Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiến thành phố Hà Nội (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (524.21 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

K

NGUYỄN THỊ NGỌC LINH

TỘI HIẾP DÂM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM TỪ THỰC TIẾN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số

: 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH

Phản biện 1:
Phản biện 2:

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học xã hội



hồi

giờ

ngày tháng năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng từ năm 1986 đến nay, hơn
30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ta đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội: kinh tế không ngừng tăng trưởng, an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được đảm bảo, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao, vị
thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng được củng cố.
Tội hiếp dâm là hành vi xâm phạm đến danh dự nhân phẩm
của con người, đến giá trị đạo đức thiêng liêng, cao quý mà Pháp luật
bảo vệ. Điều 20 Hiến Pháp 2013 khẳng định: “Công dân có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm”. Bảo vệ danh dự, nhân phẩm, tính
mạng, sức khỏe của con người, của công dân là nhiệm vụ của xã hội.
Nhưng, thực tế cho thấy, bên cạnh những người có ý thức tôn trọng
danh dự nhân phẩm của người khác thì vẫn còn một số cá nhân cố ý
xem thường pháp luật, thực hiện những hành vi sai trái, chà đạp danh
dự nhân phẩm của người khác. Vì thế, việc đấu tranh chống loại tội
phạm này ngày càng được các cấp, các ngành, nhất là các ngành tư

pháp trên địa bàn thành phố Hà Nội quan tâm và đạt được những kết
quả nhất định, song vẫn không tránh khỏi những khó khăn khi áp
dụng pháp luật xử lý tội phạm này. Việc khởi tố, điều tra, truy tố và
xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn hạn chế, thiếu sót,
ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung,
tội hiếp dâm nói riêng. Nguyên nhân của những hạn chế thiếu sót này
có cả nguyên nhân xuất phát từ quy định của pháp luật, có cả nguyên

1


nhân từ thực tiễn áp dụng pháp luật xử lý tội phạm. Thực trạng này
đòi hỏi cần tiếp tục nghiên cứu để có giải pháp hoàn thiện pháp luận
và đảm bảo áp dụng đúng dắn pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử
tội phạm này, đám ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm nói
chung, tội hiếp dâm nói riêng, nhất là sau khi BLHS năm 2015 (sửa
đổi bổ sung năm 2017) có hiệu lực thi hành. Với lý do trên, tác giả
lựa chọn đề tài: “Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiến thành phố Hà Nội” để nghiên cứu làm luận văn tốt nghiệp
với mong muốn được góp phần hoàn thiện những quy định của pháp
luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật đấu tranh phòng
chống loại tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội hiếp dâm là tội được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở
nhiều cấp độ khác nhau vì đây là tội gây nguy hại cao cho xã hội, nó
xâm hại trực tiếp đến quyền con người là khách thể được pháp luật
hình sự đặc biệt bảo vệ. Vì vậy cho tới nay đã có nhiều công trình
khoa học đã được công bố về chủ đề này .Ở cấp độ luận văn thì có:
“Các tội phạm tình dục và đấu tranh chống các tội này ở Việt Nam”
Trịnh Thị Thu Hương, Luận văn thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2004;

“Đấu tranh phòng chống tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh” Nguyễn Minh Nhật, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại
học Luật Hồ Chí Minh – 2008;“Đấu tranh phòng, chống tội hiếp
dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng” Phan Thị Ngoan, Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện Khoa học Xã hội – 2013; “Các tội hiếp dâm theo
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam” Cao Hữu Sáng, Luận văn
thạc sĩ luật học, Hà Nội – 2015,v.v...

2


Mặc dù có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học về
tội hiếp dâm nhưng do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu nên
chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về: “Tội hiếp dâm theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Chính vì
vậy, đề tài này là một đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp
độ luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu làm rõ những vấn
đề về lý luận, các quy định của pháp luật liên quan đến tội hiếp dâm,
và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự nhất là thực tiễn định tội danh
và quyết định hình phạt khi xét xử tội hiếp dâm để tìm ra những hạn
chế, thiếu sót từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội
phạm này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội hiếp dâm.
Thứ hai, bình luận các quy định về tội hiếp dâm trong Bộ luật

hình sự hiện hành của Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy
định về tội hiếp dâm, chỉ ra những tồn tại, hạn chế thiếu sót xung
quanh việc áp dụng pháp luật và những nguyên nhân hạn chế của nó.
Thứ ba: Đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định về tội
hiếp dâm trong Bộ luật hình sự năm 2015 cũng như những giải pháp
để nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn xét xử tội phạm này.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề về lý luận qui định của pháp luật về tội hiếp
dâm và thực tiễn áp dung trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu tội hiếp dâm theo quy định tại Điều
111 của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội trong phạm vi
chuyên nghành Luật hình sự. Các số liệu nghiên cứu được dùng trong
luận văn chủ yếu là các số liệu thống kê tại Công An, Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trong thời gian 5
năm từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp của
triết học Mác – Lê nin; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
tội phạm và hình phạt, các tri thức của khoa học luật hình sự, tội
phạm học, tâm lý học và khoa học điều tra tội phạm
5.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể

