Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Môn CNXHKH - Lớp Cao cấp Lý luận chính trị A38 Cà Mau - hệ tập trung ď Cau 1 LSCT Viet Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.13 KB, 4 trang )

Câu 1: Phân tích những giá trị cơ bản (chủ đạo) của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam. Vận dụng
những giá trị đó vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay ?
Lịch sử tư tưởng chính trị VN đã có sự xác lập trong buổi đầu dựng nước và từng bước được tích
hợp, phát triển qua các thời kỳ đấu tranh chống Bắc thuộc, thời kỳ Phục hưng DT và trong giai đoạn chế
độ PK VN suy thoái. Song, những giá trị chính trị cơ bản, chủ đạo của lịch sử VN có thể vận dụng vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
* Các nhân tố quy định sự hình thành và phát triển tư tưởng chính trị VN:
- Về vị trí địa lý, VN là một q/gia đất không rộng, người không đông, khí hậu ôn hòa, tài nguyên
phong phú, sản vật dồi dào. Tuy nhiên, thiên tai, dịch họa cũng rất thường xuyên và dữ dội. Do đó, yêu
cầu con người phải biết khai thác của cải và chế ngự sức mạnh tự phát của tự nhiên, cho nên việc chung
sống và chiến đấu với thiên nhiên đã thách thức đến sự tồn vong trong suốt chiều dài lịch sử của DT. Bên
cạnh đó, đất nước ta nằm ở vị trí quan trọng của vùng ĐNA, đây là nơi gặp gỡ của các luồng giao lưu
KT, VH ở phương Đông, cũng là nơi các bộ lạc trên đường di chuyển, địa bàn chiến lược lợi hại mà bọn
xâm lược các thời đại đều thèm khát chiếm lấy để bành trướng. Vì thế, từ khi dựng nước đến nay việc
chiến đấu chống giặc ngoại xâm đã trở thành vấn đề sống còn của DT VN.
- Về dân cư và sinh sống, VN là một q/gia đa DT, các DT vừa sống ở các địa bàn khác nhau, vừa
sống xen kẻ nhau; cũng là một q/gia đa dạng về tôn giáo và tín ngưỡng, đa sắc thái văn hóa địa phương
và với các bản thái miền, vùng. Nhưng tất cả thống nhất cùng chung sức, đồng lòng để XD và BVTQ.
Bên cạnh đó còn có sự thống nhất quốc gia trong sự hòa hợp các cộng đồng cư dân. Là một đất nước
nông nghiệp trồng lúa nước nên tính hợp quần cao, đơn vị hành chính cuối cùng hợp thành nước là làng
(bản), do đó tính hợp quần và văn hóa làng là sức mạnh sinh tồn mãnh liệt của con người VN.
Từ những đặc điểm trên, để đáp ứng yêu cầu trị thủy và chống giặc ngoại xâm, nhà nước ra đời.
Qua quá trình tương tác và hòa nhập lâu dài XD và BV đất nước mà DT hình thành và phát triển. Khi
nhà nước ra đời, giai cấp thống chỉ tồn tại khi còn là đại biểu chân chính cho lợi ích của quốc gia DT, nhà
nước phải chăm lo cho sự tồn tại và phát triển của DT nổi trội hơn sự chuyên chế giai cấp. Vì thế, sự tồn
tại, phát triển của Nhà nước và DT VN là không tách rời nhau.
- Đặc trưng trong sự hình thành, phát triển nhà nước và dân tộc: NN và DTVN hình thành và phát
triển không loại từ tính quy luật chung. Tuy nhiên, NN và DTVN
Những nhân tố trên đã làm cho lịch sử VN nói chung, lịch sử tư tưởng c/trị nói riêng phát triển
một cách đặc thù trong dòng chảy của sự phát triển tư tưởng c/trị nhân loại, đặc biệt là 4 giá trị cơ bản
chủ đạo của lịch sử c/trị VN.


