LỜI CẢM ƠN
Thời gian đã nuôi bao thế hệ học trò khôn lớn,và thực tế cũng cho chúng
ta thấy,trên bước đường học tập, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân thì sự
giúp đỡ, hỗ trợ của thầy cô là một phần không thể thiếu. Chính vì vậy mà những
người đi trước đã nhắc nhở bao thế hệ học sinh,sinh viên về công lao to lơn đó
rằng “ không thầy đố mày làm nên” hay “ một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là
thầy”.
Trong suốt thời gian học môn Quản trị học,em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến thầy ThS. Vi Tiến Cường ,giảng viên đã hướng dẫn cho em trong suốt
quá trình của môn học. Cảm ơn thầy đã chỉ bảo em tận tình, giảng giải cho em
những vấn đề chưa rõ. Những tri thức mà thầy truyền đạt cho em sẽ là hành
trang giúp em vững bước hơn trên con đường tự lập dài phía trước.
Cuối cùng,em xin kính chúc thầy sức khỏe, thành công trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống và ngày càng đào tạo thêm được nhiều sinh viên ưu tú góp phần
nâng cao chất lượng sinh viên đầu ra.
Em xin chân thành cảm ơn.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Phong cách lãnh đạo của Steve Jobs tại tập
đoàn Apple giai đoạn 1997- 2011” là tiểu luận của tôi, không sao chép nội dung
của người khác. Nếu sai tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 10 tháng 9 năm 2017
HỌC VIÊN
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Câu chuyện về Steve Jobs là sự tạo hóa kỳ diệu của tinh thần doanh nhân
mà ai cũng phải thừa nhận. Với những phẩm chất tuyệt vời của một nhà quản trị
kinh doanh xuất sắc, Steve Jobs đã gầy dựng cho mình một sự nghiệp vĩ đại.
Steve Jobs nổi lên như một biểu tượng tối cao của sức sáng tạo, trí tưởng tượng,
và sự đổi mới trường tồn, ông hiểu rằng cách tốt nhất để tạo ra giá trị đích thực
trong thế kỷ XXI này là việc kết nối óc sáng tạo với khoa học công nghệ, vì thế
ông đã xây dựng một công ty nơi mà trí tưởng tượng đột phá được kết hợp với
những thành tựu đáng kinh ngạc của kỹ thuật. Với những đóng góp không mệt
nghỉ của mình cho Apple, ông đã giúp công ty trở thành một trong những công
ty lớn nhất thế giới (với giá trị vốn hoá thị trường là cao nhất thế giới). Tuy
nhiên, cuộc đời doanh nhân tài ba này đã kết thúc ở tuổi 56 (ngày 05/10/2011) vì
căn bệnh ung thư. Ông ra đi để lại bao nuối tiếc cho mọi người.
Steve Jobs được cho là bậc thầy của nghệ thuật quản trị với phong cách
lãnh đạo độc đoán của mình. Jobs đã thể hiện tài quản trị của mình giúp cho
công ty Apple thoát khỏi bờ vực phá sản năm 1997 và đạt được nhiều thành
công như ngày hôm nay. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Phong cách lãnh đạo của
Steve Jobs tại tập đoàn Apple giai đoạn 1997- 2011” để làm tiểu luận môn
“Quản trị học” với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn nghệ thuật lãnh đạo của
ông.
2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu
Phong cách lãnh đạo độc đoán của Steve Jobs tại tập đoàn Apple
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
- Trình bày những lý luận cơ bản về phong cách lãnh đạo.
- Trên cơ sở những lý luận cơ bản kết hợp với hiểu biết thực tế về đối
tượng nghiên cứu nhằm chỉ ra những đặc trưng riêng; phân tích và làm rõ những
thành công, tồn tại và các giải pháp khắc phục của đối tượng nghiên cứu.
Về thời gian:
Phong cách lãnh đạo của Steve Jobs từ khi ông trở lại Apple từ năm 1997
đến năm 2011
4
3. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và làm rõ phong cách lãnh đạo của Steve Jobs tại Apple để rút
ra những đặc trưng trong phong cách lãnh đạo của Steve Jobs, chỉ rõ nhưng
thành công, tồn tại do phong cách lãnh đạo này tạo ra. Đồng thời, từ những phân
tích đó, chúng ta đưa ra những giải pháp giúp hoàn thiện hơn phong cách lãnh
đạo của Steve Jobs.
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu được sử
dụng
Bài nghiên cứu của em đã sử dụng hai phương pháp nghiên cứu bao
gồm phương pháp luận và các phương pháp cụ thể
- Phương pháp luận khoa học chung,
+ diễn dịch ( đi từ những nguyên lý chung đến kết luận riêng )
+ quy nạp ( đi từ những hiện tượng, sự kiện riêng đến kết luận chung ).
- Phương pháp cụ thể
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp phân tích
+ Phương pháp chức năng.
+ Phương pháp so sánh đối chiếu.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài nghiên cứu “” gồm trang với ba phần : phần mở đầu, phần nội
dung và phần kết luận.
Trong phần nội dung gồm có ba chương:
Chương 1: Cơ sở ý luận chung
Chương 2:Phong cách lãnh đạo của Steve Jobs tại tập đoàn Apple giai
đoạn 1997- 2011
Chương 3:Giải pháp hoàn thiện phong cách lãnh đạo của Steve Jobs
5
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1.Khái quát chung về quản trị học
1.1.1.Định nghĩa về quản trị
Thuật ngữ quản trị được giải thích bằng nhiều cách khác nhau ví như
Mary Parker Follett cho rằng “Quản trị là nghệ thuật đạt được mục đích thông
qua người khác”, định nghĩa này nói lên rằng những nhà quản trị đạt được mục
tiếu của tổ chức bằng cách sắp xếp giao việc cho người khác chứ không phải tự
hoàn thành công việc bằng chính mình.
Koontz và O’Donnell định nghĩa rằng: “Có lẽ không có lĩnh vực họa động
nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản trị
ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có một nhiệm vụ cơ bản là thiết kế và duy
trì môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm để
hoàn thnahf các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định.”
James Stoner và Stephen Robbins đã định nghĩa khá rõ nét về quản trị:
“Quản trị là tiến trình hoạch đinh, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát hoạt động của
các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác của tổ chức
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.”
Tuy nhiên theo các thuyết quản trị hiện đại thì “Quản trị là quá trình làm
việc với và thông qua những người khác để thực hiện những mục tiêu chung của
tổ chức trong một môi trường luôn biến động.”