để làm rõ đối tượng nghiên cứu như: Phương pháp phân tích,tổng
hợp, diễn dịch, quy nạp, thống kê so sánh đối chiếu, tổng kết kinh
nghiệm, đánh giá.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu về tội
hiếp dâm cả phương diện lý luận và thực tiễn. Do vậy:

4


* Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ
sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chuyên ngành luật hình
sự về một tội danh cụ thể - tội hiếp dâm.
* Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
tham khảo hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm
và nâng hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học
tập tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật hình sự
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử lập pháp về tội hiếp dâm.
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội hiếp dâm
và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội.
Chương 3: Điều kiện và giải pháp đảm bảo hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt đúng đối với tội hiếp dâm.

5



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH
SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM
1.1 Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm
1.1.1 Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì: “Hiếp dâm là dùng sức mạnh
buộc phụ nữ cho thỏa mãn dâm dục”. Theo từ điển bách khoa Công an
nhân Việt Nam thì hành vi hiếp dâm được hiểu là: “ Dùng sức mạnh
cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình”.
1.1.1.2 Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm
Xét về mặt cấu trúc, tội hiếp dâm được cấu thành bởi bốn yếu
tố, đó là: mặt khách quan, khách thể, mặt chủ quan, chủ thể. Nghiên
cứu bốn yếu tố này của tội hiếp dâm giúp làm sáng tỏ bản chất pháp
lý của loại tội này, cho phép xác định tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng thời cho phép phân biệt giữa
tội phạm này và tội phạm khác. Từ đó làm cơ sở pháp lý cho việc
định tội và truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như làm tiền đề cho
việc áp dụng hình phạt.
* Khách thể của tội phạm
Trong tội hiếp dâm được quy định tại Điều 11 BLHS thì đối
tượng tác động của tội phạm chính là con người. Mặc dù, BLHS
không quy định cụ thể về giới tính của đối tượng bị xâm hại nhưng
theo định kiến cho rằng: trong hành vi giao cấu giữa nam với nữ với
vai trò chủ động và chi phối thuộc về nam giới với cấu tạo sinh học
riêng mới có thể thực hiện được hành vi giao cấu với nữ giới mà

6



không cần sự tự nguyện của nữ giới. Về lý luận cũng như thực tiễn,
trong một số trường hợp đặc biệt, nữ giới vẫn có thể thực hiện hành
vi giao cấu trái ý muốn của nam giới. Ví như trường hợp nữ giới lợi
dụng đối tượng (nam giới) đang ở trrong tình trạng không có khả
năng biểu lộ ý muốn đúng đắn (như chịu tác động ở mức độ cao của
thuốc kích dục) và thực hiện hành vi giao cấu với họ. Hành vi này có
thể được xem là hành vi giao cấu trái với ý muốn của đối tượng (là
bản chất của hiếp dâm). Do đó, phụ nữ có thể trở thành chủ thể của
tội hiếp dâm.
* Mặt khách quan của tội phạm:
- Dấu hiệu thứ nhất, người phạm tội có thể có một trong các
hành vi sau: Hành vi dùng vũ lực, hành vi đe dọa dùng vũ lực, lợi
dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, thủ đoạn khác
giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân.
- Dấu hiệu thứ hai, người phạm tội có hành vi giao cấu với nạn
nhân trái ý muốn của họ. Tội phạm hoàn thành khi có hành vi giao
cấu với nạn nhân.
* Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội hiếp dâm theo quy định của luật hình sự hiện
hành thì chỉ có thể là con người cụ thể đang sống, bởi chỉ khi đó, họ
mới nguy hiểm cho xã hội. Và không phải bất kì ai cũng có thể là chủ
thể của tội hiếp dâm khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà
chỉ những người có đủ điều kiện sau mới có thể trở thành chủ thể của
tội hiếp dâm, đó là: một người cụ thể đang sống thực hiện hành vi
được mô tả trong Điều 111 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm
2009) và là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt đến một độ
tuổi theo luật định.

