Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Thực trạng nhiễm khuẩn tại chỗ đặt đường truyền ngoại vi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 22 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm khuẩn bệnh viện đang là một trong những mối quan tâm hàng đầu
của các nhà y học Việt Nam cũng như trên thế giới. Đây là những nhiễm khuẩn
mắc phải tại các cơ sở y tế, xảy ra ở các bệnh nhân nằm viện, không có biểu hiện
triệu chứng hay ủ bệnh vào thời điểm nhập viện. Nhiễm khuẩn bệnh viện thường
xảy ra ở những bệnh nhân có nguy cơ cao như người suy giảm miễn dịch, nhiều
bệnh phối hợp, trẻ sinh non tháng và người cao tuổi. Hiện nay, nhiễm khuẩn
bệnh viện trở thành một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện.
Chính vì vậy, việc phòng tránh, ngăn ngừa và làm giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh
viện trở lên quan trọng và cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng điều trị và an toàn
cho người bệnh [1], [7].
Nhiễm khuẩn catheter tĩnh mạch ngoại biên là một trong những nhiễm
khuẩn bệnh viện, từ lâu là mối quan tâm của nền Y học. Việc tiếp cận mạch máu
bằng catheter tĩnh mạch ngoại biên là một phương tiện thiết yếu trong chăm sóc
y tế hiện đại, mang lại nhiều lợi ích thiết thực, đặc biệt trong những trường hợp
cấp cứu cần xử lý thuốc ngay theo đường tĩnh mạch, hiệu quả thuốc tức thì. Tuy
nhiên, trong quá trình sử dụng có một số biến chứng ảnh hưởng đến kết quả điều
trị. Các biến chứng thường gặp khi đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên là nhiễm
khuẩn tại chỗ đặt, viêm tĩnh mạch và tắc catheter. Trong đó, nhiễm khuẩn tại chỗ
đặt catheter là biến chứng thường gặp nhất, là một vấn đề ảnh hưởng có ý nghĩa
trong thực hành lâm sàng và cũng là một trong những nguyên nhân làm kéo dài
thời gian nằm viện, tăng chi phí điều trị [1].
Mỗi năm ở Mỹ có khoảng trên 150 triệu catheter được đặt vào trong lòng
mạch nhằm đưa thuốc, các loại dịch, máu và các chế phẩm của máu, các chất
lỏng dinh dưỡng ngoài đường tiêu hóa, theo dõi huyết động và lọc máu. Nghiên
cứu tại các khoa hồi sức tích cực của Mỹ cho thấy tần suất của nhiễm khuẩn
huyết là 5,5 ca/1000 ngày điều trị tại khoa hồi sức tích cực người lớn và



2

7,7/1000 ngày mang catheter [1], [8].
Theo nghiên cứu trên 174 bệnh nhân của Thái Đức Thuận Phong và cộng
sự tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện An Giang ghi nhận 14 trường hợp viêm
tĩnh mạch tại chỗ ( 8%) chiếm 2.8% số ống thông được đặt, tất cả đều là viêm độ
II VIP score, 11/14 (78.5%) trường hợp viêm gặp ở catheter thứ 1 (3 ngày đầu
nhập viện) [2].
Tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới, ước tính mỗi năm
điều trị nội trú cho khoảng 1000 bệnh nhi, trong đó 2/3 số bệnh nhi được đặt
catheter tĩnh mạch ngoại biên. Việc theo dõi, chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại
biên của điều dưỡng có liên quan đến an toàn người bệnh. Vì vậy việc tuân thủ
quy trình kỹ thuật chuyên môn để đảm bảo an toàn người bệnh luôn là thách
thức đối với công tác điều dưỡng. Một trong những vấn đề đáng quan tâm là quy
trình chăm sóc catheter tĩnh mạch ngoại biên chưa được tuân thủ, còn để xảy ra
không ít các trường hợp tắc catheter, tuột catheter, viêm tĩnh mạch và đặc biệt là
nhiễm khuẩn tại chỗ đặt catheter… Mặc dù kỹ thuật lưu catheter tĩnh ngoại biên
đã được triển khai từ lâu nhưng đến nay chưa có một nghiên cứu nào đánh giá tỷ
lệ biến chứng nhiễm khuẩn tại chỗ đặt catheter, chính vì vậy chúng tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài:” Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt catheter tĩnh
mạch ngoại biên ở trẻ sơ sinh thuộc khoa Nhi bệnh viện Hữu nghị Việt Nam
- Cuba Đồng Hới ”, nhằm hai mục tiêu:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt Catheter tĩnh mạch ngoại biên ở
trẻ sơ sinh thuộc khoa Nhi bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba Đồng
Hới .
2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn tại chỗ đặt Catheter
tĩnh mạch ngoại biên.


