Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tiểu luận luật so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.04 KB, 12 trang )

Đề số 05: Anh/chị hãy bình luận về đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc và
liên hệ so sánh với công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.

Lời Mở Đầu
1.

Lí do chọn đề tài:

Trong thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa, trong xu thế xây dựng nhà nước pháp
quyền nói chung, Trung Quốc hay Việt Nam và nhiều quốc gia khác vẫn còn tồn tại
những hạn chế cơ bản, nhà nước muốn duy trì trật tự xã hội, muốn giải quyết những
tồn đọng thì cần có những biện pháp lâu dài, trong đó công tác về đào tạo luật và
nghề luật phải thực sự được chú trọng, quan tâm bởi nó là nền tảng để khắc phục
những hạn chế của Nhà nước Pháp quyền.
Nhằm có những nhận thức đúng đắn, tìm được ra những kinh nghiệm quý giá
trong việc đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc, từ đó liên hệ với công tác đào
tạo luật và nghề luật ở Việt Nam, người viết chọn lựa đề tài: “Bình luận về đào tạo
luật và nghề luật ở Trung Quốc và liên hệ so sánh với công tác đào tạo luật và
nghề luật ở Việt Nam”.
2.

Mục đích nghiên cứu đề tài:

Đề tài nghiên cứu đi bình luận về công tác đào tạo luật, bình luận về nghề luật ở
Trung Quốc, chỉ ra được những điểm tích cực cần học hỏi và hạn chế cần khắc
phục, từ đó liên hệ, so sánh với công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam, đưa
ra được hướng cải thiện tốt hơn cho công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.
3.

Kết cấu bài tiểu luận:


Bài tiểu luận gồm ba phần chính: phần lời mở đầu, phần nội dung đề tài, phần
kết luận và phần phụ: danh mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung đề tài
gồm ba phần như sau:

1


Phần một: Một số vấn đề lí luận chung về đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc
và Việt Nam.
Phần hai: Bình luận về đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc.
Phần ba: Liên hệ so sánh với công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.
Phần bốn: Một số đề xuất trong công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.
Trong bài viết có thể còn nhiều thiếu sót, kính mong thầy cô xem xét, sửa chữa,
giúp người viết được hoàn thiện hơn trong các bài sau.
Phần một: Một số vấn đề lí luận chung về đào tạo luật và nghề luật ở Trung
Quốc và Việt Nam.
1. Về đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc:
Với Trung Quốc, sự trở lại của Hồng Kông, Ma Cao vào những năm 90 của thế
kỉ XX, đã khiến cho hệ thống pháp luật Trung Quốc trở nên rắc rối hơn, đặc biệt
với chính sách “one country, two systems” ( một quốc gia, hai chế độ) đã làm cho
hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc không còn thuần túy mà đã
chịu ảnh hưởng, pha trộn của pháp luật Phương Tây, theo đó công tác đào tạo luật
và nghề luật ở Trung Quốc cũng có những ảnh hưởng nhất định, phải thay đổi cho
phù hợp tình hình.
Đào tạo luật ở Trung Quốc gồm có đào tạo đại học và đào tạo sau đại học,
ngoài ra còn có thực tập nghề luật. Phương pháp đài tạo luật cơ bản tương tự như
phương pháp đào tạo luật của các nước thuộc dòng họ pháp luật Civil Law. Để có
được bằng cử nhân luật, sinh viên phải theo học ba năm tại các trường đại học.
Ngay từ khi theo học tại các trường đại học, sinh viên luật Trung Quốc đã phải làm
quen với nhiều luật, bộ luật khác nhau. Cũng do phương pháp giảng dạy ở các

trường đạy học này là thuyết trình, chủ yếu tập trung giảng dạy lí thuyết về các luật,
bộ luật (pháp luật thành văn), ít coi trọng thực hành. Trong những năm gần đây,
những phán quyết điển hình của Tòa án đã được đưa vào giảng dạy bên cạnh giảng
2


