Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ LÍ BẠCH SO SÁNH VỚI ĐỖ PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.18 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Triều đại nhà Đường có vị trí khá đặc biệt trong lịch sử xã hội Trung
Quốc. Nếu nhà Hán là một triều đại có chế độ phong kiến trung ương t ập
quyền vững mạnh đầu tiên của Trung Quốc thì thời Đ ường là th ời kì c ực
thịnh của xã hội phong kiến đó. Lúc bấy giờ, Trung Quốc là m ột qu ốc gia
phát triển, phồn vinh trên tất cả các phương diện kinh tế, chính tr ị, xã h ội,
văn hóa. Thời đó các ngành nghệ thuật đều phát triển (hội h ọa,âm nh ạc,
kiến trúc, điêu khắc, văn học...) trong đó phát triển nh ất là h ội h ọa và văn
học. Trong văn học thì thơ là bộ phận có thành tựu cao nhất. Trung Qu ốc là
một nước có truyền thống về thơ, từ kinh thi đến thơ hiện đại, th ơ đ ều có
những đặc sắc riêng. Người Trung Quốc cũng như thế gi ới đều công nh ận
thơ Đường là đỉnh cao của thơ ca nhân loại. Thơ Đường đặc sắc, nội dung
phong phú được thể hiện bằng hình thức hoàn mỹ. Thành t ựu trên các
phương diện của thơ Đường đều đạt đến đỉnh cao. Th ơ Đ ường là s ự k ế
thừa và phát triển cao độ của thơ cổ điển Trung Quốc. Nó là “T ập Đ ại
Thành” cho nên những phương diện của thi pháp th ơ c ổ đi ển đ ều tiêu
biểu. Thi pháp thơ Đường mà chúng ta đề cập đến ở đây thuộc về thi pháp
thơ của một thời đại, một giai đoạn trong tiến trình lịch s ử th ơ Trung
Quốc, thi pháp là hệ thống hình thức, hệ thống phương tiện nghệ thuật
của thơ. Hệ thống hình thức này bản thân nó là một mắt xích trên ti ến
trình thi pháp thơ Trung Quốc.Trong đề tài này, chúng tôi sẽ đi sâu vào
nghiên cứu “Thế giới nghệ thuật trong thơ Lí Bạch”. Bởi rằng, Lí Bạch là
một trong ba nhà thơ lớn nổi tiếng ở thời thịnh Đường. Ông đã đóng vai trò
rất lớn trong việc phát triển nền thi ca Trung Quốc, bên cạnh đó vi ệc tìm
hiểu về thế giới nghệ thuật trong thơ ông còn giúp chúng ta ti ếp c ận và
cảm nhận sâu sắc, thấu đáo hơn về nội dung trong thơ Đ ường, để t ừ đó có
cái nhìn sâu sắc, kỹ lưỡng, toàn diện về th ơ Lí Bạch nói riêng và th ơ Đ ường
nói chung


CHƯƠNG 1: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA “THI TIÊN” LÝ BẠCH


Lý Bạch là một trong những nhà thơ danh tiếng nhất th ời th ịnh
Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung, được h ậu bối tôn làm “Thi tiên”.
Ông đã viết hơn cả ngàn bài thơ bất hủ.
1.1

Cuộc đời:

Lý Bạch (701- 762) tự là Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh ở T ứ
Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh). Quê ông ở Cam Túc (Lũng
Tây).
Lý bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nh ỏ
học đạo, múa kiếm, học ca múa. Lớn lên thích giang hồ ngao du s ơn th ủy,
25 tuổi “ chống kiếm viễn du”, đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm th ơ r ồi
xuôi Trường Giang qua Hồ Động Đình, lên Sơn Tây Sơn Đông cùng năm
người bạn lên núi Thái Sơn “ ẩm tửu hàm ca” (uống r ượu ca hát), ng ười
đời gọi là Trúc khê lục dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc).
Sau đó, được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông v ề kinh
đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông nh ư m ột “ Văn nhân ng ự
dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy.
Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn “vong niên”. Họ cùng Cao
Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được n ửa năm. R ồi ông l ại
tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam.
Những năm cuối đời, ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi,
ông đi chơi sông Thái Bạch, tỉnh An Huy, uống say, th ấy trăng lung linh đáy
nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguy ệt đài ( Đài b ắt
trăng) ở huyện Đăng Đồ ( An Huy) , là địa điểm du lịch n ổi ti ếng.
Người đời phong danh hiệu cho ông là “Thi tiên” ( ông tiên trong làng
thơ), Trích tiên ( Tiên giáng trần), Tửu trung tiên ( ông tiên trong làng
rượu).
1.2