Khi cá nhân tự mình hoạt động thì không cần phải làm những công việc
quản trị. Trái lại, công việc quản trị lại cần thiết khi có các tổ chức. Bởi vì nếu
không có kế hoạch, không có tổ chức, không có sự kích thích động viên nhau,
cũng như không có một sự kiểm tra chu đáo công việc của mỗi người, thì mỗi
người, mỗi bộ phận trong cùng một tổ chức sẽ không biết phải làm gì, và mục
tiêu chung sẽ không bao giờ đạt được. Tổ chức nào cũng cần làm những hoạt
động quản trị, dù tổ chức đó là một công ty liên doanh, hoặc là một xí nghiệp cơ
khí.
6
1.1.2.Chức năng và vai trò của quản trị trong tổ chức.
1.1.2.1.Chức năng của quản trị
- Chức năng hoạch định: là chức năng đầu tiên trong quá trình hoạch
định bao gồm: xác định mục tiêu hoạt đọng, xây dựng chiến lược tổng thể để đạt
được mục tiêu, và thiết lập hệ thông các kế hoạch để phối hợp các hoạt động.
Hoạch định liên quan đến dự báo và tiên liệu tương lai, những mục tiêu
cần đạt được và phương thức đề đạt được mục tiêu đó. Nếu không lập kế hoạch
thạn trọng và đúng đắn thì dễ dẫn đến thất bại trong quản trị. Nhiều tổ chức
không hoạt động được hoặc chỉ hoạt động được một phần công suất do ký năng
hoạch định kém.
- Chức năng tổ chức: tổ chức là quá trình tạo ra một cơ cấu các mối quan
hệ giữa các thành viên trong tổ chức, thông qua đó cho phép họ thực hiện các kế
hoạch và hoàn thành mục tiêu chung của tổ chức
Tiến trình của tổ chức bao gồm việc thiết lập các bộ phận, phòng ban và
xây dựng các bản mô tả công việc. việc tuyển dụng và bổ nhiệm nhân sự cũng
xuất phát trự tiếp từ hoạch định và tổ chức.
-Chức năng lãnh đạo: sau khi đã hoạch định, tạo ra một tổ chức và tuyển
chọn nhân sự phù hợp các nhà quản trị phải lãnh đạo tổ chức. lãnh đạo bao hàm
việc đưa ra các mệnh lệnh, truyền đạt thông tin đến mọi người, động viên và
thúc đẩy họ hoàn thành những nhiệm vụ cần thiết để thực hiện mục tiêu chung
của tổ chức. Chức năng lãnh đạo có mội liên hệ chặt chẽ với tất cả những chức
năng quả trị khác.
- Chức năng kiểm soát: kiểm soát là quá trình giám sát một cách chủ
động đối với một công việc hay một tổ chức thực hiện nhiệm vụ và tiến hành
những hoạt động điều chỉnh cần thiết. Hiệu suất là sự kỳ vọng về công việc được
hoàn thành với chi phí phù hợp. Nếu không đạt hiệu suất mong muốn nhà quản
trị cần có những biện pháp điều chỉnh cho phù hợp.
Chu kỳ của quá trình kiểm soát diễn ra như sau:
•
Các nhà quản trị thiết lập các tiêu chuẩn công việc
•
Đo lường múc độ hoàn thành công việc so với các mục tiêu đã đề ra
7
•
Tiến hành điều chỉnh bất cứ lệch chuẩn nào
•
Tiến hành điều chỉnh các tiêu chuẩn nếu cần thiết
Ngoài ra quản trị còn có một số chức năng khác như: chức năng ra quyết
định,chức năng nhân sự, truyền thông, thúc đẩy và động viên.
1.1.2.2.Vai trò của quản trị
Quản trị quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức. Không có các hoạt
động quản trị mọi người trong tập thể sẽ không biết phải làm gì, làm lúc nào và
công việc sẽ diễn ra một cách lộn xộn
Quản trị giúp tổ chức hoạt động hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra bằng
cách hoạch định công việc, hướng mọi người phối hợp hoạt động, cùng hướng
về mục tiêu chung.
Quản trị còn giúp tổ chức điều khiển và kiểm soát quá trình hoạt động, tạo
ra hệ thống,quy trình phối hợp hợp lý nhằm đạt tối đa hiệu suất, giúp tổ chức sử
dụng tốt nguồn lực để duy trì họa động và đạt được mục tiêu với chi phí thấp
nhất.
1.2.Phong cách lãnh đạo
1.2.1.Khái niệm
Lãnh đạo là quá trình gây ảnh hưởng đến hoạt động của một cá nhân hoặc
một nhóm, nhằm đạt được mục đích trong những điều kiện cụ thể nhất định.
Lãnh đạo là khả năng lôi cuốn người khác đi theo mình, là biết tạo ra mối ràng
buộc giữa người và công việc bằng cách quan tâm cả hai.
Lãnh đạo là khả năng thuyết phục và gây ảnh hưởng trên người khác để
hoàn thành những mục tiêu mong muốn. Nói cách khác, lãnh đạo thiên về khía
cạnh nhân bản và nhắm đến “người” để nối kết họ thành một đội ngũ và động
viên họ tiến tới mục tiêu mong muốn.
“Phong cách lãnh đạo là cách thức theo đó người lãnh đạo cử xử đối với
các nhân viên dưới quyền và phạm vi các vấn đề mà họ được phép ra quyết
định.”
Xét trên phương diện cá nhân, phong cách lãnh đạo chính là cách thức
làm việc của nhà lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo của một cá nhân là dạng hành vi
8
của người đó thể hiện các nỗ lực ảnh huởng tới họat động của những người
khác.
Xét trên phương diện tổng thể, phong cách lãnh đạo là hệ thống các dấu
hiệu đặc trưng của họat động và quản lý của nhà lãnh đạo, được quy định bởi
đặc điểm nhân cách của họ.
1.2.2.Các phong cách lãnh đạo theo mức độ tập trung quyền lực
Phong cách độc tài: Là phong cách trong đó người lãnh đạo sẽ trực tiếp
ra các quyết định mà không cần tham khảo ý kiến của người dưới quyền.
+ Đặc điểm: Cấp dưới chỉ được cấp trên cung cấp thông tin để thực hiện
nhiệm vụ, các chỉ thị, mệnh lệnh được đề ra trên cơ sở kiến thức, kinh nghiệm
của người lãnh đạo, thông tin một chiều từ trên xuống là chủ yếu, rất ít ở dưới
lên.
+ Ưu điểm: Giải quyết vấn đề một cách nhanh chóng kịp thời.
+ Nhược điểm: Chủ quan, không phát huy được sáng tạo, kinh nghiệm
của cấp dưới
- Phong cách dân chủ: Là phong cách trong đó người lãnh đạo ra các
quyết định trên cơ sở bàn bạc trao đổi và tham khảo ý kiến của cấp dưới.
+ Đặc điểm: Thu hút người lao động tham gia vào công tác quản trị;
người lãnh đạo chỉ giải quyết các vấn đề quan trọng, còn lại giao cho cấp dưới;
thông tin 2 chiều: từ trên xuống và từ dưới lên. Các thành viên có quan hệ chặt
chẽ với nhau.
