Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Địa vị pháp lý của hội cựu chiến binh việt nam trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.11 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ HỮU PHƢƠNG

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH
VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
NỘI ĐỊA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNGG
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số

: 62 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Thƣ

Phản biện 1: GS.TS. THÁI VĨNH THẮNG

Phản biện 2: GS.TS. PHẠM HỒNG THÁI

Phản biện 3: PGS.TS. LÊ VĂN LONG

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ họp tại:


Học viện Khoa học xã hội

hồi

ngày tháng năm 2017

giờ

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện quốc gia
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA
NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Đỗ Hữu Phương (2016), Một số giải pháp phát huy vai trò của
HCCBVN hiện nay, Tạp chí Nguồn nhân lực, Học viện Khoa học xã hội,
tháng 9/2016.
2. Đỗ Hữu Phương (2016), Vai trò của CCB trong tiến trình thúc đẩy
quan hệ, hợp tác Việt Nam - Hoa Kỳ, Tạp chí nghiên cứu Châu Mỹ, tháng
9/2016.
3. Đỗ Hữu Phương (2017), Vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
trong quản lý nhà nước, Tạp chí nghiên cứu Châu Mỹ, tháng 4/2017.
4. Đỗ Hữu Phương (2017), Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, tháng 6/2017.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay, vai trò của các tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội ngày càng được coi trọng và
thừa nhận. Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận MTTQVN, trong đó có HCCBVN
là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân [64, Điều 9].
Thực tiễn đời sống chính trị xã hội Việt Nam hiện nay, vai trò của
HCCBVN thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: bảo vệ Đảng, bảo vệ chế
độ chính trị, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chính quyền, bảo vệ nhân dân; trong đó có
lĩnh vực rất quan trọng là tham gia quản lý nhà nước.
Từ những luận điểm nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Địa vị pháp lý
của HCCBVN trong quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay” làm đề tài luận án
tiến sĩ luật học. Tác giả mong muốn kết quả thực hiện đề tài sẽ góp phần bổ
sung luận cứ khoa học về vai trò của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà
nước, góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật cũng như thực hiện pháp luật liên
quan đến địa vị pháp lý của HCCBVN.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức lý luận về địa vị pháp lý của HCCBVN và thực
trạng địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta
thời gian qua, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của
HCCBVN trong hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta..
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tham gia quản lý
nhà nước của HCCBVN như: khái niệm, đặc điểm, vai trò, vị trí, nội dung, các
bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Hội trong quản lý nhà nước. Thứ hai, phân
tích, đánh giá quá trình hình thành, phát triển và thực trạng địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước hiện nay. Thứ ba,trên cơ sở nhận
thức lý luận và đánh giá thực trạng địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia
quản lý nhà nước hiện nay, luận án đề xuất các giải pháp đổi mới, hoàn thiện và
nâng cao địa vị pháp lý của HCCBVN trong quá trình xây dựng bộ máy Nhà
nước Việt Nam theo hướng nhà nước pháp quyền XHCN.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về địa vị pháp lý
của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phạm vi không gian, tác giả đã đặt nghiên cứu địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước trong phạm vi cả nước, có so sánh
kinh nghiệm với HCCB một số nước có tổ chức hội tương tự.
1


Về thời gian, tác giả chủ yếu nghiên cứu từ khi Hội được thành lập ngày
6/12/1989 đến nay với các điểm nhấn là các văn kiện chính trị, pháp lý ghi nhận
về địa vị pháp lý của Hội. Ngoài ra, tác giả có đề cập đến những vấn đề có tính
lịch sử tạo nên địa vị pháp lý của Hội giai đoạn trước khi thành lập nhưng chỉ
mang tính sơ lược và liệt kê.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu đề tài là các quan điểm,
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về các tổ chức chính trị - xã hội; về
HCCB, về xây dựng nhà nước pháp quyền, về quản lý nhà nước. Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về các tổ chức
chính trị - xã hội là sự kế thừa những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa duy
vật biện chứng được áp dụng thành công trong các điều kiện lịch sử Việt Nam.
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
chứng minh, tổng hợp, so sánh, quy nạp, thống kê, lịch sử và điều tra xã hội
học… Đối với yêu cầu của từng chương, tác giả sẽ có những ưu tiên trong việc
sử dụng từng phương pháp để làm sáng tỏ vấn đề cần nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Những đóng góp mới thể hiện trên những nội dung sau đây:

Một là, luận án đã phân tích, làm rõ nhận thức lý luận về địa vị pháp lý
của HCCBVN trên các khía cạnh khác nhau (khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội
dung, các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý) là những vấn đề mới
chưa được nghiên cứu;
Hai là, luận án tổng hợp, phân tích các dữ liệu, tài liệu thực tiễn về quy
định pháp luật và hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý cũng như các
bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của HCCBVN, từ đó đưa ra
bức tranh tổng quát cũng như nhìn nhận mới về thực trạng địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước;
Ba là, từ nhận thức lý luận và làm sáng tỏ thực trạng địa vị pháp lý của
HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước, luận án đề xuất một số giải pháp
góp phần hoàn thiện địa vị pháp lý của HCCBVN trong mối liên hệ với việc
thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu luận án góp phần khẳng định và thực hiện địa vị pháp
lý của HCCBVN nói riêng, của MTTQ và các thành viên MTTQVN nói chung
trong hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Luận án có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, đổi mới quy định pháp luật về quyền
và nghĩa vụ pháp lý cũng như các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ đó của
HCCBVN (các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội khác) trong việc tham
gia quản lý nhà nước. Đồng thời, luận án đưa lại nhận thức mới đối với các cơ
quan quản lý nhà nước về tôn trọng và bảo đảm sự tham gia của HCCBVN
2


trong quản lý nhà nước.
Đối với HCCBVN, luận án là tài liệu tham khảo góp phần nâng cao nhận
thức và năng lực tham gia quản lý nhà nước của Hội, làm cho thành viên của
Hội vững tin và năng động, tích cực tham gia vào quản lý nhà nước. Luận án có

thể được sử dụng làm tư liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập tại các
cơ sở đào tạo, bồi dưỡng liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ
chức xã hội của công dân.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến
binh Việt Nam trong quản lý nhà nước.
Chương 3: Thực trạng địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam trong tham gia quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay.

3


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Từ khi HCCBVN thành lập năm 1989 đến nay, những nghiên cứu về
CCB và HCCBVN đã được các cá nhân, tổ chức quan tâm nghiên cứu. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng đây là một tổ chức đặc thù, có ý nghĩa tác động theo
nhiều chiều đối với nhà nước và xã hội. Do là một hội mới được thành lập, lại
có tính đặc thù rất riêng biệt với các tổ chức hội khác nên cho đến nay chưa có
nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu. Dù vây, đã có một số các công trình
nghiên cứu liên quan trực tiếp đến HCCBVN và các công trình nghiên cứu liên
quan khác, nhất là các công trình nghiên cứu về HCCBVN với tư cách là một tổ
chức xã hội công dân. Dưới đây, tác giả đề cập đến các công trình nghiên cứu