Sự nghiệp:


Lý Bạch làm khoảng 20,000 bài thơ, nhưng ông không để tâm c ất
giữ. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, tác ph ẩm nào cũng
được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có : Tương Tiến
Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...
Khác với Đỗ Phủ, thơ Lý Bạch thích viễn vông, phóng túng, ít đ ụng
chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ ( Phù phong hào sĩ ca, Hiệp
khách hành, Việt trung lãm cổ... ), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp ( Cổ phong,
Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ ( Trường can hành,
Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu
tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long
Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức
Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu ( Tương Tiến tửu, Bả tửu
vấn nguyệt, 4 bài Nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đ ối tửu... ).
CHƯƠNG 2. THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ LÝ BẠCH
2.1 Khái niệm thế giới nghệ thuật:
Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể với những quy luật vận động
nội tại có sự thống nhất biện chứng giữa các mặt đối lập, là một c ấu trúc
có loogic của tổ chức bên trong, chịu sự chi phối bởi quan niệm nghệ thuật
của tác giả, có tính ước lệ so với thực tại.
2.2 Thế giới nghệ thuật trong thơ Đường:
Thơ Đường tập trung nghệ thuật tinh tế, diệu xảo. Thơ Đ ường lựa
chọn những chi tiết đặc sắc, điển hình, đạt đến độ tinh x ảo giàu s ức g ợi,
giàu sức khái quát, mọi ý tứ thăng trầm, sâu sắc được toát lên t ừ nh ững g ợi
ý này. Thơ Đường thường dồn nén những ẩn dụ tượng trưng. Những ẩn dụ
tượng trưng này có sức bùng nổ lượng thông tin lớn. Các ưu th ế của ngh ệ
thuật tinh tế, diệu xảo được tạo ra bởi “ ngôn hữu hạn, ý vô cùng”, nh ờ s ự

lựa chọn và tổ chức hình ảnh mang tính ẩn dụ cao.
2.3 Thế giới nghệ thuật trong thơ Lý Bạch:
Từ xưa cho tới nay, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu đi sâu vào tìm
hiểu thơ Đường nói chung và nhà thơ Lý Bạch nói riêng. Song m ỗi ng ười
lại đi tìm hiểu ở những vấn đề khác nhau với nhiều khía cạnh và góc độ
nào đó. Trong đó, thế giới nghệ thuật trong thơ Lý Bạch cũng đ ược nhiều


nhà nghiên cứu quan tâm và đã khám phá về nó. Khi đánh giá v ề Lý B ạch,
người ta thường xem thơ ông là đại diện ưu tú cho th ơ ca lãng m ạn th ời
Đường. Thơ ông hấp dẫn người đọc mọi thời đại bởi nét phóng khoáng
hào hùng, sự thể hiện một con người đầy phức tạp và một giọng đi ệu
ngôn ngữ riêng.
2.3.1 Không gian nghệ thuật:
2.3.1.1 Không gian cao rộng
Bầu trời và thiên nhiên là cái nền của thơ Đ ường vì th ơ Đ ường c ốt
nêu lên tình huống thống nhất chủ yếu đó là tính th ống nh ất c ủa con
người với thiên nhiên cho nên tất yếu nó hướng về thiên nhiên.
Thơ Đường thể hiện tính thống nhất giữa con người với thiên nhiên
vì quan niệm nghệ thuật về con người của thơ Đường là con ng ười đ ứng
giữa không gian cao rộng. Tức là con người đứng gi ữa tr ời đất bao la, là
trung tâm của vũ trụ, của một không gian cao rộng rồi nhìn ra mọi h ướng:

Hay:

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dãy ngân hà tuột khỏi mây.
(Xa ngắm thác núi Lư)
Núi Thiên Môn đứt (thì) sông Sở mở
Nước chảy về đông ( đến đây) quay ngược lên Bắc

Hai bên bờ núi xanh cùng hiện
Chiếc buồm đơn lẻ đến từ chân trời.
(Lên núi Thiên Môn)

