Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thông tin OV năm 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.23 KB, 53 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ ĐỊA CHẤT
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
-

-----***-----

KINH TẾ THÔNG TIN
ĐỀ TÀI: Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thông tin
ở Việt Nam. Phân biệt sự giống và khác nhau giữa KTTT và HTTT

Giảng viên hướng dẫn : Ts. Lê Thanh Huệ
Sinh viên thực hiện : Nguyễn Thị Phương (1321050660)
Nguyễn Văn Phúc (1321050639)
Nguyễn Đức Phương(1321050161)
Lý Hồng Quân(1321050165)

Hà Nội – 2016


Mục lục

Lời nói đầu
Công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT) đang làm thay đổi mạnh mẽ hoạt động sản
xuất, tài chính và thương mại trên phạm vi quốc gia, khu vực và toàn cầu. Bằng cách làm cho
các hoạt động kinh doanh cạnh tranh hơn, các hoạt động sản xuất trong nền kinh tế hiệu quả hơn
và nhất là đẩy mạnh việc trang bị tri thức cho con người, công nghệ thông tin và truyền thông
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh hơn và qua đó sẽ tăng cường tiềm lực cho phát triển. Thách
thức đối với nước ta hiện nay là làm cách nào để có thể khai thác có hiệu quả tiềm năng này
phục vụ phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.
Chuyên đề Kinh tế thông tin ở Việt Nam giới thiệu các ngành công nghiệp thông tin trong nền
kinh tế thông tin, cho thấy việc phát triển và ứng dụng manh mẽ công nghệ thông tin và truyền


thông là nội dung quan trọng để xây dựng nền kinh tế đó. Chuyên đề cũng đánh giá thực trạng
phát triển nền kinh tế thông tin ở Việt Nam thông qua phân tích thực tiễn thực hiện bộ chỉ tiêu
hạt nhân đánh giá mức độ ứng dụng CNTT&TT trong các doanh nghiệp đã được cộng đồng
quốc tế công nhận rộng rãi và đánh giá tình hình triển khai ứng dụng CNTT&TT trong những
ngành kinh tế chủ chốt như thương mại, tài chính, ngân hàng, du lịch…. Chuyên đề phân tích hệ
thống các chủ trương, chính sách lớn do Nhà nước ta ban hành, đó là môi trường pháp lý quan
trọng để xây dựng và hình thành nền kinh tế thông tin ở nước ta. Cuối cùng Chuyên đề đưa ra
những thách thức chủ yếu mà nước ta có thể sẽ phải đối mặt và những cơ hội lớn có thể sẽ nhận
được khi xây dựng và phát triển nền kinh tế thông tin ở Việt Nam.
Các công nghệ thông tin và truyền thông xuất hiện ngày càng nhiều, tính năng ngày càng
được nâng cao và hoàn thiện, đồng thời chúng ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế. Tập trung nghiên cứu, nhanh chóng triển khai xây dựng và phát
triển nền kinh tế thông tin ở nước ta, một mặt sẽ góp phần đảm bảo nền kinh tế nước ta phát

2


triển bền vững, không bị tụt hậu xa hơn nữa so với các nước trong khu vực, và mặt khác sẽ tận
dụng được cơ hội và lợi ích to lớn do cách mạng khoa học và công nghệ mang lại.
Khi kiến thức, nói rộng hơn là sự hiểu biết trở thành nguyên liệu đầu vào và nguồn gốc của
giá trị trong nền kinh tế, người ta gọi đó là nền kinh tế thông tin. Và thông tin lúc này, trở thành
tín hiệu điều khiển các quyết định kinh tế.
Một nền kinh tế thông tin có đủ những đặc tính hội tụ và tích hợp truyền thông và công nghệ
xử lý dữ liệu vào công nghệ thông tin, ảnh hưởng mạnh mẽ của các ứng dụng công nghệ trong
hoạt động kinh tế .Ví dụ như phần đông người làm việc chuyên môn có nhu cầu cao (khối lượng
và chất lượng) về sử dụng thông tin, đa số sản phẩm cung cấp cho xã hội thuộc nhóm chứa đựng
nhiều thông tin, và ứng dụng mạng lưới công nghệ thông tin rộng khắc các tổ chức kinh tế, và
quá trình mang lại kết quả là một hệ thống kiểm soát có độ linh hoạt cao và tính cưỡng bức
thấp, đồng thời, có năng lực thúc đẩy tiến trình hội nhập, toàn cầu hóa.
Tuy vậy, mọi hệ thống kinh tế vận hành trên nền tảng công nghệ thông tin đều phải cùng tồn

tại với khu vực sản xuất có qui mô lớn, trong đó, kiến thức không phải là nguyên liệu đầu vào
cơ bản. Đây chính là điểm vẫn tiếp tục gây tranh cãi về những những khác biệt cơ bản giữa các
nền kinh tế hiện đại và truyền thống.

Phần A: Qúa trình hình thành nền kinh tế thông tin
I. Kinh tế thông tin (KTTT)
1.Khái niệm về kinh tế thông tin
Khái niệm xã hội và nền kinh tế hậu công nghiệp được nói đến lần đầu vào những năm 1950,
khi người ta nhận thấy sự phát triển không ngừng của một số khu vực (section) phi nông nghiệp
và phi công nghiệp trong một số nền kinh tế tiên tiến. Những khu vực đó được xem là hạt nhân
của một nền kinh tế mới đang nổi và người ta sử dụng thuật ngữ “hậu công nghiệp” để nói về
nền kinh tế này.

3


Nền kinh tế “hậu công nghiệp” hiện được nhiều học giả của các trường phái khoa học xã hội
gọi là “nền kinh tế tri thức”, còn các học giả của các trường phái khoa học tự nhiên, công nghệ
thông tin gọi là “nền kinh tế thông tin – kinh tế số”. Các khái niệm "kinh tế tri thức", "kinh tế
thông tin" hay "kinh tế số" hiện được dùng với nghĩa gần tương đương, chúng đều nhấn mạnh
và khẳng định vai trò động lực phát triển kinh tế toàn cầu của thông tin, tri thức, công nghệ
thông tin (CNTT) và truyền thông.
“Kinh tế thông tin” là gì? Khái niệm này hiện được định nghĩa chưa thật chặt chẽ, được dùng
để đặc trưng cho một nền kinh tế với vai trò tăng trưởng của các hoạt động thông tin và công
nghiệp thông tin.
Trong nền kinh tế thông tin, tri thức đóng vai trò chủ đạo bên cạnh các thành tố truyền thống
khác của nền kinh tế; các sản phẩm của nền kinh tế đó chứa đựng hàm lượng tri thức cao hơn
hẳn so với trước đây. Khái niệm kinh tế thông tin đã chỉ ra sự khác biệt giữa 2 lĩnh vực
(domain): lĩnh vực vật chất và năng lượng, và lĩnh vực thông tin, trong đó lĩnh vực đầu tiên bao
gồm các khu vực nông nghiệp và công nghiệp, trong khi lĩnh vực thứ 2 tương ứng với khu vực