7



* Mặt chủ quan của tội phạm
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, do vậy có sự
thống nhất giữa mặt bên trong và mặt bên ngoài. Hoạt động phạm tội
là một dạng hoạt động có ý thức nên tội phạm cũng bao gồm mặt bên
trong và mặt bên ngoài. Hai mặt này luôn thống nhất với nhau. Mặt
bên trong của tội phạm không thể thấy được nếu nó không thể hiện ra
bên ngoài bằng hành vi nguy hiểm cho xã hội, bằng hậu quả tác hại,
bằng thời gian, địa điểm, phương pháp, phương tiện, công cụ thực
hiện tội phạm. Mặt bên trong của tội phạm là trạng thái tâm lý, ý thức
của người phạm tội, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm.
1.1.2 Phân biệt tội hiếp dâm với các tội xâm phạm tình dục khác
1.1.2.1 Phân biệt tội hiếp dâm với tội cưỡng dâm
Trong các tội danh được áp dụng cho loại tội phạm này, tội
hiếp dâm và cưỡng dâm khiến nhiều người khó hiểu về hành vi để
phân biệt. Tội hiếp dâm được quy định tại Điều 111 BLHS, tội cưỡng
dâm được quy định tại Điều 113 BLHS.
So với tội cưỡng dâm, hành vi khách quan của tội hiếp dâm
nguy hiểm hơn so với hành vi khách quan của tội cưỡng dâm. Tuy
đều là lỗi cố ý trực tiếp nhưng hành vi của tội hiếp dâm mãnh liệt hơn
so với tội cưỡng dâm, ngoài việc xâm phạm về tình dục, hành vi hiếp
dâm là hai năm tù, cao hơn so với tội cưỡng dâm là sáng tháng tù.
1.1.2.2 Phân biệt tội hiếp dâm với tội dâm ô với trẻ em và tội giao
cấu với trẻ em
1.2 Khái quát lịch sử lập pháp hình sự quy định về tội hiếp dâm
đến trước khi ban hành BLHS năm 1999
1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến trước 1985

8



Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các tòa án vẫn xử
theo Luật hình cũ được tạm thời giữ lại. Tuy nhiên, sau chiến thắng
Điện Biên Phủ (năm 1954) miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến
chống đé quốc Mỹ. Do đó, những điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội ở miền Bắc đã có những thay đổi căn bản, các luật lệ của
chế độ cũ không còn phù hợp.
Trong các báo cáo tổng kết các năm sau 1961 đến 1966,
TANDTC một mặt rút kinh nghiệm việc xử lý tội hiếp dâm, mặt khác
hướng dẫn việc xử lý một số hình thức phạm tội mới mà luật cũ chưa
hề quy định như tội cưỡng dâm, tội dâm ô,...Để các quy định của
pháp luật được đầy đủ và toàn diện hơn đồng thời giúp cho việc xét
xử trên thực tiễn được dễ dàng và thuận lợi. Năm 1967, dựa trên cơ
sở kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn xét xử, TANDTC đã thông qua
Bản tổng kết số 329/HS2 ngày 11/05/1967 và hướng dẫn đường lối
xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về tình dục, đề cập 1 cách
toàn diện 4 hình thức phạm tội:
- Hiếp dâm (bao gồm cả hiếp dâm trẻ em)
- Cưỡng dâm
- Giao cấu với người dưới 16 tuổi
- Dâm ô (trái với ý muốn và không có giao cấu)
Văn bản này đã chính thức thay thế chỉ thị số 1024 năm 1960
và các đoạn trong các báo cáo tổng kết hàng năm từ năm 1961 đến
năm 1966, về vấn đề này
1.2.2 Giai đoạn từ năm 1985 đến trước 1999
Bộ Luật Hình sự năm 1985 là Bộ luật hình sự đầu tiên của Nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nếu pháp luật hình sự thời

9



kỳ trước đó là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn
hành, thì việc pháp điển hóa về hình sự lần này đánh dấu bước tiến bộ
vượt bậc về kỹ thuật lập pháp ở nước ta. Tội hiếp dâm đã được quy định
tương đối rõ ràng, đầy đủ tại Điều 112 BLHS năm 1985
Có thể nói BLHS năm 1985 là một bước ngoặt đáng kể trong
lịch sử lập pháp nước ta. Với BLHS năm 1985 lần đầu tiên kể từ khi
tuyên ngôn độc lập, nước ta có một văn bản pháp luật hình sự thống
nhất, không nằm rải rác trong nhiều văn bản như trước đây nữa. Qua
các lần sửa đổi bổ sung, các quy định về tội hiếp dâm ngày càng
được pháp luật quan tâm nhất là đối với đối tượng nạn nhân là trẻ em.
Về hình thức so với trước đó, tội hiếp dâm đã được tách ra thành hai
tội: tội hiếp dâm và tội hiếp dâm trẻ em. Cụ thể hóa hơn cách phân
loại tội phạm. Về mặt nội dung, thể hiện rõ ràng hơn cấu thành tội
phạm của tội xâm hại đến tình dục mà đối tượng bị xâm hại là trẻ em.