chủ yếu đó.
Các đề tài khoa học, chuyên đề nghiên cứu, sách chuyên khảo, tham khảo
của các nhà khoa học Việt Nam, trong đó có các công trình đề cập nhiều đến xã
hội dân sự, xã hội công dân, đến các tổ chức chính trị - xã hội như HCCBVN.
Đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát triển
của xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay” trong Chương trình khoa học trọng điểm cấp Nhà nước mã số KX.02/0610 do GS. TS Đỗ Hoài Nam làm chủ nhiệm. Đề tài đã đề cập đến hoàn thiện
pháp luật về hội ở Việt Nam trong thời gian tới. Nhiệm vụ cấp Bộ: „„Cựu chiến
binh trong công tác nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa
học xã hội Việt Nam‟‟ năm 2006 do HCCB Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực
hiện. Trong nhiệm vụ này, nhóm tác tác giả đã làm rõ vị trí, vai trò của CCB ở
vị trí là nhà nghiên cứu khoa học xã hội và là cán bộ, nhân viên làm công tác
phục vụ nghiên cứu khoa học. Trong đề tài có đề cập đến những quy định về vị
trí, vai trò, quyền, nghĩa vụ, và trách nhiệm của CCB và HCCB Viện Khoa học
xã hội Việt Nam trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở cơ quan Khoa học xã
hội và nhân văn. Chuyên đề nghiên cứu “Đổi mới tổ chức, nội dung và phương
thức hoạt động của HCCBVN trong hệ thống chính trị - Thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân, vấn đề và giải pháp” năm 2014 do Trung ương HCCBVN thực
hiện thuộc đề tài cấp Nhà nước về “Tổng kết 30 năm đổi mới” cho thấy vai trò,
vị trí của HCCBVN trong hệ thống chính trị - xã hội và những tác động của
HCCBVN trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Sách chuyên khảo“Pháp luật về
quyền tự do lập hội, hội họp hoà bình trên thế giới và của Việt Nam” Nhà xuất
bản Hồng Đức, năm 2016 do PGS.TS. Nguyễn Hoàng Anh chủ biên đã phân
tích sâu về quyền lập hội và quyền hội họp hòa bình trong pháp luật nhân quyền
quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích sâu
về nguồn gốc, về lịch sử phát triển quyền lập hội và quyền hội họp hòa bình
4


trên thế giới và tại Việt Nam; làm rõ nội hàm khuôn khổ pháp lý trong thực hiện

quyền lập hội và quyền hội họp hòa bình và những giá trị của quyền này trong
xây dựng và thực hiện nền dân chủ của các quốc gia và khẳng định quyền lập
hội và quyền hội họp hòa bình là nhu cầu tự nhiên và cơ bản của con người.
Các bài tạp chí. Tác giả Vũ Thư có bài "Vai trò của xã hội công dân đối với việc
xây dựng nhà nước pháp quyền", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 9, 2003. Bài
viết trình bày các vấn đề về khái niệm, đặc điểm, vai trò, tác động của xã hội
công dân đối với nhà nước ở các nước tư bản và vấn đề xã hội công dân ở nước
ta. Đồng thời, tác giả đề xuất một số kiến nghị liên quan đến xã hội công dân
nói chung, HCCB nói riêng; Tác giả Nguyễn Minh Đoan: "Xây dựng nhà nước
pháp quyền gắn với củng cố, phát triển xã hội dân sự", Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật số 12, 2009. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến nhiệm vụ đổi mới
tổ chức và hoạt động của xã hội phải gắn với việc củng cố vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng nhà nước pháp quyền gắn với củng cố,
phát triển xã hội dân sự phải đảm bảo sự ổn định chính trị của đất nước; khẳng
định sự trung thành của đất nước Việt Nam đối với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam với vai
trò là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Ngoài các công trình kể trên, còn có các tài liệu liên quan đến CCB và
HCCBVN như: các báo cáo sơ kết, tổng kết về quá trình hoạt động của
HCCB, báo cáo về các điển hình tiên tiến CCB Việt Nam, các bài viết trên
báo CCB và trên các báo: Báo Nhân dân; Báo Quân đội Nhân dân, Báo Hà
Nội mới, Báo Tiền phong... phản ánh hoạt động của CCB và HCCBVN và
mối quan hệ của HCCBVN với các tổ chức trong hệ thống đoàn thể chính tri
- xã hội ở Việt Nam.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
Trên thế giới, cùng với mối quan tâm đến hai quyền lập hội, hội họp
tương đối sớm, đã có nhiều nghiên cứu về các chuẩn mực quốc tế, pháp luật và
thực hành tại các quốc gia liên quan đến hai quyền tự do quan trọng này. Có thể
kể một số công trình nghiên cứu như: The International Covenant on Civil and
Political Rights Cases, Materials, and Commentary, Third Edition, Oxford

University Press, 2013. Tác giả là Sarah Joseph and Melissa Castan; U.N.
Covenant on Civil and Political Rights: CCPR Commentaries, Fourth Edition,
Oxford University Press, 2012. Tác giả là Manfred Nowak. Nhìn chung, mặc dù
các nghiên cứu trên là tương đối đa dạng, phong phú nhưng vẫn rất thiếu các
nghiên cứu tại Việt Nam đi sâu về quyền tự do lập hội, tự do hội họp và việc
luận giải các vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý của các hội trong tham gia
quản lý nhà nước hầu như chưa có. Trong bối cảnh các công trình nghiên cứu
về CCB còn ít thì đây là nguồn tư liệu rất quan trọng (thể hiện qua kết quả
nghiên cứu) để tác giả thực hiện luận án.
1.3. Đánh giá về tình hình nghiên cứu
Đến nay việc nghiên cứu về CCB và HCCB trên thế giới và ở trong nước
5


chưa nhiều, chỉ có các bài viết đề cập đến công tác tổ chức và hoạt động của CCB
và HCCB nhưng số lượng còn ít.Trong các công trình được liệt kê ở trên, có nhiều
công trình đã đầu tư phân tích khá chi tiết khái niệm, đặc điểm, tính chất của hội
cũng như vai trò, tác động của hội nói chung và HCCB đối với nhà nước. Kết
quả nghiên cứu có thể tóm tắt như sau:
Một là, làm rõ các khái niệm về hội nói chung; đặc điểm, vai trò của hội,
trong đó có HCCB; Hai là, làm rõ các phương diện của HCCBVN về cơ cấu tổ
chức; về số lượng, chất lượng hội viên; về chất lượng và số lượng cơ sở Hội;
một số vấn đề đặt ra hiện nay liên quan đến quá trình phát triển của HCCB; Ba
là, đề cập những điểm cơ bản về đặc thù riêng của HCCBVN trong quan hệ với
hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; Bốn là, đánh giá thực
trạng của các tổ chức hội nói chung và của HCCBVN trên các phương diện
hoạt động chuyên môn của Hội, ít nhiều liên quan đến quan hệ của hội với Nhà
nước; Năm là, đánh giá thực trạng của các tổ chức hội trên các phương diện
hoạt động; phối hợp của HCCBVN với các tổ chức chính trị - xã hội và với một
số HCCB trên thế giới, ở mức độ nhất định liên quan đến hoạt động của quản lý

nhà nước; Sáu là, với tính chất là bảo đảm cho hoạt động của HCCB, các công
trình đề xuất một số giải pháp và kiến nghị về củng cố, kiện toàn hệ thống tổ
chức của Hội; hệ thống văn bản quản lý và các chính sách, pháp luật liên quan
đến CCBVN và HCCBVN.
1.4. Những vấn đề đƣợc tiếp tục nghiên cứu trong luận án
Trên cơ sở các nghiên cứu kể trên, với những thành tựu cũng như
những vấn đề còn đang được đặt ra, luận án đã nghiên cứu toàn diện các vấn
đề sau đây:
- Làm sáng tỏ khái niệm, bản chất, đặc điểm, vai trò của HCCB, bao gồm
mối quan hệ với Nhà nước và quản lý nhà nước. Đây là vấn đề trước đó chưa
được nghiên cứu và thể hiện một cách khoa học và rõ ràng.
- Làm rõ cơ sở hình thành, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động
của HCCB trong mối liên hệ chặt chẽ với Nhà nước, quản lý nhà nước.
- Làm rõ các khía cạnh lý luận liên quan đến địa vị pháp lý của
HCCBVN bao gồm: khái niệm, ý nghĩa địa vị pháp lý của Hội trong tham
gia quản lý nhà nước.
- Chỉ ra thực trạng địa vị pháp lý của HCCBVN trong pháp luật và trong
thực tiễn tham gia quản lý nhà nước ở nước ta. Đánh giá thực trạng các quy
định của pháp luật, nhất là việc thực hiện địa vị pháp lý của Hội trong thực tiễn,
nguyên nhân của các ưu điểm và hạn chế của việc thực hiện đó.
- Trên cơ sở xác định nhu cầu, quan điểm về bảo đảm thực hiện có hiệu
quả các quyền và nghĩa vụ của HCCBVN, luận án đề xuất các giải pháp hoàn
thiện và tăng cường hiệu quả thực hiện địa vị pháp lý của Hội trong tham gia
quản lý nhà nước trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCNVN.
6