thông tin và quan tâm đến sự biến đổi thông tin từ “dạng này sang dạng khác”.
Có hai điểm quan trọng còn chưa rõ trong khái niệm kinh tế thông tin. Thứ nhất là chưa rõ
tiêu chuẩn nào để đánh giá một nền kinh tế có phải là nền kinh tế thông tin hay không và thứ hai
là hiện đang có quá nhiều cách quản lý khác nhau đối với các chỉ tiêu kinh tế liên quan đến
thông tin.
Nếu đối với vấn đề thứ nhất người ta mới tập trung vào nghiên cứu, đánh giá sự tăng trưởng
của các hoạt động thông tin hơn là vào mức độ đạt được của nó, và hiện có rất ít những nghiên
cứu nhằm xác định rõ mức độ thông tin hóa nền kinh tế để nó trở thành nền kinh tế thông tin thì
đối với vấn đề thứ hai lại được quan tâm nghiên cứu và thảo luận rộng rãi, cộng đồng quốc tế
hiện đã khá thống nhất về hệ thống chỉ tiêu hạt nhân để đo nền kinh tế thông tin [10].
Thực chất của phát triển KTTT là quá trình không ngừng khai thác, phân phối, sử dụng thông
tin, tri thức trong mọi hoạt động của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở nền giáo dục đào tạo và khoa học - công nghệ hiện đại. Trong nền kinh tế thông tin, tri thức sẽ trở thành đối
4


tượng chủ yếu của sản xuất, phân phối, tiêu thụ và là nguồn gốc, động lực của tăng trưởng kinh
tế. Tăng trưởng kinh tế được chuyển hoá từ mô hình dựa trên tiêu hao nguồn tài nguyên vật chất
sang loại hình dựa trên tri thức và kỹ thuật.
Cùng với sự phát triển hướng về kinh tế thông tin, cơ cấu nguồn nhân lực ở nhiều quốc gia
cũng đang có sự dịch chuyển về khu vực thông tin - dịch vụ với nhiều ngành, nghề mới được
hình thành. Trong số 500 nghề hàng đầu ở những năm cuối thế kỷ trước đã có gần 400 nghề
chưa từng xuất hiện ở thời điểm giữa thế kỷ này, riêng trong lĩnh vực CNTT đã có khoảng 40
ngành nghề khác nhau.
2.Đặc trưng của kinh tế thông tin
Hội tụ và tích hợp truyền thông và công nghệ xử lý dữ liệu vào công nghệ thông tin.
Ảnh hưởng mạnh mẽ của các ứng dụng công nghệ trong hoạt động kinh tế.
Hiện nay các nghành kinh tế sử dụng rất nhiều ứng dụng của công nghệ thông tin,có rất nhiều
ngành nếu không có công nghệ thông tin thì sẽ ko thể hoạt động được.Ví dụ như kế toán,kiểm
toán,ngân hàng….
Ứng dụng mạng lưới công nghệ thông tin rộng khắp các tổ chức kinh tế.

3.Đặc điểm của kinh tế thông tin
Là nền kinh tế lớn mạnh và phát triển nhờ áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong mọi tổ
chức: Từ cá nhân hộ gia đình, đến các doanh nghiệp ,nhà trường và đặc biệt là bộ máy quản lý
nhà nước, muốn tồn tại và làm việc có hiệu quả thì việc áp dụng CNTT là điều bắt buộc. Hơn
thế nữa, ngày nay mạng internet và thương mại điện tử đang dần khẳng định vai trò và vị thế
trong đất nước mình.Hiện tại dần dần, người dân sẽ có thói quen mua hàng qua mạng, doanh
nghiệp sẽ nộp thuế qua mạng,học sinh được trừ tiền qua thẻ ngân hàng, nhà nước sẽ quản lý
chứng minh thư qua mạng,.v.v. đó là hướng đi tích cực là tiến bộ cố gắng của chúng ta

5


Lao động tri thức và sáng tạo: năng suất lao động là thước đo đánh giá hệ thống chính sách,
động lực của sự tăng trưởng bền vững. Mà để có được năng suất lao động cao điều tiên quyết là
cần đội ngũ nhân lực tri thức khoa học.Đòi hỏi người lao động luôn tìm tòi học hỏi không
ngừng nghỉ,tiếp thu nhưng thay đôi
Phát triển bền vững: Xã hội kinh tế thông tin được xây dựng trên nền tảng là tri thức, công
nghệ, khoa học và thông tin. Nó là sự kết hợp hài hòa giữa bản sắc văn hóa người Việt Nam và
văn minh nhân loại. Kinh tế thông tin sẽ phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo
đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa.
Toàn cầu hóa: Đây là cơ hội cũng là thách thức lớn cho nền kinh tế thông tin, vươn ra thế giới
đồng nghĩa với việc cạnh tranh khốc liệt và hợp tác hiệu quả. Khi công nghệ và thông tin đạt
đến mức toàn cầu hóa, thì khoảng cách địa lý, đất nước, văn hóa giữa các vùng miền dần xóa
mờ, kinh tế thương mại được kết nối và thế giới sẽ chuyển mình thay đổi thực sự. Nhìn lại Việt
Nam, 11/1/2007-2016 sau 9 năm kể từ khi ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, ông
Trương Đình Tuyển, nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại nhận định, nhờ sự cam kết và thực hiện
các cam kết, Việt Nam đã từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nghiên cứu, tạo dựng khung
pháp lý, đưa ra những quy định theo thông lệ quốc tế, chủ động hội nhập đời sống thương mại
toàn cầu.
Thúc đẩy quá trình dân chủ: Quản lý phi tập trung, thông tin công khai, đầy đủ và kịp thời.

4.Vai trò của kinh tế thông tin
Thông tin là một nhu cầu và thuộc tính của loài người. Mọi diễn tiến sự kiện của các vùng
lãnh thổ, hay tri thức khoa học - xã hội đều được phổ biến và tiếp nhận bởi thông tin. Vì vậy mà
thông tin đáp ứng nhu cầu hiểu biết và tìm hiểu cuộc sống của con người, là động lực để thúc
đẩy sự phát triển. Có thể nói, thông tin gắn bó hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người, góp phần quan trọng cho sự tiến hóa nhân loại.
Các ngành công nghiệp thông tin là bộ phận tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Nhu cầu về
dịch vụ và hàng hoá thông tin từ những người tiêu dùng ngày càng tăng lên. Các phương tiện
6