3


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Catheter tĩnh mạch ngoại biên
Kỹ thuật tiêm, truyền tĩnh mạch được thực hiện bằng CTMNB là phương
pháp tiêm, truyền tĩnh mạch sử dụng loại kim làm bằng ống nhựa mềm luồn vào
trong lòng tĩnh mạch. Catheter có thể đi sâu và cố định chắc chắn vào trong lòng
mạch, đầu catheter không sắc nhọn, nên nó không có khả năng đâm xuyên qua
thành mạch, đặc biệt, trong trường hợp người bệnh giãy giụa hay ở trẻ nhỏ.
Catheter được sử dụng trong những trường hợp người bệnh có chỉ định cần phải
tiêm, truyền nhiều lần trong ngày hoặc phải duy trì việc tiêm truyền tĩnh mạch
nhiều ngày. Tính ưu việt trên của catheter đã khắc phục được nhược điểm của
kim sắt (gây chệch ven, xuyên mạch) trong quá trình tiêm, truyền. Hiện nay kỹ
thuật đặt CTMNB được sử dụng rộng rãi trong các cơ sở điều trị mang lại nhiều
tiện ích và hiệu quả cho cả người bệnh và người điều dưỡng [1], [5].
1.1.1. Đặc điểm cấu tạo và lợi ích của Catheter (TERUMO) [6], [9], [11]
Cathete được làm bằng chất liệu ETFE (Ethylene Tetra Fluor Ethylene).
Thành mỏng, cứng, độ đàn hồi tốt nên thâm nhập qua da dễ dàng. Đầu catheter
mềm nên khi người bệnh cử động không gây tổn thương cho thành mạch. Chất
liệu sinh học giúp lưu được catheter trong lòng mạch 72 giờ, tạo cảm giác dễ
chịu, giảm đau đớn và hạn chế nhiễm khuẩn cho người bệnh. Hình dáng kim
thon và nhẵn làm giảm lực cản khi thâm nhập vào cơ thể người bệnh. Tiệt trùng
bằng chùm điện tử có lợi ích giảm bớt tác động không có lợi đến sản phẩm (do
không dùng nhiệt), không có chất dư thừa (chí nhiệt tố) sau khi tiệt trùng, giảm
ảnh hưởng môi trường do không dùng chất hoá học để tiệt khuẩn.


4

Hình 1.1. Cấu tạo của Catheter tĩnh mạch ngoại biên

1.1.2. Các loại Catheter
Catheter tĩnh mạch ngoại biên có nhiều loại có các số từ 14G đến 24G,
việc phân chia này có ưu điểm dễ dàng trong việc quản lý, cho phép nhanh
chóng chọn được cỡ kim phù hợp để sử dụng dựa vào màu sắc của chúng trên
thân kim như: Màu vàng cỡ 24G, màu xanh cỡ 22G, màu hồng cỡ 20G, màu
xanh lá cây cỡ 18G, màu xám cỡ 16G, màu gạch cua cỡ 14G.
Trẻ sơ sinh thường dùng cathter cỡ nhỏ nhất - 24G.
1.1.3. Lựa chọn vị trí đặt CTMNB
- Ở người lớn, nên sử dụng mạch máu ở chi trên. Trong trường hợp phải đặt
đường truyền ở chi dưới nên chuyển vị trí đặt từ chi dưới lên chi trên nếu có thể
thay đổi.
- Ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, CTMNB thường được đặt vào tĩnh mạch mu bàn tay,
mu bàn chân hoặc tĩnh mạch khuỷu tay và đôi khi đặt ở tĩnh mạch đầu do tĩnh
mạch ở những vị trí này thường nổi rõ, ít di động, thuận lợi cho thao tác đặt
catheter của điều dưỡng viên.
1.2. Quy trình, kỹ thuật đặt CTMNB [1], [4]


5

- Xem hồ sơ bệnh án
- Biết người bệnh, chỉ định của bác sĩ.
- Thông báo cho người bệnh về thủ thuật sắp làm.
- Thông báo thời gian, địa điểm, chỉ định đặt kim luồn: Hướng dẫn (giúp) người
bệnh, người nhà người bệnh làm những việc cần thiết có liên quan.
- Để người bệnh nằm nghỉ tại giường. Giúp người bệnh đại tiểu tiện trước khi
làm thủ thuật (nếu cần).
- Chuẩn bị người điều dưỡng: Mặc áo choàng, đội mũ, đeo khẩu trang, rửa tay,
đi găng tay.
- Chuẩn bị:

+ Khay dụng cụ: bông cồn, catheter, bông cồn, pank, kéo thuốc, bơm tiêm hoặc
bộ dây truyền, dịch truyền.
+ Dụng cụ sạch: gối kê tay, băng đính, dây garô, túi hoặc hộp đựng chất thải.
- Chuẩn bị tư thế người bệnh thuận lợi cho điều dưỡng đặt catheter : Đặt người
bệnh nằm ngửa, thẳng, thoải mái. Trẻ nhỏ được người nhà bế và giữ.
- Chọn vị trí tĩnh mạch để chọc, kê gối dưới chi đã được chọn.
- Garô chi đã được chọn để đặt catheter: Dùng dây garô thắt phía trên vị trí đặt
catheter 10 -15cm.
- Kiểm tra và chọn tĩnh mạch: Chọn tĩnh mạch nổi, ít di động.
- Sát khuẩn vùng da định đặt kim luồn: Sát khuẩn vùng da đặt catheter bằng cồn
70°.
- Thay găng tay
- Kiểm tra catheter: Tháo vỏ bảo vệ kim ra (mở nắp catheter), quan sát xem kim
có đúng kích cỡ, còn nguyên vẹn không?
- Cố định ven nơi định đặt catheter: Căng da phía dưới vị trí định đâm kim
khoảng vài cm .
- Cầm kim catheter: Ngón trỏ, ngón cái tay thuận cầm đốc và thân kim, mũi kim
chếch xuống dưới.
- Đâm kim vào tĩnh mạch: Đâm kim xuyên qua da ỏ góc độ đã chọn tùy theo độ
sâu của tĩnh mạch.
- Luồn ống catheter vào lòng mạch: Đẩy nhẹ (ống nhựa) vào lòng mạch.
- Cố định đốc catheter: Hạ thấp góc giữa đầu kim và mặt da, điều chỉnh góc độ
đốc cathete và cố định cho chắc chắn.
- Tháo garô


6

- Rút nòng kim ra: Giữ nguyên ống nhựa trong lòng mạch, rút nòng kim ra bằng
cách tiếp tục miết da bằng tay thuận, dùng tay còn lại rút từ từ nòng kim ra đầu

ống.
- Lắp bơm tiêm hoặc bộ truyền dịch vào đầu kìm luồn: Tiếp tục ấn, giữ nhẹ đầu
(đốc kim) rồi lắp đầu kim với bơm tiêm tĩnh mạch hoặc bộ dãy truyền dịch đã
được chuẩn bị trước.
- Phát hiện các sai sót sau khi đặt catheter: Quan sát vị trí đặt catheter, phát hiện
dấu hiệu bất thường như phồng nơi tiêm, chảy máu. Hỏi người bệnh cảm giác
đau tức, khó chịu không.
- Cố định catheter: Dùng băng dính hoặc Opsides cố định chân catheter vào da
người bệnh.
- Thu dọn dụng cụ: Bỏ các đồ thải bỏ vào những túi, hộp đồ đựng thích hợp.
- Ghi hồ sơ chăm sóc: Ghi thời gian đặt kim, những bất thường xảy ra, tình trạng
người bệnh

Hình 1.2. Các bước đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên
1.3. Những biến chứng thường gặp khi đặt CTMNB [1], [3], [9], [13]
1.3.1. Nhiễm khuẩn huyết


7

Việc chẩn đoán các bệnh nhiễm trùng máu do CTMNB liên quan đến kết quả
cấy máu từ tĩnh mạch ngoại vi và các bằng chứng rõ ràng liên quan nguồn gốc
ống thông. Các nuôi cấy từ một hoặc nhiều nơi của một mầm bệnh từ một đầu
ống thông là chẩn đoán liên quan các bệnh nhiễm trùng máu do ống thông.
1.3.2. Viêm tắc tĩnh mạch
Viêm tĩnh mạch được chia thành các độ sau:
Độ 0: Không có biểu hiện viêm tắc tĩnh mạch trên lâm sàng.
Độ 1: Đau hoặc đỏ da nhưng không sưng, không cứng, không sờ thấy thừng tĩnh
mạch .
Độ 2: Đau và đỏ da hoặc đau và sưng nhưng không cứng, không sờ thấy thừng

tĩnh mạch.
Độ 3: Đau + đỏ da + sưng và cứng hoặc sờ thấy đoạn tĩnh mạch dài < 4cm dọc
đường đi tĩnh mạch từ vị trí đặt catheter.
Độ 4: Đau + đỏ da + sưng + cứng + sờ thấy tĩnh mạch ≥ 4cm tính từ vị trí đặt
catheter.
1.3.3. Tắc CTMNB
Khi kiểm tra CTMNB bằng bơm dung dịch natriclorid 0,9% không thông được
CTMNB.
1.3.4. Nhiễm khuẩn tại chỗ (đánh giá theo thang điểm V.I.P score) [9]
Từ 1998, bảng điểm đánh giá bằng mắt tình trạng viêm tại vị trí đặt catheter
(visual infusion phlebitis score -VIP score) với 5 mức độ được Jackson đề xuất
và hiện nay được nhiều Hiệp hội điều dưỡng của Anh, Hoa Kỳ sử dụng.