10


Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quy định pháp luật hình sự hiện hành về tội hiếp dâm
2.1.1 Mặt tích cực của pháp luật hình sự hiện hành về tội hiếp dâm
BLHS năm 1999 được Quốc hội Khóa X thông qua tại Kỳ họp
thứ 6 ngày 21/12/1999 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2000 thay thế
BLHS năm 1985. BLHS năm 1999 được xây dựng dựa trên cơ sở sửa
đổi, bổ sung tương đối toàn diện BLHS năm 1985 nhưng có kế thừa
những nội dung hợp lý, tích cực của Bộ luật này qua bốn lần sửa đổi

trước đó.
Thứ nhất, về tội phạm, Điều 111 BLHS năm 1999 quy định
hành vi khách quan của tội hiếp dâm đầy đủ và cụ thể hơn. Nếu như
Điều 112 BLHS năm 1985 chỉ quy định “Người nào dùng vũ lực hoặc
thủ đoạn khác giao cấu...” thì Điều 111 BLHS năm 1999 quy định:
“Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng
không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu”.
Thứ hai, về hình phạt, Điều 111 BLHS năm 1999 quy định 4
khung hình phạt, còn Điều 112 BLHS năm 1985 quy định 5 khung
hình phạt. Đồng thời, với một số trường hợp hiếp dâm, khung hình
phạt có thể áp dụng là khác nhau ở các điều luật này (như trường hợp
hiếp dâm làm nạn nhân chết hoặc tự sát,...).
2.1.2 Những hạn chế bất cập của pháp luật hình sự hiện hành về
tội hiếp dâm
Thứ nhất, vấn đề giao cấu với người chết

11


Như vậy, với những trường hợp “hiếp dâm xác chết”, để kết
luận tội xâm phạm thi thể người khác thay vì tội hiếp dâm, cần thỏa
mãn những điều kiện sau:
+ Việc dùng vũ lực không có mục đích nhằm giao cấu với nạn nhân
+ Thời điểm thực hiện hành vi giao cấu là khi nạn nhân đã chết.
Như vậy, việc giám định để xác định thời điểm chết của nạn
nhân và thời điểm giao cấu là rất quan trọng. Đây là một trong những
yếu tố góp phần xác định tội danh cho phù hợp với thực tiễn khách
quan và phù hợp với khoa học hình sự.
Thứ hai, vấn đề dùng vũ lực giao cấu với người phẫu thuật
chuyển đổi giới tính.

Ý kiến thứ nhất: không cần phức tạp hóa vấn đề này mà nên
quy về yếu tố cơ bản nhất của tội phạm. Trước hết, tội hiếp dâm có
cấu thành hình thức, tức chỉ cần dùng vũ lực xé quần áo với ý định ép
người khác quan hệ tình dục trái ý muốn nhưng bị ngăn chặn kịp thời
cũng đã phạm tội rồi.
Ý kiến thứ hai: nạn nhân của tội hiếp dâm không nhất thiết
phải là nữ. Điều 111 BLHS năm 1999 về tội hiếp dâm quy định
“dùng vũ lực giao cấu với người khác trái ý muốn” tức xâm phạm
đến quyền tự do tình dục của người khác là phạm tội hiếp dâm.
Chúng ta nên hiểu “người khác” ở đây không hẳn bắt buộc là phụ nữ
mà có thể là người chuyển đổi giới tính. Hiện ngoài những bình luận
khoa học thì chưa có một văn bản pháp quy chính thức nào giải thích
cặn kẽ những trường hợp tương tự nhưng thực thế chúng ta phải vận
dụng sáng tạo sao cho hợp lý nhất.
Ý kiến thứ ba: theo nguyên tắc và cách hiểu thông thường hiện
nay thì nạn nhân trong các vụ án hiếp dâm phải là phụ nữ. Khách thể

12


bị xâm hại trong một vụ án hiếp dâm là quyền tự do bất khả xâm
phạm về tình dục đối với phụ nữ.
Thứ ba, vấn đề xác định tình tiết phạm tội nhiều lần
Theo quan điểm của tác giả, phạm tội nhiều lần là người phạm
tội đã thực hiện hành vi hiếp dâm từ hai lần trở lên, trong đó mỗi lần
đều thỏa mãn cấu thành tội phạm và chưa bao giờ bị đưa ra xét xử.
Còn trường hợp người phạm tội trong một lần đã dùng vũ lực, đe dọa
dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân
hoặc thủ đoạn khác giao cấu nhiều lần trái ý muốn của nạn nhân (thời
gian các lần giao cấu là ngay sát nhau) thì không áp dụng tình tiết

