Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Mỹ học đại cương CÁI BI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.76 KB, 27 trang )

BÀI LUẬN NHÓM 3
LỚP : GIÁO DỤC CÔNG
DÂN
KHOA:GIÁO DỤC CHÍNH
TRỊ


CÁI BI
1.

Phân tích bản chất thẩm mĩ của cái bi trong truyện ngắn Chí
Phèo của nhà văn Nam Cao và truyền thuyết Mị Châu Trọng
Thủy


Truyện ngắn Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Truyện ngắn “ Chí Phèo” của tác giả Nam Cao được xem như là đỉnh cao văn
học bởi nó phản ánh những tư tưởng nhân đạo cũng như giá trị hiện thực cùng
sâu sắc và mới mẻ . Tác phẩm xoay quoanh cuộc đời nhân vật Chí Phèo với
những tấn bi kịch lớn :


- Bi kịch của đứa con hoang bị bỏ rơi. Từ khi sinh ra chưa bao giờ được lọt
lòng mẹ, Chí nhỏ lúc bấy giờ đã phải chịu thiệt thòi hơn những đứa trẻ khác: “
hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai tuổi
thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến”. Rồi Chí lớn lên trở thành anh canh điền
hiền lành, tốt bụng ; nhưng oái oăm thay cái xã hội cũ nát ấy đã đẩy Chí sang
con đường tội lỗi - nhà tù thực dân.
-Bi kịch bị tha hóa. Sống trong nơi dơ dáy, ô uế đó, Chí đã bị tàn phá cả ngoại
hình lẫn cả những phẩm chất “thiên lương”. Để rồi cái nhận lại cuối cùng chỉ là
sự khinh miệt, coi thường của mọi người.


-Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Là con người, ai cũng có quyền mưu cầu
hạnh phúc, nhưng quyền cơ bản đó lại không đúng với Chí Phèo. Tìm được tình
yêu, ánh sáng, hi vọng cũng bị dật tắt cũng bởi vì cái xã hội thực vọng hoàn
lương của đời mình nhưng tất cả dân nửa phong kiến lúc đó.
- Sau những chuỗi bi kịch đó Chí chọn cho mình cái chết. “ Tức nước vỡ bờ’’
những nỗi đau, sự dằn xé, sự tủi nhục cũng đã được giải thoát. Chi tiết Chí trả
thù Bá Kiến được xem như một viên ngọc làm sáng bừng giá trị nhân văn của
tác phẩm




Thông qua tác phẩm, nhà văn Nam Cao đã thể hiện những giá trị nhân văn
cao đẹp :
• Qua tấn bi kịch và số phận bi thảm của Chí Phèo, Nam Cao đã cất lên
tiếng kêu cứu thảm thiết và đầy phẫn uất cho người lao động lương
thiện: Làm thế nào để cho con người được sống một cuộc sống xứng
đáng trong cái xã hội vùi dập nhân tính ấy; hãy tiêu diệt hoàn cảnh phi
nhân tính, hãy làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn.
• Tư tưởng nhân đạo của Nam Cao trong tác phẩm “Chí Phèo” còn thể
hiện qua thái độ lên án gay gắt những thế lực tàn bạo đã gây nên tấn bi
kịch đau thương cho người lao động (bọn thống trị độc ác; nhà tù thực
dân; những thành kiến, định kiến vô nhân đạo).
• Tư tưởng nhân đạo đặc sắc, độc đáo của Nam Cao ở đây còn được thể
hiện ở thái độ trân trọng, nâng niu những nét đẹp người nông dân. Cao
hơn nữa, nhà văn còn khám phá ra những phẩm chất lương thiện của họ
ẩn giấu đằng sau những tâm hồn tưởng như u mê, cằn cỗi.