+ Ưu điểm: Khai thác được những sáng kiến, kinh nghiệm của những
người dưới quyền, từ đó tạo ra thỏa mãn cho họ vì được thực hiện công việc do
chính mình đề ra.
+ Nhược điểm: Tốn kém thời gian, tiền bạc.
- Phong cách tự do: Là phong cách trong đó người lãnh đạo cho phép
người dưới quyền ra các quyết định riêng của mình và họ ít tham gia vào việc ra
quyết định.
+ Đặc điểm: Người lãnh đạo rất ít tham gia vào hoạt động của tập thể,
thường chỉ nêu ý tưởng rồi giao hết quyền hạn và trách nhiệm cho cấp dưới; cấp
9
dưới được tự do ra quyết định, được hành động theo cách mà họ cho là tốt nhất;
thông tin theo chiều ngang là chủ yếu giữa các thành viên với nhau, từ lãnh đạo
xuống rất ít.
+ Ưu điểm: Phát huy tối đa năng lực sáng tạo của người dưới quyền.
+ Nhược điểm: Dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn vô chính phủ trong tổ
chức.
1.2.3Các yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn phong cách lãnh đạo
Mỗi phong cách lãnh đạo có những ưu, nhược điểm riêng và việc lựa chọn
phong cách lãnh đạo phù hợp là rất quan trọng đối với nhà lãnh đạo trong quản
lí, điều hành công việc.
Việc lựa chọn phong cách có thể phụ thuộc vào bản thân nhà lãnh đạo:
tuổi tác, tính cách, kinh nghiệm, trình độ, năng lực, trạng thái tâm lí, nghề
nghiệp, vị trí công tác, đặc điểm ngành nghề và mục tiêu của bản thân họ.
Ngoài ra việc lựa chọn phong cách lãnh đạo còn phụ thuộc vào các yếu tố
tác động từ bên ngoài: hoàn cảnh lãnh đạo, các tình huống quản trị, văn hóa
quản lí của đối tượng,..; dựa trên mối quan hệ với nhân viên và giữa các nhân
viên, mức độ sức ép công việc và năng lực làm việc của nhân viên.
Phong cách lãnh đạo là kết quả của mối quan hệ giữa tính cách cá nhân
với môi trường và được biểu hiện bằng công thức: Phong cách lãnh đạo = Cá
tính x Môi truờng.
10
Tiểu kết:
Quản trị là quá trình làm việc với và thông qua người khác để hoàn thành
mục tiêu chung của tổ chức trong một môi trường luôn biến động. quản trị một
cách hưu hiệu là vấn đề cốt yếu để đem lại hiệu quả cho tổ chức, một tổ chức
hoạt động hiệu quả khi cân bằng được giữa hiệu năng và hiệu suất. Để quản trị
thành công thì cần nắm rõ các chức năng quản trị và vận dụng chính xác cũng
như hiệu quản những chức năng đó, đó chính là nghệ thuật quản trị. Phong cách
lãnh đạo là cách thức theo đó người lãnh đạo cử xử đối với các nhân viên dưới
quyền và phạm vi các vấn đề mà họ được phép ra quyết định. Không có một
phong cách lãnh đạo nào là tốt nhất cho mọi trường hợp. Thường người ta dựa
vào một số yếu tố để lựa chọn phong cách lãnh đạo tối ưu: Đặc điểm của người
dưới quyền; đặc điểm của tổ chức; phong cách của lãnh đạo cấp trên…
11
CHƯƠNG 2: PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CỦA STEVE JOBS TẠI
APPLE GIAI ĐOẠN 1997- 2011
2.1. Giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của Steve Jobs
Jobs sinh ra vào ngày 24/2/1955 tại thành phố San Francisco, bang
California, Mỹ. Jobs được Paul và Clara Jobs nhận nuôi do cha mẹ đẻ của ông là
Abdulfattah Jandali và Joanne Simspso chưa kết hôn và lúc đó, họ vẫn đang là
sinh viên. Jobs học tại trường trung học Cupertino và Homestead tại thành phố
Cupertino, bang California. Sau giờ học, ông thường đến làm việc bán thời gian
cho công ty Hewlett-Packard ở Palo Alto. Sau đó, ông được thuê và làm việc
cùng với Steve Wozniak vào mùa hè. Năm 1972, Jobs tốt nghiệp trung học và
đăng kí vào học tại cao đẳng Reed College ở Portland, bang Oregon. Steve Jobs
bị đuổi sau chỉ một học kì học tại trường nhưng vẫn tiếp tục dự thính các lớp học
tại Reed. Ông phải ngủ dưới sàn nhà của những người bạn, đổi lon nước ngọt để
lấy tiền và lấy các suất ăn miễn phí mỗi tuần tại đền Hare Krishna.
Năm 1974, Jobs quay trở lại California và bắt đầu tham dự các buổi gặp
mặt của câu lạc bộ Homebrewe Computer cùng với Wozniak. Ông làm kĩ sư cho
hãng Atari, một nhà sản xuất trò chơi điện tử, đồng thời tích cóp tiền bạc để đến
12
Ấn Độ. Jobs đi đến Ấn Độ cùng với Daniel Kottke, người bạn học tại trường
Reed và sau đó là nhân viên đầu tiên của Apple, để "khai sáng tâm hồn". Jobs
quay về như một tín đồ Phật giáo, cạo trọc đầu và mặc đồ truyền thống của Ấn
Độ. Jobs quay lại công việc trước đây của mình tại hãng Atari và được giao
nhiệm vụ tạo một mạch điện tử cho trò chơi Breakout. Do không hứng thú và
cũng không có nhiều kinh nghiệm về mạch điện, Jobs đã thoả thuận với
Wozniak chia đôi số tiền thưởng và họ cùng nhau giảm đến mức thấp nhất số
lượng chip trên mạch điện đó. Kết quả vượt ngoài sự mong đợi của Atari khi
Wozniak có thể giảm đi 50 con chip và thu nhỏ kích thước của mạch. Tại thời
điểm đó, Jobs chỉ nói rằng Atari cho họ 700 USD (thật ra là 5000 USD).
Sự khởi đầu của Apple
Năm 1976, Steve Jobs, Steve Wozniak và Ronald Wayne, với sự tài trợ
của "Mike" Markkula, thành lập nên công ty Apple. Jobs thuyết phục Wozniak
tạo ra một chiếc máy tính rồi bán nó đi. Do công ty ngày càng mở rộng, Apple
quyết định tuyển dụng một người có khả năng quản lí tốt
Năm 1978, Apple tuyển Mike Scott từ công ty National Semiconductor
vào chức vụ CEO nhưng ông này đã làm công ty trải qua những tháng ngày hỗn
loạn. Năm 1983, Steves Jobs tuyển John Sculley từ Pepsi-Cola vào làm CEO
cho công ty. Vào ngày 24/2/1983, Jobs giới thiệu chiếc máy Macintosh đến công
chúng. Đây là chiếc máy tính đầu tiên với giao diện người dùng theo kiểu đồ
hoạ.