thông tin đại chúng như máy tính cá nhân, nhạc số, phim kỹ thuật số, truyền hình kỹ thuật số,
trò chơi điện tử, là thuộc vào các ngành công nghiệp thông tin và đang có sự bùng nổ về tăng
trưởng. Các ngành nghề như lập trình máy tính; thiết kế hệ thống; tin học ứng dụng trong tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản; viễn thông và nhiều ngành nghề liên quan đến
thông tin khác cũng đang tăng lên không ngừng cả ở phạm vi quốc gia lẫn quốc tế, và đang tạo
ra cơ hội để kinh tế phát triển nhanh nếu có chiến lược và bước đi thích hợp, kịp thời trong việc
phát triển những ngành nghề đó.
Nhờ có các dịch vụ thông tin mà các doanh nghiệp, các ngành, các khu vực của nền kinh tế
không ngừng phát triển. Và như vậy, nó có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển
kinh tế cũng như trong quá trình thực hiện CNH- HĐH đất nước, cạnh tranh và hội nhập kinh tế
quốc tế. Hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và cạnh tranh ngày càng
gay gắt khốc liệt thì vai trò của dịch vụ thông tin thương mại lại càng trở nên quan trọng và cụ
thể hơn.
Dịch vụ thông tin kinh tế nâng cao hiệu quả kinh doanh do mở rộng được quy mô kinh doanh,
tiết kiệm được chi phí. Ở tầm vĩ mô, vai trò này được thể hiện là nhờ có những thông tin về thị
trường, về nhu cầu ... mà hoạt động kinh doanh của toàn xã hội đạt kết quả tốt hơn tiết kiệm chi
phí hơn, thị trường được mở rộng cả trong nước và Quốc tế. Từ đó hiệu quả và quy mô tổng thể
nền kinh tế được nâng lên và mở rộng. Dưới góc độ vĩ mô, thì nhờ có dịch vụ này mà doanh
nghiệp nắm bắt nhu cầu thực tế của người tiêu dùng từ đó có biện pháp kinh doanh có hiệu quả

hơn, thị trường thị phần được mở rộng và quy mô kinh doanh ngày một lớn hơn.
Dịch vụ thông tin kinh tế thúc đảy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự cách mạng hoá trong lưu
thông.
Dịch vụ thông tin kinh tế thu hút một lượng lao động lớn. Ở tầm vĩ mô, đây là sự chuyển dịch
lao động từ ngành nông nghiệp sang ngành dịch vụ tạo nên cơ cấu lao động hợp lý. Còn ở tầm
vi mô, thì đây là một ngành dịch vụ thu hút lớn lượng lao động sống rất lớn. Và sản phẩm của
dịch vụ này chủ yếu phụ thuộc vào con người.
Dịch vụ thông tin nâng cao chất lượng phục vụ người tiêu dùng.
7


Dịch vụ thông tin phục vụ cho quản lý Nhà nước về kinh tế và thương mại được tốt hơn. Nhờ
có các thông tin mà các cấp quản lý đề ra những quyết định kịp thời chính xác và có hiệu quả
trong công tác quản lý Nhà nước về kinh tế.
Dịch vụ thông tin góp phần thu hút đầu tư cho nền kinh tế. Nhờ sự cung cấp các thông tin mà
các nhà đầu tư có thể tìm hiểu được chính sách, luật pháp và cơ hội đầu tư ở nước ta. Từ đó họ
sẽ đầu tư vào nước ta. Ngoài ra, dịch vụ thông tin còn có các vai trò như đẩy mạnh quá trình
chuyển giao công nghệ, hình thành các loại dịch vụ mới, hình thành các thị trường trọng yếu
trong nền kinh tế thị trường ....
Cùng với sự phát triển hướng về kinh tế thông tin, cơ cấu nguồn nhân lực ở nhiều quốc gia
cũng đang có sự dịch chuyển về khu vực thông tin - dịch vụ với nhiều ngành, nghề mới được
hình thành. Trong số 500 nghề hàng đầu ở những năm cuối thế kỷ trước đã có gần 400 nghề
chưa từng xuất hiện ở thời điểm giữa thế kỷ này, riêng trong lĩnh vực CNTT đã có khoảng 40
ngành nghề khác nhau.
Nguồn nhân lực trong kinh tế thông tin
Các ứng dụng của kinh tế thông tin
Quản lí điều hành trong cơ quan chính phủ, các bộ ban ngành

.


Quản lí điều hành doanh nghiệp, tập đoàn, cộng đồng xã hội,tổng công ty.
Đưa ra các thông tin chính xác về tình hình của một quốc gia, doanh nghiệp và con người.
5.Các hoạt động về thông tin
Người ta phân loại lĩnh vực thông tin thành khu vực thông tin sơ cấp và thứ cấp. Những người
làm việc trong khu vực thông tin sơ cấp là những người mà công việc chủ yếu của họ là nhằm
tạo ra hoặc quản lý, sử dụng thông tin như các nhà khoa học, các nhà văn, những người làm
công tác thư viện, ..; còn những người làm việc trong khu vực thông tin thứ cấp là những người
làm việc chủ yếu trên những công việc không phải là thông tin nhưng công việc của họ đòi hỏi
8


phải có thông tin, họ đưa ra thông tin để sử dụng trong sản xuất hàng hóa không phải là hàng
hóa thông tin.
Khu vực thông tin sơ cấp bao gồm: Sản xuất và sáng tạo tri thức (như R&D và các dịch vụ
thông tin); Phân phối thông tin và truyền thông (giáo dục đào tạo, dịch vụ thông tin công, viễn
thông,…); Quản lý rủi ro (các ngành công nghiệp tài chính, bảo hiểm); Tìm kiếm và hợp tác
(các nghề môi giới, quảng cáo); Dịch vụ xử lý và chuyển giao thông tin (xử lý thông tin dựa trên
máy tính, hạ tầng kỹ thuật truyền thông); Hàng hóa thông tin (máy tính bỏ túi, chất bán dẫn,
máy tính điện tử); Một số hoạt động có lựa chọn của chính phủ (dịch vụ giáo dục, bưu điện..);

Khu vực thông tin thứ cấp bao gồm tất cả các dịch vụ thông tin được tạo ra nhằm phục vụ
nhu cầu trong các cơ quản quản lý nhà nước và trong các khu vực phi thông tin, trừ các hoạt
động của chính phủ thuộc vào khu vực thông tin sơ cấp nêu ở trên. Các hoạt động khác của
chính phủ như lập kế hoạch, hợp tác, giám sát, điều chỉnh, đánh giá và ra quyết định… là thuộc
về khu vực thông tin thứ cấp.
Mặc dù nền kinh tế hậu công nghiệp đã được xác định là nền kinh tế thông tin, nhưng việc
tranh luận nhằm xác định xem những hoạt động và hàng hóa nào sẽ được xếp vào lĩnh vực
thông tin của nền kinh tế thực tế hiện vẫn còn đang tiếp diễn.
6.Các ngành công nghiệp thông tin
Mặc dù còn rất non trẻ, nhưng nền kinh tế thông tin đã chứng tỏ được ưu thế vượt trội và tiềm