Truyền thuyết Mị Châu Trọng Thủy

An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy là truyền thuyết đẹp của người xưa
với chủ đề dựng nước và giữ nước, để lại cho đời sau bài học cảnh giác chính trị
sâu sắc và thấm thía. Nhưng có phải câu chuyện chỉ chứa dựng một tấn bi kịch
là mất nước hay không? Theo tôi câu chuyện là sự đan xen giữa cả hai bi kịch


mất nước và tình yêu. Chính khi bi kịch mất nước đã tạo nên bi kịch tình yêu và
bi kịch tình yêu đã mở đường cho bi kịch mất nước.
Nhìn chung về tác phẩm ta có thể thấy được hai bi kịch lớn :
-

-



Bi kịch mất nước. Mị Châu vì tình riêng mà không tuân thủ kỉ cương,
phép tắc. An Dương Vương mất nước từ sự thiếu cảnh giác, khinh địch
của mình. Bản thân vua mong mỏi sự hòa bình giữa hai quốc gia, chấm
dứt cảnh chiến tranh loạn lạc từ tình yêu con trẻ. Nhưng trớ trêu thay
điều đó lại tạo nên khe hở cho những toan tính của cha con Triệu Đà
len lỏi vào và bi kịch mất nước bắt nguồn từ đó.
Bi kịch tình yêu.Tình yêu khi đặt nhầm chỗ sẽ gây ra hậu quả vô cùng
nghiêm trọng nhất là đó là kẻ địch của mình, và Mị Châu đã mắc phải
sai lầm đó. Kết quả mất nước, nhà tan, Mị Châu đã phải trả giá đắt cho
tình cảm sai lầm đó và Trọng Thủy cũng vậy. Sau khi phản bội tình
cảm, Trọng Thủy mới nhận ra hậu quả kinh khủng nhưng đã quá muộn.
Bên cạnh nỗi đau, sự mất mát,những bài học đáng giá, truyền thuyết Mị
Châu Trọng Thủy đã giơ cao lá cờ nhân ái, bao dung của nhân dân ta :

Nhân dân thương tiếc vị vua anh dũng của mình nên không muốn

ông bất tử. Chi tiết biển cả bao dung đón người anh hùng trở về đã
thể hiện sự ngưỡng mộ và thương tiếc của họ. Không ai phủ nhận






sự mất cảnh giác dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan của An Dương
Vương nhưng cũng không ai xem đó là tôi trạng và kết án ngài.
Xét đến cùng, việc An Dương Vương không chết mà đi xuống biển
là cách thức nhân dân ta bất tử hóa hình tượng mà họ đã suy tôn,
kính trọng.
Mặc dù rất nghiêm khắc trước hành động của Mị Châu nhưng nhân
dân ta cũng rất khoan dung với nàng bởi lẽ Mị Châu không cố ý
gây lên nỗi lầm của mình. Để minh oan, chiêu tuyết cho tâm hồn
ngây thơ, trong trắng của người con gái ấy, truyền thuyết đã để cho
lời nguyền của nàng linh ứng: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng
phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một
lòng trung hiếu mà bị người lừa dối thì chết sẽ trở thành châu ngọc
để rửa sạch mối nhục thù”. Máu Mị Châu chảy xuống biển, loài
trai ăn phải biến thành hạt châu là minh chứng cho sự vô tình gây
tội của Mị Châu và thể hiện thái độ thương xót của nhân dân Âu
Lạc đối với nàng. Hình ảnh ngọc trai biểu trưng cho sự quý giá,
trong sáng, thanh cao – đó cũng chính là những nét đẹp trong tâm
hồn của Mị Châu.
Về Trọng Thủy, hành động nhảy xuống giếng tự vẫn thể hiện lòng
hối hận chân thành . Rõ ràng dân gian đã không quá cực đoan khi



kết án tội trạng của nhân vật này. Giếng nước Trọng Thủy trẫm
mình khi đem ngọc trai rửa vào thì ngọc càng trong sáng thêm.
Điều đó chứng tỏ nỗi oan của Mị Châu được hóa giải trong sự hối
hận của Trọng Thủy. Đồng thời, tình yêu, niềm xót thương của
Trọng Thủy chỉ được chứng thực bởi Mị Châu . Lỗi lầm của Trọng
Thủy đã tìm được lời hóa giải trong tình yêu thương của Mị Châu.

2.

Khái niệm cái bi

Cái bi là phạm trù cơ bản của mỹ học phản ánh giá trị thẩm mỹ của con người
đấu tranh cho những mục đích, lý tưởng nhân đạo đã bị thất bại trước các lực
lượng đối lập.
Khách thể thẩm mỹ là một phương tiện hợp thành mối quan hệ thẩm mỹ của con
người với hiện thực. Đó là những sự khái quát những hiện tượng thẩm mỹ khách
quang trong tự nhiên, trong đời sống xã hội và trong nghệ thuật thành các phạm
trù thẩm mĩ cơ bản như: cái đẹp, cái cao cả, cái bi và cái hài.