8

Hình 1.3. Các mức độ viêm tại chỗ đặt catheter - V.I.P score
1.4. Nguyên nhân và cách phòng ngừa biến chứng khi đặt CTMNB [1], [6]
1.4.1. Nguyên nhân
- Yếu tố người bệnh: người bệnh bị suy giảm miễn dịch: phẫu thuật, sử dụng
corticoid, nhiễm khuẩn ngoài da hay tổn thương da hở.
- Yếu tố can thiệp: hạng bệnh viện, khoa điều trị, loại CTMNB, kỹ thuật đặt,
thời gian lưu kim.
- Vị trí đặt kim, thời điểm đặt: cấp cứu hay có kiểm soát.
- Không đảm bảo nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật về vô khuẩn.
1.4.2. Các biện pháp phòng ngừa biến chứng
- Giáo dục và đào tạo nhân viên y tế về: chỉ định, kỹ thuật đặt kim và chăm sóc
CTMNB, những biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn nhằm làm giảm các biến
chứng.
- Cơ sở khám, chữa bệnh: định kỳ đánh giá, kiểm tra sự tuân thủ của nhân viên y

tế có liên quan đặt và chăm sóc CTMNB.
- Ưu tiên vị trí đặt kim ở chi trên.
- Kiểm tra CTMNB hàng ngày, rút bỏ khi có dấu hiệu biến chứng, tránh làm
nhiễm khuẩn nặng lên.


9

- Rút bỏ ngay CTMNB khi thấy không còn cần thiết trong chẩn đoán và điều trị
- Đảm bảo đúng kỹ thuật vô trùng, đặc biệt là sát khuẩn da tại vị trí đặt kim bằng
cồn 70o, sát khuẩn cửa bơm thuốc khi đưa thuốc vào hệ thống và vệ sinh bàn tay
nhân viên y tế khi làm thủ thuật: rửa tay bằng xà phòng, dung dịch sát khuẩn, có
đủ mũ, khẩu trang, găng tay sạch.
1.4.3. Một số lưu ý về kỹ thuật khi đặt CTMNB
- Chọn vị trí chọc catheter:
Đặt và lưu CTMNB là một kỹ thuật thường quy, không phức tạp. Tuy
nhiên, việc chọn lựa vị trí chọc kim thích hợp, việc này không nên vôi vàng,
tránh chọc nhiều lần không đáng có, không nên chọc kim vị trí gần nếp gấp, vị
trí gần nơi có tổn thương da, viêm nhiểm, vị trí đang phù nề, vị trí cho bị liệt,
hay phía trên đường đi đang bị chấn thương nặng, những vị trí chọc được ưu
tiên là ở mu bàn tay, cẳng tay và cánh tay.
Ở trẻ nhỏ, vị trí ưu tiên thường là mu bàn tay, mu bàn chân hoặc tĩnh
mạch khuỷu tay và đôi khi đặt ở tĩnh mạch đầu do tĩnh mạch ở những vị trí này
thường nổi rõ, ít di động, thuận lợi cho thao tác đặt catheter của điều dưỡng
viên.
- Sát trùng da đủ rộng và đúng kỹ thuật:
Việc sát trùng da trước khi chọc kim là rất quan trong, bạn có thể sử dụng các
dung dịch cồn thông thường như cồn 70 độ, hoặc cồn Povidone - iode, kỹ thuật
sát trùng bạn nên sát trùng rộng trường định chọc, chí ít cũng rộng hơn một
vòng tròn mà từ vị trí bạn định chọc làm tâm và bán kính là chiều dài catheter

bạn đã chọn và bạn cũng nên nhớ rằng khi bạn tiến hành chọc thì vị trí da đã
khô, tránh chọc da còn ướt thuốc sát trùng do có thể gây sót cho người bệnh và
chưa đủ thời gian để thuốc sát trùng có tác dụng.
- Kỹ thuật chọc qua da:
Chọn tư thế thật sự thuận lợi và thoải mái, kéo nhẹ căng cho tĩnh mạch
gần trở thành một đường thẳng, tay thuận cầm vị trí chuôi kim (không chạm
vào thân kim), góc chọc chếch với mặt da 15º. Đối với người da nhẽo, người
già, suy kiệt, rối loạn về đông máu đôi khi bạn nên tránh chọc trực tiếp lên tĩnh