phạm tội nhiều lần.
2.2 Quy định của Bộ luật hình sự năm 2016 (sửa đổi bổ sung năm
2017) về tội hiếp dâm
BLHS 2015 đã mở rộng hành vi khách quan của tội hiếp dâm,
khách thể của tội hiếp dâm theo Điều 141 BLHS năm 2015 được hiểu
là quyền bất khả xâm phạm về tình dục của con người với đối tượng
tác động là cả nam và nữ.
Trong BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Tội hiếp dâm
được quy định tại Điều 141. So với Điều 111 BLHS năm 2009 thì có
những sửa đổi, bổ sung sau đây:
- Khách thể của tội hiếp dâm cần hiểu chung là quyền tự do về
tình dục của con người (bao gồm cả nam giới và nữ giới). Chính vì
vậy, để bảo vệ quyền này của con người thì phải coi khách thể của tội
hiếp dâm là quyền tự do về tình dục và nam giới cũng có thể là đối
tượng tác động của tội phạm này
- Chủ thể của tội hiếp dâm có thể là nam giới và nữ giới bởi xử
lý cả các hành vi quan hệ tình dục khác, đây là các hành vi không bị

13


trói buộc bởi quan điểm về hành vi giao cấu thông thường giữa nữ
giới và nam giới.
- “Giao cấu” không còn là hành vi duy nhất để tội phạm thực
hiện tội hiếp dâm. Điều 141 BLHS 2015 còn bổ sung thêm hành vi
“quan hệ tình dục khác” các hành vi quan hệ tình dục khác.
- BLHS năm 2015 quy định rõ đối với tội hiếp dâm gây rối
loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân như sau:
+ Thêm trường hợp bị phạt tù từ 07 năm đến 15 là trường hợp
gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ

thể từ 31% đến 60%.
+ Thêm trường hợp bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù
chung thân là trường hợp gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe
hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên
2.3 Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự hiện
hành về tội hiếp dâm tại thành phố Hà Nội.
Áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự về tội hiếp dâm là
một quá trình phức tạp được tiến hành qua những giai đoạn nhất định
và bao gồm nhiều hoạt động khác nhau. Nhưng trong khuôn khổ của
một luận văn thạc sĩ, người nghiên cứu chỉ tập trung đánh giá hai
hoạt động cơ bản đó là hoạt động định tội danh và quyết định hình
phạt đối với tội hiếp dâm.
Định tội danh và quyết định hình phạt trong giai đoạn xét xử là
hoạt động của Tòa án với tư cách là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
xét xử để chuyển hóa quy định về tội phạm và hình phạt của BLHS
vào thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm. Điều này cho thấy,

14


định tội danh và quyết định hình phạt mang bản chất là hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự
2.3.1 Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với
tội hiếp dâm trên địa bàn thành phố Hà Nội
Theo thống kê của TAND thành phố Hà Nội thấy rằng, trong 5
năm (2012 – 2016) các Tòa án quận, huyện và thành phố Hà Nội đã
giải quyết theo trình tự sơ thẩm 52 vụ với 83 bị cáo về tội hiếp dâm
trong tổng số 61 vụ với 96 bị cáo đã thụ lý để giải quyết, đạt tỷ lệ
85,24% về số vụ và 86,45% về số bị cáo. Như vậy, tính trung bình

mỗi năm Tòa án các cấp của toàn thành phố đã giải quyết 12,2 vụ với
19,2 bị cáo về tội hiếp hâm (Xem phụ lục – Bảng 2.1)
Đối với những bị cáo phạm tội hiếp dâm bị đưa ra xét xử sơ
thẩm, hình phạt được Tòa án quyết định áp dụng như sau:
- Hình phạt chính: Hình phạt chính được Tòa quyết định áp
dụng đối với bị cáo phạm tội cướp giật tài sản bao gồm: Án treo 1/62
bị cáo (chiếm tỷ lệ 1,61%); phạt tù từ 3 năm trở xuống: 19/62 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 30,64%); phạt tù trên 3 năm đến 7 năm: 38/62 bị cáo
(chiếm tỷ lệ 61,29%); phạt tù trên 7 năm đến 15 năm: 3/62 bị cáo
(chiếm tỷ lệ: 4,83%); phạt tù trên 15 năm: 1/62 bị cáo (chiếm tỷ lệ
1,61%); (Xem phụ lục bảng 2.2). Qua đây thấy rằng, hình phạt chính
được áp dụng đối với bị cáo phạm tội hiếp dâm chủ yếu là hình phạt
tù có thời hạn, chỉ có 01 bị cáo bị áp dụng hình án treo không giam
giữ và không có bị cáo nào bị áp dụng hình phạt tù chung thân.
- Hình phạt bổ sung: Hình phạt bổ sung được áp dụng đối với
các bị cáo phạm tội hiếp dâm là bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