Mặc dù là một vị lãnh đạo tốt, nhiều nhân viên khi đó than phiền bề tính
khí thất thường của Steve Jobs. Sự khủng hoảng công nghiệp vào cuối năm 1984
đã làm mối quan hệ của Jobs và Sculley trở nên tồi tệ. Vào tháng 5/1985,
Sculley thay thế Jobs làm người đứng đầu nhánh Mac.
Công ty NeXT Computer
Cũng vào thời gian đó, Jobs thành lập nên công ty NeXT Computer.
Giống như Apple Lisa, máy trạm của NeXt mang những công nghệ hiện đại thời
bấy giờ nhưng giá cả lại quá đắt. Với những người có khả năng sở hữu, máy
trạm NeXT tốt ở thế mạnh về công nghệ và hệ thống lập trình hướng đối tượng.
13
Máy tính NeXTcube được Jobs mô tả là một chiếc máy tính "giữa những
người dùng cá nhân" với nhau, là một bước gần hơn tới máy tính cá nhân
(Personal Computer - PC). NeXTcube giúp người dùng liên lạc và hợp tác với
nhau dễ dàng hơn. Vào những năm 1990, khi email chỉ là những dòng chữ đơn
điệu, Jobs giới thiệu hệ thống email NeXTMail. Đây là hệ thống email đầu tiên
cho phép nhúng hình ảnh và âm thanh vào trong email. Do chỉ bán được 50.000
máy tính, NeXT chuyển hoàn toàn sang phát triển phần mềm vào năm 1993 với
việc ra mắt NeXTSTEP.
Pixar và Disney
Năm 1986, Jobs mua lại nhóm đồ hoạ từ công ty Lucasfilm với giá 10
triệu USD, sau đó đặt tên là Pixar. Trụ sở mới của công ty đồ hoạ này được đặt
tại bang California với mục tiêu phát triển nên phần cứng đồ hoạ cao cấp. Sau
nhiều năm thua lỗ vì không bán được Pixar Image Computer, Pixar đã hợp tác
với Disney để sản xuất một số phim hoạt hình bằng máy tính. Bộ phim đầu tiên
là Toy Story năm 1955. Sau này, hàng loạt phim hoạt hình nổi tiếng như A Bug's
Life, Toy Story 2, Monsters, Inc., Finding Nemo, The Incredibles, Cars,
Ratatouille, WALL-E, Up,… tiếp tục được Pixar phát triển cho Disney.
Năm 2003 và 2004, khi hợp đồng của Pixar và Disney sắp kết thúc, Jobs
và người đứng đầu Disney là Michael Eisner đã thoả thuận nhưng thất bại về
việc tiếp tục hợp đồng giữa hai công ty. Thế nhưng đến tháng 10/2005, Bob Iger
đã thay thế Eisner tại Disney và ông này nhanh chóng nối lại mối quan hệ với
Jobs và Pixar. Ngày 24/2/2006, Disney đã mua lại Pixar bằng cổ phiếu với giá trị
là 7,4 tỉ USD. Từ đó, Jobs là một trong những cổ đông lớn nhất của Disney với
7% cổ phần nằm trong tay.
Quay trở lại Apple
Năm 1996, Apple công bố rằng hãng sẽ mua lại NeXT với giá 429 triệu
USD. Thương vụ kết thúc vào cuối năm 1996 và Jobs lại quay về với công ty
trước đây mình đã thành lập. Tháng 11/1997, Jobs là lãnh đạo quá độ của Apple.
Năm 1998, để tập trung vào việc thu lợi của công ty, Jobs ngừng một số dự án
như Newton, Cyberdog và OpenDoc. Những nhân viên Apple bấy giờ rất lo sợ
14
bị mất việc. Jobs cũng đổi một số điều khoản trong bản quyền chế tạo Macintosh
khiến nó đắt tiền hơn rất nhiều để các nhà sản xuất có thể tiếp tục chế tạo.
Khi mua lại NeXT, hầu hết công nghệ của công ty đã thuộc về Apple,
trong đó có NeXTSTEP, sau này đã trở thành hệ điều hành Mac OS X lừng
danh. Dưới sự chỉ huy của Jobs, công ty đã từng bước đi lên với việc ra mắt
chiếc iMac và những sản phẩm mới khác. Tại sự kiện Macworld Expo, Jobs
chính thức bỏ đi chức danh "quá độ" và trở thành CEO chính thức của Apple.
Tháng 7/2004, Steve Jobs phải phẫu thuật vì bệnh ung thư tuyến tụy
nhưng đã được ghép gan và khỏi bệnh. Trong thời gian Jobs nghỉ bệnh, Timothy
D. Cook (còn được biết với các tên Tim Cook), thay thế Jobs trong việc điều
hành Apple trên toàn thế giới. Hai tháng sau, Jobs chính thức quay trở lại làm
việc.
Tháng 8/2008, trang Bloomberg đăng nhầm tin về cái chết của Jobs bằng một
bài viết dài 2500 từ.
Trong những năm gần đây, công ty đã liên tục đưa ra những thiết bị kĩ
thuật số tiên tiến. Bằng việc giới thiệu iPod, iTunes, iTunes Store, công ty đánh
mạnh vào nhu cầu nghe nhạc cá nhân. Năm 2007, Apple gia nhập thị trường
điện thoại di động với chiếc iPhone. iPhone mang hầu hết các tính năng của
iPod, có trình duyệt riêng và là một chiếc điện thoại mang tính cách mạng. Jobs
luôn nhắc nhở nhân viên của mình về "con tàu nghệ thuật". Ý của Jobs rằng việc
tạo ra những sản phẩm đúng thời điểm cũng quan trọng như thiết kế hấp dẫn của
nó.
Tháng Tư năm 2005, Jobs trả lời vụ việc Apple bị chỉ trích vì có quy trình tái
chế rác thải điện tử kém. Một vài tuần sau, Apple đã công bố chương trình nhận
lại iPod đem tái chế ở các cửa hàng của mình. Năm 2006, Jobs mở rộng chương
trình tái chế của mình cho bất kì khách hàng Mỹ có mua máy Mac.
Steve Jobs là một trong những gương mặt được chờ đợi nhất trong những
lần hội nghị của Apple. Năm 2008, Jobs đã xuất hiện trên sân khấu với một
chiếc phong bì, bên trong đựng Macbook Air. Kể từ đó, Macbook Air luôn được
đánh gía cao vì tính mỏng, nhẹ của mình.