Trong “ Giáo trình mỹ học đại cương” tác giả Lê Hồng Vân nêu khái niệm cái bi
trong mỹ học là: một phạm trù mĩ học tồn tại bên cạnh cái đẹp, cái cao cả, cái
hài, là sự phản ánh một phẩm chất thẩm mĩ của thực tại khách quan, là một
phương diện đặc biệt trong quan hệ thẩm mỹ của con người.
Nói cách khác, cái bi là phạm trù thẩm mĩ cơ bản của mỹ học chỉ sự thất bại hay
chính cái chết của cái đẹp trong cuộc đấu tranh với cái xấu hay với lực lượng đối
lập
Cái bi được thể hiện một cách tập trung và điển hình nhất trong kịch – một thể
loại hình kịch ( VD: Rômêô và juliet – William Shakespeare ). Ngoài ra, văn học
cũng có nhiều tác phẩm mang đặc trưng của cái bi như tác phẩm Chí Phèo của

Nam Cao hay Tắt Đèn của Ngô Tất Tố.
3.

Cái bi và phạm trù có liên quan

Cái bi cũng giống như cái đẹp xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử. Theo như
Aristotle – người được coi là có công đầu trong việc nghiên cứu sâu sắc và có hệ
thống về bản chất bi kịch, thì bi kịch là hiện tượng quan trọng trong xã hội và bi
kịch là đỉnh cao của nghệ thuật. Nhân vật chủ thể của bi kịch là những người tốt,


có hành động đẹp đẽ và cao thượng. Tuy nhiên, trong khi đấu tranh chống lại cái
xấu họ phải chịu thất bại hay đánh đổi bằng cả tính mạng. Bi kịch ấy không phải
là để dập tắt những cái đẹp mà nó là một trong những phương tiện cao nhất để
thể hiện sự cao đẹp.
Nói cách khác, bản chất cái bi cũng gắn với cái đẹp, cái cao cả, cái anh hùng.
Cái đẹp, cái cao cả là mảnh ghép rõ nhất để có thể định nghĩa được cái bi

4.

Bản chất cái bi
a)

Cái bi là sự xung đột giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử với việc không
đủ khả năng thực hiện được yêu cầu đó trong thực tiễn.

Bản chất thẩm mĩ của cái bi là sự xung đột dẫn đến mất mát đau thương. Song,
không phải mọi sự xung đột dẫn đến mất mát đau thương đều là cái bi. Cơ sở để
xem xét việc nảy sinh cái bi là sự xung đột giữa yêu cầu tất yếu về mặt lịch sử
với việc không đủ khả năng thực hiện được yêu cầu đó trong thực tiễn (C. Mác).



Như vậy, những xung đột thông thường của đời sống không phải cơ sở nảy sinh
cái bi. Chẳng hạn, những xung đột giữa những anh chàng nghiện rượu, tranh
giành đất đai để rồi chém giết nhau. Do đó, những chết chóc đau khổ thường
tình không nằm trong phạm trù cái bi của mỹ học. Nghệ sĩ Anh thế kỷ XIX,
John Ruskin phân biệt:Thơ chỉ có thể lên tiếng với nỗi buồn của cô gái khóc cho
tình yêu trong trắng bị tan vỡ, chứ không thể viết về giọt nước mắt của kẻ hà
tiện đánh mất tiền. Ở đây có hai loại nước mắt, nước mắt cúa cái bi (nước mắt
của cô gái) và nước mắt của cái hài (nước mắt của anh chàng hà tiện). Chỉ thuộc
về cái bi những hy sinh tổn thất có ý nghĩa xã hội mang tính quy luật trong sự
phát triển lịch sử.
Bi kịch cá nhân xảy ra trong tình yêu, trong gia đình, ngoài xã hội cũng có thể là
cái bi, nếu đằng sau nó cũng chứa những xung đột xã hội, mang tầm vóc lịch sử.
Chẳng hạn bi kịch số phận Chí Phèo (trong Chí Phèo), Hămlét (trong Hămlét),
Mácbet (trong Mácbét), Lỗ Thị Phượng (trong Lôi vũ)... Các bi kịch xã hội như
thoái trào cách mạng, tổn thất lớn lao của cuộc chiến đấu của quần chúng cách
mạng cũng thuộc về cái bi. Chẳng hạn, phong trào Công xã Pari, 1871 ở Pháp.