Chƣơng 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI

CỰU CHIẾN BINH VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Trên thế giới, khái niệm “cựu chiến binh” có từ khá sớm, được xuất phát
từ ý tưởng ban đầu là kỷ niệm ngày đình chiến, là ngày lễ mỗi năm một lần tại
Hoa Kỳ nhằm tôn vinh các cựu chiến binh. Đây là một ngày lễ toàn quốc được
tổ chức hàng năm vào ngày 11 tháng 11 và trùng với các ngày lễ khác, lúc đầu
nó được gọi với tên là Ngày đình chiến hoặc Ngày tưởng niệm. Ngày lễ này
cũng được tổ chức ở những nước khác nhau trên thế giới vì ngày này cũng là
ngày đánh dấu sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ nhất. Tại Việt Nam, khái
niệm “cựu chiến binh” theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Cựu
chiến binh là người đã từng tham gia quân đội, lực lượng vũ trang trong một
cuộc chiến tranh”. Theo Điều 2, Pháp lệnh Cựu chiến binh: Cựu chiến binh là
công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã tham gia đơn vị vũ
trang chiến đấu chống ngoại xâm giải phóng dân tộc, làm nhiệm vụ quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã nghỉ hưu, chuyển ngành, phục viên, xuất ngũ.
Đối với khái niệm “Hội Cựu chiến binh”, trên thế giới đều có điểm chung
là hội của những người đã từng tham gia quân đội và tham gia chiến tranh tự
nguyện tập hợp lại. Ở Việt Nam, HCCBVN là tổ chức do những CCBVN tự
nguyện tập hợp lại. Tuy nhiên, khác với các quốc gia trên thế giới, do lịch sử
cách mạng Việt Nam đã tạo nên nguồn gốc, bản chất, đặc điểm riêng của CCB
và quá trình thành lập HCCB, HCCBVN thành lập được Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Việt Nam và nhân dân Việt Nam dành sự quan tâm đặc biệt.
Hội có các đặc điểm:
Thứ nhất, HCCBVN là hội của những người xuất thân từ các tầng lớp
nhân dân được thành lập đúng với quy luật khách quan của quá trình lịch sử
phát triển cách mạng Việt Nam, đúng với pháp luật về quyền tự do lập hội.Thứ
hai, HCCBVN là tập hợp của các CCBVN đang sống trên khắp các địa bàn của
Tổ quốc và tham gia vào hoạt động trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhiều CCB được Đảng, chính quyền và nhân dân tín nhiệm bầu, cử vào giữ các

cương vị lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng, chính quyền và các đoàn thể.
Uy tín, ảnh hưởng của họ có tác động mạnh đến quản lý nhà nước. Thứ ba,
HCCBVN là tập hợp của các CCBVN - những công dân yêu nước đã từng sẵn
sàng hy sinh, đã chịu gian khổ và có nhiều công lao cống hiến, đóng góp đặc
biệt (đóng góp xương máu và tuổi xuân) cho cách mạng, cho Đảng, cho đất
nước. Họ trở thành chỗ dựa tinh thần vững chắc, là nguồn lực tinh thần cao quý
của dân tộc (nguồn lực mềm), tạo nên giá trị sức mạnh tinh thần to lớn trong
lòng nhân dân Việt Nam. Tiếng nói và hoạt động của họ có ảnh hưởng quan
7


trọng đến đời sống chính trị và quản lý nhà nước ở Việt Nam. Thứ tư, HCCBVN
từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, có di sản tinh thần cao quý là bản
chất, truyền thống “Bộ đội cụ Hồ” được nhân dân phong tặng. Họ là lực lượng tiên
phong, gương mẫu trong xã hội, sẵn sàng đấu tranh với bất công, với các thế lực
chống phá để bảo vệ lẽ phải, bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân, tạo nên sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc và phát triển đất nước. Thứ năm, các thành viên của HCCBVN không bị
giới hạn tham gia vào tổ chức chính trị, vào các tổ chức chính trị - xã hội, vào
các hội quần chúng theo quy định pháp luật về hội. Nhưng để trở thành thành
viên của HCCBVN trước hết phải là CCBVN. Thứ sáu, HCCBVN là lực lượng
nòng cốt trong công tác giáo dục truyền thống yêu nước, truyền thống đấu tranh
cách mạng, truyền thống đạo đức cách mạng, truyền thống văn hoá nhân văn
cao cả và khí phách, cốt cách của người dân Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng, bảo vệ Tổ quốc cho thế hệ trẻ Việt Nam. Thứ bảy, HCCBVN là tổ chức
phối hợp hiệu quả nhất với CCB và tổ chức CCB các nước đã từng tham chiến
tại Việt Nam để giúp CCB và Chính phủ các nước tìm kiếm người mất tích và
hài cốt trong chiến tranh, góp phần làm cho Chính phủ và nhân dân các nước
trên thế giới thấy được truyền thống nhân văn cao cả của nhân dân và dân tộc
Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với các quốc gia

từng là kẻ thù trong quá khứ, tạo môi trường đối ngoại thuận lợi để xóa bỏ bao
vây, cấm vận, hội nhập quốc tế, giúp Nhà nước thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng “khép lại quá khứ - hướng tới tương lai”, tạo điều kiện tốt để giúp nhà
nước hội nhập quốc tế, phát triển đất nước.
2.1.2. Các tính chất của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
Khi nghiên cứu tính chất của HCCB ở mỗi quốc gia cho thấy, tính chất
của Hội xét đến cùng là do các cơ sở pháp lý mỗi quốc gia tạo nên. Tuy nhiên,
xét về chiều sâu thì tính chất của nó phụ thuộc vào chế độ chính trị của mỗi
quốc gia, ở đó người ta mới xác định nguồn gốc, bản chất của tổ chức CCB. Do
đó, tính chất của HCCB liên quan đến thể chế chính trị, môi trường chính trị,
môi trường dân chủ xã hội; mục tiêu hoạt động, phương pháp hoạt động của
Hội trong từng quốc gia. HCCB ở nhiều nước được xác định là tổ chức của xã
hội công dân, Hội tự thành lập theo pháp luật về hội và quyền tự do hội họp,
hoạt động độc lập, không đảng phái, không phụ thuộc vào nhà nước. Hội không
có chức năng chính trị, chỉ thực hiện chức năng xã hội, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Hội đối trọng với nhà nước, có quyền kiểm tra, giám sát,
phản biện hoạt động quản lý của nhà nước, đưa ra các kiến nghị, yêu cầu đối
với nhà nước nếu nhà nước không làm tốt chức năng hoặc làm sai chức năng
quản lý. Đối với nước ta, HCCBVN ngoài tính chất là một tổ chức xã hội thì
Hiến pháp cũng như pháp luật thừa nhận tính chất chính trị của Hội, bằng việc
ghi nhận Hội là một trong năm tổ chức chính trị - xã hội thuộc MTTQVN [64].
Điều này cho thấy, HCCBVN có những tính chất khác biệt so với các tổ chức
CCB của nhiều nước khác.Điều đó thể hiện ở những nội dung sau: Thứ nhất,
8