I. Những giá trị cơ bản, chủ đạo của lịch sử chính trị Việt Nam.
1. Toàn dân đồng tâm hiệp lực dựng nước và giữ nước dưới sự lãnh đạo của một tổ chức những
người tiên tiến.
Là một DT đất không rộng, người không đông, nhưng VN luôn đứng trước hiểm hoạ của thiên
nhiên và của giặc ngoại xâm. Cho nên, XD và BV đất nước là 2 nhiệm vụ song trùng trong suốt quá trình
lịch sử của DT. Vì vậy, đoàn kết, thuỷ chung, kiên cường vượt qua thử thách để cùng sống, cùng vươn
lên đã trở thành đạo lý, thành quy luật cho sự tồn tại và phát triển của quốc gia dân tộc Việt Nam.
Nhiệm vụ nặng nề đòi hỏi phải có sự chỉ huy, điều hành một cách thống nhất trên quy mô rộng lớn
ở nhiều lĩnh vực với những cương vị lãnh khác nhau bởi những con người đủ Đức-Tài, tiêu biểu cho
phẩm giá, tài năng và bản lĩnh của con người, của q/gia DT VN trong một tổ chức chặt chẽ mói đủ sức
đại diện, tập hợp và lãnh đạo nhân dân để đối phó với kẻ thù gian xảo. Vì vậy, những người lãnh đạo
phải tổ chức mình và tổ chức cộng đồng một cách tối ưu theo yêu cầu của từng nhiệm vụ cụ thể. Lịch sử
chứng minh rằng, khi nào DT không thống nhất, đất nước bị chia cắt, triều đình thối nát, người đứng đầu
kém tài, thiếu đức thì đất nước điêu linh, nhân dân khốn khổ. Đó cũng chính là cơ hội mà kẻ thù ngoại
bang luôn rình chờ để thôn tính DT ta, chứng minh qua cuộc xâm lăng của nhà Minh vào nước ta khi mà
cuộc cải cách của Hồ Quí Ly đã làm mất lòng dân một cách trầm trọng.
2. Tự lực tự cường XD và PT nền ĐLDT, chủ quyền quốc gia ngang tầm thời đại


Thực tế lịch sử đã chỉ rằng, các thế lực cầm đầu ở nước lân bang ít khi chịu sống hoà thuận và
tương trợ với nước ta mà chúng luôn nuôi dưỡng âm mưu lấn chiếm, thôn tính, đồng hoá hoặc bắt nước
ta phải đi theo quỹ đạo của chúng. Hể có cơ hội là chúng xua quân sang nước ta chiếm đất đai, cướp của,
vơ vét sản vật quý hiếm, k/thác tài nguyên… Để tồn tại và PT, DT ta phải tự vươn lên BV các quyền
thiêng liêng của mình, tự XD và PT đ/nước bằng chính sức của mình. Những giá trị của nhân loại chỉ có
thể phát huy được tác dụng khi gia nhập vào giá trị của DT và được DT nội sinh ra giá trị mới.
DT VN không xem nhẹ tác nhân, sự hợp tác và giúp đở từ bên ngoài, nhưng bao giờ cũng xem
sức mạnh của DT là nhân tố chủ đạo đóng vai trò quyết định, nên đã nỗ lực bản thân, tự vươn lên vượt
qua tất cả, tự mình quyết định vận mệnh dân tộc và chủ quyền quốc gia của mình.
Lịch sử cho thấy, kẻ thù xâm lược thường mạnh hơn ta nhiều mặt, muốn chống chúng, ta phải biết
khai thác mọi lợi thế của mình và tận dụng những phương tiện vật chất, tinh thần mà chúng đem đến để