15


Cụ thể là trong tổn số 62 bị cáo có 5 bị cáo áp dụng hình phạt bổ
sung chiếm 8,06% (Xem phụ lục – Bảng 2.2)
Những số liệu trên đây mang nhiều ý nghĩa về mặt định lượng,
nhưng đã phản ánh một chừng mực nào đó chất lượng xét xử nói
chung, định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm. Rõ
rằng là một tỷ lệ cao các vụ án được xét xử so với các vụ án được thụ
lý giải quyết đã cho thấy những nỗ lực lớn của Tòa án thành phố
trong việ giải quyết nhanh chóng các vụ án về tội hiếp dâm, khắc
phục tình trạng tồn đọng án, đáp ứng yêu cầu đấu tranh, phòng chống

tội phạm này trên địa bàn thành phố.
Tuy nhiên, không thể dừng lại một cách đơn gian ở con số
những vụ án đã được xét xử bởi nó không thể phản ánh được đầy đủ
chất lượng xét xử trong đó có hoạt động định tội danh cũng như
quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
2.3.2 Những mặt hạn chế, thiếu sót trong hoạt động định tội danh
và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
2.3.2.1 Những mặt hạn chế, thiếu sót trong hoạt động định tội danh
* Những hạn chế trong xác định đặc điểm giới tính của chủ thể và
đối tượng tội hiếp dâm
Trong thực tiễn thì người nữ giới hoàn toàn có thể thực hiện
hành vi giao cấu trái ý muốn của người nam giới bằng một số thủ
đoạn đã được nêu trong Điều 111 BLHS như thủ đoạn: “lợi dụng tình
trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ đúng đắn ý chí của mình” hoặc
“dùng thủ đoạn khác” để giao cấu trái với ý muốn của nam giới.
Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam hiện hành không công nhận
chuyển đổi giới tính, song thực vẫn diễn ra sự chuyển đổi giới tính
(từ nam sang nữ hay từ nữ sang nam) trái phép. Nếu mãi tư duy duy

16


theo lối mòn cũ – chỉ có nam mới là chủ thể của tội hiếp dâm thì vô
hình chung Nhà nước không đảm bảo được nhân phẩm, danh dự cho
nam giới hay đúng hơn Nhà nước không công nhận nam giới có nhân
phẩm và danh dự.
* Những hạn chế trong xác định ý thức chủ quan của người phạm tội
đối với nạn nhân là nữ giới chưa thành niên (từ đủ 16 tuổi đến dưới
18 tuổi)
Hiện nay có quan điểm khác chưa thống nhất về cách quy buộc

ý thức chủ quan trong trường hợp này, bởi vì trên thực tế, với sự phát
triển của xã hội hiện nay, trẻ em tuy còn nhỏ nhưng hay có những
hành vi bắt chước người lớn hoặc tò mò về giới tính nhưng lại không
được hướng dẫn đúng cách. Một số trường hợp nạn nhân nói sai độ
tuổi hoặc cố ý nói sai để người phạm tội có cơ hội thực hiện hành vi
giao cấu. Trong trường hợp này, việc xác định tội danh vẫn còn nhiều
quan điểm nên thực tiễn các cơ quan tiến hành tố tụng có khi không
thống nhất về tội danh đối với người phạm tội.
* Những hạn chế trong xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự và
độ tuổi của nạn nhân
Hậu quả của các vụ án hiếp dâm là khôn lường, không thể đo
lường cho yếu tố tổn thất về tinh thân, thế nên việc một tội phạm tuổi
chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự phạm tội này một cách
nghiêm trọng mà không phải chịu một chế tài tương xứng với hành vi
phạm tội thì có bảo đảm được tính nghiêm minnh tối thượng của luật
pháp hính sự? Thực tiễn công tác xét xử đã cho thấy một số bị can phạm
tội nhiều lần những do chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không
bị khởi tối xử lý mà chỉ đưa về địa phương giáo dục, quản lý.
2.3.2.2 Những mặt hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạt

17


* Những hạn chế trong việc áp dụng hình phạt bổ sung
Trong thực tiễn xét xử, các Tòa án cũng ít quan tâm chú ý đến
loạt hình phạt bổ sung, do chỉ chú trọng hình phạt chính và cho rằng
tuyên phạt tù là đủ tác dụng răn đe giáo dục, mặt khác, do ít quan tâm
xem xét đến khả năng chấp hành các hình phạt bổ sung. Vì vậy, khi
nhận định các tình tiết của vụ án cũng không đề cập đến việc có cần
thiết hay không cần thiết áp dụng loại hình phạt này để tuyên. Hình