dạy luật thành văn. Sau khi có được bằng cử nhân, sinh viên có thể dành khoảng
hai năm thực tập để tích lũy kinh nghiệm để tham dự kì thi luật quốc gia với mức
độ khó và tỉ lệ đỗ rất thấp, hoặc có thể tiếp tục theo học Thạc sĩ, Tiến sĩ.
Nghề luật được hiểu là nghề thẩm phán, công tố viên (kiểm sát viên), công
chứng viên hay luật sư. Trước đây, nghề luật không được coi trọng ở Trung Quốc,
tuy nhiên sau khi gia nhập WTO vào ngày 10/12/2001, nghề luật sư trở thành nghề
số một ở Trung Quốc. Để trở thành luật sư, các ứng cử viên phải vượt qua kì thi
luật quốc gia do Chính phủ tỏ chức hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của ngành tư pháp công nhận. Sau khi đỗ kì thi luật quốc gia, các ứng cử viên còn
phải thực tập một năm tại các công ti luật, chỉ khi đã hoàn tất thời gian thực tập,
ứng cử viên mới được cấp chứng chỉ đỏ để hành nghề luật sư. Giấy phép hành nghề
luật cần được đăng kí hằng năm lại tại Văn phòng tư pháp tỉnh, thành phố hoặc khu
tự trị. Một luật sư chỉ có thể hành nghề luật sư tại một văn phòng hay công ty luật
tại một thời điểm. Những người không tuân thủ các quy định sẽ bị tước giấy phép
hành nghề. Ngoài ra, những người đã được đào tạo bốn năm hoặc lâu hơn tại các
khoa luật hay đã công tác trong lĩnh vực giảng dạy và nghiên cứu luật hoặc có
phẩm chất nghề nghiệp tương ứng có thể nộp hồ sơ xin giấy phép hành nghề tại cơ
quan tư pháp có thẩm quyền của Hội đồng Nhà nước. Tuy nhiên, người đang làm
công tác giảng dạy và nghiên cứu không được đồng thời là thành viên trong công ti
luật.
2.

Về đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam:


Việt Nam là nước thuộc hệ thống pháp luật Xã hội Chủ nghĩa, việc đào tạo luật
ở Việt Nam cũng giống như nhiều nước trên thế giới gồm có đào tạo đại học và đào
tạo sau đại học. Đối với đào tạo đại học, học sinh sau khi tốt nghiệp Trung Học Phổ
Thông, trải qua kì thi chung quốc gia, học sinh hay những người có nhu cầu học đại
học mà đáp ứng các điều kiện khác sẽ xét tuyển hay thi tuyển thêm tại các trường
đại học luật. Hiện nay ở Việt Nam có hệ thống các trường đại học luật lâu năm như:
3


Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh, khoa Luật- Đại học Quốc Gia
Hà Nội… Chương trình học tại các trường đại học thường là bốn năm, trong đó
một năm đầu học về các môn học mang tính đại cương, lí luận, ba năm còn lại học
về luật. Phương pháp giảng dạy chủ yếu là phương pháp thuyết trình, giảng giải,
thiên về lí thuyết. Cũng giống như các nước thuộc dòng họ pháp luật Civil Law,
cách đào tạo ở Việt Nam giảng dạy thông qua luật thành văn, với nhiều môn học:
Luật Hiến pháp, luật hình sự, luật dân sự, luật hành chính, luật tố tụng hành chính,
luật tố tụng dân sự, luật tố tụng hình sự, luật thương mại, luật đất đai, luật lao động,
công pháp quốc tế, tư pháp quốc tế,…Sau khi có bằng cử nhân luật, sinh viên Việt
Nam có thể tiếp tục học Thạc sĩ, Tiến sĩ hoặc có thể học nghề để trở thành thẩm
phán, kiểm sát viên hay luật sư.
Đối với việc đào tạo nghề luật, ngoài học tại Học viện Tư Pháp (thuộc Bộ Tư
Pháp) với những yêu cầu chung để được học tập, đây cũng là cơ sở duy nhất đào
tạo nghề luật sư. Những người theo học tại Học viện Tư Pháp phải trải qua khóa
học 12 tháng, sáu đó trải qua kì thi tốt nghiệp của Học viện Tư Pháp, được cấp giấy
tốt nghiệp lớp luật sư. Sau khi tốt nghiệp, cá nhân bắt buộc phải đăng kí tập sự tại
một văn phòng, tổ chức hành nghề luật sư trong 12 tháng. Tiếp theo, người tập sự
nghề luật sư tham dự kì kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư, nếu đạt điểm thì
được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư do Bộ Tư Pháp cấp, cấp thẻ hành nghề luật
sư do Liên đoàn Luật sư Việt Nam cấp; nếu không đạt thì được gia hạn tập sự và
tham gia kì kiểm tra lại… Ngoài ra, luật Luật sư còn quy định một số trường hợp