15
Ngày 24/8/2011, Jobs quyết định rời vị trí CEO của mình và đề cử Tim
Cook thay thế. Ông vẫn tiếp tục cống hiến cho Apple với chức vụ COB
(Chairman Of the Board).
2.2.Phong cách lãnh đạo độc tài của Steve Jobs tại Apple giai đoạn
1997- 2011
2.2.1. Tính cách Steve Jobs tại Apple (1997- 2011)
Steve Jobs là một người cầu toàn đến mức tuyệt đối tuy nhiên cũng rất
tinh tế và yêu thích sự sáng tạo
Ông luôn yêu cầu nhân viên tỉ mỉ và không được có bất kì một sai xót
nào, sự khao khát hoàn hảo và yêu thích sáng tạo thể hiện ngay những đoạn
quảng cáo và sự quyến rũ của những thiết kể sản phẩm đem đến những thành
công của Apple do vậy ông thường hay dồn ép và yêu cầu làm lại hầu như tất cả
đối với những thiết kế, sản phẩm không hoàn hảo theo cách nhìn của ông. Ví dụ
như: việc rọi đèn vào iMac trong buổi ra mắt sản phẩm (6/1998) cũng tốn không
ít thời gian chuẩn bị của Jobs, cho đến khi ánh đèn soi vào sản phẩm hợp với ý
của ông.
Các sản phẩm của Apple theo ý của Jobs phải quan tâm tới những chi tiết
nhỏ nhất, kể cả những chiếc ốc vít ở mặt sau của sản phẩm. Thậm chí có người
phải thốt lên rằng “ Jobs muốn kiểm soát đến cả đến hạt cát trong vi mạch” .Các
dòng sản phẩm nỗi tiếng như iPod, iPhone, iPad từ kiểu dáng bên ngoài cho đến
phần cừng và phần mềm đều đồng bộ và thể hiện nét tinh tế, sáng tạo và sự khát
khao hướng tới sự hoàn hảo không ngừng.
Steve Jobs là một người có tính khí nóng nảy hay chính xác hơn là một
người cực kỳ dễ nổi nóng
Vào những lúc áp lực công việc lên cáo, ví dụ như khi hạn chót việc hoàn
thành mẫu iMac tới gần, tính khí nóng nảy của Jobs lại càng dễ nhận thấy, đặc
biệt là trong lúc ông phải đối mặt với những vấn đề sản xuất. Trong một cuộc
họp đánh giá sản phẩm, ông biết được rằng quy trình sản xuất đang chậm trễ.
Steve Jobs tỏ thái độ giận dữ khủng khiếp, và nỗi tức giận ấy tuyệt đối thành
thực. Ông đã nỗi giận với cả nhóm làm sản phẩm với những lời lẽ rất nặng nề,
16
bắt đầu với Rubinstein: “Các người biết là chúng ta đang cố cứu cả công ty cơ
mà,” ông ta thét lên: “và các người đang làm hỏng bét mọi sự!”. Bản tính nỏng
nảy cũng dễ nhận thấy khi Lee Clow - giám đốc sáng tạo của Chiat/Day, đã
chuẩn bị một loạt các mẫu quảng cáo đầy màu sắc trên tạp chí và khi ông gửi
cho Jobs các trang in thử, Lee Clow đã nhận hồi đáp là một cuộc điện thoại điên
cuồng tức giận. Màu xanh dương trong mẫu quảng cáo, Jobs khẳng định, khác
với màu xanh của chiếc iMac và Jobs đã hét vào Lee Clow: “Các người chẳng
hề biết các người đang làm gì!” Jobs thét lên: “Tôi sẽ bảo người khác nhận phần
quảng cáo, vì mấy thứ này thật khốn kiếp”.
Steve Jobs là một người tham vọng, muốn kiểm soát mọi thứ và cũng rất
quyết đoán
Sau khi được bổ nhiệm làm chuyên viên tư vấn cho Amelio, Jobs ngay lập
tức đẩy những người ông tin tưởng vào những vị trí cấp cao ở Apple. Jobs cần
đảm bảo chắc chắn rằng những người thực sự giỏi đến từ NeXT không bị “đâm
sau lưng” bởi những kẻ kém hơn đang giữ những vị trí cốt cán ở Apple. Để điều
hành mảng phần mềm, ông sử dụng người bạn Avie Tevanian của mình. Để nắm
mảng phần cứng, ông đã chọn Jon Rubinstein, người đã nắm vị trí tương tự ở bộ
phận phần cứng của NeXT. Tất các nhóm làm sản phẩm, từ công đoạn thiết kế
cho đến hoạt động quảng bá cho sản phẩm đều được Steve Jobs kiểm soát chặt
chẽ theo những tiêu chuẩn của ông.
Khi Jobs quay về Apple với vai trò là người cố vấn dẫn dắt Apple vực dậy,
chỉ trong 90 ngày để tìm kiếm CEO mới cho Apple , Jobs tiếp tục sôi lên khi
phải trả lời trước ban quản trị mà ông không tôn trọng. “Hãy dừng đoàn tàu lại,
nó sẽ không có kết quả,” ông nói với Woolard. “Công ty này đang phải vật lộn
để tồn tại, và tôi không có thời gian để làm vú nuôi cho ban quản trị. Vì vậy tôi
cần tất cả các ông rút lui. Hoặc tôi sẽ rút lui và không quay trở lại vào thứ hai
tới”. Và sau đó, ông buộc họ phải từ chức, rút lui và ông kiếm người vào các vị
trí đó.
Jobs vô cùng quyết đoán và mạnh mẽ với các quyết định của mình. Khi
ông thấy gì đúng, ông sẽ bỏ mặc tất cả sự phản đối hay những chê trách của
17
người ngoài để dự tình của mình. Khi Jobs vừa trở lại Apple trong thời kì đen
tối nhất của Apple - giá cổ phiếu trượt giá liên tiếp và không phanh, quyết định
đầu tiên của ông là phải hạ giá cổ phiếu ưu đãi, tất cả các bộ phận tài chính đều
phản đối ông, họ nói cần 2 tháng để họ nghiên cứu vấn đề này nhưng ông nhất
quyết làm và” Phải làm ngay” và ông đã thành công khi giá cô phiếu từ 13 đôla
tăng lên 20 đôla chỉ trong cùng một tháng.