HCCBVN là một tổ chức chính trị - xã hội chứ không đơn thuần là một tổ chức
xã hội tự nguyện như nhiều tổ chức HCCB của các nước khác trên thế giới. Thứ
hai, Hội mang tính chất là tổ chức chính trị - xã hội, thành tố cấu thành hệ
thống chính trị của Việt Nam nên Hội có cả chức năng chính trị và chức năng

xã hội.Thứ ba, HCCBVN bao gồm những hội viên có nhiều kinh nghiệm trong
thực tiễn đấu tranh cách mạng và trong chiến đấu, có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có ý chí, nghị lực, có ý thức kỷ luật cao, có tinh thần tự giác cách mạng
sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ của Hội, của Đảng, của Nhà nước và của xã
hội. Thứ tư, Hội là tổ chức đại diện cho CCBVN để hợp tác, phối hợp với nhà
nước giải quyết hiệu quả chế độ, chính sách đối với CCB, với người có công.
Thứ năm, Hội là trung tâm quy tụ, tập hợp, đoàn kết, thống nhất ý chí quyết
tâm, hành động của các thế hệ CCBVN. Thứ sáu, với tính chất là một tổ chức
chính trị - xã hội, trong quá trình hoạt động, Hội nhận được sự giúp đỡ của Nhà
nước bằng những chính sách kinh tế, xã hội để hỗ trợ, giúp đỡ HCCB có điều
kiện phát huy vai trò của tổ chức là cơ sở của chính quyền nhân dân. Thứ bảy,
Hội là niềm vinh dự tinh thần đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, thể hiện
lòng tri ân, ghi nhận những công lao cống hiến to lớn của CCBVN cho quân đội
và đất nước, đồng thời để vinh danh CCBVN, thế hệ đi trước đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ để Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp bước phấn đấu noi theo.
Thứ tám, Hội thành lập giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nắm được lực
lượng quần chúng cách mạng quan trọng, lực lượng này sẽ giúp Đảng, Nhà
nước thực hiện mục tiêu tăng cường dân chủ XHCN, tăng cường đồng thuận xã
hội, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường hiệu lực quản
lý nhà nước nhằm để đạt các mục tiêu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới đất
nước đề ra. Thứ chín, Hội là cầu nối quan trọng giúp nhà nước quan hệ với
HCCB thế giới, với HCCB châu Á - Thái Bình Dương, HCCB các nước
ASEAN và HCCB các nước đã từng tham chiến tại Việt Nam để phối hợp với
CCB, với HCCB, với Chính phủ và nhân dân các nước trong giải quyết hậu quả
các cuộc chiến tranh tại Việt Nam, góp phần thúc đẩy thực hiện đường lối,
chính sách đối ngoại của Đảng, của Nhà nước, góp phần thúc đẩy đất nước hội
nhập phát triển. Thứ mười, Hội là tổ chức để CCBVN và CCB các nước có điều
kiện thực hiện tốt hơn các cuộc gặp gỡ, đối thoại, trao đổi để xóa đi mặc cảm
thù hằn và những gánh nặng về tâm lý, tinh thần trong quá khứ đau thương của
chiến tranh; để cùng vươn tới chân giá trị nhân văn cao cả của loài người theo

tinh thần “khép lại quá khứ - hướng tới tương lai”.
2.1.3. Vị trí, vai trò của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong hệ thống
chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất gồm các chủ thể:
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, giữ vị trí trung tâm; Đảng
Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội; các tổ
chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện bảo
9


vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám
sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng cũng là thành viên của
MTTQ, là thành tố cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam. Đảng gắn bó mật
thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Các tổ
chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện bảo
vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám
sát, phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Như vậy, các tổ chức
chính trị - xã hội được Hiến định là tổ chức có tính độc lập tương đối, vì tổ chức
đó vừa là tổ chức xã hội độc lập về tổ chức, vừa có tính chất chính trị và là một
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị Việt Nam.
2.2. Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý
nhà nƣớc
2.2.1.Khái niệm và đặc điểm của quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Quản lý nhà nước theo nghĩa rộng là quản lý được thực hiện bởi tất cả các cơ
quan nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hay nói cách

khác, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động của nhà nước nói chung, mọi hoạt
động mang tính chất nhà nước, nhằm thực hiện các nhiệm vụ, chức năng của
nhà nước. Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước chỉ là hoạt động hành pháp, chủ
yếu do các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.Trong luận án này, tác giả
tiếp cận khái niệm quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp. Đó là hoạt động hành
pháp, chủ yếu do Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện.
Điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa quản lý nhà nước và các hình thức quản lý
xã hội khác (quản lý của các tổ chức chính trị - xã hội, của các tổ chức xã hội)
là tính quyền lực nhà nước.Điều đó có nghĩa là HCCBVN với các hoạt động
bên trong và bên ngoài của nó không mang tính quyền lực nhà nước.Như vậy,
HCCBVN không phải là chủ thể trực tiếp để tiến hành các hoạt động quản lý
nhà nước một cách thường xuyên. Hội chỉ tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước trên cơ sở các quy định pháp luật hoặc được ủy quyền... Cơ sở chính đáng
của sự tham gia này là bản chất dân chủ của nhà nước pháp quyền XHCN, của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân mà trong đó HCCBVN là một trong những
bộ phận cấu thành chủ thể quyền lực nhà nước là “nhân dân”.
2.2.2. Khái niệm, đặc điểm địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt
Nam trong tham gia quản lý nhà nước
Địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước là tổng thể
các quyền và nghĩa vụ pháp luật được quy định xác định vị trí, vai trò của
HCCBVN trong hoạt động quản lý nhà nước.
Địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước có các đặc
điểm: Một là,địa vị pháp lý của HCCBVN không chỉ được quy định trong các
10


văn bản quy phạm pháp luật thông thường mà còn được hiến định trong Hiến
pháp; Hai là, xét về số lượng, địa vị pháp lý của HCCB do tính chất, đặc điểm
là tổ chức chính trị - xã hội nên các quyền và nghĩa vụ trong quản lý nhà nước
chỉ là một phần nhỏ trong toàn bộ các hoạt động của Hội; Ba là,so với các tổ

chức xã hội thì địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước
có phạm vi lớn hơn. Điều đó là do tính chất, đặc điểm của HCCBVN có khả
năng tham gia quản lý nhà nước cả trong thực tiễn cũng như trong các quy định
của pháp luật hiện hành; Bốn là, địa vị pháp lý của HCCBVN xuất phát từ đặc
thù của nền chính trị Việt Nam là nền chính trị nhất nguyên, một đảng lãnh đạo
nên việc tham gia của Hội vào quản lý nhà nước mang tính chất hợp tác; Năm
là, theo các quy định của Hiến pháp thì HCCBVN có địa vị pháp lý rất cao. Cụ
thể, Hiến pháp quy định, MTTQVN và các thành viên là cơ sở chính trị của
chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân [64, Điều 9]. Sáu là, Hiến pháp chỉ quy định những nét cơ bản địa vị pháp
lý của HCCBVN có liên quan đến quản lý nhà nước. Do đó, các quy định về địa
vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước chủ yếu được điều
chỉnh trong các văn bản dưới Hiến pháp.
2.2.3. Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong các quan
hệ quản lý nhà nước
Đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa các tổ chức chính trị - xã hội và
các cơ quan quản lý nhà nước là quan hệ về tư vấn, giám sát và phản biện xã
hội. Điều này xuất phát từ bản chất dân chủ của chế độ và tính tích cực của
công dân.
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong xây dựng thể chế
quản lý.
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong tổ chức và hoạt động
quản lý nhà nước.
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ
pháp luật trong quản lý nhà nước.
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam với hoạt động giám sát
theo thẩm quyền nhằm phát hiện các dấu hiệu, các hành vi vi phạm pháp luật
của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức, cá nhân để đưa ra các kiến
nghị, các khiếu nại yêu cầu cơ quan nhà nước xem xét điều chỉnh
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam tham gia trong quá trình

xử lý vi phạm hành chính.
- Địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trực tiếp tham gia quản lý
nhà nước đối với các vấn đề nội bộ theo phạm vi thẩm quyền.
2.2.4. Các phương thức thực hiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến
binh Việt Nam trong quản lý nhà nước
- Thành viên của Hội trực tiếp tham gia bộ máy nhà nước để được thực
hiện công việc quản lý;
- Tham gia các hoạt động quản lý do các cơ quan nhà nước tiến hành:
11