10

mạch ngay mà nên chọc qua ít da sau đó chọc vào tĩnh mạch, điều này giúp cho
quá trình lưu kim không bị dò dịch máu ra ngoài, và khi rút kim thôi truyền
cũng tránh hậu quả chảy máu, dịch sau đó. Động tác chọc cần nhanh gọn, dứt
khoát sẽ làm cho người bệnh ít cảm giác đau hơn.
- Động tác luồn kim:
Chỉ cần khoảng 1/3 chiều dài kim vào lòng mạch, khi có máu xuất hiện,
ta thực hiện động tác luồn kim vào trong lòng tĩnh mạch. Điều này sẽ tránh
được việc làm tổn thương mạch máu do kim đâm quá sâu dẫn đến đi xuyên qua
thành mạch.
- Cố định catheter:
Việc cố định catheter không tốt hay không đúng quy cách, sẽ làm tăng
nguy cơ nhiễm khuẩn do catheter bị tụt ra ngoài, thao tác đẩy catheter vào vô
tình giúp vi khuẩn xâm nhập vào mạch máu và gây bệnh. Hơn nữa, nếu cố định
catheter không tốt sẽ dẫn đến tuột catheter gây chảy máu và phải đặt lại
catheter làm tăng chi phí điều trị và gây đau cho bệnh nhân cũng như tăng nguy
cơ nhiễn khuẩn.
- Thời gian lưu CTMNB:
Thời gian lưu CTMNB càng dài càng làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn do

việc sử dụng thuốc và dịch truyền hàng ngày tạo điều kiện thuận lợi cho vi
khuẩn xâm nhập vào mạch máu và làm tăng nguy cơ viêm tại chỗ đặt CTMNB.
Quyết định số 3671/QĐ-BYT về việc phê duyệt các hướng dẫn kiểm soát
nhiễm khuẩn. Trong đó, có hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn huyết trên
người bệnh đặt catheter trong lòng mạch, khuyến cáo không nên thay
KLTMNB thường quy trước 72 - 96h ở người lớn.
- Ảnh hưởng của thuốc và dịch truyền:
Việc sử dụng thuốc tiêm truyền tĩnh mạch cũng tác động đến quá trình
nhiễm khuẩn CTMNB. Quá trình thực hiện tiêm truyền qua CTMNB là cơ hội
cho vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể do việc không tuân thủ hay tuân thủ không
đúng quy trình tiêm truyền qua CTMNB.


11

1.5. Một số nghiên cứu về catheter tĩnh mạch ngoại biên trên thế giới và ở
Việt Nam [2], [3], [4], [5], [7], [8], [10], [11], [12], [13]
1.5.1. Trên thế giới [7], [8], [10], [11], [12], [13]
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về CTMNB và biến chứng của việc
lưu CTMNB trên bệnh nhân. Theo nghiên cứu của Anabela Salgueiro-Oliveira;
Pedro Parreira; Pedro Veiga năm 2010 tại một bệnh viện trung ương ở Bồ Đào
Nha khi nghiên cứu 1.244 trường hợp lưu CTMNB hầu hết là người lớn tuổi,
tuổi trung bình là 75,92±14,52, trong đó nam giới chiếm 50,6%, tỷ lệ viêm tĩnh
mạch là 11,09%, trong đó chủ yếu là viêm TM độ 1 và 2 (37,0% và 53,6%).
Nguy cơ cao bị viêm TM do dùng thuốc KCI (OR: 2,112; CI: 1,124-3,969),
dùng thuốc kháng sinh (OR: 1,877; CI: 1,141-3,088) và ở chi trên nguy cơ thấp
hơn (OR: 0,31; CI: 0,111-0,938).
Nghiên cứu của Prabhjot Kaur, Ramesh Thakur, Sukhpal Kaur, Ashish
Bhalla năm 2011, nghiên cứu 200 đối tượng với tuổi trung bình (năm) ± SD của
các đối tượng là 41,37 ± 15,81 với phạm vi tuổi từ 18 - 87, trong đó 70% là nam

giới. Thời gian lưu kim là 2,66 ± 0,75 ngày. Viêm tĩnh mạch là 56,5%. Có mối
quan hệ có ý nghĩa giữa viêm tĩnh mạch và thời gian lưu kim luồn, sử dụng
kháng sinh và các chất điện giải.
Theo nghiên cứu của Samuel K. Sarfo, A.ZechariahJebakumar, Hassan S.
Nondo năm 2014, các đối tượng có độ tuổi trung bình của 42,46 ± 15. Hơn một
nửa (72%) là nam. Đa số (89,5%) là có gia đình, 60% thuộc về khu vực nông
thôn. Trong số 200 đối tượng nghiên cứu, 124 (62%) viêm tĩnh mạch phát triển.
Trong đó 79.03% và 41,94% của đối tượng nghiên cứu có viêm tĩnh mạch khi
dùng kháng sinh và điện giải đã được sử dụng tương ứng và được tìm thấy rất có
ý nghĩa (p <0,005).
Nghiên cứu của Wilkinson Yoong Jian Tan, Jo Wearn Yeap, Sharifah
Sulaiha Syed Aznal khi nghiên cứu năm 2012 Trong tổng số 428 bệnh nhân
được chọn với một tỷ lệ mắc viêm tắc tĩnh mạch 35,2%. Theo nghiên cứu của