phạt bổ sung của tội hiếp dam được quy định tại Khoản 5 Điều 111
BLHS: “Cấm đảm nhiệm chức vụ,cấm hành nghề hoặc làm công việc
nhất định từ một năm đến năm năm”. Đây là quy phạm pháp luật tùy
nghi, vì vậy việc Tòa án áp dụng hay không áp dụng cũng không đặt
ra chế tài hay trách nhiệm cho nên Tòa án ít quan tâm áp dụng, làm
giảm hiệu quả đấu tranh phòng ngừa tội phạm.
* Những hạn chế trong việc áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
Thực tiễn xét xử tội Hiếp dâm cho thấy có rất nhiều trường
hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ và cả tình tiết tăng
nặng trách nhiệm hình sự, nhưng do không có hướng dẫn cụ thể nên
khi quyết định mức hình phạt cụ thể đối với bị cáo, Hội đồng xét xử
thường chỉ cân nhắc đến tình tiết giảm nhẹ mà bỏ qua tình tiết tăng
nặng TNHH nếu thấy có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn tình tiết tăng
nặng nhăm mục đích xem xét theo hướng có lợi cho bị cáo. Hoặc có
trường hợp, do cân nhắc đến tình tiết tăng nặng là tình tiết định
khung hình phạt, không cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ mà người
phạm tội đáng được xem xét.
*Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

18


Một là, do hạn chế về trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ, ý thức trách nhiệm của một số Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
của ngành Tòa án thành phố.
Hai là, việc điều tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa còn phiến
diện và không đầy đủ, toàn diện.
Ba là, do những hạn chế, bất cập của những quy phạm pháp
luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt nói chung, về tội hiếp
dâm nói riêng (vấn đề này đã phân tích ở mục 2.1)

Bốn là, do sức ép của công tác xét xử sơ thẩm các vụ án hình
sự, trong đó có vụ án về tội hiếp dâm, sự hạn chế, bất cập của phương
tiện công tác, của chế độ, chính sách đối với đội ngũ thẩm phán, hội
thẩm nhân dân...
Chương 3
CÁC ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI
VỚI TỘI HIẾP DÂM
3.1. Các điều kiện đảm bảo cho hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt đúng đối với tội hiếp dâm
3.1.1 Chất lượng của hệ thống pháp luật hình sự nói chung, của
quy phạm pháp luật hình sự quy định tội hiếp dâm nói riêng
Chất lượng của hệ thống pháp luật hình sự, trong đó có quy
phạm pháp luật hình sự quy định tối hiếp dâm và hình phạt đối với
tội phạm này là một trong những cơ sở (điều kiện) cho việc áp dụng
pháp luật hình sự trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình
phạt đúng, chính xác. Bởi, chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật hình sự
có chất lượng, hoàn chỉnh, người định tội danh và quyết định hình
phạt mới có cơ sở để phát huy khả năng chuyên môn của mình.

19


Trong khi đó, BLHS hiện hành của nước ta (BLHS năm 1999 sửa đổi
bổ sung năm 2009) ngoài những mặt tích cực vẫn còn những mặt
hạn chế, bất cập như: còn nhiều quy phạm mang tính khái quát cao,
chưa chặt chẽ hay mang tính định tính rất khó xác định như: “hành vi
khác”; “hậu quả nghiêm trọng, ...........
3.1.2 Sự tồn tại đầy đủ của các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp
luật hình sự

Như trên đã trình bày, trong Bộ luật hình sự hiện hành còn
nhiều các quy phạm pháp luật có tính khái quát cao, chưa cụ thể, rõ
ràng...Những quy phạm này chỉ có thể áp dụng đúng đắn, thống nhất
trong thực tiễn xét xử khi có những văn bản hướng dẫn áp dụng. Do
vậy, việc tồn tại đầy đủ các văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm về hình phạt, trong đó có quy định
về tội hiếp dâm là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo
áp dụng đúng trong thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt.
3.1.3 Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đạo đức nghề nghiệp của
chủ thể áp dụng pháp luật hình sự
Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, năng lực chuyên
môn là nhân tố ảnh hưởng rất nhiều đến hoạt động định tội danh và
quyết định hình phạt. Người định tội danh và quyết định hình phạt
cho dù có đạo đức tốt, tinh thần nhiệt tình công tác nhưng nếu không
có chuyên môn vững vàng thì khó có thể làm tốt công tác chuyên
môn, trong đó có hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
Bên cạnh năng lực chuyên môn, người định tội danh và quyết
định hình phạt còn phải có đạo đức nghề nghiệp. Có thể nói đây cũng
là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo cho việc định tội
danh và quyết định hình phạt đúng đắn. Nếu như năng lực chuyên

20


môn là điều kiện cần thì phẩm chất đạo đức là điều kiện đủ. Hai điều
kiện này bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau giúp cho người định tội danh
và quyết định hình phạt có nền tảng cơ bản để định tội danh và quyết
định hình phạt đúng.
3.1.4 Những điều kiện vật chất – kỹ thuật, công nghệ cần thiết bảo
đảm cho hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt

Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp áp dụng pháp luật hình
sự, trong đó có định tội danh và quyết định hình phạt đòi hỏi phải chi
phí khá lớn về mặt tài chính, công sức với những trang thiết bị vật
chất – kỹ thuật, công nghệ nhất định.
Một vấn đề nữa là, đời sống vật chất và tinh thần của những
người trực tiếp áp dụng pháp luật hình sự cũng như gia đình họ cũng ảnh
hưởng đến hoạt động tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật hình sự. Khi
có điều kiện sống, sinh hoạt và làm việc được đảm bảo thì những người
cán bộ có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình phạt sẽ tận tâm,
dồn hết thời gian, sức lực, trí tuệ vào công việc, không bị mua chuộc về
vật chất, giữ vững được thái độ vô tư, khách quan trong công việc, nhất
là trong định tội danh và quyết định hình phạt.
3.2 Các giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt
đúng đối với tội hiếp dâm.
3.2.1 Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự tạo cơ sở pháp lý cho định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm
- Thứ nhất, quy định cụ thể, rõ ràng, chính xác giới giữa tội
phạm và vi phạm pháp luật khác trong phần chung của BLHS năm
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)

21


- Thứ hai, cụ thể hóa hơn nữa hình phạt, khung hình phạt đối
với tội hiếp dâm, rút ngắn khoảng cách giữa mức tối thiểu và mức tối
đa của hình phạt tù quy định tại Khoản 2,3, 4
- Thứ ba, để đảm bảo nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được
đảm bảo” cần nghiên cứu sửa đổi bổ sung quy định của Điều 207
BLTTHS năm 2015 về trình tự xét hỏi theo hướng để các bên đặt câu

hỏi thẩm vấn bị cáo, người bị hại, nhân chứng, ...còn Tòa án chỉ thẩm
vấn bổ sung ở bất kỳ thời điểm nào, đối với bất cứ chủ thể nào khi
thấy cần thiết phải làm cho sáng tỏ những tình tiết nào đó trong vụ án
3.2.2 Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội
hiếp dâm
Trong thời gian tới các cơ quan có thẩm quyền cần khẩn
trương ban hành các Thông tư mới thay thế Bản tổng kết, trong đó
cần tập trung hướng dẫn áp dụng các tình tiết định khung hình phạt;
giải thích cụ thể thế nào là hành vi quan hệ tình dục khác, khái niệm
giao cấu cho phù hợp với thực tiễn xã hội ngày nay.
3.2.3 Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ
có thẩm quyền định tội danh và quyết định hình phạt, đặc biệt là
thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên
Việc đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động áp dụng
pháp luật hình sự nói chung, hoạt động định tội danh và quyết định
hình phạt nói riêng phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau, trong đó
có nhân tố chủ thể áp dụng pháp luật đóng vai trò quyết định. Do
vậy, để đảm bảo chất lượng hoạt động định tội danh và quyết định
hình phạt cần phải nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trách

22


nhiệm công tác, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ có thẩm
quyền, mà trước hết là thẩm phán, hội thẩm và những người tiến
hành tố tụng khác theo hướng khác nhau.
3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết thực tiễn
định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội hiếp dâm để kịp

thời phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế,
sai sót.
Để đảm bảo hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội hiếp dâm được đúng pháp luật, đúng người, đúng tội thì
Viện kiểm sát phải tăng cường chỉ đạo, điều hành hoạt động kiểm sát
xét xử các vụ án về tội hiếp dâm. Nội dung kiểm sát cần tập trung
vào việc chuẩn bị xét xử của Tòa án, việc chấp hành các thủ tục tố
tụng tại phiên tòa, nhất là thủ tục tranh tụng...Quá trình kiểm sát chú
ý phát hiện những vi phạm trong việc áp dụng pháp luật hình sự truy
cứu trách nhiệm hình sự tội cướp giật tài sản để báo cáo, đề xuất lãnh
đạo Viện kiểm sát thành phố quyết định kiến nghị, kháng nghị, yêu
cầu sửa chữa.
3.2.5 Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm xét xử về tội hiếp dâm
Để nâng cao chất lượng xét xử vụ án hình sự nói chung, vụ án
hiếp dâm nói riêng, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật cả
về phương diện định tội danh và quyết định hình phạt thì vấn đề cốt
lõi, trọng tâm là phải tăng cường yếu tố tranh tụng tại phiên tòa. Đây
chính là bước đột phá của cải cách tư pháp. Làm tốt những vấn đề sẽ
góp phần nâng cao chất lượng định tội danh cũng như quyết định
hình phạt đối với tội hiếp dâm trong thực tiễn xét xử.

23


×