được miễn, giảm thời gian tập sự hành nghề Luật sư, miễn kiểm tra tập sự hành
nghề luật sư.
Với các nghề tư pháp khác, hiện nay còn có các trường trực thuộc cơ quan tư
pháp đào tạo trực tiếp về luật và nghề luật cho sinh viên như: Học viện Tòa Án
(thuộc Tòa Án Nhân Dân Tối Cao), Đại học Kiểm Sát Hà Nội (thuộc Viện Kiểm
Sát Nhân Dân Tối Cao),… Các trường này với chương trình đào tạo từ 4-5 năm vừa
4


đào tạo về luật vừa đào tạo nghiệp vụ để sinh viên ra trường là một nguồn lực bổ
sung, phục vụ trực tiếp cho các cơ quan này. Kết thúc 4-5 năm học, sinh viên sẽ
nhận được hai bằng: bằng cử nhân luật và chứng chỉ hành nghề. Tuy nhiên, các cơ
quan này không bắt buộc sau khi học xong tại trường phải và chỉ được làm trong
các cơ quan này, mà dành cho sinh viên có thể tùy chọn hoặc công tác trực tiếp tại
các khối cơ quan này hoặc làm trong các doanh nghiệp tư. Điều này thể hiện tính
dân chủ rất rõ của nhà nước Việt Nam. Để trở thành kiểm sát viên, sinh viên, các
ứng cử viên phải đáp ứng những tiêu chuẩn chung quy định tại điều 75 Luật tổ
chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân 2014: “ 1. Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất
đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực, bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên
quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; 2. Có trình độ cử nhân luật trở lên; 3. Đã
được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát; 4.Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy
định của Luật tổ chức Viện Kiểm Sát; 5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao”. Bên cạnh đó đối với mỗi ngạch kiểm sát viên sơ cấp, kiểm sát viên
trung cấp, kiểm sát viên cao cấp, kiểm sát viên VKSNDTC đều phải đáp ứng các
điều kiện riêng nhất định quy định tại điều 77, điều 78, điều 79, điều 80 Luật tổ
chức Viện Kiểm Sát Nhân Dân 2014. Để trở thành thẩm phán, sinh viên, ứng cử
viên cần đáp ứng các tiêu chuẩn quy định tại điều 67 Luật tổ chức Tòa Án Nhân
Dân 2014: “1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính

trị vững vàng, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liên khiết và
trung thực; 2. Có trình độ cử nhân luật trở lên; 3. Đã được đào tạo nghiệp vụ xét
xử; 4. Có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật; 5. Có sức khỏe bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao”. Ngoài ra để trở thành thẩm phán sơ cấp, thẩm phán
trung cấp, thẩm phán cao cấp, thẩm phán Tòa án NDTC thì mỗi cá nhân ngoài đáp
ứng các điều kiện chung còn cần đáp ứng các quy định tại điều 68, điều 69 Luật tổ
chức Tòa Án Nhân Dân 2014.
5