12

Farhad Sarafzadeh, Gholamreza Sepehri, Marya Yazdizadeh năm 2012 tại Iran
khi nghiên cứu 400 đối tượng cho thấy viêm TM độ 1 là 24,14% , TM độ 2 là
4,93% và độ 3 là 1,48%.
1.5.2. Tại Việt Nam [2], [3], [4], [5]
Theo nghiên cứu của Thái Đức Thuận Phong, Nguyễn Văn Thà và Trần
Huy Giang, “Khảo sát tỷ lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên tại
khoa Hồi sức cấp cứu BVTM An Giang” năm 2011 có 174 bệnh nhân được
nghiên cứu trong đó ghi nhận 14 trường hợp viêm tĩnh mạch tại chỗ là 8%
bệnh nhân tất cả đều là độ II VIP score, 11/14 (78.5%). Viêm tĩnh mạch do ống
thông có liên quan ý nghĩa với suy tim (OR = 7.6, KTC 95%: 28.7-2.0, p <
0.01), thuốc vận mạch (OR = 12, KTC 95%: 38.9-3,6, p < 0.01) [2].
Theo kết quả của Phạm Lâm Lạc Thư, “Khảo sát tỉ lệ nhiễm khuẩn và
thời gian lưu kim luồn trên bệnh nhi tại Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Nhi

Đồng II thành phố Hồ chí Minh”, năm 2012 cho thấy: Tỷ lệ viêm TM ở cả 2
nhóm đều thấp; 0% ở nhóm lưu kim < 72 giờ và 5,1% ở nhóm lưu kim lâu hơn
72 giờ [3].
Một nghiên cứu khác của Nguyễn Ngọc Rạng và các cộng sự tại bệnh viện
An Giang năm 2013, khi nghiên cứu 200 người bệnh được chia 02 nhóm: Nhóm
A là nhóm người bệnh được thay KLTMNB thường quy mỗi 72 h (91người
bệnh), nhóm B (109 người bệnh) chỉ thay KL khi có viêm TM cho kết quả là tỉ
lệ viêm tĩnh mạch ở nhóm A là 11% và nhóm B là 20.3% [5].


13

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm tất cả các trẻ sơ sinh có chỉ định đặt CTMNB nằm điều trị tại khoa
Nhi thuộc bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới từ ngày 01/01/2016
đến hết ngày 31/03/2016.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Tất cả các trẻ sơ sinh (≤1 tháng tuổi) được đặt CTMNB và có thời gian lưu
CTMNB ≥ 24h.
- Hồ sơ bệnh án ghi chép đầy đủ, đáp ứng các tiêu chí trong bệnh án nghiên cứu.
- Gia đình trẻ đồng ý tham gia nghiên cứu
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Trẻ sơ sinh được đặt CTMNB ở nơi khác chuyển về khoa điều trị.
- Trẻ sơ sinh được đặt CTMNB có thời gian lưu CTMNB < 24h.
- Gia đình trẻ từ chối tham gia nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang có phân tích.

2.2.2. Cỡ mẫu
- Công thức tính cỡ mẫu dành cho nghiên cứu mô tả

n = Z12-/2

p (1  p )
d2

Trong đó: n là số bệnh nhân cần nghiên cứu;
p: tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB theo nghiên cứu Thái Đức
Thuận Phong và các cộng sự tại bệnh viện An Giang là 8,0% (p = 0,08).
Z 1 - /2: hệ số giới hạn tin cậy, với mức tin cậy 95%  Z1-/2 = 1,96
d là độ chính xác mong muốn là 0,05.
Thay số: n = 1,962. 0,08. 0,92/ 0,052 = 113 bệnh nhân.
2.2.3. Phương pháp chọn mẫu


14

Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
2.3. Phương pháp thu thập số liệu
Các thông tin được thu thập theo mẫu bệnh án nghiên cứu được xây dựng trước.
2.4. Các chỉ số nghiên cứu
- Tuổi, giới tính.
- Bệnh lý: Suy dinh dưỡng, bệnh hô hấp,..
- Vị trí đặt catheter: TM chi trên, TM chi dưới, TM đầu, ...
- Thời gian lưu catheter TMNB (từ khi đặt đến khi khảo sát): Trước 48h, từ 48 –
72h và sau 72h.
- Lý do đặt: Bù khối lượng tuần hoàn, dùng thuốc qua đường tĩnh mạch, nuôi
dưỡng qua đường tĩnh mạch,...

- Số lần đặt catheter TMNB.
- Biến chứng do đặt catheter TMNB: Tắc catheter, nhiễm khuẩn huyết, viêm tĩnh
mạch, nhiễm khuẩn tại chỗ (chia thành 5 độ theo thang điểm V.I.P score).
- Thời gian xuất hiện nhiễm khuẩn tại chỗ: Trước 48h, từ 48 – 72h và sau 72h.
2.5. Xử lý số liệu
Số liệu được phân tích và xử lý theo phần mềm thống kê y học SPSS 20.0
2.6. Đạo đức nghiên cứu
Gia đình tất cả các trẻ được chọn đều đồng ý tham gia nghiên cứu. Tất cả các số
liệu của đề tài chỉ nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, không ngoài mục đích
nào khác, không ảnh hưởng đến kết quả và quá trình điều trị.