b)

Bi kịch làm trong sạch hóa những cảm xúc

Bi kịch có tác dụng to lớn trong việc thanh khiết hóa tâm hồn con người.
Aristốt, nhà triết học, mĩ học thời Hylạp cổ đại cho rằng: Bi kịch là sự bắt chước
các hành động nghiêm túc và cao thượng, hành động này có một quy mô nhất
định, Bi kịch nhằm miêu tả những con người tốt nhất. Nhân vật và lực lượng bi
kịch có sức mạnh lớn lao, có ý chí mạnh mẽ, có lý tưởng đẹp đẽ, có khát vọng
chân chính. Nhân vật bi kịch thất bại thậm chí bị tiêu diệt. Nhưng đặc trưng

thẩm mĩ của cái bi lại không bi. Aristốt cũng đã từng khẳng định: bi kịch làm
trong sạch hóa những cảm xúc thông qua sự khêu gợi sự xót thương và khủng
khiếp. Cảm xúc thẩm mĩ đối với cái bi vẫn là tình cảm tích cực, vẫn là vui,
phấn chấn... Chứ không phải là cảm xúc bi quan, tiêu cực.
Mỹ học tôn giáo nhấn mạnh tính chất công bằng của việc trừng phạt con người
và những tội lỗi muốn mưu toan chống lại thế giới. Cách giải thích này tạo ra ở
con người trạng thái nhẫn nhục, chịu đựng, phục tùng số mệnh, định mệnh. Mỹ
học tư sản quan niệm cái bi như là sự bi đát của con người trước cuộc đời; như
là sự xung đột vĩnh hằng giữa thân phận nhỏ nhoi của con người và sự vĩnh hằng
bất tận của tạo hóa. Mĩ học Phong kiến phương Ðông, cũng bị chi phối khá nặng


nề của tư tưởng định mệnh. Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều từng giải thích về
tiếng khóc chào đời của con người lúc sơ sinh:
Thảo nào khi mới chôn rau
Ðã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Thực ra, xung đột bi kịch dấy lên ở con người những rung động thẩm mĩ sâu
sắc. Nó khơi dậy ở con người tình cảm cao cả, lành mạnh, kích thích những
hành động mãnh liệt, thúc đẩy con người đấu tranh vì hạnh phúc, tôi luyện con
người.
c)

Cảm xúc thẩm mĩ của cái bi là cảm xúc vui

Tại sao cảm xúc thẩm mĩ trong bi kịch lại là cảm xúc vui? Khi nhìn những diễn
viên trình diễn những bi kịch, ta nhỏ lệ biểu lộ sự đồng tình hay lòng trắc ẩn, mà
mặt mày như tươi tỉnh sáng lạn, tâm tư dàn trải thoải mái. Máu và nước mắt
thường đem lại cho ta những ý nghĩ ngọt ngào tươi mát hơn là những nụ cười



hoan hỉ. Vậy cảm xúc vui tươi trong bi kịch do đâu mà có?
Phương Tây có nhiều cách giải thích khác nhau.
Platon, với quan điểm của mình là xuất phát điểm cho thuyết
Vui cười trước tai họa của thiên hạ, ông cho rằng nỗi sầu
muộn là những đức tính yếu kém của con người, cần phải vứt
bỏ. Âúy vậy mà bi kịch lại kích thích nó lên. Như thế là
không đạo đức. J. J. Rousseau tiếp tục thuyết này, cho rằng bi
kịch là biểu lộ niềm hân hoan khoái lạc trước tai họa. Cho
nên, ông khuyến cáo người ta chớ nên mở kịch trường. Sau này E. Faguet khai
triển tư tưởng của J. J. Rousseau, cho rằng: con người là một mãnh thú, tìm
khóai lạc trước đau khổ của kẻ khác. Ông chứng minh điều đó ơ: những cuộc thi
đấu giữa người và thú trong thời Lamã; những cuộc đấu bò rừng ở Tâyban nha,
những vụ hành hình tàn khốc đối với kẻ khác tôn giáo thời Trung cổ; người ta
thích đọc báo về những tin tức các vụ đâm chém nhau... Thực ra, nếu đúng như
vậy thì việc gì phải bỏ tiền ra xem những cảnh tưởng tượng mà không tìm đến
những cảnh thực.