Phần hai: Bình luận về đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc.
Việc tuyển chọn sinh viên vào các trường đại học luật, khoa luật không đặt ra
quá nhiều điều kiện khắt khe, khiến cho mọi sinh viên đều có cơ hội học luật.
Trong quá trình giảng dạy các bộ luật với phương pháp giảng dạy thiên về lí thuyết
có thể giúp sinh viên biết nhiều, hiểu nhiều, giúp hoàn thiện quá trình xây dựng
pháp luật thành văn. Mặt khác, việc tuyên truyền áp dụng phổ biến pháp luật cũng
sẽ dễ dàng hơn tới mọi công dân. Để được cấp bằng hành nghề luật, các ứng cử
viên phải trải qua kì thi luật quốc gia tương đối khó, điều này giúp tăng cường chất
lượng hành nghề luật của các ứng cử viên. Về mặt chuyển đổi các loại nghề tư pháp
cũng không quy định quá chặt chẽ. Nghề luật sư đặc biệt được coi trọng ở Trung
Quốc, mặt khác, luật sư ở Trung Quốc cũng không phân định rạch ròi luật sư tranh
tụng hay luật sư tư vấn, khiến cho công việc luật sư được linh hoạt, chủ động.
Tuy nhiên, trong quá trình đào tạo luật và nghề luật ở Trung Quốc vẫn có một
số hạn chế sau:
Thứ nhất, việc tuyển chọn sinh viên luật không đặt cao điều kiện khiến khó có
thể chọn sinh viên chất lượng, thời gian đào tạo luật ngắn làm cho sinh viên chưa
thể tiếp thu chuyên sâu, phương pháp đào tạo lại thiên về lí thuyết, thiếu cơ hội
thực hành làm cho sinh viên bị động nhiều trước tình huống thực tế.
Thứ hai, để được hành nghề luật ở Trung Quốc phải trải qua kì thi luật quốc gia
tương đối khó, khiến tỉ lệ các ứng cử viên trúng cử để được cấp bằng hành nghề

luật tương đối thấp, điều này làm cho khó có thể đáp ứng được nhu cầu về các vấn
đề tư pháp của đất nước.
Phần ba: Liên hệ so sánh với công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.
1. Đối với công tác đào tạo luật ở Việt Nam:

6


Qua thực tế đã thấy, sinh viên luật tại Việt Nam mỗi năm ra trường cũng
đáng kể, tuy nhiên chất lượng chưa thật sự cao, chưa đáp ứng được điều mà xã hội
cần, vậy nguyên nhân là từ đâu ? Có thể kể đến từ chính công tác đào tạo luật.
Đầu tiên việc tuyển chọn chất lượng đầu vào chưa được cao, cơ sở đào tạo
luật tràn lan, thiếu quy hoạch, chương trình đào tạo còn nặng nề tính hàn lâm, lí
luận sâu. Phương pháp đào tạo còn nặng về truyền thụ lí thuyết, chưa chú trọng
chất lượng truyền đạt, gây cảm giác mệt mỏi trong mỗi tiết học. Điều này về cơ bản
giống Trung Quốc. Tuy nhiên Việt Nam đã có những chú trọng hơn trong công tác
thực tiễn, bởi không chỉ dành thời gian cho sinh viên học lí thuyết mà còn có thời
gian để sinh viên kiến tập, thực tập, giúp tăng cường hiểu biết thực tế, rút ngắn
khoảng cách lí luận và thực tiễn.
Thứ hai, dường như vẫn vướng cơ chế” xin-cho”, giảng viên là người cho
kiến thức sinh viên, giảng viên dạy đến đâu sinh viên biết đến đó, bộ phận không
nhỏ sinh viên lại thụ động, lười nhác tìm hiểu bài, đọc giáo trình trước khi đến lớp,
ỷ lại vào sự truyền đạt kiến thức của giảng viên khiến cho giờ học càng thêm kém
chất lượng. Thêm nữa, các giờ thảo luận, thuyết trình còn mang tính” cưỡi ngựa
xem hoa”, chưa thực sự đạt được hiệu quả. Đây là những giờ sinh viên tăng tính
chủ động của bản thân, là “ giờ của sinh viên”, nhưng giảng viên vẫn đóng vai trò
chính. Có thể thấy vai trò rất thụ động, cũng như hạn chế lớn của sinh viên luật Việt
Nam.
Thứ ba, về mặt đầu ra, Việt Nam cũng chưa thật sự siết chặt, vẫn còn những
“lỏng lẻo”, “ưu tiên” trong đầu ra, khiến cho sinh viên ra trường chưa thật sự chất

lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu Hội nhập cải cách của đất nước, chưa đáp ứng
được yêu cầu NQ/48, NQ/49-TW về chiến lược cải cách tư pháp của nước ta.
Có thể nói những điểm hạn chế trên cũng như điểm tích cực chỉ ra trong công tác
đào tạo luật ở Trung Quốc có những điểm tương đồng với Việt Nam.
7


2.