Quyết định chỉ tập trung sản xuất hai dòng sản phẩm máy để bàn, xách tay
theo hai dòng là phổ thông và cao cấp, mặc dù các kỹ sư của ổng khá giận dữ
nhưng đa phần họ đã bị Jobs thuyết phục.Kết quả là các kỹ sư và quản lý ở
Apple lập tức chỉ tập trung cao độ vào bốn lĩnh vực. Với mảng máy để bàn cao
cấp, họ phát triển Power Macintosh G3. Với mảng máy xách tay cao cấp họ phát
triển PowerBook G3. Với máy để bàn phổ thông, họ bắt đầu với thứ sau này trở
thành iMac. Và cuối cùng với máy xách tay phổ thông, họ tập trung vào thứ sẽ
trở thành iBook. Chữ “i”, Jobs giải thích, là để nhấn mạnh các thiết bị này sẽ
được tích hợp chặt chẽ với Internet. Sau 2 năm gây sửng sốt với việc thua lỗ,
Apple lại có thể vui vẻ với một quý lợi nhuận, kiếm được 45 triệu đô la. Trong
cả năm tài chính 1998, nó trở thành 309 triệu đô la lợi nhuận. Jobs đã quay trở
lại, và Apple cũng thế. Đó là minh chứng cho sự quyết đoán và khả năng năm
bắt vấn đề “cốt lõi” nhanh của Steve Jobs. Ngoài ra sau khi cải tiến cho iMac,
Jobs quyết định sẽ không gắn kèm cả ổ đĩa mềm vốn thông dụng. Jobs trích dẫn
câu cách ngôn của siêu sao khúc côn cầu Wayne Gretzky, “Hãy trượt đến chỗ
trái banh văng tới, chứ không phải chỗ nó đã từng xuất hiện.” Jobs có phần đi
quá thời cuộc, nhưng cuối cùng đa phần máy tính đều đã loại bỏ ổ đĩa mềm.
Jobs có thể rất cay độc và lạnh lùng, đặc biệt với những người có xung
đột với ông, nhưng cũng có thể rất tình cảm với nhưng người đã đồng hành cùng
ông từ những ngày đầu. Ví dụ: khi yêu cầu Mike Markkula rời khỏi ban quản trị
Apple, Jobs đã lái xe đến tận nhà và thực hiên một cuộc dạo bộ thân mật để bàn
về tương lai của Apple.
Ở một số thời điểm khác nhau, Jobs thể hiện sự trộn lẫn lạ thường giữa
tính cáu bẳn và sự thiếu thốn. Ông thường không mảy may quan tâm tới người
18
khác nghĩ gì về mình; ông có thể đoạn tuyệt với người khác và không bao giờ
nhìn tới họ lần nữa. Một số thời điểm khác, ông lại cảm thấy sự ép buộc phải
giải thích về mình. Ví dụ: Buổi tối ngày hôm Amelio bị sa thải bởi hội đồng
quản trị Apple, Jobs đã gọi và giải thích : “Gil, tôi chỉ muốn anh biết, tôi đã nói
chuyện với Ed hôm nay về chuyện này và tôi cảm thấy thực sự tòi tệ về nó. Tôi
muốn anh biết tôi không có liên quan gì tới chuỗi sự kiện này, đó là quyết định
ban quản trị đã đưa ra, tuy nhiên họ có mời tôi với vai trò tư vấn.” Jobs nói với
Amelio rằng mình tôn trọng ông vì là “người chính trực nhất mà tôi từng được
gặp,” và theo đó là một số lời khuyên một cách tự nguyện. “Hãy nghỉ ngơi 6
tháng,” Jobs nói với ông ta. “Khi tôi bị ném khỏi Apple, tôi lập tức quay lại với
công việc, và tôi lấy làm tiếc vì điều đó.” Jobs ngỏ lời sẽ là người lắng nghe bất
cứ khi nào Amelio cần thêm lời khuyên.
2.2.2. Môi trường tại Apple giai đoạn 1997-2011
Sự trở lại của ông năm 1997 là trong tình cảnh công ty đang trên bờ vực
phá sản, công ty đang sản xuất máy tính và những thiết bị ngoại vi khác, bao
gồm những phiên bản khác nhau của Macintosh. Bên cạnh đó, với sự điều hành
của ban quản trị yếu kém đã khiến công ty mất đi nhiều kĩ sư và nhân viên quản
lý giỏi. Tình hình lúc đó có thể khiến cho vị trí giám đốc điều hành của công ty
như một vị trí “nóng” cho bất kì ai muốn vực dậy một công ty đang sa sút như
Apple.
Môi trường nhân sự, sự quay trở lại lần này, ông đã có sự chuẩn bị tương
đối kĩ lưỡng, để có thể có được sự kiểm soát hoàn toàn công ty từ phần kĩ thuật
đến sản phẩm. Ngay sau khi đến Apple đảm nhận vị trí cố vấn, Jobs đẩy những
người ông tin tưởng vào những vị trí cấp cao ở Apple. “Tôi cần đảm bảo chắc
chắn rằng những người thực sự giỏi đến từ NeXT không bị đâm sau lưng bởi
những kẻ kém hơn đang giữ những vị trí cốt cán ở Apple,” Jobs đòi hỏi Ban chủ
tịch của Apple. Đây là lý do Jobs để hai người đồng nghiệp thân cận của mình là
Avie Tevanian và Jon Rubinstein nắm những vị trí quan trọng ở các bộ phận chủ
chốt của công ty. Với Jobs, mọi vị trí lãnh đạo trong công ty lúc đó đều có thể
ảnh hưởng đến quyền lực của ông, vì vậy việc thay đổi và triệt tiêu đi những mối
19
hiểm họa này là cần thiết cho ông và công ty. Apple chỉ cần theo duy nhất một
hướng phát triển của Steve Jobs và chỉ Steve Jobs.
Môi trường quản trị cấp cao lúc bấy giờ, các cổ đông phần lớn đều muốn
thoái vốn khi nhận thấy Apple đã bước tới thời kì sụp đổ. Ai cũng muốn cách
bán đi các cổ phần mình đang sở hữu để tìm kiếm những khoản lợi nhuận cuối
cùng, để mặc các vấn đề đang tồn động trong công ty. Ban quản trị bất ổn, khiến
cho toàn công ty cũng trở nên không ổn định, điều mọi người quan tâm lúc đó
chỉ là lương với tìm kiếm một công việc mới, mọi người đều tin rằng Apple sẽ
phá sản. Nói chung, tình hình rất rối ren, ai cũng cố gắng lo cho lợi ích cá nhân
của bản thân và quên đi hết mọi công việc ở Apple.
Các sản phẩm của Apple ngày càng bị cạnh tranh gay gắt từ các dòng máy
tính khác, gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm. Ở các đơn vị kinh doanh
bán lẻ, các nhân viên bán hàng không thể nào giải thích được cho khánh hàng
phân biệt được sự khác nhau của các dòng máy Apple với các sản phẩm HP hay
Dell. Điều này khiến cho khách hàng không lựa chọn các sản phẩm của Trái Táo
vì giá quá cao, khiến cho doanh số ngày càng giảm sút trong khi các đối thủ lien
tục gia tăng thị phần trên thị trường.
Mùa thu năm 2005, trở về sau kỳ nghỉ bệnh, Jobs chọn Tim Cook – một
người đồng nghiệp mà Jobs rất tin tưởng, trở thành giám đốc điều hành Apple.