chuyển thành vũ khí cho ta, đồng thời tiếp thu giá trị của nhân loại-nơi sinh ra những giá trị mới để tự
vươn mình lên ngang tầm thời đại là yêu cầu sống còn của DT VN.
3. Thực thi nền chính trị nhân bản vì con người và quốc gia dân tộc.
Những bài học xương máu, những chiến công hiển hách và những tủi nhục lầm than trong suốt
chiều dài của lịch sử DT đã khẳng định rằng, một nền c/trị thuần tuý vì lợi ích một giai cấp, một tập đoàn
hạn hẹp sớm muộn cũng phải diệt vong. Vì nền c/trị đó, với một nhà nước cường quyền, sự duy trì của
nó không hợp với logic tất yếu của DT nên không đại diện và cũng không tập hợp được toàn DT để XD
và BV đất nước mà còn gây oán hận cho nhân dân.
Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, chỉ có nền c/trị nhân bản mới đáp ứng được yêu cầu tồn tại và PT
của đất nước. Đó là nền c/trị đặt lên hàng đầu n/vụ BV chủ quyền q/gia DT, BV sự PT tự nhiên các
quyền của con người. Chỉ có nền c/trị chăm lo đến con người, đại diện cho lợi quyền lợi của q/gia DT
mới hợp với đạo lý của con người VN, mới tập hợp và khơi dậy được sự đồng tâm hiệp lực cả cộng đồng
trong chế ngự thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm và phù hợp với quy luật tồn tại và phát triển của DT
VN.
Thiên nhiên khắc nghiệt, kẻ thù hung hãn và tàn bạo, con người phải nhân bản,phải thương yêu,
che chở và nương tựa vào nhau mà tồn tại và chiến đấu. Nhân bản còn là vũ khí vô cùng lợi hại để chiến
thắng kẻ thù và là p/thức cơ bản để nhân hoá chính mình. Cho nên, đường lối c/trị “khoan dung”, “nhân
nghĩa” đã tạo nên thế trận lòng dân vững chắc cho những cuộc c/tranh nh/dân mang tính lịch sử của DT
ta. Do đó, nhân bản đã trở thành ng/tắc căn bản cho mọi hoạt động của các LL c/trị đại diện cho q/gia DT
VN.
4. Người lãnh đạo chính trị Việt Nam phải có đức và tài, mà đức là gốc.
Người CB lãnh đạo c/trị phải là người “có đức”, biết yêu dân, BV, chăm lo cuộc sống vật chất và
tinh thần cho dân, biết “khoan thư sức dân”, biết chăm lo cho thế hệ hôm nay và biết “tính kế cho các thế
hệ con cháu mai sau”; biết đối nhân xử thế; biết đối nhân xử thế, nho nhã và lịch lãm, thấu lý mà đạt tình,
phải trái phân minh, nghĩa tình trước sau trọn vẹn; gần gũi với mọi người, gắn bó và tận tuỵ với việc
nước…
Người CB lãnh đạo c/trị phải là người “có tài”. Đó là dũng cảm và kiên cường, mưu trí và linh
hoạt, thông minh và sáng tạo, có bản lĩnh trước kẻ thù, biết địch biết ta, biết thời biết thế; “biết tĩnh như
núi” và “biết động như biển”; “thắng không kiêu, bại không nản”; biết nhân nhượng, thoả hiệp khi cần;
nhưng mục tiêu chiến lược vì lợi ích quốc gia DT thì không bao giờ thay đổi - “Dĩ bất biến, ứng vạn

biến”; dám hiến dâng cuộc đời mình vì quốc gia DT, vì hạnh phúc của con người. Trong lịch sử DT thời
PK nước ta những người lãnh đạo chính trị tiêu biểu “có tài” như thế là L.T.Kiệt, Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Huệ,…và trong TK XX có C/tịch HCM.
Sự phân tích trên cho thấy, lịch sử tư tưởng c/trị VN là lịch sử của sự PT đường lối c/trị đ/tranh
cho nền ĐLDT, chủ quyền của q/gia toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đ/tranh vì những giá trị của con
người. Những giá trị ấy đã soi sáng con đường XD đất nước và BVTQ suốt mấy ngàn năm lịch sử và có
thể vận dụng chúng vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
II. Vận dụng những giá trị cơ bản của LSTT c/trị VN vào công cuộc đổi mới hiện nay


1. Thực trạng vận dụng những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Việt Nam từ khi Đảng ta được
thành lập đến nay.
Từ khi thành lập và lãnh đạo CMVN, đến nay, Đảng ta luôn khai thác và phát huy những g/trị cơ
bản của LSTT c/trị của DT VN trong quá khứ vào việc XD đường lối c/trị cho CM nước ta qua các thời
kỳ và đạt được những kết quả như:
- Tập hợp LL thành tổ chức dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, đã giáo dục toàn dân đồng tâm hiện
lực, ý thức tự lực, tự cường, thực thi nền c/trị nhân bản vì con người và quốc gia DT; giáo dục đào tạo và
sử dụng, bố trí những người có tài - đức vào nắm giữ cương vị lãnh đạo Đảng, QLNN các cấp, các
ngành, nhất là cấp TW, XD nên đường lối c/trị trong CM DTDC nhân dân để tiến hành 2 cuộc k/chiến
đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ giành ĐL cho DT, thống nhất nước nhà, đưa nước ta tiến lên
CNXH.
- XD và từng bước bổ sung, hoàn thiện đường lối c/trị XHCN trên phạm vi cả nước, thực hiện 2
nhiệm vụ chiến lược cơ bản, hàng đầu là XD CNXH và BV ĐLDT chủ quyền q/gia trong thời kỳ mới
ngang tầm thời đại, XD và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đã tạo ra nhiều thành tựu KT, CT, VH,
XH quan trọng, ổn định c/trị, XH trong nước và nâng cao vị thế của VN trên trường quốc tế được bạn bè
nhiều nước trên TG, kể cả những nước trước đây vốn là kẻ thù của DTVN cũng phải thừa nhận và thán
phục.
Tuy nhiên, quá trình vận dụng những giá trị cơ bản của tư tưởng c/trị VN trong khứ còn bọc lộ
những hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, đó là:
Việc khai thác những giá trị cơ bản của tư tưởng c/trị VN để XD và PT, hoàn thiện đường lối c/trị CNXH