Đối với nghề luật ở Việt Nam:

Tại Việt Nam, đầu vào trong việc học nghề luật ở Học Viện Tư Pháp chưa được
chú trọng, những người có nhu cầu học đăng kí học, chứ không phải trải qua kì thi
quốc gia về pháp luật. Khác với việc phải trải qua kì thi quốc gia hoặc được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của ngành tư pháp công nhận như Trung Quốc.
Thêm nữa, cơ chế tuyển chọn người làm trong các cơ quan tư pháp nhà nước chưa
thật chặt chẽ, từ khâu sơ tuyển, đến xét tuyển, học tập, từ đó khiến cho chất lượng
sinh viên, học viên ra trường chưa thật sự xuất sắc. Song, ở Việt Nam có những tiêu
chuẩn chặt chẽ để có thể trở thành luật sư, kiểm sát viên hay thẩm phán, điều này
chỉ đáp ứng một phần nhỏ trong điều kiện trở thành người giữ các chức danh tư
pháp trong cơ quan nhà nước. Thêm nữa, mỗi người muốn trở thành kiểm sát viên,
thẩm phán phải trải qua kì thi chức danh do Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao, Tòa
Án Nhân Dân Tối Cao tổ chức định kì hằng năm, điều này nhằm đảm bảo chất
lượng cho các ứng cử viên mỗi chức danh. Mặt khác, luật cũng không cấm việc
được chuyển đổi giữa các chức danh tư pháp, chỉ quy định đáp ứng điều kiện là có
thể thi và được bổ nhiệm, hoặc là sau khi các cá nhân giữ chức danh tư pháp sau
khi nghỉ hưu có thể trở thành luật sư, hoặc đi giảng dạy hợp đồng trong các cơ sở
luật.
Thêm nữa, tại Việt Nam cũng có nhiều ngành nghề về luật cho người học
luật lựa chọn. Nghề luật sư ở Việt Nam không phân chia thành luật sư tư vấn và

luật sư tranh tụng khiến nghề luật sư rất chủ động. Đây cũng là những điểm chung
so với nghề luật ở Trung Quốc.
Phần bốn: Một số đề xuất trong công tác đào tạo luật và nghề luật ở Việt Nam.
Thứ nhất, cần xem xét lại cơ chế tuyển chọn đầu vào, đặt yêu cầu cao cho chất
lượng đầu ra; trong quá trình đào tạo, dạy học sinh viên ở bậc đại học, cần chú tâm
trọng điểm đào tạo những gì xã hội cần, nhiều hơn là dạy lí thuyết hàn lâm, thiếu
tính thực tiễn, khiến cho sinh viên ra trường làm được việc ngay, ngoài ra nên đưa
8