E. Burker (Anh quốc thế kỉ XVIII) đưa ra thuyết ngược lại
với thuyết tính ác, là thuyết tính thiện. Cảm giác vui trong
bi kịch là do lòng trắc ẩn, hay đồng tình tâm. Chính những
sự rủi ro bất hạnh ấy cũng khiến ta cảm thấy khoan khoái.
Con người ta thích pháp trường hơn kịch trường. Nghĩa là,
chúng ta thương xót cho Hămlét, nên rất vui khi thấy nhân
vật này chết một cách bi thảm.

Dubos (Pháp quốc, thế kỉ XVII), Thomas (đại học Colombia) lại giải thích bằng
nguyên nhân tâm lí. Theo họ, bản tính con người vốn hiếu động, thích những
cảm giác mạnh. Sự kích thích càng mạnh thì cảm xúc vui càng đậm. Bi kịch là
liều thuốc công hiệu giúp con người vui. Bi kịch lấy chết chóc làm đề tài. Mà,

chết là tai họa khủng khiếp. Do đó, bi kịch là đá nam châm mạnh nhất gây kích
động cho óc tưởng tượng. Nhưng thế thì, tại sao tai họa thực ngoài đời không


làm cho con người thích. Nhưng tai họa tưởng tượng trong nghệ thuật lại làm
người ta thích. Fontenelle cho rằng khoái lạc và đau khổ tuy khác nhau nhưng
nguyên nhân chỉ là một. Giống như sự gãi cào ngoài da, gãi cào mạnh thì đau,
nhẹ thì thích thú. Bi kịch là đem những sự đau khổ thực lên sân khấu. Tuy đó là
thực tại, nhưng lại không phải là thực tại. Những cảm giác đau khổ khi đứng
trước những nạn nhân vô cớ bị tai họa giảm bớt đi, thành ra những nỗi vui thích.

Schiller & Hegel (Ðức quốc thế kỉ XVIII) dùng quan điểm triết học để giải
thích. Sự xung đột vũ trụ là điều tất yếu. Có xung đột thì có đấu tranh, đấu tranh
mới có ý thức đạo đức, có ý thức đạo đức mới tìm thấy khoái lạc. Nguồn vui lớn
nhất sẽ đạt được từ sự phấn đấu cam go với nghịch cảnh, trong đó chứa đựng
đau khổ. Vũ trụ là một khối lý tính vừa xung đột, vừa hài
hòa. Ví dụ sự xung đột của con người vừa muốn làm trung
thần, vừa muốn làm người con hiếu thảo. Mâu thuẫn này
không thể dung hoà, trở thành bi kịch. Ðứng trên quan điểm
vũ trụ thì bi kịch là luật của tạo hóa, là công lý vĩnh cửu.
Khi xem kịch ta thấy được tính chất công lý vĩnh cửu, do
đó ta khoái. Những người này viện dẫn vở bi kịch Ăngtigôn


của Sôphốcl: Polinice con của quốc vương xứ Thèbes sau khi cha chết, mượn
lính nước địch để giành ngôi vua. Tân vương Créon giết kẻ phản bội, cho cho
phơi thây, cấm mai táng. Antigon, em ruột của Polinice, cháu ruột Créon không
nỡ nhìn thi hài anh ruột phơi, nên tìm cách che đậy. Nàng đính hôn với con trai
Creon là Hemon. Antigon bi xử chém. Hemon tự treo cổ cho vẹn tình. Theo
Hegel, Créon đại diện cho lý tưởng pháp luật, Antigon đại diện cho lí tưởng anh