Hội tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; khi nhận được khiếu nại,
tố cáo thì nghiên cứu, hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo đến cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến HCCBVN;
- Hội tham gia quản lý nhà nước với tư cách là thành viên Mặt trận tổ
quốc hay phối hợp với các tổ chức xã hội để tác động đến quản lý nhà nước;
Hội tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến, kiến nghị, nguyện vọng của
nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao vai trò
lãnh đạo của Đảng, năng lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước.
2.3. Các bảo đảm thực hiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh
Việt Nam trong quản lý nhà nƣớc
2.3.1. Các bảo đảm chung
Bảo đảm chính trị:Trong lịch sử hệ thống chính trị nước ta, vai trò của
các tổ chức chính trị - xã hội đã được khẳng định từ khá sớm. Bảo đảm về kinh
tế: HCCBVN không thể thực hiện được địa vị pháp lý của mình nếu không có
các bảo đảm về kinh tế cho Hội hoạt động. Bảo đảm về xã hội. Khác với các
bảo đảm về chính trị, kinh tế, các bảo đảm về xã hội do pháp luật và đã được xã
hội thừa nhận là những bảo đảm xuất pháttừ thực tiễn và rất quan trọng đối với
việc thể hiện địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia quản lý nhà nước.
2.3.2. Các bảo đảm riêng (bảo đảm pháp lý)

Ngoài các bảo đảm chung để thực hiện vai trò quản lý nhà nước của Hội
như đã trình bày, việc thực hiện địa vị pháp lý của HCCBVN trong tham gia
quản lý nhà nước cũng cần phải có những bảo đảm riêng. Các bảo đảm này thể
hiện với hai tư cách là những bảo đảm pháp lý đối với một tổ chức hội độc lập
và bảo đảm pháp lý đối với một tổ chức chính trị - xã hội của Hội. Cụ thể: Xác
lập các quyền và nghĩa vụ của Hội; Bảo đảm về trình tự, thủ tục pháp lý thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của Hội trong quản lý nhà nước; Bảo đảm về chế
tài; Bảo đảm về ý thức pháp luật.

12


Chƣơng 3
THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH
VIỆT NAM TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAM
3.1. Quá trình hình thành và phát triển địa vị pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam trong quản lý nhà nƣớc
3.1.1 Giai đoạn từ trước năm 1989
Trong giai đoạn này, HCCBVN chưa thành lập, những người lính sau khi
giải ngũ trên lĩnh vực công tác mới họ tự tập hợp lại nhằm mục đích ôn lại
truyền thống những năm cùng trong quân ngũ, động viện nhau tiếp tục phát huy
truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, đem ý chí và nhiệt tình cách mạng cùng những
kinh nghiệm, kiến thức đã được tích luỹ từ những năm tháng sống trong quân
ngũ để góp phần xây dựng quê hương đất nước. Song về mặt tổ chức chính thức
vẫn chưa được nhà nước công nhận nhưng đây là những mối liên kết quan trọng
để tạo tiền đề cho việc ghi nhận tính tổ chức của Hội cũng như vị trí, vai trò, địa
vị của Hội trong hệ thống chính trị sau này.
3.1.2 Giai đoạn từ năm 1989 đến trước khi ban hành Pháp lệnh Cựu
chiến binh năm 2005
Trong giai đoạn cách mạng này, để tập hợp, đoàn kết, phát huy vai trò của

CCB đóng góp thiết thực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ XHCN, ngày
06/12/1989, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam
(khoá VI) đã ra Nghị quyết, quyết định cho thành lập HCCBVN.
3.1.3 Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Tháng 10 năm 2005, Nhà nước ta công bố Pháp lệnh CCB, đây là văn bản
pháp luật thể chế hoá Nghị quyết số 09- NQ/TW của Bộ Chính trị về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác CCBVN nhằm tăng cường hiệu
lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động của HCCBVN, đồng thời Pháp
lệnh đã quy định, cụ thể hóa địa vị pháp lý của HCCBVN về công tác tổ chức
và hoạt động của Hội, việc tham gia quản lý nhà nước của Hội trên các lĩnh vực
liên quan đến bảo đảm quyền lợi, nghĩa vụ của CCB, chính sách của nhà nước
đối với CCB, với cán bộ làm công tác HCCB, đến tổ chức và hoạt động của
HCCB.., là cơ sở quan trọng để từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về
CCB và HCCBVN, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo CCBVN trong cả nước.
Pháp lệnh tạo hành lang pháp lý quy định quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của
CCB và HCCBVN tham gia quản lý nhà nước trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, hội nhập quốc tế.
Đây là giai đoạn Đảng, Nhà nước đã quy định địa vị pháp lý của Hội
trong các hoạt động quản lý nhà nước ở nhiều phương diện như sau:
- Về xây dựng thể chế, Hội đã chủ động tham mưu cho Ủy ban Thường
vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh CCB, tham mưu cho Chính phủ ban hành
13


Nghị định số 150/2006/NĐ-CP ngày 12/12/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều Pháp lệnh CCB. Sau khi Nghị định của Chính phủ được
ban hành, Hội phối hợp cùng các Bộ: Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ
Tài chính, Bộ Quốc phòng… soạn thảo các Thông tư liên tịch hướng dẫn thi
hành Nghị định của Chính phủ.

- Gần đây nhất, khi chúng ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp 1992 và ban
hành Hiến pháp năm 2013, HCCBVN cùng MTTQVN đã tích cực tham gia
nhiều ý kiến quan trọng trong xây dựng Hiến pháp.
3.2. Thực trạng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Hội Cựu
chiến binh trong quản lý nhà nƣớc
Tổng thể các quyền và nghĩa vụ do nhà nước quy định cho các tổ chức xã
hội trong quản lý hành chính nhà nước tạo thành địa vị pháp lý trong quản lý
hành chính của tổ chức đó. Nhìn một cách tổng quát, các văn bản pháp luật nêu
trên quy định về địa vị pháp lý của HCCBVN trên các mặt:
- Tham gia vào việc xây dựng các dự thảo, dự án pháp luật về các vấn đề
có liên quan tới tổ chức mình trước khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thông qua, ban hành.
- Phối hợp với các cơ quan nhà nước trong việc soạn thảo và ban hành
các văn bản chung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các thành viên
trong tổ chức.
- Tuyên truyền, giáo dục pháp luật đối với các thành viên trong tổ chức và
đối với nhân dân lao động.
- Tham gia kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và công dân, người nước ngoài, người
không quốc tịch.
- Ðại diện cho hội viên tham gia với cơ quan nhà nước trong việc giải
quyết những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên.
3.2.1. Quy định chung của Hiến pháp về địa vị pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 ra đời và có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 phân loại các
tổ chức thành 3 loại như các Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001),
gồm tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội. Ngoài
việc ngầm định tổ chức chính trị duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam (theo
Điều 4) thì Hiến pháp cũng định danh thêm 4 tổ chức là tổ chức chính trị - xã
hội khác so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001). Đó là ngoài

Công đoàn Việt Nam (theo quy định của Hiến pháp năm 1992), thì còn có: Hội
nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Với cách định danh như vậy, có
thể hiểu các tổ chức không được quy định trong Điều 9, Hiến pháp năm 2013
được xác định là các tổ chức xã hội. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân” [64, Điều 9].
14


3.3. Địa vị pháp lý củaHội Cựu chiến binh Việt Nam trong thực tiễn
quản lý nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam trong xây dựng thể chế quản lý
Thực tiễn thực hiện quyền của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong xây
dựng thể chế quản lý với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội tham gia cùng
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam . Với tư cách là thành viên của MTTQVN, chức
năng và nhiệm vụ của Hội trong việc tham gia xây dựng thể chế quản lý được
xác định một cách rộng rãi hơn.
Với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội độc lập, vai trò của
HCCBVN trong xây dựng thể chế được quy định cụ thể trong Thông tư số
02/2008/TTLT-BTP-TWHCCBVN ngày 09 tháng 06 năm 2008 được ký giữa
Bộ Tư pháp và HCCBVN bao gồm một số quyền và nghĩa vụ như: “tổ chức
soạn thảo văn bản và trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định theo quy
định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật” [73].
3.3.2. Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam trong tham gia quản lý nhà nước
Hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của HCCBVN trong
tham gia quản lý nhà nước được xem xét với hai tư cách là tổ chức chính trị
- xã hội thuộc MTTQVN và tư cách là tổ chức chính trị - xã hội độc lập.