các vụ việc thực tiễn vào giảng dạy kèm các môn luật, tăng cường mời các thẩm
phán, kiểm sát viên, luật sư nổi tiếng có chuyên môn cao đến giảng dạy, tăng cường
các câu hỏi về thực tiễn pháp luật.
Thứ hai, cần xem xét lại chương trình khung giáo dục đại học ngành Luật, giảm
bớt các môn lí luận đại cương, tăng cường các giờ thực hành, tham gia thực tế trong
việc vận dụng pháp luật giải quyết các vấn đề thực tiễn của học sinh… Giảng viên
cần tự chủ động khơi gợi ý bài dạy để định hướng cho sinh viên tìm hiểu, tránh
truyền đạt hết kiến thức khiến cho sinh viên thụ động, nên đặt ra các ý chính để
sinh viên tự tìm hiểu, từ đó tăng khả năng chủ động, khai thác tìm kiếm thông tin
và xử lí tình huống thực tiễn.
Thứ ba, nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho việc đưa sinh viên đi du học nước
ngoài, học tập kinh nghiệm, hiểu biết, mặt khác tăng cường liên kết giáo dục đào
tạo với Anh Mĩ nói riêng và nhiều nước Châu âu khác nói chung, cũng như các
thành tựu của các nước trong khu vực như: Singapor, Trung Quốc, Nhật Bản… để
công tác đào tạo luật và hành nghề luật sau này được thuận tiện, tích cực, hội nhập.
Thứ tư, cần áp dụng các phương pháp tiên tiến để đào tạo luật, điều này áp dụng
chung cho cả Việt Nam và Trung Quốc như phương pháp giải quyết tình huống,
phương pháp diễn án (đóng phiên tòa giả định), phương pháp song giảng (hai giảng
viên cùng lên lớp, một giảng viên giảng lí thuyết, một giảng viên giảng thực hànhcác giảng viên giảng thực hành nên là những người đã đi làm có kinh nghiệm
chuyên sâu, lâu năm có thể là luật sư, thẩm phán hay kiểm sát viên đã về hưu…từ

đó giúp sinh viên, học viên vừa hiểu cả lí thuyết lại tiếp cận được thực tế ngay tại
lớp học
Thứ năm, Học viện Tư Pháp là nơi duy nhất đào tạo nghề luật sư nên cần chú
trọng đến việc rèn luyện kĩ năng hành nghề nhiều hơn truyền tải kiến thức lí thuyết
bởi kiến thức lí thuyết đã được học 4 năm đại học ngành luật.
9


Thứ sáu, các trường đào tạo về luật nói chung hay trường trực thuộc ngành
cũng đều phải chú trọng tới chất lượng giảng viên, giáo trình, điều kiện phòng học,
không gian, tạo điều kiện cho sinh viên được giải đáp thắc mắc một cách hợp lí,
trong phương pháp giảng dạy cần tăng cường khơi gợi tư duy của sinh viên, nên
chú trọng, khuyến khích các cách tư duy, hiểu vấn đề của sinh viên.

Kết Luận:
Trong quá trình xây dựng nhà nước Pháp quyền Xã hội Chủ Nghĩa, với
Trung Quốc, một đất nước có nền văn hóa lâu đời, đông dân cư nhất thế giới, chế
độ chính trị rắc rối, và với chính sách“ one country, two systems” do Đặng Tiểu
Bình đề xướng đã khiến cho Trung Quốc trở thành quốc gia tương đối phức tạp.
Cùng với những thay đổi tích cực của đất nước nói chung và lĩnh vực luật pháp nói
riêng, trong đó có việc đào tạo luật và nghề luật đã có chỗ đứng nhất định trong xã
hội Trung Quốc, thì quốc gia này vẫn còn tồn đọng số ít những hạn chế trong công
cuộc đào tạo luật và nghề luật, điều này sẽ là rào cản nếu không có những chính
sách khắc phục. Trên cơ sở tìm hiểu những nét chung của công tác đào tạo luật và
nghề luật ở Trung Quốc, bình luận để thấy được những điểm tích cực, hạn chế của
vấn đề này, Việt Nam sẽ tiếp thu được những mặt tích cực, đồng thời nhìn ra được
những hạn chế của chính công tác đào tạo luật và nghề luật trong nước tại thời
điểm, thấy cả những hạn chế trong tương lai để định hướng hướng đi thật chuẩn
xác, công tác đào tạo luật và nghề luật sẽ trở thành công việc, nghề nghiệp được
toàn thể mọi người coi trọng.


10


Tài liệu tham khảo:
1.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật so sánh 2015, Nhà xuất bản

2.
3.
4.

Công An Nhân Dân, tr.415-tr.418.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014.
Luật tổ chức Viện Kiểm Sát nhân dân 2014.
/>
5.
6.

trung-quoc-va-nhat-ban-39074/
/> />
Mục lục

11


12




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×