năng phát triển to lớn của nó. Hiện tại đã xuất hiện các ngành công nghiệp thông tin và chúng
đang được coi là quan trọng nhất trong nền kinh tế bởi những lý do chủ yếu là:
Các ngành công nghiệp thông tin là bộ phận tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Nhu cầu về
dịch vụ và hàng hoá thông tin từ những người tiêu dùng ngày càng tăng lên. Các phương tiện
thông tin đại chúng như máy tính cá nhân, nhạc số, phim kỹ thuật số, truyền hình kỹ thuật số,
trò chơi điện tử, là thuộc vào các ngành công nghiệp thông tin và đang có sự bùng nổ về tăng
trưởng. Các ngành nghề như lập trình máy tính; thiết kế hệ thống; tin học ứng dụng trong tài
9


chính, ngân hàng, bảo hiểm và bất động sản; viễn thông và nhiều ngành nghề liên quan đến
thông tin khác cũng đang tăng lên không ngừng cả ở phạm vi quốc gia lẫn quốc tế, và đang tạo
ra cơ hội để kinh tế phát triển nhanh nếu có chiến lược và bước đi thích hợp, kịp thời trong việc
phát triển những ngành nghề đó.
Các ngành công nghiệp thông tin được coi là là những ngành động lực thúc đẩy sự đổi mới và
đẩy mạnh sản xuất của các ngành công nghiệp khác. Thực tiễn cho thấy những nền kinh tế với
các ngành công nghiệp thông tin vững chắc thường có khả năng cạnh tranh cao hơn các nền
kinh tế khác, và các nhân tố trong những nền kinh tế ấy trở lên công bằng hơn.
Người ta nhận thấy rằng tác động của việc thay đổi cơ cấu kinh tế (hay thành phần các ngành
công nghiệp trong nền kinh tế) liên quan đến sự thay đổi rộng rãi xã hội. Điều này có nghĩa là
khi thông tin trở thành bộ phận trung tâm trong các hoạt động kinh tế, thì xã hội cũng như thế sẽ
trở thành xã hội thông tin. Hiện nay vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng, công
nghệ kỹ thuật số, và các thông tin trung gian khác trong cuộc sống hàng ngày, trong các hoạt
động vui chơi giải trí, trong đời sống xã hội, công việc, chính trị, giáo dục, nghệ thuật và nhiều
khía cạnh khác của xã hội đã được tăng lên.
Phân loại các ngành công nghiệp thông tin:
Các ngành công nghiệp thông tin đang trở thành các ngành công nghiệp mũi nhọn. Mỗi ngành
công nghiệp thông tin có những đặc điểm khác nhau. Xu hướng hiện nay là phân các ngành
công nghiệp thông tin thành 6 loại như sau:
(1) Các ngành công nghiệp sản xuất và bán thông tin dưới dạng hàng hoá hoặc dịch vụ.

Các sản phẩm truyền thông đại chúng như chương trình truyền hình, phim ảnh, các cuốn sách
và tạp chí được xuất bản định kỳ,… chính là các hàng hóa thông tin điển hình. Một số thông tin
được cung cấp không phải là những sản phẩm thông tin hữu hình mà là vô hình, chẳng hạn như
tư vấn,...
(2) Các ngành dịch vụ xử lý thông tin như: các dịch vụ về pháp lý, ngân hàng, bảo hiểm,
lập trình máy tính, xử lý dữ liệu, kiểm thử phần mềm và nghiên cứu thị trường,... Mặc dù các
10


dịch vụ này không cung cấp thống tin, nhưng vì lợi ích của khách hàng các dịch vụ đó thường
đòi hỏi tính chuyên môn cao.
(3) Các ngành công nghiệp mà việc phổ biến hàng hoá thông tin là hoạt động chính của
nó như: ngành điện thoại, truyền thanh - truyền hình, truyền thông, và bán lẻ sách báo,...,.
(4) Các nhà sản xuất thiết bị xử lý thông tin. Các sản phẩm này là sống còn đối với các
hoạt động xử lý thông tin, chúng bao gồm các loại máy tính điện tử, các thiết bị tin học, các
chương trình phần mềm, các máy in và photocopy, các thiết bị ghi âm, ghi hình, …
(5) Các ngành công nghiệp chuyên về nghiên cứu, nhưng không đóng vai trò như là cơ
sở hạ tầng cho sản xuất thông tin hoặc đưa ra quyết định phức tạp như: ngành dược phẩm và
khám chữa bệnh, thiết kế thời trang, chế biến thực phẩm và một số ngành công nghiệp công
nghệ cao khác,...
(6) Các ngành công nghiệp không chuyên sâu về nghiên cứu, nhưng lại đóng vai trò như
là cơ sở hạ tầng để tạo ra thông tin và đưa ra quyết định phức tạp, chẳng hạn ngành sản xuất các
văn phòng phẩm là thuộc loại này, mặc dù đôi khi nó cũng đòi hỏi phải nghiên cứu tổ chức lực
lượng lao động và phát triển chất liệu mới. .
Hiện nay, các ngành công nghiệp thông tin được nói đến nhiều là: công nghiệp nội dung, công
nghiệp phần mềm và công nghiệp phần cứng. Có thể thấy rằng về cơ bản nó tương ứng thuộc về
các ngành công nghiệp (1), (2) và (4) theo phân loại ở trên.
Trong nền kinh tế thông tin, các ngành công nghiệp liên quan đến công nghệ thông tin và
truyền thông, tạo nội dung thông tin số hoá giữ vai trò chủ đạo. Với sự phát triển mạnh mẽ của
công nghệ thông tin và truyền thông, nhất là mạng Internet thế giới dường như được thu nhỏ lại.

Nhờ mạng Internet và các kỹ thuật tin học, các quốc gia trên thế giới sẽ dễ dàng liên kết, hợp tác
trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và vì thế toàn cầu hoá nhất là toàn cầu hoá về kinh tế sẽ
trở thành xu thế tất yếu và ngày càng phát triển.
7.Các chỉ tiêu hạt nhân đo lường nền kinh tế thông tin