Với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội thuộc MTTQVN, các hoạt động của
MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội trong đó có HCCBVN được thực
hiện theo Quyết định số 217- QĐ/TW và Quyết định số 218 - QĐ/TW ngày
12/12/2013 của Bộ Chính trị.
Hội Cựu chiến binh Việt Nam độc lập tham gia quản lý nhà nước. Trong
phạm vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của HCCBVN trong tham gia
quản lý nhà nước với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội độc lập, cụ thể. Đối
với phạm vi cấp chính phủ: Pháp luật quy định định kỳ hàng năm Chính phủ
phải có chương trình làm việc với Trung ương HCCBVN để nghe báo cáo tình
hình hoạt động, những kiến nghị, đề xuất của HCCBVN về các vấn đề liên quan
đến CCB, HCCBVN [28]. Đối với một số các cơ quan bộ và ngang bộ, pháp
luật cũng quy định về trách nhiệm của một số bộ như: Trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc
chính phủ có trách nhiệm phối hợp, tạo điều kiện để CCB, HCCBVN hoàn
thành nhiệm vụ [28. Điều 12. Đối với HĐND và UBND pháp luật cũng quy định.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND, UBND các cấp
có trách nhiệm đảm bảo kinh phí để HCCB cùng cấp hoạt động; chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần cho CCB; tạo điều kiện để HCCB, CCB tham gia các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
3.3.3. Thực tiễn Hội Cựu chiến binh Việt Nam tham gia bảo vệ pháp
luật trong quản lý nhà nước
Trong lĩnh vực thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lý của HCCBVN trong
15


lĩnh vực bảo vệ pháp luật trong quản lý nhà nước ở nước ta thời gian qua,
HCCBVN cũng được đánh giá với hai tư cách. Đó là thành viên MTTQVN và
tư cách là tổ chức chính trị - xã hội độc lập.
3.4. Đánh giá chung địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
trong quản lý nhà nƣớc

3.4.1. Đánh giá các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Hội Cựu
chiến binh Việt Nam trong tham gia quản lý nhà nước
Đánh giá về các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của HCCBVN trong
tham gia quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay tác giả thấy rằng với tư cách là
một tổ chức xã hội công dân, với các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của
Hội trong tham gia quản lý nhà nước thì HCCBVN thực sự có địa vị pháp lý
khác biệt (cao hơn) so với nhiều tổ chức xã hội không được coi là các tổ chức
chính trị - xã hội. Trong các quy định của pháp luật trong tham gia quản lý nhà
nước của HCCBVN thì nhiều phạm vi pháp luật quy định chỉ có HCCBVN và
các tổ chức chính trị - xã hội hoặc chỉ có HCCBVN mới có thẩm quyền.
3.4.2. Đánh giá thực tiễn địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt
Nam trong tham gia quản lý nhà nước
Như đã trình bày, mặc dù có địa vị pháp lý cao hơn so với các tổ chức xã
hội khác trong hệ thống chính trị nước ta nhưng việc thể hiện địa vị pháp lý của
mình trong tham gia quản lý nhà nước của Hội vẫn còn có nhiều hạn chế nhất
định. Nhiều chức năng, nhiệm vụ thuộc phạm vi thẩm quyền quản lý của Hội
nhưng thực chất tổ chức và hoạt động lại chưa đảm bảo yêu cầu, chưa thực sự
phản ánh đúng tính tiên phong, sáng tạo để làm nòng cốt chính trị cơ sở cho
chính quyền nhân dân.
Chƣơng4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA HỘI CỰU CHIẾN BINH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện địa vị pháp lý củaHội Cựu chiến
binh Việt Nam trong quản lý nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay
4.1.1. Hiện thực hóa quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tăng
cường vai trò quản lý nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị và đời sống xã hội
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “MTTQVN là tổ chức liên
minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã

hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài". Từ những yêu
cầu như vậy, theo tác giả nhu cầu tăng cường địa vị pháp lý của HCCBVN là
cần thiết và đáp ứng yêu cầu hiện thực hóa các quan điểm của Đảng Cộng sản
16


Việt Nam về tăng cường vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống
chính trị và đời sống xã hội.
4.1.2. Đòi hỏi của việc xây dựng Hội Cựu chiến binh thành tổ chức
chính trị - xã hội có khả năng hợp tác với Nhà nước trong quản lý nhà nước
Việc tăng cường thúc đẩy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong
quản lý nhà nước cũng là một trong những hướng quan trọng bảo đảm dân chủ
trong xã hội nước ta. Thậm chí đây là hướng mang lại sự cân bằng trong xã hội.
Chính kết quả của các nghiên cứu về vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
nói chung và HCCBVN nói riêng đã chỉ ra rằng, sự phát triển mạnh các tổ chức
chính trị - xã hội sẽ tạo ra được mô hình tam giác cân bằng (nhà nước, thị
trường và xã hội công dân). Và các kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, để đạt
được hiệu quả cao nhất trong mối quan hệ giữa xã hội công dân, nhà nước và
thị trường là khi cả ba cạnh của tam giác đó phát triển đồng đều thì diện tích
tam giác đó là lớn nhất và tam giác đó cũng có sự cân bằng nhất. Đây chính là
mô hình lý tưởng trong mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và tổ chức xã hội
công dân, trong đó có HCCBVN.
Xét từ góc độ thực tiễn, với yêu cầu hiện nay ở nước ta, chúng ta đang
chủ trương xây dựng một nhà nước kiến tạo. Chủ trương này sẽ đặt vai trò của
nhà nước thực hiện đúng việc kiến tạo, xây dựng những hành lang pháp lý cần
thiết và giám sát, điều hành các hoạt động xã hội, chuyển cho xã hội, các tổ
chức xã hội các chức năng điều hành phù hợp, đồng thời trao cho các tổ chức,
cá nhân vai trò tự chủ chứ nhà nước không nên trực tiếp tham gia các hoạt động
sản xuất, kinh doanh. Ngược lại trong xây dựng thể chế, quản lý, giám sát nhà
nước cũng nên sử dụng các kênh của xã hội công dân để ban hành và thực hiện

pháp luật chứ không nên tự mình tự do sáng tạo pháp luật. Để làm được những
điều như trên, nhà nước cần phải mở rộng các kênh pháp lý của mình để tạo
điều kiện cho các chủ thể có năng lực và xã hội tham gia. Ví dụ hiện nay, trong
rất nhiều phạm vi nhà nước đã xóa bỏ độc quyền thì trong lĩnh vực các sáng
kiến lập pháp cũng như thẩm quyền xây dựng các đạo luật, hoàn toàn nhà nước
có thể cho mời thầu công khai hoặc mời các tổ chức xã hội công dân trong đó
có HCCBVN tham gia vào hoạt động này bằng cách bỏ thầu v.v….
4.1.3. Yêu cầu tăng cường vai trò quản lý nhà nước của Hội Cựu chiến
binh Việt Nam trong nhà nước pháp quyền và nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
4.1.3.1. Yêu cầu tăng cường vai trò quản lý nhà nước của Hội Cựu chiến
binh Việt Nam trong nhà nước pháp quyền
Hiện nay nước ta đang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN nên việc mở rộng và phát huy dân chủ là tất yếu. Tuy nhiên, theo quy
luật phát triển, bất cứ nhà nước và xã hội nào cũng phải phát triển từ thấp đến
cao, vì vậy nhu cầu xây dựng các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong đó có
HCCBVN tự chủ và tham gia nhiều hơn nữa trong hoạt động quản lý nhà nước
là nhu cầu xuất phát từ thực tiễn khách quan của Việt Nam. Đây là hướng để
17


