên cần giúp học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn. Bởi một
bài văn hay không thể thiếu được cảm xúc của người viết. Cảm xúc không
chỉ bộc lộ ở phần kết bài mà còn cần thể hiện trong từng câu, từng đoạn của
bài văn. Điều này chúng ta cần gợi ý cho các em một cách cụ thể trong từng
bài.
Ví dụ:
- Được sống với bà, em thấy như thế nào ?
(Bà gần gũi, chăm sóc em chu đáo như một bà tiên hiền hậu; em luôn
giúp bà làm mọi việc để bà đỡ vất vả).
+ Được bà chăm sóc hàng ngày em nghĩ gì ?
(Tình cảm gần gũi thương yêu của bà như chắp cánh cho em vững
bước trong cuộc đời).
Tương tự như vậy, tôi yêu cầu học sinh đưa ra những suy nghĩ, cảm
xúc nhận xét trước một sự vật hay hiện tượng bất kỳ. Bài văn của học sinh
tránh được nhược điểm khô khan, liệt kê sự việc mà thấm đượm cảm xúc
của người viết.
II. Kết quả đạt được:
Qua quá trình áp dụng giảng dạy theo phương pháp trên, đến nay tôi
nhận thấy các em có nhiều tiến bộ so với đầu năm học. Những học sinh yếu
về kĩ năng viết văn miêu tả nay đã mạnh dạn, tự tin và có hứng thú hơn trong
giờ học Tập làm văn. Còn những em học lực trung bình và khá đã tự mình
viết được một bài văn, một đoạn văn theo yêu cầu của đề bài. Tuy những bài
văn, đoạn văn đó có thể chưa hay, chưa sinh động nhưng các em đã tự viết
bằng chính tư duy của mình.
Qua một thời gian áp dụng giảng dạy môn tập làm văn theo các biện
pháp trên, đến nay tôi thống kê kết quả đạt được như sau:
TSHS
21
GIỎI
SL
6
TL
28,6%
KHÁ
SL
9
TL
42,8%
TB
SL
5
TL
23,8%
YẾU
SL
1
TL
4,8%
Kết quả đạt được như trên tuy chưa cao, nhưng đã phần nào đánh dấu
bước thành công là làm cho học sinh có kĩ năng làm văn miêu tả tốt hơn,
giúp các em tự tin hơn trong môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
Do vậy, từ nay đến cuối năm học tôi luôn cố gắng phát huy, tìm tịi và vận
dụng phương pháp tốt nhất để học sinh lớp tôi đạt chất lượng tốt hơn.
PHẦN THỨ BA
KẾT LUẬN
Tập làm văn là phân môn tổng hợp của tất cả các phân môn trong môn
Tiếng Việt. Học tốt tập làm văn sẽ giúp các em có nền tảng vững chắc để học
tốt các môn học khác. Với việc nghiên cứu và áp dụng những biện pháp của
đề tài này tôi thấy bước đầu mang lại kết quả tốt đẹp. Tuy nhiên học tập là
một quá trình, muốn đạt được kết quả cần có sự hợp tác từ nhiều phía mà
đặc biệt là học sinh và giáo viên. Hơn nữa, học tập làm văn cần có sự tích
hợp của nhiều mơn học, các em phải có vốn hiểu biết về các hiện tượng tự
nhiên và xã hội xung quanh chúng ta thì các em mới đưa các hình ảnh, các
dẫn chứng vào bài văn của mình để bài văn sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
Tuy nhhiên, do khả năng của bản thân còn nhiều hạn chế, cũng như điều
kiện công tác, những biện pháp của đề tài này chắc hẳn chưa thể nào đáp
ứng được một cách chu toàn cho mọi nơi mọi lúc. Chính vì vậy, trong q
trình áp dụng, đơi chỗ cịn khập khiễn, chưa mang lại hiệu quả như mong
muốn. Rất mong nhận được sự quan tâm, chia sẻ và đóng góp ý kiến để đề
tài mang tính khả thi rộng khắp hơn và ngày càng hồn thiện hơn. Từ đó góp
phần nâng cao chất lượng học tập làm văn của học sinh lớp 5 làm nền tảng
cho việc học tốt các môn học khác, đáp ứng nhu cầu về chất lượng mà xã hội
đặt ra cho ngành Giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
NGƯỜI VIẾT