11


Các nhà hoạch định chính sách ngày càng có nhu cầu về dữ liệu thực tế và những chỉ số đánh
giá về kinh tế thông tin. Trình độ phát triển kinh tế thông tin của mỗi quốc gia được thể hiện tập
trung và rõ nét qua trình độ phát triển và mức độ ứng dụng CNTT&TT trong quốc gia đó.
CNTT&TT đã trở thành nhân tố chủ yếu trong các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở quy mô
vùng, quốc gia cũng như toàn cầu. Việc xác định các chỉ tiêu CNTT&TT để đánh giá tình hình
phát triển kinh tế thông tin của một quốc gia là chủ đề của nhiều hội nghị quốc tế được tổ chức
trong nhiều năm. Các chỉ tiêu CNTT&TT hạt nhân được xác định bao gồm:
a. Nhóm chỉ tiêu cơ bản về CNTT&TT
- Số người sử dụng Internet: bao gồm những người sử dụng Internet ở những địa điểm công
cộng, ỏ cơ quan, ở các quán cà phê, gia đình…. Số lượng thuê bao Internet không cung cấp đầy
đủ thông tin về việc sử dụng Internet vì nhiều người sử dụng Internet cùng sử dụng chung một
số thuê bao, và thực tế có rất nhiều người sử dụng Internet ở những địa điểm công cộng, quán cà
phê, …
- Đường truyền băng thông rộng: là điều kiện tối cần thiết đối với kinh doanh điện tử, cho
phép các doanh nghiệp có các đường truyền thông đa mục đích. Nó đặc biệt cần thiết và hấp dẫn
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đường truyền băng thông rộng có vai trò quan trọng trong
việc phố biến và sử dụng CNTT&TT, đóng góp của CNTT&TT trong tăng trưởng kinh tế.
Đường truyền băng thông rộng được đo bằng số lượng những người thuê bao.
- Số máy tính điện tử: việc truy cập Internet có thể được thực hiện qua nhiều thiết bị khác
nhau, nhưng máy tính vẫn là thiết bị chủ yếu và quan trọng nhất. Máy tính là nhất thiết không
thể thiếu để phát triển kinh tế thông tin và nhất là để ứng dụng CNTT&TT trong các quá trình
sản xuất và kinh doanh điện tử. Việc đánh giá số lượng máy tính được thực hiện qua thống kê

các số lượng máy tính được bán ra.
- Số máy điện thoại di động: được đo bằng số người thuê bao trên /100 dân.
b. Nhóm chỉ ttêu về ứng dụng CNTT&TT trong các doanh nghiệp
- Thương mại điện tử (e-commerce)
12


- Ứng dụng CNTT&TT trong doanh nghiệp (hay e-business): Thuật ngữ e-business được sử
dụng để đánh giá việc ứng dụng CNTT&TT trong các doanh nghiệp theo các hoạt động sản xuất
kinh doanh và khác với thương mại điện tử, chẳng hạn: các ứng dụng nhằm thay đổi qui trình
sản xuất kinh doanh như quản lý việc cung ứng vật liệu và hàng tồn kho, giám sát thực hiện và
điều chỉnh kế hoạch, giành và giữ khách hàng, …
- Các giao dịch thương mại điện tử chỉ là một trong số những ứng dụng CNTT&TT trong
doanh nghiệp. Thương mại điện tử là một trong những loại ứng dụng mới đang nổi. Về bản
chất, đó là những ứng dụng CNTT&TT nhằm tăng hiệu quả các hoạt động giao tiếp giữa doanh
nghiệp với người dân và giữa các doanh nghiệp với nhau. Do thương mại điện tử được nhấn
mạnh và nói đến nhiều nên có thể đã gây sự hiểu lầm và làm sai lệch sự quan tâm triển khai
nhiều ứng dụng CNTT&TT khác không kém phần quan trọng trong các doanh nghiệp.
c. Nhóm chỉ tiêu về thẻ điện tử, tài chính thương mại và tài chính điện tử:
Đánh giá mức độ ứng dụng CNTT&TT trong các ngành tài chính, ngân hàng như chuyển
nhượng qua ngân hàng, chi trả và thanh toán, chứng từ nhờ thu và tín dụng chứng từ, cho vay
với tổ chức và hộ gia đình, kinh doanh thẻ, theo dõi cho vay và người vay, thông tin tín dụng
điện tử và các hoạt động khác,...
d. Nhóm chỉ tiêu về du lịch điện tử:
Chủ yếu đánh giá việc ứng dụng CNTT&TT trong việc giới thiệu hình ảnh quốc gia, tổ chức
các tour du lịch trực tuyến theo yêu cầu khách hàng và tiết kiệm chi phí cho các tour du lịch,...
II.Thực trạng phát triển kinh tế thông tin ở Việt Nam
1. Nhóm chỉ số CNTT&TT cơ bản về tình hình phát triển kinh tế thông tin
a. Số người sử dụng Internet


13


- Sự phát triển nền kinh tế thông tin của các quốc gia phụ thuộc nhiều vào trình độ khai thác,
ứng dụng Internet của cộng đồng người sử dụng, điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và
mức độ xã hội hoá các lĩnh vực trong cuộc sống trên mạng máy tính nói chung, nhất là Internet.

hình 1Độ tuổi của người sử dụng Internet so với tổng số dân
=> Trung bình mỗi người Việt Nam sử dụng 1,4 thuê bao di động.
Tổng quan về internet Việt Nam năm 2014

14


Hình 2 tỉ lệ người sử dụng internet
- Thống kê cho thấy Việt Nam đang có 41 triệu người dùng Internet, chiếm 44% tổng dân số
cả nước. Hiện nay, cũng có khoảng 28 triệu tài khoản mạng xã hội đang hoạt động tại Việt Nam.
Con số 41 triệu thể hiện mức tăng 10% trong số lượng người dùng Internet tại Việt Nam so với
cùng kỳ năm trước.
b. Đường truyền băng thông rộng và hạ tầng mạng Internet ở Việt Nam
- Việt Nam hiện đang dần được bao phủ dày đặc bởi internet băng thông rộng, khi tính đến hết
tháng 6, cả nước có 8,19 triệu thuê bao internet băng thông rộng cố định, gồm cả cáp đồng
(ADSL) và cáp quang (FTTx), tăng gấp đôi so với năm 2011. Độ phủ (số đường băng rộng/hộ
gia đình) đạt 37%, tức cứ 3 hộ gia đình thì có hơn một hộ sử dụng băng thông rộng cố định.
- Thị trường cáp quang bùng nổ từ tháng 4/201, cả nước mới có 210.000 thuê bao cáp quang
thì đến tháng 4/2016 con số này đã là 4,5 triệu, gấp 21 lần chỉ sau 3 năm
15


- Với sự ra đời của trạm trung chuyển quốc gia VNNIC, một lượng lớn các lưu lượng trao đổi

trong nước giữa các nhà cung cấp dịch vụ kết nối đã được lưu chuyển trong nước, làm giảm
thiểu băng thông kết nối quốc tế, tăng chất lượng của dịch vụ Internet trong nước.

hình 3 Mạng kết nối liên thông giữa các nhà cung cấp Internet Việt Nam.
c. Số máy tính điện tử, số điện thoại di động

16


hình 4 Các hãng pc lớn nhất tại việt nam
- Hiện 100% xã trên toàn quốc có máy điện thoại. Các hoạt động của người dùng di động bao
gồm: 24% dân số sử dụng các ứng dụng mạng xã hội, 22% người Việt Nam xem các video trên
điện thoại, 18% chơi game trên điện thoại, 16% tìm kiếm các nội dung dựa trên vị trí qua điện
thoại và 14% sử dụng dịch vụ mobile banking.