giúp nhà nước thực hiện và mở rộng dân chủ, nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước.Đồng thời cũng là hướng để các đoàn thể chính trị - xã hội và các tổ chức
xã hội sẽ từng bước phát triển để tiếp cận dần đến các giá trị của xã hội công
dân trong nhà nước pháp quyền.
4.1.4. Đáp ứng nhận thức và đòi hỏi chung về vai trò của xã hội công
dân trong quản lý nhà nước
Với nhận thức về xã hội dân chủ, các quyền, lợi ích chính đáng của
người dân luôn được thừa nhận và được nhà nước bảo vệ. Việc thừa nhận quyền tự
do lập hội của nhà nước đối với HCCBVN cũng chính là sự phản ánh giá trị dân

chủ của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Điều này càng có ý nghĩa hơn đối
với việc nhà nước thừa nhận các giá trị của Hội với tư cách là một tổ chức xã hội
công dân độc lập và có đầy đủ các quyền năng của nó. Sự thừa nhận các quyền
năng vốn có của Hội chính là thừa nhận sự tự do của các thành viên.
Chính vì vậy, với tư cách là một tổ chức thuộc xã hội công dân, cho dù
đây là một tổ chức chính trị - xã hội nhưng HCCBVN cũng nên mạnh dạn thể
hiện mình là một kênh quan trọng trong thực hiện giám sát, phản biện đối với
nhà nước. Thực tế cho thấy, trong các hoạt động quyền lực nhà nước, thì nơi
nào có hoạt động quyền lực ở đó luôn có sự lạm quyền.Chính vì vậy, nếu nhà
nước không nhận được những tiếng nói phản biện của xã hội thì nhà nước sẽ
luôn nghĩ mình đúng và không có sự điểu chỉnh cho phù hợp kể cả những vấn
đề mà xã hội đang hết sức bức xúc.Thực trạng đó có thể dẫn đến sự khủng
hoảng không thể cứu vãn nếu như không được điều chỉnh sớm và kịp thời.
4.1.5. Đáp ứng đòi hỏi của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong việc
tăng cường vai trò của Hội trong quản lý nhà nước
Xuất phát từ nhu cầu thực tế xã hội và nhu cầu của cách mạng Việt Nam,
Đảng ta luôn khẳng định vai trò của MTTQVN nói chung và các tổ chức chính
trị - xã hội trong tham gia quản lý nhà nước là hết sức quan trọng. Tư tưởng đó,
được thể hiện tại Kết luận số 66-KL/TW ngày 04/3/2010 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá X) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW của Bộ
Chính trị đã cho rằng, hoạt động của HCCB các cấp có sự phát triển toàn diện,
giành được nhiều kết quả to lớn và quan trọng, có những đóng góp xứng đáng
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hiện thực hóa các quan điểm trên của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành
Quyết định số 217-QĐ-TW, ngày 12/12/2013 về việc ban hành Quy chế giám
sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính
trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ-TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị,
Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và
nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Các quyết

định này của Đảng đã thể hiện và cụ thể hóa những nội dung quan trọng trong
việc tham gia quản lý nhà nước của MTTQVN và các tổ chức chính trị - xã hội.
Tuy vậy, từ phương diện nhà nước, ngoài quy định của Hiến pháp năm 2013 và
18


quy định của Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở năm 2007 là khá chung chung và chưa
có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục cũng như những chế tài bảo đảm
vai trò tham gia quản lý nhà nước của MTTQ và các tổ chức thành viên trong
đó có HCCBVN. Có thể nhận thấy, đây là một trong những phạm vi còn nhiều
khoảng trống cho việc bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước của
HCCBVN nói riêng và các tổ chức chính trị - xã hội nói chung.
4.2. Quan điểm hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt
Nam trong quản lý nhà nƣớc hiện nay
4.2.1. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
trong quản lý nhà nước gắn với sự lãnh đạo của Đảng
Như đã trình bày ở trên, cho dù địa vị pháp lý của HCCBVN so với các tổ
chức xã hội luôn có một trí cao hơn, tuy nhiên, với quan điểm xã hội hóa các tổ
chức chính trị - xã hội và tạo sự bình đẳng giữa các tổ chức này, tác giả cho
rằng Đảng và Nhà nước cần phải tăng cường địa vị pháp lý của các tổ chức xã
hội công dân không phải là các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là cơ chế quan
trọng để Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát Nhà nước. Vì tiếng nói phản biện
của các tổ chức xã hội sẽ giúp cho Đảng thấy được những mặt hạn chế của Nhà
nước để từ đó có biện pháp điều chỉnh phù hợp. Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với các tổ chức xã hội nói chung và HCCBVN nói riêng là đòi hỏi cấp
thiết từ nhiều phía, trước nhất là đòi hỏi của chính các hội và của việc giữ vững
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội. Sự đòi hỏi đó bắt nguồn từ những
lý do sau:
Thứ nhất, xuất phát từ mục tiêu chung của phát triển đất nước là: Phát
huy sức mạnh toàn dân, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại

hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai, hoạt động của các hội là một trong
những phương thức để tập hợp được quần chúng; thực thi việc mở rộng và tăng
cường nền dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thứ ba, hoạt động của
các hội ngày nay diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập và mở cửa, với
sự tác động của nền kinh tế thị trường nên phải chịu tác động của nhiều yếu tố,
nhiều hướng; có tác động tích cực nhưng cũng có những tác động tiêu cực có
khả năng làm chệch hướng, cản trở sự tiến bộ và lành mạnh. Chỉ có tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng thì các hội mới thoát khỏi các nguy cơ đó.Thứ tư,
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng còn do yêu cầu của việc xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, trong đó có việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cả
hệ thống chính trị. Có đổi mới hoạt động của các hội thì mới góp phần tích cực
xây dựng chỉnh đốn Đảng và ngược lại có xây dựng chỉnh đốn Đảng thì mới có
thể nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với các hội.
4.2.2. Bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ trong việc hoàn thiện địa vị
pháp lý của HCCBVN trong quản lý nhà nước
4.2.2.1.Bảo đảm tính toàn diện trong việc hoàn thiện địa vị pháp lý của
HCCBVN trong quản lý nhà nước
19


Bảo đảm tính toàn diện về địa vị pháp lý của HCCBVN trong xây dựng
pháp luật về Hội; Bảo đảm tính toàn diện về địa vị pháp lý của HCCBVN trong
bảo vệ pháp luật:Bảo đảm tính toàn diện về địa vị pháp lý của HCCBVN trong
tổ chức thực hiện pháp luật. Để bảo đảm tính toàn diện trong việc hoàn thiện
địa vị pháp lý của HCCBVN trong quản lý nhà nước chúng ta cần phải đồng
thời đáp ứng cùng lúc cả ba yêu cầu trên.
4.2.3. Kế thừa và phát triển các thành tựu pháp lý trong việc xác lập địa
vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong hệ thống pháp luật và
thực tiễn quản lý nhà nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, HCCBVN thành lập phù hợp với quy luật
phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam khi đất nước trải qua các cuộc
chiến tranh vừa kết thúc, đất nước hòa bình và thực hiện công cuộc đổi mới để
phát triển. Hội thành lập giúp cho Đảng, Nhà nước giải quyết được nhiều nhiệm
vụ quan trọng, cụ thể: Thứ nhất,Hội giúp Đảng tiếp tục nắm được lực lượng cán
bộ, chiến sĩ đã từng “Trung với Đảng, Hiếu với Dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh
vì độc lập, tự do của Tổ quốc”. Thứ hai, Hội thành lập là bước phát triển mới về
nghệ thuật lãnh đạo quần chúng cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
giai đoạn cách mạng mới.Thứ ba, Hội góp phần tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện Hiến pháp, thực hiện đường lối lãnh đạo của Đảng, pháp luật của
Nhà nước; tăng cường phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa để xây dựng Nhà
nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
4.2.4. Hoàn thiện địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh Việt Nam
trong quản lý nhà nước phù hợp với nhận thức về vai trò của xã hội công
dân đối với nhà nước pháp quyền
Hiện nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, các mô hình giám sát, tự quản xã
hội của xã hội công dân đã ngày một được mở rộng và làm giảm dần chức năng
nhà nước trong các hoạt động kinh tế và xã hội. Ngay như ở nước ta hiện nay,
trong những năm vừa qua, chúng ta đã nhanh chóng chuyển đổi mô hình kinh tế
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do đó, nhiều chức năng của Nhà
nước đặc biệt là các chức năng về hoạt động kinh tế đã ngày càng chuyển giao
nhiều cho xã hội. Sự chuyển đổi này đã đem lại rất nhiều thành tựu to lớn trong
sự phát triển đất nước.Chính vì vậy, hiện nay mô hình một nhà nước nhỏ đã và
đang được nhiều nước phát triển áp dụng. Theo mô hình đó Nhà nước mạnh mẽ
chuyển giao những phạm vi quyền lực của mình cho xã hội và các tổ chức xã
hội trong khi mình chỉ là người ban hành luật, hoạch định chính sách, bảo đảm
thực thi pháp luật…Chính vì vậy, thời gian tới Đảng và Nhà nước ta cần mạnh
dạn nghiên cứu mô hình này để chuyển đổi những việc thuộc phạm vi của các
tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội về đúng vị trí của nó, làm giảm gánh

nặng của Nhà nước.