ở Việt Nam thiếu thường xuyên và chưa triệt để, chưa đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi mới đất
nước; công tác TTGD những giá trị của tư tưởng c/trị VN trong CB đảng viên và nhân dân về lòng yêu
nước, tinh thần đoàn kết DT, tính nhân bản, sự đồng tâm hiệp lực, ý chí tự lực tự cường trong XD và
BVTQ chưa cao.
Nguyên nhân của hạn chế, bất cập nói trên là do: Sự tác động của KTTT, chủ yếu là tư tưởng về
lợi ích KT, đã chi phối tư tưởng c/trị, công tác TTGD những giá trị cơ bản của tư tưởng c/trị DT và hình
thức, nội dung TTGD những giá trị ấy còn đơn điệu, nghèo nàn, nhàn chán, chưa phù hợp với những đối
tượng khác nhau trong XH và thiếu tính thuyết phục; sự nhận thức và gương mẫu thực hiện vấn đề này
của không ít CB đảng viên còn kém; với tư cách là người lãnh đạo HTCT, người quản lý điều hành đất
nước, người tập hợp, TTGD quần chúng nhân dân, sự yếu kém của những tổ chức cấu thành HTCT ở
nước ta hiện nay, cùng với tệ quan liêu tham nhũng, tham ô, hối lộ, biến chất, suy thoái đạo đức của một
bộ phận không nhỏ CB đảng viên, công chức và sự thờ ơ về c/trị của một bộ phận CB đảng viên và nhân
dân là những nguyên nhân trong nhiều nguyên nhân gây cản trở đến việc truyền bá và vận dụng những
giá trị của tư tưởng c/trị VN vào phục vụ cho công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần phải có phương
hướng khả thi để khắc phục.
2. Phương hướng vận dụng những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Việt Nam vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay.
Thứ nhất, xây dựng khối ĐĐK DT dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược cơ bản, hàng đầu là XD CNXH và BVTQ VN.
Thứ hai, xây dựng nền KTTT theo định hướng CNXH, nền KT nhiều thành phần, trong đó, thành
phần KT nhà nước và KT tập thể làm chủ đạo. Đẩy mạnh tiến trình CNH, HĐH đất nước, chủ động phát
huy tiềm lực KT của đất nước.
Thứ ba, tích cực khai thác và phát huy tư tưởng chính trị của lịch sử DT để XD nền c/trị nhân bản
VN vì con người và quốc gia DT đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước.
Thứ tư, xây dựng MTTQ và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng vững mạnh.
Thứ năm, xây dựng phương án, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn những người “có tài”,
“có đức”, mà đức là gốc, là nền tảng phục vụ cho công cuộc xây dựng CNXH và BVTQ.
Tóm lại, những giá trị cơ bản của lịch sử tư tưởng chính trị Việt Nam trong quá khứ, là những giá
trị bất hữu, góp phần vào việc xây dựng và phát triển đường lối chính trị trong đấu tranh đánh đuổi thực



dân Pháp và đế quốc Mỹ giành độc lập cho dân tộc, và là ngọn đuốc soi sáng trên con đường phát triển,
hoàn thiện đường lối chính trị để thực hiện hai nhiệm vụ xây dựng XHCN và bảo vệ Tổ quốc của thời kỳ
đổi mới ở nước ta hiện nay./.



×