15

Chương 3
DỰ KIẾN KẾT QUẢ
3.1. Tuổi và giới tính
Bảng 3.1. Phân loại đối tượng nghiên cứu theo giới tính
Giới tính
Nam

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nữ
Tổng
Nhận xét:
Bảng 3.2. Phân loại đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi

Số lượng (n)
Tỷ lệ %
≤ 1 tuần
Từ 1 – 3 tuần
Từ 3 – dưới 1 tháng
Tổng
Tuổi trung bình ( X ± SD):
Nhận xét :
3.2. Chẩn đoán điều trị
Bảng 3.3. Phân loại đối tượng nghiên cứu theo chẩn đoán điều trị
Chẩn đoán
Suy dinh dưỡng
Bệnh hô hấp
Khác
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nhận xét:
3.3. Tính chất catheter tĩnh mạch ngoại biên
3.3.1. Lý do đặt và số lần đặt CTMNB trong một đợt điều trị
Bảng 3.4 . Lý do đặt CTMNB
Lý do đặt CTMNB
Bù khối lượng tuần hoàn
Dùng thuốc qua đường tĩnh mạch
Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch
Tổng
Nhận xét:


Số lượng (n)

Tỷ lệ %


16

Bảng 3.5. Số lần đặt CTMNB
Số lần đặt CTMNB
1 lần
2 lần
3 lần
≥ 4 lần
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

3.3.2. Vị trí đặt, thời gian lưu CTMNB và những thuốc được sử dụng qua
CTMNB
Bảng 3.6. Vị trí đặt CTMNB
Vị trí đặt CTMNB
TM chi trên
TM chi dưới
TM đầu
Tổng

Số lượng (n)


Tỷ lệ %

Nhận xét:
Bảng 3.7. Thời gian lưu CTMNB
Thời gian lưu CTMNB

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

< 48h
Từ 48 – 72h
> 72h
Tổng
Nhận xét:
Bảng 3.8. Một số loại thuốc được sử dụng qua CTMNB
Nhóm thuốc
Vận mạch
Kháng sinh
Dịch bù điện giải
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nhận xét:
3.3.3. Những biến chứng do đặt CTMNB và thời gian xuất hiện



17

Bảng 3.9. Những biến chứng do đặt CTMNB
Biến chứng
Nhiễm khuẩn huyết
Viêm tĩnh mạch
Tắc catheter
Nhiễm khuẩn tại chỗ
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nhận xét:
Bảng 3.10. Thời gian xuất hiện nhiễm khuẩn tại chõ đặt CTMNB
Thời gian
Trước 48h
Từ 48 – 72h
Sau 72h
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nhận xét:
3.3.4. Mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB theo V.I.P score
Bảng 3.11. Mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB

Mức độ
Độ I
Độ II
Độ III
Độ IV
Độ V
Tổng

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Nhận xét:
3.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB
3.4.1. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và tuổi
Bảng 3.12. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và tuổi
Nhóm tuổi
≤ 1 tuần
Từ 1-3 tuần
Từ 3 – dưới 1 tháng
Tổng

Có biến chứng
n
%

Không có biến chứng
n
%



18

Nhận xét:
3.4.2. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và giới tính
Bảng 3.13. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và giới tính
Giới tính

Có biến chứng
n
%

Không có biến chứng
n
%

Nam
Nữ
Tổng
Nhận xét:
3.4.3. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và số lần đặt CTMNB
Bảng 3.14. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng và số lần đặt CTMNB
Số lần

Có biến chứng
n
%

Không có biến chứng
n

%

1 lần
2 lần
3 lần
≥ 4 lần
Tổng
Nhận xét:
3.4.4. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng do đặt CTMNB và vị trí đặt CTMNB
Bảng 3.15. Liên quan giữa tỷ lệ biến chứng và vị trí đặt CTMNB
Số lần

Có biến chứng
n
%

Không có biến chứng
n
%

TM chi trên
TM chi dưới
TM đầu
Tổng
Nhận xét:
3.4.5. Liên quan giữa những biến chứng do đặt CTMNB và thời gian lưu
CTMNB
Bảng 3.16. Liên quan giữa những biến chứng do đặt CTMNB và thời gian
lưu CTMNB



19

Thời gian lưu
CTMNB

Nhiễm

Nhiễm

Viêm

Tắc

khuẩn huyết

tĩnh mạch

catheter

n

%

n

%

n


khuẩn
tại chỗ
n
%

%

≤ 48h
Từ 48-72h
≥ 72h
Nhận xét:
3.4.6. Liên quan giữa mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ và số lần đặt CTMNB
Bảng 3.17. Liên quan giữa mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB và số
lần đặt CTMNB
Số lần đặt
CTMNB
1 lần
2 lần
3 lần
≥4 lần
Nhận xét:

Độ I
n
%

Độ II
n
%


Độ III
n
%

Độ IV
n
%

Độ V
n
%

3.4.7. Liên quan giữa mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ và thời gian lưu CTMNB
Bảng 3.18. Liên quan giữa mức độ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB và thời
gian lưu CTMNB
Thời gian
lưu

Độ I
n

%

Độ II
n

%

Độ III
n


%

Độ IV
n

%

Độ V
n

%

CTMNB
≤ 48h
Từ 48-72h
≥ 72h
Nhận xét:
3.4.8. Liên quan giữa tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ và nhóm thuốc sử dụng qua
CTMNB
Bảng 3.19. Liên quan giữa tỷ lệ nhiễm khuẩn tại chỗ đặt CTMNB và nhóm


20

thuốc sử dụng qua CTMNB
Nhóm thuốc
Vận mạch
Kháng sinh
Dịch bù điện giải

Tổng
Nhận xét:

Có nhiễm khuẩn
n
%

Không có nhiễm khuẩn
n
%


21

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Y tế, “Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn huyết trên bệnh nhân đặt
catheter trong lòng mạch”, ( ban hành kèm theo quyết định số: 3671/QĐ- BYT
ngày 27 tháng 9 năm 2012 của Bộ Y tế).
2. Thái Đức Thuận Phong, Nguyễn Văn Thà, Trần Huy Giang, “Khảo sát tỷ
lệ viêm tại chỗ do đặt catheter tĩnh mạch ngoại biên tại khoa Hồi sức cấp cứu
BVTM An Giang”, Hội nghị khoa học điều dưỡng bệnh viện An Giang năm
2013. Tr 12-23.
3. Nguyễn Ngọc Rạng, Huỳnh Thị Mỹ Thanh, Mai Nhật Quang, Lê Thị
Tuyết Nga và Lý Thị Bích Hồng, “Có nên thay kim luồn tĩnh mạch thường quy
mỗi 72 giờ?”, Hội nghị khoa học điều dưỡng bệnh viện An Giang năm 2013. Tr
6-11.
4. Nguyễn Kim Sơn, “Thực trạng tuân thủ quy trình đặt và chăm sóc kim luồn
và một số yếu tố liên quan tại ba khoa hồi sức Bệnh viện nhi trung ương năm
2014”, Luận văn thạc sỹ quản lý bệnh viện, Đại học y tế công cộng năm 2014.

5. Phạm Lâm Lạc Thư, “Khảo sát tỉ lệ nhiễm khuẩn và thời gian lưu kim luồn
trên bệnh nhi tại Khoa Ngoại Thần Kinh Bệnh viện Nhi Đồng II”, Y Học TP Hồ
Chí Minh, tập 16, Phụ Bản của số 4, 2012; Tr 32 – 37.
Tiếng Anh
6. Anabela Salgueiro-Oliveira, Pedro Parreira, Pedro Veiga, “Incidence of
phlebitis in patients with peripheral intravenous catheters: The influence of
some risk factors”; Australian jounal of advanced nursing 2010; Volume 30
Number 2; PP 32-39
7. Farhad Sarafzadeh, Gholamreza Sepehri,Marya Yazdizadeh,



Evaluation of the severity of peripheral intravenous catheter related phlebitis


22

during one year period in an Iranian educational hospital, Kerman, Iran”;
Annals of Biological Research, 2012, 3 (10):4741-4746.
8. Maki DG, Mermel LA, Bennett JV, Brachman PS, eds. Hospital
Infections. Infections due to infusion therapy. Vol. 44. 4th ed. Philadelphia:
Lippincott-Raven, 1998: 689–724
9. Jackson A. Infection control: a battle in vein infusion phlebitis, Nursing
Times 1998; 94 (4): 68-71.
10. Mermel LA. Prevention of intravascular catheter-related infections. Ann
Intern Med 2000; 132:391–402.
11. Nassaji-Zavareh, Ghorbani R, Peripheral intravenous catheter-related
phlebitis and related risk factors. Singapore Med J 2007; 48(8): P 733-736
12. Prabhjot Kaur, Ramesh Thakur, Sukhpal Kaur, Ashish Bhalla,
“Assessment of risk factors of phlebitis amongst intravenous cannulated

patients”; Nursing and Midwifery Research Journal, Vol-7, No. 3, July 2011, PP
106-114.
13. Samuel K. Sarfo, A.ZechariahJebakumar, Hassan S. Nondo, “Estimation
of risk factors of philebitis with itravenous cannulated patients” International
Journal of Obstetrics and Gynaecology Nursing. 2014;1(1):26-31



×