Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Hình thức hợp đồng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.02 KB, 3 trang )

Hình thức hợp đồng dân sự

Hình thức của hợp đồng dân sự là cách thức biểu hiện ra bên ngoài
của những nội dung của nó dưới một dạng vật chất hữu hình nhất
định.Theo đó, những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải
được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định.
Điều 401, BLDS đã quy định:
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể
hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng kí hoặc
phải xin phép thì phải tuân theo các quy định đó”. Hợp đồng không bị vô
hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác.



Thứ nhất: Hình thức miệng (bằng lời nói): Thông qua hình thức này,
các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thoả thuận miệng với nhau về nội
dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi
nhất định đối với nhau. Hình thức này thường được áp dụng trong
những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau (bạn bè cho
nhau vay tiền).Thông qua hình thức này các bên chỉ cần thỏa thuận
miệng với nhau về những nội dung cơ bản không cần văn bản xác
thực . Hình thức này còn được áp dụng đối với những trường hợp các
bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau và thêm vào đó nữa là các đối tác
lâu năm hoặc là những hợp đồng mà sau khi giao kết, thực hiện sẽ
chấm dứt. Ví dụ bạn thân cho mượn tiền, hay đi mua đồ ở chợ….




Thứ hai: Hình thức viết (bằng văn bản): Nhằm nâng cao độ xác thực
về những nội dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận nội dung
giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó, các bên
phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng kí tên
xác nhận vào văn bản.Khi có tranh chấp, hợp đồng được giao kết
bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lí chắc chắn hơn so
với hình thức miệng. Căn cứ vào văn bản của hợp đồng, các bên dễ
dàng thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia. Vì vậy, đối
với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc giao
kết thì các bên thường chọn hình thức này.Các cam kết của các bên
trong hợp đồng sẽ được ghi nhận lại bằng một văn bản.Trong văn


bản đó các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp
đồng và cùng kí tên xác nhận vào văn bản, thông thường hợp đồng
được lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản.Căn cứ vào văn
bản hợp đồng các bên dễ dàng thực hiện quyền của mình và thực
hiện quyền yêu cầu của mình đối với bên kia vì vậy bản hợp đồng đó
coi như là một bằng chứng, chứng minh quyền dân sự của mình.



Thứ ba: Hình thức có chứng nhận, chứng thực: Đối với những hợp
đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của
nó là những tài sản mà Nhà nước cần phải quản lí, kiểm soát khi
chúng được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các
bên phải lập thành văn bản có công chứng, chứng thực. Hợp đồng
được lập ra theo hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất.Hợp
đồng lọai này có giá trị chứng cứ cao nhất chứ không phải có giá trị

cao nhất vì các hợp đồng được lập ra một cách hợp pháp thì đều có
giá trị pháp lý như nhau. Vì vậy, đối với những hợp đồng mà pháp
luật không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi
của mình được bảo đảm, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để
giao kết hợp đồng.



Thứ tư: Hình thức khác: Ngoài những hình thức nói trên, hợp đồng có
thể thực hiện bằng các hình thức khác như bằng các hành vi (ra
hiệu, ra giấu bằng cử chỉ cơ thể…) miễn là những hành vi đó phải
chứa đựng thông tin cho bên kia hiểu và thỏa thuận giao kết trên
thực tế. Và điểm cần lưu ý là đối với những hợp đồng dân sự mà
pháp luật bắt buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định
(thông thường là hình thức văn bản có Công chứng, chứng thực) thì
các bên phải tuân theo những hình thức đó, ngoài ra thì các bên có
thể tự do lựa chọn một trong các hình thức nói trên để giao kết, tuy
nhiên đối với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập
theo hình thức văn bản có công chứng nhưng để quyền lợi của mình
được bảo đảm thì các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết
hợp đồng.

Hiệu lực hợp đồng dân sự
Trong mọi giao dịch để an toàn cần soạn thảo hợp đồng và ký kết
giữa hai bên. Tuy nhiên, để hợp đồng có hiệu lực thì cần có những điều
kiện và điều khoản nhất định. Điều kiện để hợp đồng có hiệu và vô hiệu
lực
được
pháp
luật

quy
định
như
sau:
1.Điều kiện để hợp đồng có hiệu lực:
Trong quá trình xây dựng và ký kết hợp đồng, người soạn thảo cần
lưu ý đến điều kiện của hợp đồng có hiệu lực và các trường hợp vô hiệu
của hợp đồng nhằm tránh các trường hợp đáng tiếc xảy ra trong quá trình
hai bên thực hiện hợp đồng


Điều 388 Bộ luật dân sự quy định:Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự.
Như vậy hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của các
bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
Hợp đồng chỉ có hiệu lực khi đáp ứng đủ 4 điều kiện:
-Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thông thường các
bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.
-Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện tức là
xuất phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận
hợp đồng đó.
-Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối tượng của hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc
cấm thực hiện. Bên cạnh đó, nội dung của hợp đồng cần phải cụ thể, bởi vì
việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những
nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thể thực hiện được thì hợp đồng cũng
không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ.
-Thứ tư, thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức
nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với từng loại hợp

đồng.
Hợp đồng không đáp ứng được một trong các điều kiện trên sẽ dẫn đến
vô hiệu.
2. Trường hợp vô hiệu của hợp đồng:
Bên cạnh việc xác định điều kiện để hợp đồng có hiệu lực, Chủ thể
cần xem xét đến các trường hợp vô hiệu khác của hợp đồng, cụ thể:
- Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo (Điều 129 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực
hiện (Điều 130 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự do bị nhầm lẫn (Điều 131 – Bộ Luật dân sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa (Điều 132 – Bộ Luật dân
sự);
- Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ
được hành vi của mình (Điều 133 – Bộ Luật dân sự);
3. Hậu quả của Hợp đồng vô hiệu
- Khi hợp đồng vô hiệu sẽ dẫn đến hiệu quả sau:
- Hợp đồng có thể bị vô hiệu từng phần hoặc toàn phần. Theo điều 137 Bộ
luật dân sự năm 2005 thì hợp đồng dân sự vô hiệu sẽ phát sinh những hậu
quả pháp lý sau:
- Hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa
vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập.
- Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn
trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả bằng hiện vật thì phải
hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch
thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.




×