Tuy nhiên, trong giai đoạn này, Jon Rubinstein, phụ trách mảng phần cứng của
Apple liên tiếp xung đột với Avie Tevanian và Steve Jobs về các ý tưởng sản
phẩm và các lý do khách quan khác.
2.2.3.Những biểu hiện của phong cách lãnh đạo độc tài của Steve Josb
tại Apple giai đoạn 1997- 2011
Ông thường áp đặt những suy nghĩ khác người của mình lên người khác,
ông hay đưa ra quyết định độc đoán trong chớp mắt khiến không ít lần mọi
người ngạc nhiên và sững sờ
Jobs có thái độ rất khắt khe với nhân viên của mình, ông luôn đòi hỏi sự
hoàn hảo đến từng chi tiết và không chấp nhận sai sót dù là nhỏ nhất.
Ông nổi tiếng với tính lạm quyền cá nhân, ông có thể sa thải bất cứ nhân
20
viên nào nếu như đang trong cơn nổi giận. Nhiều nhân viên cấp cao đã làm việc
với Jobs nhiều năm liền, trong số đó thì một số người đã phải ngậm ngùi ra đi,
họ cho rằng tuy Jobs tàn bạo nhưng khi ở bên ông, họ chưa bao giờ làm việc tốt
hơn thế.
Jobs là người khắt khe với công đoàn, ông đã áp dụng nhiều biện pháp để
đàm phán với công đoàn như: dọa phá sản, thuê ngoài … để có thể đạt được
những thỏa thuận có lợi.
Trước khi Jobs tiếp quản công ty, mọi người tại Apple rất thích tiết lộ
những bí mật.Họ làm vậy vì một phần công ty ít có sự tiếp thị, họ cho rằng cách
duy nhất để mọi người biết về nó là tự bản thân mình tiết lộ. Tuy nhiên, Jobs đi
ngược lại hoàn toàn với quan niệm đó và khăng khăng với cách làm việc của
mình.
Cách thức điều hành của Steven Jobs trong công việc: là cha đẻ của hơn
103 bản quyền Apple, mọi thứ từ giao diện iPod đến hệ thống hỗ trợ cho bộ
thang máy được dùng trong các cửa hàng bán lẻ của Apple, ông luôn có sự tham
gia và giám sát đến từng chi tiết nhỏ nhất. Ông không thể yên tâm mọi thứ sẽ
hoàn hảo nếu không có sự giám sát chặt chẽ trong mọi khâu.
Steven Jobs dường như đứng đầu và có mặt ở khắp nơi trong công ty
2.3.Đánh giá thực trạng về phong cách lãnh đạo độc đoán của Steve
Jobs khi lãnh đạo Apple giai đoạn 1997-2011
Phong cách lãnh đạo nào cũng có những ưu nhược điểm của nó, tùy thuộc
vào thời gian không gian mà nó đem lại những kết quả khác nhau. Vì vậy, người
lãnh đạo cần lựa chọn thích hợp cho mình phong cách phù hợp với môi trường
để phát huy hết ưu điểm của phong cách đó, hạn chế đi những nhược điểm để có
thể đạt được kết quả tốt nhất đối với công việc của mình. Đối với trường hợp
Steve Jobs cũng tương tự, việc lựa chọn phong cách lãnh đạo độc đoán để điều
hành ở Apple (giai đoạn 1997 – 2011) đã phát huy được những hiệu quả vượt
mong đợi và phát huy khá tốt ưu điểm của nó. Điều này, giúp cho Jobs trở nên
nổi tiếng với phong cách này. Trong phần này, chúng ta sẽ tiến hành đánh giá ưu
và nhược điểm của việc Steve Jobs sử dụng phong cách độc đoán ở Apple giai
21
đoạn 1997 – 2011.
2.3.1. Ưu điểm của phong cách lãnh đạo độc đoán khi được Steve
Jobs áp dụng ở Apple
Phong cách lãnh đạo độc đoán của Steve Jobs rất thích hợp ở công ty
Apple, nơi mà tập trung khá nhiều nhân tài về mọi mặt (kinh tế, kĩ thuật, nhân
sự…) với nhiều tính cách khá lập dị và có cá tính. Sự độc đoán sẽ giúp công
nhân viên công ty có được sự tập trung tư tưởng làm việc một cách ổn định.
Khi công ty gặp khó khăn (giai đoạn 1996), hàng hóa ứ đọng nhiều. Tinh
thần nhân viên giảm sút vì bị ảnh hưởng bởi tình trạng xuống dốc của công ty.
Không khí làm việc căng thẳng ở cả ban quan trị lẫn đội ngũ công nhân. Để có
thể giải quyết tình hình lúc này, yêu cầu người lãnh đạo của công ty cần có
quyền lực tập trung để có giải quyết hết mọi vấn đề trong công ty. Đây là điều
kiện thích hợp để Steve Jobs chứng tỏ được năng lực bản thân với tính cách rất
phù hợp với phong cách lãnh đạo độc đoán.
Phong cách lãnh đạo độc đoán của Steve Jobs giúp cho công nhân viên
trong công ty có được sự áp lực cần thiết để hoàn thành công việc đúng thời hạn
và đạt hiệu quả cần thiết, đôi khi tạo ra những thành quả vượt ngoài mong đợi.
Ông giúp cho đội ngủ nhân viên đạt được đến những giới hạn của bản thân mà
chính họ cũng không thể nào biết được. Khả năng động viên nhân viên của ông
không biểu hiện một cách rõ ràng, mà chỉ là những cuộc trò chuyện một chiều, ý
là bắt buộc họ thực hiện cho được những ý tưởng của Steve Jobs, dù ban đầu
nghe có vẻ rất vô lý và khó thực hiện. Tuy nhiên, khi thực hiện được, đội ngũ
nhân viên mới cảm nhận được rằng Jobs luôn đúng trong mọi quyết định, điều
này khiến họ thêm phần thán phục vị thuyền trưởng tài ba của mình. Chính
phong cách ngày càng giúp ông có được sự yêu mến và tin tưởng của nhân viên
trong công ty, khiến cho công tác cải tổ và phát triển Apple được thực hiện
nhanh chóng.
Cách ứng xử của ông khi gặp chuyện khó khăn là rất quyết đoán, nếu
không phải nói là hơi cực đoan. Ví dụ, khi gặp nhiều vấn đề ở các đối tác sản
xuất linh kiện, ông đã ra quyết định ngưng hợp tác ngay lập tức chứ không cần
22
đối tác giải thích trình bày lý do. Đối với ông, hợp tác phải dựa trên chữ tín, nếu
không hoàn thành đúng yêu cầu về chất lượng cũng như thời gian sẽ phải kiếm
nhà cung ứng khác. Điều này giúp cho công ty có thể đẩy nhanh tiến độ công
việc và hoàn thành mục tiêu trước hạn và hoàn toàn chủ động trong việc kiếm
đối tác sản xuất.