hình 5 Ứng dụng của mạng internet
2 Thực trạng cơ sở hạ tầng nước ta hiện nay đối với ngành công nghệ thông tin
Hiện nay, thế giới tiếp tục chuyển dịch sang kỷ nguyên thông minh của toàn cầu hóa và kinh
tế tri thức. Công nghệ thông tin đã, đang được ứng dụng rộng rãi vào mọi mặt đời sống xã hội,
trở thành một phần không thể thiếu đối trong hoạt động của mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Mạng
Internet trở thành hạ tầng thông tin thiết yếu kết nối toàn bộ thế giới lại với nhau.
Cùng với tiến trình ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin này, thông tin trên mạng đã trở
thành tài sản của mỗi cá nhân, tổ chức và cả quốc gia. Các doanh nghiệp sẽ không thể hoạt động
và phát triển nếu thông tin hoặc hệ thống thông tin của doanh nghiệp bị đánh cắp, bị phá hoại.
Các cơ quan nhà nước sẽ không thể phục vụ người dân nhanh chóng và thuận tiện nếu các trang,
cổng thông tin điện tử bị tấn công làm gián đoạn hoạt động. Cải cách hành chính, chính phủ
17


điện tử, thương mại điện tử và một loạt chương trình lớn của quốc gia sẽ không thể thực hiện

được nếu an toàn thông tin không được bảo đảm.Vì vậy,cơ sở hạ tầng phải được cải thiện từng
bước thay đổi để phục vụ cho nhu cầu phát triển của xã hội.
III.Quá trình phát triển của nền KTTT
1.KTTT thế giới
Từ 1996, Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế OECD công bố báo cáo về một nền kinh tế lấy
CNTT làm cơ sở. Thuật ngữ: “Kinh tế thông tin” đã nhanh chóng lan rộng khắp thế giới. Nhiều
nhà khoa học, đặc biệt là các nhà kinh tế cho rằng thuật ngữ “Kinh tế thông tin” đã khái quát
hoá được đặc trưng làm nổi bật được xu thế phát triển mới nhất của nền kinh tế thế giới. Tuy
nhiên, nhiều ý kiến lại cho rằng kinh tế thông tin đã được dự báo từ rất sớm. Vai trò của tri thức
về kinh tế tri thức không phải đến nay nhân loại mới nói tới mà nó được đề cập từ thời cổ Hy
Lạp, nhà triết gia cổ Hy Lạp Zeno đã đưa ra hình ảnh “Nếu 1 khách lữ hành một ngày chỉ đi
được một ½ đoạn đường của mình hướng tới thì vĩnh viễn không sao đạt được mục đích cuối
cùng”.
Có thể hiểu câu nói này như sau: nếu chỉ dựa vào đôi chân thì chẳng bao giờ tới đích lớn mà
đòi hỏi có bước đi bằng tri thức, cao hơn nữa tạo dựng con đường đi bằng trí tuệ. 350 năm sao
(1650) nhà tiến tri học tài năng của Anh Quốc, Uyliam Patter đã viết “Của cải mang tính tượng
trưng sẽ thay thế của cải vật chất”. Đây là đánh giá khá chuẩn xác mà nhân loại đang hướng tới.
Tiếp sau đó, nhà triết học, vật lý, tương lai học… ông tổ của chủ nghĩa duy vật nước Anh Bacon
(1561 – 1626) đã nói “Tri thức là sức mạnh mà thiếu nó con người không chiếm lĩnh được của
cải tự nhiên”.
Để thấy được bước phát triển như vũ bão của KHKT và kinh tế thế giới, chúng ta thử điểm
qua vài nét nổi bật trong khoảng vài thập niên lại đây ở Mỹ – một siêu cường kinh tế thế giới.
Vào 1970 các ông trùm kinh tế thế giới còn cho rằng công nghiệp nặng cần có xí nghiệp và điều
đó sẽ mãi mãi không thể thay đổi, đã thừa nhận “tri thức mới là chìa khoá để mở cổng bá quyền
kinh tế”.

18


Một trong những nhà tương lai học nổi tiếng thế giới thế kỷ 20 là học giả Mỹ Alvin Toffler,

ông đã bỏ ra 30 năm nghiên cứu và dự báo sự phát triển thế giới trong chu kỳ một đời người (từ
1980 – 2025). Năm 1970 ông cho ra mắt bạn đọc cuốn “cú sốc tương lai” (Future Shock) đến
1980, tiếp tục cho ra cuốn “Làn sóng thứ ba” (The Third Ware) và 10 năm sau, năm 1990 cho ra
cuốn thứ 3 có tên “Thăng trầm quyền lực” hay còn gọi là “tương lai thế giới”. Trong cuốn 1
ông trình bày quá trình biến đổi của công nghiệp đối với các tổ chức con người, dự báo hiệu quả
cuộc CM sinh hoá, cải cách giáo dục, khả năng kiềm chế, điều chỉnh sao cho có lợi. Cuốn thứ 2,
ông phân tích các hướng biến đổi mang tính KHKT, các đích đến, v.v…. Trong cuốn 3, ông nêu
vai trò then chốt của tri thức là tạo ra sự biến đổi toàn diện nền kinh tế thế giới. Ban đầu người
ta hồ nghi, nhưng cho đến nay dự đoán của ông đều trở thành hiện thực. Sách của ông bán chạy
nhất thế giới, các chuyên gia, chính trị gia, kinh tế học đều coi sách ông là cẩm nang – Ông cho
rằng: bạo lực – của cải – tri thức là 3 nhân tố có mối liên hệ mật thiết với nhau. Theo ông bạo
lực chỉ là phẩm chất thấp của quyền lực, của cải thuộc bậc trung còn tri thức mới là phẩm chất
cao nhất, nó chuyển hoá liên tục, tránh được lãng phí sức lực, tiền của. Tri thức dùng không bao
giờ mất và nhiều người cùng sử dụng trong một lúc trong khi 2 nhân tố kia thì không thể. Tác
giả đã phân tích các bước phát triển của nhân loại dưới góc độ mới. Từ 10 nghìn năm trước CM
nông nghiệp nổ ra, đến thế kỷ XVII là CM công nghiệp. Nhân loại đã tiến bước dài, từ thời cổ
đại đến thế kỷ thứ V, ai đọc được sách được coi là vĩ đại, đến thế kỷ 15, những thương gia là
những người đầu tiên được dạy làm toán, nhưng rồi điều này cũng trở thành phổ biến với mọi
người. Năm 1832 máy điện tín ra đời (cha đẻ là Samuel Morse). Năm 1836 Mỹ lắp đường dây
điện báo đầu tiên. Năm 1960 Mỹ trang bị máy điện toán cho các xí nghiệp. Như vậy, các bước
nhảy vọt về KH – CN ắt phải đến đó là thời đại máy làm việc với máy. Máy PC thay thế công
nhân, thay thế cả tiền vốn “Tư bản nhân lực thay cho tư bản tiền bạc”. Các XN lưu động thay
cho XN tích luỹ vốn và nhân lực lớn. Tri thức là tâm điểm tạo ra của cải và XN là nguồn lực của
tri thức.
Vị thế tiền bạc trong XH mới được đặt ra, từ chỗ phải “Sờ mó được” dần dà nó mang tính
tượng trưng và tiến tới chỉ là những ký hiệu mã hoá hiện trên màn hình máy tính. Quan hệ SX
thay đổi – tiền bạc được thông tin hoá và ngược lại thông tin được tiền bạc hoá. Người mua
hàng phải trả 2 lần tiền: tiền cho hàng hoá và tiền cho thông tin về hàng hoá, điều này không dễ
nhận ra. Thông tin biến đổi hệ thống phân phối, sáng tạo ra thứ “Quyền lực chân không”. Thông
19