20


4.3. Giải pháp tăng cường địa vị pháp lý của Hội Cựu chiến binh
Việt Nam
4.3.1. Đổi mới tư duy, nhận thức sâu sắc, toàn diện về vị trí, vai trò của
Hội Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý nhà nước giai đoạn hiện nay
Trong xã hội Việt Nam, nhận thức phổ biến hiện nay về quản lý nhà nước
là hoạt động của các cơ quan hành chính trong hoạt động chấp hành, điều hành
các hoạt động của nhà nước và xã hội. Vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, các hội chủ yếu là vai trò giám sát, phản biện xã hội.
Chính từ nhận thức như vậy, việc thừa nhận về địa vị pháp lý của các tổ chức xã
hội trong tham gia quản lý nhà nước là phạm vi còn nhiều tranh cãi. Tuy nhiên,
qua những phân tích và thực trạng cũng như xu hướng phát triển hiện nay
chúng ta thấy rằng, nhà nước ngày càng có xu hướng nâng cao quyền lực quản
lý bằng việc giao quyền cho các cá nhân, tổ chức nhân danh mình thực hiện các
công việc quản lý. Chính việc thay đổi đó đã dẫn đến việc cần phải thay đổi tư
duy, nhận thức về vị trí, vai trò của HCCBVN nói riêng và các tổ chức xã hội
trong quản lý nhà nước ở nước ta giai đoạn hiện nay.

4.3.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hội Cựu
chiến binh Việt Nam, bảo đảm nâng cao địa vị pháp lý của Hội trong
quản lý nhà nước
Các cấp uỷ Đảng và tổ chức Đảng phải thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo,
phổ biến kịp thời những chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước cho
HCCBVN và cho các tầng lớp nhân dân biết để thống nhất về nhận thức, tạo sự
đồng thuận trong quá trình tổ chức thực hiện; Tập trung lãnh đạo công tác vận
động CCB tích cực thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước; Tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo về chính trị, tư tưởng, tổ chức và định hướng hoạt động

của các cấp HCCB, nhất là cấp cơ sở; xây dựng lực lượng CCBVN là lực lượng
tai mắt nhạy bén của Đảng trong việc phát hiện các sai phạm trong quản lý nhà
nước, nhất là ở cơ sở; Cấp ủy Đảng các cấp trên cơ sở nhận thức rõ vị trí, vai
trò quan trọng của công tác CCB, từ đó thường xuyên quan tâm đến đời sống
vật chất, tinh thần và quyền lợi của hội viên HCCB; tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để CCB phấn đấu, học tập nâng cao kiến thức. Đồng thời cần tích cực
đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của HCCBVN, bảo đảm Hội
thực sự hoạt động đúng hướng, đạt hiệu quả thiết thực. Coi trọng việc lãnh đạo,
chỉ đạo, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các cấp HCCB trong tổ
chức các hoạt động của HCCB gắn với đặc điểm tình hình thực tiễn cụ thể của
từng địa phương, đơn vị [48].
- Đảng tăng cường lãnh đạo trực tiếp, thống nhất, toàn diện HCCBVN
bằng công tác tổ chức của Đảng. Cụ thể, Đảng lãnh đạo các cấp HCCBVN xây
dựng hệ thống tổ chức Đảng trong HCCBVN từ Trung ương Hội đến các
HCCB cấp cơ sở và ở các Chi Hội CCB có đủ số lượng đảng viên thì thành lập
Chi bộ Đảng. Theo số liệu của Trung ương HCCBVN, tại Đại hội lần thứ XII
của Đảng (năm 2015, có 834.899 hội viên CCB là đảng viên), nếu thành lập
21


được hệ thống tổ chức Đảng trong hệ thống tổ chức của HCCBVN thì Đảng sẽ
lãnh đạo trực tiếp HCCBVN thông qua các đảng viên và các tổ chức của Đảng
trong HCCBVN. Như vậy sẽ nâng cao vai trò lãnh đạo trực tiếp của Đảng đối
với HCCBVN, đồng thời phát huy vai trò của các hội viên CCB là đảng viên
tiếp tục phấn đấu, rèn luyện xây dựng Đảng, xây dựng Hội, xây dựng đất nước.
4.3.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Hội
Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý nhà nước
Xác lập rõ địa vị lý pháp lý của HCCBVN là cơ sở quan trọng để Nhà
nước, xã hội ghi nhận bằng pháp luật về sự tồn tại của một tổ chức Hội; xác
nhận vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và các mối quan hệ của Hội một cách

hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động quản lý nhà nước. Nhìn từ phương diện
Hiến pháp, như đã trình bày Hiến pháp 2013 đã ghi nhận và mở rộng các phạm
vi thẩm quyền hết sức rộng lớn đối với MTTQVN nói chung trong đó có
HCCBVN trong hoạt động quản lý nhà nước. Điều này thể hiện ngay trong quy
định của Hiến pháp [64, Điều 9].
4.3.4. Tăng cường các bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của Hội
Cựu chiến binh Việt Nam trong quản lý nhà nước
Trước tiên là sự bảo đảm về nhận thức, chúng ta thấy rằng Hiến pháp
nước ta ghi nhận: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm
chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” [64, khoản 2, Điều 2], Bảo
đảm sự lãnh đạo thống nhất, toàn diện của Đảng, trong bất cứ hoàn cảnh, điều
kiện nào chúng ta cũng cần phải kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo thống nhất, toàn diện HCCBVN. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, có ý
nghĩa quan trọng bậc nhất quyết định việc hoàn thiện cơ chế thực thi địa vị pháp
lý của HCCBVN trong quản lý nhà nước; Bảo đảm về quyền và nghĩa vụ phù
hợp; Các bảo đảm về cơ sở vật chất; Bảo đảm về trình tự, thủ tục pháp lý
4.3.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các cơ quan nhà
nước trong việc bảo đảm để Hội Cựu chiến binh Việt Nam tham gia quản lý
nhà nước
Một trong những đòi hỏi quan trọng trong bảo đảm địa vị pháp lý của
HCCBVN trong quản lý nhà nước đó là phải được các chủ thể có thẩm quyền
nghiêm chỉnh tôn trọng các phạm vi quyền hạn mà pháp luật đã quy định đối
với hoạt động quản lý nhà nước của Hội. Có nghĩa là việc xâm phạm các thẩm
quyền trong hoạt động quản lý nhà nước của HCCB sẽ tước bỏ hoặc làm giảm
khả năng tham gia của Hội vào quản lý nhà nước. Qua tổng kết, đánh giá công
tác Hội trong những năm qua đã ghi nhận, nhiều nơi chính các tổ chức Hội, các
hội viên cũng không nắm được các quyền, nghĩa vụ của mình trong quản lý nhà
nước. Nhiều nơi thì bị chính các cơ quan quản lý nhà nước lạm quyền. Chính vì
vậy trong thời gian tới HCCBVN nói riêng và xã hội nói chung phải tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm để

HCCBVN tham gia hoạt động quản lý nhà nước.
22


×