Cuối cùng, ưu điểm lớn nhất của Steve Jobs khi sử dụng phong cách lãnh
đạo độc đoán ở tại Apple là việc ông đã ổn định được tình hình nhân sự của
công ty. Công ty đã trở nên đoàn kết hơn, các bộ phận có sự ăn ý trong công
việc, giúp cho mọi ý tưởng của Jobs trở nên thực tế hơn.
Do vậy, phong cách lãnh đạo độc đoán của Steve Jobs không giống bất kỳ
định nghĩa nào về quản trị hay lãnh đạo. Ông điều hành tất cả mọi công việc
trong Apple. Tuy nhiên, Stev Jobs chỉ thực hiện công việc theo cảm nhận và suy
nghĩ của riêng bản thân ông. Điều đặc biệt này khiến ông trở nên đặc biệt.
2.3.2 Nhược điểm của phong cách lãnh đạo độc đoán khi được Steve
Jobs áp dụng ở Apple
Với các phong cách lãnh đạo khác nhau, đều có những mặt ưu nhược
điểm riêng, vì vậy các nhà quản trị cần có cách để hạn chế tác động của nhược
điểm lên phong cách quản trị của mình. Với Jobs cũng vậy, ông cũng là một con
người nên việc gây ra những sai lầm từ phong cách lãnh đạo của mình cũng là
điều tất nhiên. Sau đây là những hạn chế của phong cách độc đoán khi Jobs áp
dụng ở Apple.
Việc áp đặt những suy nghĩ của mình lên người khác của Steve Jobs và
đưa ra những quyết định của bản thân mang tính độc đoán mà không bàn bạc và
tham khảo ý kiến của bất kì ai, sẽ làm tăng tính rủi ro trong những quyết định,
xác suất xảy ra sai lầm là rất lớn.
Việc Steve Jobs tự đưa quyết định và áp đặt ý kiến cho nhân viên khiến
cho họ bất mãn và khó chịu vì ý kiến của mình không được tôn trọng. Hơn nữa,
điều này làm cho họ cảm thấy nhà lãnh đạo không hiểu được tâm tư và nguyện
vọng của họ, từ đó mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới ngày càng xa cách.
Nhân viên không còn hứng thú đóng góp ý kiến cho công việc. Hậu quả là công
23
ty bỏ phí nguồn ý tưởng sáng tạo dồi dào từ nhân viên của mình.
Việc đòi hỏi quá khắt khe của Jobs trong công việc sẽ tạo áp lực lớn lên
nhân viên, khiến nhân viên dễ xảy ra tình trạng bị stress, không khí làm việc lúc
nào cũng đầy căng thẳng, nhân viên đôi lúc sẽ không có được một môi trường
làm việc thoải mái, hiệu quả làm việc bị giảm sút.
Việc Jobs can thiệp vào tất cả mọi công việc từ việc lớn nhất đến việc nhỏ
nhất khiến nhân viên cảm thấy khó chịu, không thoải mái. Hơn nữa, việc này
cũng làm cho ông không có thời gian cũng như sự tập trung cần thiết để giải
quyết những vấn đề quan trọng.
Phong cách lãnh đạo độc đoán của Jobs làm cho ông có tầm ảnh hưởng
quá lớn đối với Apple đến nỗi bất cứ một thông tin nào liên quan đến ông cũng
dẫn đến một hệ quả rất lớn đối với công ty, chẳng hạn như sau khi nghe tin ông
bị ung thư thì ngay lập tức giá cổ phiếu của Apple giảm xuống nhanh chóng…
Tiểu kết:
Steven Jobs thực sự đã tạo nên thành công cho Apple, không ai có thể phủ
nhập tầm ảnh hưởng của Steven Jobs đối với công nghệ nói riêng và thế giớ nói
chung trong thế kỷ 21 này. Những gì iPod, iPhone, iPad và MacBook đã làm
được thể hiện trực giác siêu việt và tầm nhìn xa rộng của ông. Steve Jobs có 1
câu nói nổi tiếng: "Dân chủ không tạo nên những sản phẩm tuyệt vời. Để làm
được điều đó, anh cần một nhà độc tài thông thái". Câu nói này đã thể hiện
phong cách lãnh đạo độc đoán của ông. Mặc dù có rất nhiều những nhược điểm
cũng như những quyết định sai trong phong cách lãnh đạo của mình nhưng cũng
không thể phủ nhận những ưu điểm cũng như những thành công mà Steve Jobs
đã mang lại cho Apple trong giai đoạn 1997-2011
24
CHƯƠNG 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
CỦA STEVE JOBS
3.1. Phát huy ưu điểm của phong cách lãnh đạo của Steve Jobs tại
Apple
Tập trung
Khi Steve Jobs trở lại Apple năm 1997, công ty đang đứng trước bờ vực
phá sản bởi trước đó đã ồ ạt tung ra hàng loạt phiên bản máy tính Mac khác
nhau mà không có định hướng.
Ông cho dừng toàn bộ hoạt động và yêu cầu toàn thể nhân viên chỉ tập
trung vào ma trận có hai cột tượng trưng cho “Người tiêu dùng” và “Giới văn
phòng”, và hai dòng tượng trưng cho “Máy tính để bàn” và “Máy tính di động”.
Ông ra lệnh cho tất cả nhân viên phải tập trung phát triển ra được bốn sản phẩm
vĩ đại tương ứng với bốn ô trong ma trận kể trên và ngưng sản xuất toàn bộ các
sản phẩm khác. Nhờ đó, Steve Jobs cứu sống được một Apple trên đà hấp hối.
“Quyết định không nên làm gì cũng quan trọng như quyết định cần phải làm gì
vậy”, Steve Jobs nói.
Tinh giản
Sau nhiều năm theo học thiền, Steve Jobs đã trui luyện cho mình một khả
năng tập trung cao độ và tinh giản được mọi thứ về “không”, bản thể của vạn
vật, bằng cách loại bỏ những thành phần không cần thiết.
“Sự tinh giản chính là sự tinh vi tuyệt diệu nhất”, Jobs từng tuyên bố như
thế trong brochure tiếp thị đầu tiên của Apple.
Jobs tìm được người bạn tâm giao Jony Ive, nhà thiết kế công nghiệp của
Apple. “Để thực sự đạt được sự tinh giản, bạn cần phải hiểu vấn đề rất sâu”, Ive
lý giải
Thúc đẩy sự hoàn hảo
Đến lúc cuối đời, Jobs vẫn không quên lời cha dạy “Người thợ mộc chân
chính không bao giờ dùng loại gỗ xấu để đóng phần sau của chiếc tủ. Có thể đây
là phần không ai khác nhìn thấy nhưng chính con vẫn nhìn thấy đó thôi”. Quan
25