em. Hai lý tưởng đều chính đáng nhưng trên quan điểm vũ trụ thì mâu thuẫn.
Schopenhauer lại cho rằng đời là bể khổ, con người ngụp lặn trong tai họa
nghiệp chướng nhưng không chịu khước từ bởi doý dục sinh tồn kiềm chế. Bi
kịch dạy cho con người biết ý thức tất cả đều hư không để thoạt nhiên đại ngộ.
Nhân vật bi kịch khác người ta ở chỗ biết rõ tình thế mà
buông tay đầu hàng, biết khước từ. (Còn ta bị dục vọng
kìm hãm). Nhưng chính khước từ là thắng lợi. Quả là
nhiều nhân vật bi kịch trước khi hấp hối đã khước từ.
Nhưng không phải mọi nhân vật bi kịch đều khước từ.
Macbeth chết than trời, Othello trong khi tự sát cũng
hận người (không khước từ). Triết gia Ðức thế kỉ XIX,
Nietzsche cho rằng thế giới đầy tai họa nghiệp chướng
nhưng nếu ta vứt bỏ được những ràng buộc, bủa vây của thế giới thực tại đầy
hẹp hòi để đứng trên cao nhìn lại, thì lại thấy nó là một bức tranh kỳ vĩ, đẹp lạ


lùng. Cũng như Thượng đế sau khi sáng tạo ra vũ trụ, tự mình nhìn lại, nó như
một tác phẩm nghệ thuật.
Freud với lí luận về mặc cảm Oedipus, cho rằng văn minh
là cái vỏ che đậy 5tâm địa dã man của con người. Tâm địa
chứa chất dục vọng, mà mãnh liệt nhất là tính dục. Nhưng
dục vọng và đạo đức, pháp luật mâu thuẫn dẫn đến dục vọng
bị dồn ép thành mặc cảm. Mặc cảm không phát tiết được có
thể phát sinh bệnh thần kinh hay thác loạn. Có lúc dục vọng
có thể hóa trang để có thể vượt khỏi sự kiểm soát của ý thức. Bi kịch là một hiện
tượng, một biểu hiện. Mặc cảm này được gọi mặc cảm Oedipus. Mỗi người đều
có mặc cảm Oedipus. Khi xem vở kịch này dục vọng ta được thỏa mãn một cách
gián tiếp, cho nên ta phát sinh niềm vui trong khi xem kịch.
Tất cả những kiến giải vừa nêu đều không giải thích được một cách đúng đắn
nguyên nhân cái vui trong bi kịch. Vậy nguyên nhân đúng đắn là ở đâu? Bi kịch

là một thứ tác phẩm nghệ thuật, xem bi kịch là một thứ kinh nghiệm mĩ cảm.
Kinh nghiệm mĩ cảm xuất hiện khi ta trực giác hình tướng sự vật. Trong lúc


thưởng ngoạn ta quên hẳn lợi hại của thực tế mà đứng ở địa vị khách quan để
quan sát, coi vũ trụ và đời sống là một bức tranh. Tai họa thực trong đời sống
khiến ta thương xót và lo sợ, nhưng tai họa trong kịch, sau giây phút lo sợ là
nguồn vui. Sở dĩ như vậy là vì, khoảng cách tâm lý giữa người xem và những
cảnh trên sân khấu có một khoảng cách không quá xa, không quá gần. Không
quá xa, để thấy rằng sự kiện trên sân khấu là hợp lý, hợp tình. Không quá gần,
để xem không ngộ nhận bi kịch trên sân khấu là cuộc sống thực tế. Phàm bi kịch
chân chính thì không được tả thực. Phàm khán giả kịch chân chính thì không
cho tình cảm thực dụng xen lấn vào mĩ cảm. Những tình cảm phát tán trong bi
kịch khác tình cảm phát tiết trong thực tế. Trong tâm tư khán giả, thế giới kịch là
biệt lập, không liên can đến lợi hại thực tế. Khi thưởng ngoạn kịch, khán giả hội
tụ tinh thần, bị sức lôi cuốn của sân khấu, do đó cũng sống hăng say, cũng hoạt
động phát tán tình cảm. Nhưng phát tán này kèm theo sự sảng khoái, khác kinh
nghiệm thường nhật là đèo bòng phiền lụy, bực bội, lo âu.
Hơn nữa, cảm xúc vui trong bi kịch, xuất phát từ chỗ, không phải cái chất, hay
sự thất bại của con người. Mà là, ở chỗ con người dám chấp nhận thất bại, dám
hi sinh vì những lí tưởng cao cả.


5.