tin đã làm khuynh đảo mọi biến động trong quá trình phát triển. Ngày nay, thông tin đã trở
thành nguồn tài nguyên, nguồn lực mới và ai nắm được thông tin, người đó sẽ làm chủ. Giữa
thông tin và tri thức có quan hệ rất gần nhau, đến 1 trình độ nào đó có thể thấy thông tin bắt
nguồn từ số liệu, tri thức bắt nguồn từ thông tin cũng có thể nói thông tin là cơ sở của tri thức
làm cho tri thức thăng hoa vượt lên trên thông tin, làm cho thông tin phát triển lên tầm cao mới.
Chính vì lẽ đó mà trên thế giới xuất hiện thuật ngữ CNTT, công nghệ tri thức, XH thông tin, xã
hội tri thức, thời đại thông tin và thời đại tri thức.
2. Nhận dạng nền kinh tế thông tin
Có nhiều định nghĩa về nền kinh tế thông tin. Song tựu trung lại, có thể nói đó là nền
kinh tế chủ yếu dựa vào thông tin. Các ngành SX dịch vụ sử dụng ngày càng nhiều công nghệ
cao bao gồm giáo dục, R&D, CNTT, các dịch vụ viễn thông đều là ngành kinh tế tri thức. Các
ngành công nghiệp truyền thống trong công nghiệp, nông nghiệp nếu được cải tạo sử dụng công
nghệ cao mà giá trị do công nghệ cao chiếm trên 2/3 tổng giá trị thì cũng trở thành ngành kinh
tế thông tin. Khi nền kinh tế phát triển dựa trên các ngành CNTT thì gọi là nền kinh tế thông tin.
3. Các đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế thông tin
Thứ nhất, là chuyển đổi cơ cấu kinh tế.

- Trong khi nền kinh tế công nghiệp dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt, quy chuẩn hoá,
thì nền kinh tế TT được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt hàng hoá và dịch vụ dựa
vào công nghệ cao. Đây cũng là kinh tế văn phòng (người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm
trong các nhà máy ít đi, người làm việc ở văn phòng nhiều lên). Hiện nay ở Mỹ 93 triệu
người lao động (80% lực lượng lao động) không phải giành thời gian để làm ra các vật
phẩm, mà họ chuyển sang làm các công việc khác như di chuyển các vật phẩm, xử lý
thông tin, cung cấp các dịch vụ cho người dân. Trong các nước OECD hiện nay 60 – 70%
lực lượng lao động là công nhân tri thức.

20



- Các công ty công nghệ ngày càng quan trọng. Tỷ lệ giá trị gia tăng công nghiệp công
nghệ cao trong công nghiệp chế tạo đang tăng nhanh. Hiện nay ở Mỹ và nhiều nước phát
triển tỷ lệ đó đã đạt khoảng 25 – 30%.
Thứ hai, là sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu
biểu nhất của nền kinh tế tri thức.

-

Các ngành kinh tế thông tin đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát triển.
Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên
sản xuất công nghệ, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không còn phân
biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công nhân tri
thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.

- Vì sản xuất công nghệ có ý nghĩa quyết định như thế nên người ta chạy đua vào đầu tư
mạo hiểm, tức đầu tư cho nghiên cứu triển khai nhằm tạo ra công nghệ mới. Năm 1998 ở
Mỹ đầu tư mạo hiểm cho phát triển internet hơn 3,5 tỷ USD, (năm 1997 là 2,1 tỷ, năm
1996 là 1,1 tỷ), và riêng quý II năm 1999 đã đầu tư 3,8 tỷ! Và đó là nguồn gốc của sự làm
giàu lên rất nhanh chóng của các doanh nghiệp tri thức.
Thứ ba, là việc ứng dụng CNTT rộng rãi trong mọi lãnh vực và thiết lập mạng thông tin đa
phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài
nguyên quan trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông tin và được truy nhập vào các kho
thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của CNTT để
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả. Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí
nghiệp ảo, làm việc từ xa… được thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất nhanh
nhạy, linh hoạt, khoảng cách bị xoá dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.
Thứ tư, là các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển.

- Trong cùng một lĩnh vực khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì công ty khác

phải tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không muốn bị phá sản.

21


- Gần đây ta thấy rất nhiều các công ty khổng lồ hàng chục, hàng trăm tỷ USD “mua”
nhau, trở thành những tập đoàn chi phối cả thế giới. Người ta lo ngại sự tập trung này dẫn
tới độc quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Mặt khác các công ty khổng lồ chia ra các công ty
con trên khắp thế giới, và các công ty được quyền chủ động nhiều hơn để có thể linh
hoạt, thích nghi với sự đổi mới. Cho nên mua bán để thành những công ty khổng lồ mà
thực tế thì lại là sự chia nhỏ.
Thứ năm, xã hội thông tin thúc đẩy sự dân chủ hoá.

-

Thông tin đến với mọi người, mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin cần
thiết. Do đó đặt ra vấn đề là phải dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong
xã hội. người dân nào cũng có thể được thông tin kịp thời về các quyết định của Nhà
nước, cơ quan Nhà nước, tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay nếu
thấy không phù hợp. Không thể bưng bít thông tin được.

- Cách tổ chức quản lý cũng sẽ thay đổi nhiều. Trong thời đại thông tin, mô hình chỉ huy
tập trung, có đẳng cấp là không phù hợp, mà phải theo mô hình phi đẳng cấp, phi tập
trung, mô hình mạng, trong đó tận dụng các quan hệ ngang, không cần đi qua các nút xử
lý trung gian. Đó là mô hình tổ chức dân chủ, nó linh hoạt trong điều hành, dễ thích nghi
với đổi mới, khơi dậy sự năng động sáng tạo của mọi người.
Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập. Giáo dục rát phát triển.

- Mọi người đều học tập, học thường xuyên, học ở trường và học trên mạng, để không
ngừng trao đổi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo. Không học tập thường xuyên thì không

phát triển được nền kinh tế thông tin.

- Đầu tư cho giáo dục và cho khoa học chiếm tỷ lệ rất cao. Nói chung đầu tư vô hình (cho
con người, cho giáo dục, khoa học, văn hoá xã hội…) cao hơn đầu tư hữu hình (đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của
xã hội.