Ý nghĩa cái bi trong đời sống sinh viên hiện nay:

Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc giữ
gìn và phát huy các giá trị đạo đức truyền thống cũng như việc xây dựng hệ giá
trị đạo đức mới ở nước ta đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải được giải

quyết. Thực tế cho thấy, trong đời sống xã hội đã có những biểu hiện xem nhẹ
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, chạy theo thị hiếu không lành
mạnh. Cuộc đấu tranh giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa lối sống lành mạnh
trung thực, có lý tưởng…với lối sống ích kỉ, thực dụng…đang diễn ra hàng
ngày. Bên cạnh những hệ giá trị mới được hình thành trong quá trình hội nhập,
những cái tiêu cực cũng đang xâm nhập vào đạo đức, lối sống của nhiều tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là đội ngũ học sinh, sinh viên.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội , là tập hợp những nguyên tắc,
quy tắc , chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con
người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi
niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Với tư cách là một sinh viên chúng tôi xin được đề cập đến một khía
cạnh nhỏ trong vấn đề lớn đạo đức lối sống của học sinh, sinh viên Việt Nam


trong thời đại ngày nay.Khi nhắc đến hai chữ “Sinh viên’’ mọi người đều biết đó
là tầng lớp tri thức cao của mỗi quốc gia – là tương lai của đất nước là những
người quyết định sự phồn thịnh của dân tộc vì chính họ là những “ mùa xuân
của xã hội” .
Để chuẩn bị cho hành trang vào đời, các bạn không chỉ mang theo vốn
kiến thức được học mà phải là người có đạo đức tốt, xứng đáng cương vị là một
sinh viên, hay nói đúng hơn “trước khi thành tài thì phải thành nhân”. Chủ tịch
Hồ Chí Minh kính yêu đã từng nói: “có tài mà không có đức thì là người vô
dụng, có đức mà không có tài thì làm gì cũng khó” qua đó cũng đủ hiểu Người
coi trọng như thế nào về đạo đức lối sống .Yếu tố đó không những quyết định
kết quả học tập mà quyết định đến tương lai và cuộc đời của mỗi bạn. “Giới trẻ
là tương lai của giáo hội và nhân loại”. Nhưng thực tế, liệu nó có tốt đẹp như
người ta tưởng không?
Nhân loại sẽ đi tới đâu, khi giới trẻ có lối sống thực dụng chỉ chạy theo những
giá trị vật chất mà bỏ quên những giá trị tinh thần. Tình trạng giới trẻ sống

buông thả, không coi trọng giá trị đạo đức đã và đang diễn ra ở nhiều nơi. Bằng
chứng là các phương tiện truyền thông đã đăng tải các bài viết phản ánh về thực
trạng này. Chúng lôi bè kéo cánh để đánh nhau (cả trai lẫn gái), thậm chí hành
hung cả thâỳ cô giáo, con giết cha, anh giết em, trẻ vị thành niên cũng gây ra


nhiều vụ án mạng. Những hành vi tàn bạo này được đăng trên mặt báo chỉ là
những tảng băng nổi, thực tế còn nhiều hơn nữa. Cách đây không lâu người ta
choáng váng vì một đoạn video clip nữ sinh đánh bạn đăng tải trên Internet.
Trong clip này một cô bé đang bị nữ sinh tóc ngắn vừa đánh tới tấp vào mặt vừa
chửi tục với kiểu “dạy dỗ” rất anh chị. Trong khi đó nhiều học sinh khác ngồi
chễm chệ ở ghế đá và thản nhiên nhìn vụ đánh hội đồng này. Một thái độ vô cảm
không thể ngờ được! Sau đó, dư luận lại đau lòng trước tình trạng gia tăng bạo
lực học đường của nữ sinh Việt Nam được phản ánh liên tục trên các phương
tiện truyền thông.
Đáng báo động hơn nữa hiện tượng sinh viên, học sinh đánh giáo viên
cũng gia tăng. Có những giáo viên đang giảng bài, bất ngờ bị học trò lấy mã tấu
trong cặp xông lên bục giảng chém trọng thương. Bên cạnh đó, tình trạng sống
thử và quan hệ tình dục trước hôn nhân ngày càng tăng cao. Theo tiến sĩ Tâm lí
Huỳnh Văn Sơn, Đại học Sư phạm TP HCM, việc các bạn trẻ quan hệ trước hôn
nhân không chỉ ảnh hưởng của văn hóa phương tây mà còn do lối sống quá dễ
dãi, đánh mất truyền thống tốt đẹp của người Á Đông, đó là: tôn trọng lễ nghĩa
gia phong, công dung ngôn hạnh, hiếu tiết lễ nghĩa,... Đồng thời tình trạng nạo
phá thai cũng đang ở mức báo động. Theo GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng –
giám đốc Bệnh viện phụ sản Từ Dũ, TP.HCM – cho biết: “Thực trạng nạo phá
thai rất đáng lo ngại. Mỗi năm, tại Việt Nam, có khoảng 700.000 phụ nữ nạo phá


thai. Riêng ở TP.HCM với khoảng 7 triệu dân mỗi năm có khoảng hơn 100
nghìn ca sinh nhưng số ca nạo phá thai cũng tương đương. Tại bệnh viện Từ Dũ,

mỗi năm tổng số sinh khoảng 45 nghìn người nhưng nạo phá thai hơn 30 nghìn
người và tổng số 1,2-1,6 triệu ca mỗi năm. Cả nước có 5% em gái sinh con trước
18 tuổi và 15% sinh con trước 20 tuổi”.
Hơn nữa, một số đông bạn trẻ đang chạy theo vòng xoáy của “văn hóa
tốc độ”. Từ những sách báo không lành mạnh, đến những băng đĩa phim sex
được trao cho nhau cách dễ dàng, từ những quán Karaoke buổi tối đến những vũ
trường, quán bar thâu đêm, rồi vào những ngôi nhà nghỉ. Mặt khác, tình trạng
đua xe cũng là một trong những vấn đề nổi cộm đang được diễn ra ở nhiều
nơi.Vào những đêm cuối tuần tại khu vực Quảng trường Hồ Chí Minh- thành
phố Vinh(Nghệ An) hàng trăm thanh niên đã tụ tập tổ chức đua xe trái phép
quanh khu vực này,gây náo loạn toàn thành phố. Chỉ tính từ 20h -23h đội cảnh
sát thành phố Vinh đã tiến hành bắt giữ, lập biên bản xử lý hơn 100 người đua
xe ,tạm giữ 60 xe máy, 100 xe đạp có gắn còi, tuy nhiên đám đông vẫn không
giải tán .
Ngoài ra, hiện nay ngày càng đông sinh viên Việt Nam chưa có thái độ
nhận thức đúng đắn đối với việc học tập. Theo một cuộc khảo sát của Phó GSTiến sĩ Phạm Công Khanh-Trường Sư phạm Hà Nội: “64% sinh viên chưa tìm


được phương pháp học tập phù hợp với đặc điểm nhận thức cá nhân. 36,1% sinh
viên bộc lộ phong cách thụ động, ngại nêu lên thắc mắc và ý kiến của mình để
đóng góp vào việc học tập trên lớp mà chỉ thích giảng viên cho nghe. Mặc dù
trong các cuộc chơi nhậu nhẹt số đông trong họ là người tiên phong, sôi nổi,
chơi hết mình. 50% sinh viên không thực sự tự tin vào năng lực, trình độ của
mình. 40% sinh viên cho rằng mình không có khả năng tự học. 70% sinh viên
cho rằng mình không có khả năng nghiên cứu. 55% sinh viên không thực sự
hứng thú với việc học tập” (theo tuổi - trẻ online). Những con số đó thật bất ngờ.
Đáng buồn thay cho một thế hệ tương lai đang ngày càng xuống dốc. Không
những vậy, có những sinh viên còn tỏ thái độ vô lễ với giảng viên, làm ồn trong
lớp, phát biểu linh tinh, huýt sáo... Do họ nghĩ mình đã lớn, có thể bày tỏ ý kiến
thoải mãi. Sinh viên ngày nay tiếp cận quá nhiều phương tiện truyền thông hiện

đại như điện thoại di động, truyền hình cáp, internet... nên dễ bị tiêm nhiễm
những tư tưởng xấu. Các bạn nam thì vùi mình trong nhậu nhẹt, cờ bạc. Số khác
lại lao vào các trò vô bổ trong thế giới ảo (như Võ lâm truyền kì, Đột kích,
Audition...).
Nguy hiểm hơn là các phim ảnh đồi trụy có tác động tiêu cực đến nhân
cách các bạn. Đau lòng hơn nữa số đông trong những bạn đó gia đình đâu có khá
giả gì. Để có tiền gửi lên thành phố cho con ăn học cha mẹ các bạn ở quê đã
phải bòn từng gánh rau, đấu thóc, đã làm việc hết mình mông một ngày được


×