- Vốn con người là yếu tố then chố nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức.
22


Thứ 7, vốn quý nhất trong nền kinh tế thông tin là thông tin. Thông tin là nguồn lực hàng đầu
tạo sự tăng trưởng không phải như các nguồn lực khác bị mất đi khi sử dụng, thông tin có thể
được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế thông tin do đó là một
nền kinh tế dư dật chứ không phải khan hiếm.
Thứ tám, sự đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển. Công nghệ
đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra đời, phát triển rồi tiêu vong
của một lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ trở nên rất ngắn. Có khi từ lúc ra đời đến tiêu
vong chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng.
Thứ chín, nền kinh tế thông tin là nền kinh tế toàn cầu hoá. Thị trường và sản phẩm mang tính
toàn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên
thế giới; rất ít sản phẩm do một nước làm ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các phần
việc được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ
xa…
Quá trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế thông tin, toàn cầu hoá và
kinh tế thông tin thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại. Toàn cầu hoá một mặt tạo thuận lợi cho sự phát triển nhanh kinh
tế thông tin ở các nước, nhưng đồng thời cũng đặt nhiều thách thức rủi ro. Cho tới nay thì
khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh, do chênh lệch nhiều về thông tin, nếu rút ngắn được
khoảng cáh về thông tin thì sẽ thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo.

Thứ mười, là sự thách thức về văn hoá. Trong nền kinh tế thông tin – xã hội thông tin, văn
hoá có điều kiện phát triển nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

- Do thông tin, tri thức bùng nổ, trình độ nền văn hoá nâng cao, nội dung và hình thức các
hoạt động văn hoá phong phú đa dạng. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện
cho các nền văn hoá của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro
rất lớn: Bị pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm Văn hoá độc hại tấn công phá
hoại, mà không có cách gì ngăn chặn được.

23


- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và cuộc cách mạng thông tin đang diễn ra
sâu rộng hiện nay đã mang lại nhiều biến đổi hết sức sâu sắc chưa từng có trong lịch sử
nhân loại,làm thay đổi mọi hoạt động trong các lĩnh vực khoa học,công nghệ,kinh tế - xã
hội,...và đưa nhân loại bước sang một chuyển biến mới ở ngưỡng cửa thế kỉ XXI. Khoa
học công nghệ (tri thức nhân loại) đã trải qua 3 giai đoạn phát triển : giai đoạn của nền
sản xuất nông nghiệp thủ công, giai đoạn của nền sản xuất cơ khí và đại cơ khí (xã hội
công nghiệp) và giai đoạn của nền kinh tế thị trường trong xã hội thông tin (giai đoạn
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại). Đặc biệt giai đoạn đưa cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại đưa đến sự bùng nổ công nghệ cao, đáp ứng những đòi hỏi bức
thiết phát triển khoa học công nghệ,khẳng định vai trò động lực quan trọng của tri thức
đối với sự phát triển của xã hội. Đồng thời nền kinh tế tri thức tác động mạnh mẽ sâu sắc
đến kinh tế thế giới và xã hội loài người, tạo sự phát triển nhảy vọt trong phát triển lưc
lượng sản xuất. Nền kinh tế thế giới từ đây bước sang một giai đoạn mới : tri thức và
thông tin trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển của sản xuất, khoa học và
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và khoa học kĩ thuật là điều kiện nâng
cao năng suất, hiệu quả của nền sản xuất xã hội trong đó thông tin khoa học công nghệ
được coi là yếu tố cực kì quan trọng của tiền lực khoa học kĩ thuật.
Từ giữa thế kỉ XX, nền sản xuất công nghiệp và kinh tế hàng hóa phát triển mạnh mẽ, nhu cầu

thông tin và xử lý thông tin mới nảy sinh nhanh chóng. Sản xuất đòi hỏi thông tin : nhu cầu, giá
cả và kĩ thuật đáp ứng kịp thời, do đó vai trò của thông tin ngày càng quan trọng. Vì thế thông
tin là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động kinh tế và sản xuất bởi :

- Nhu cầu của khách hàng luôn thay đổi liên tục.
- Khuynh hướng thị trường ngày càng mở rộng.
- Các vật liệu sản xuất mới đang xuất hiện.
- Các thiết bị mới với khả năng kĩ thuật cao thay đổi liên tục.
- Các công nghệ mới được triển khai áp dụng thường xuyên.
24


Công nghệ thông tin là một ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ, tạo ra nhiều việc làm mới
và làm thay đổi đáng kể nhiều ngành công nghiệp hiện có. Trong xã hội thông tin,thông tin là
yếu tố làm tăng giá trị và tăng hiệu quả sản xuất ,có giá trị trao đổi và trở thành hàng hóa. Giá trị
của thông tin được đặc trưng bởi lợi ích kinh tế có được do sử dụng thông tin dưới mọi dạng
dịch vụ cung cấp nội dung có thể truy cập : thư viện,viện bảo tàng,...
Khu vực thông tin đang trở thành một yếu tố xuất khẩu quan trọng. Trong nền kinh tế thông
tin ,thông tin và hàng loạt những dịch vụ liên quan tới nó có thể trở lên xuất khẩu và nhập khẩu
được. Nhờ khả năng hỗ trợ đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm, nền kinh tế thông tin
đang trở thành một thành phần quan trọng nhất và đồng thời là động lực hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu hóa. Trong xã hội thông tin,các mạng máy tính, các công nghệ truyền thông và viễn
thông là những yếu tố chủ chốt có tính chiến lược bởi vì thông qua chúng, nguồn nhân lực có kĩ
năng sẽ tiến hành quá trình sản xuất thông tin và trao đổi các nguồn thông tin khoa học công
nghệ và kiến thức hiện được coi là nguồn lực trọng yếu đối với nền kinh tế quốc gia và quốc tế.
4.Kinh tế thông tin ở Việt Nam
a.Cơ hội và thách thức của Việt Nam
Sự hình thành và phát triển nền kinh tế thông tin là xu thế tất yếu khách quan của xã hội loài
người. Trước bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và ngày càng nhanh chóng như hiện nay, quốc
gia nào đi nhanh vào nền kinh tế thông tin, quốc gia đó sẽ có lợi thế trên mọi mặt. Thông qua

quan điểm và những phân tích, đánh giá của mình, tác giả khẳng định: “Kinh tế thông tin là thời
cơ lớn và thách thức gay gắt đối với nước ta. Chần chừ, chậm chạp trên đường mòn cũ, không
kiên quyết, mạnh dạn đổi mới, để bỏ lỡ cơ hội này, đất nước sẽ tụt hậu xa hơn nữa, và không
tránh khỏi sự lệ thuộc”.
b.Đánh giá thực trạng nền kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn kinh tế thông tin
- Kinh tế Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận qua gần 30 năm đổi mới, bắt
đầu từ Đại hội VI của Đảng. Đổi mới được ghi nhận như là một đột phá tư duy ngoạn mục
chuyển sang kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, mở ra hướng đi mới cho nền kinh tế Việt Nam
25


×