Đến với thơ Lý Bạch, ta thấy được vẻ đẹp của núi sông từ mọi góc
nhìn, vừa cao rộng mênh mông, vừa xa xôi vô tận. Ph ải đ ứng gi ữa không
gian cao rộng của thiên nhiên và có cái nhìn tinh tế m ới bao quát đ ược toàn
cảnh vật từ mọi phía như thế.
2.3.1.2 Không gian lý tưởng:
Tuy sống trong thời suy thoái của nhà đường, song Lý Bạch luôn
sống với một tinh thần lạc quan. Trong thơ ông, ta cảm nhận được một
tâm hồn bay bổng, một sức mạnh tinh thần phản kháng. Tinh thần lạc
quan, hào phóng, yêu đời của ông in đậm trong hình ảnh nh ững người ph ụ
nữa hái sen (Thái liên khúc):
Mấy gái hái sen ven suối Nhược


Trong hoa cười nói vang lên trước
Gió lay tà áo thoáng trên không
Nắng dọi phấn son lồng ánh nước.
Hay trong tiếng ca điệu múa của người nông dân thuần hậu ( Tặng
Uông Luân), trong hình bóng lộng lẫy của người thợ rèn gi ữa đêm khuya
thanh vắng :
Cửa lò rực trời đất
Khói tím nhảy tia hồng
Chàng ca, trăng rực sáng
Xao động cả dòng sông.
(Thu phố ca)
Đặc biệt, thơ Lý Bạch còn mang đậm tư tưởng kiếm khách, hiệp
khách. ở đó ca ngợi lối sống tự do tung hoành, th ể hiện bản thân, không

ngại hi sinh vì nghĩa, coi trọng chữ tình. Hiệp khách hành là một bài thơ ca
ngợi các bật vung kiếm dẹp những chuy ện bất bình, sẵn sàng làm nh ững
việc phi thường để trả nghĩa lớn :
Khách nước Triệu mang dải mũ thô
Gươm Ngô cao sáng loáng như sương tuyết
Yên bạc rạng chiếu ngựa trắng
Bời bời lấp lánh như sao xa.
(Hiệp khách hành)
Kết hợp với tinh thần du hiệp cùng với tư tưởng của đ ạo gia, Lý
Bạch đã hình thành cho riêng mình một kim ch ỉ nam trên con đ ường chính
trị của mình. Ông từng tự hào “ tài tôi có thể giúp nước, cứu đời, khí tiết tôi
có thể sánh với Sào Phủ, Hứa Do, văn tôi có thể biến đổi phong tục, trí tôi
có thể hiểu mọi lẽ của trời đất và con người”
2.3.1.3 Không gian biểu tượng:
Hình ảnh vầng trăng là một biểu tượng trong thơ Lý Bạch, một
mảnh sáng nhất trong tâm hồn của nhà thơ. Với Lý Bạch, trăng luôn xu ất
hiện ở mọi chỗ, trong mọi hoàn cảnh, khi mờ, khi tỏ, khi khuy ết, khi tròn,
có khi hùng tráng, hiên ngang trên bầu trời nơi quan ải:
Vừng trăng ra núi Thiên San
Mênh mông nước bể mây ngàn sáng soi


Gió đâu muôn d ặm ch ạy dài
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn.
(Trăng quan san)
Đối với Lý Bạch, trong mọi trường hợp, hình ảnh ánh trăng luôn
mang vẻ đẹp bình dị như người bạn thân thiết, kẻ đồng hành trên từng
bước đường phiêu bạt nay đây mai đó của ông. Có lần, ông đi trên con
thuyền rời xa Thanh Khê để tới Nam Giáp, ánh trăng bùi ngùi đ ưa tiễn
trong dòng nước Bình Khương:

Nga Mi trăng núi n ửa vành thâu
Ánh rọi Bình Kh ương n ước cu ốn lâu.
(Nga Mi sơn nguyệt ca)
Vầng trăng thật sự đã trở thành nguồn cảm tác, tr ở thành linh h ồn
thơ của Lý Bạch. Ánh trăng luôn đứng ở phía trên nhà thơ, nó tượng tr ưng
cho tất cả những gì tốt đẹp nhất ở con người, những gì con người cần
phải vươn tới. Nó còn là khát vọng và mơ ước cao đẹp của nhà th ơ.
2.3.2 Thời gian – thế giới nghệ thuật độc đáo trong thơ Lý Bạch:
Thời gian nghệ thuật là một bộ phận trong thế giới nghệ thuật. Thời gian
nghệ thuật là khái niệm thi pháp đi liền với khái niệm không gian nghệ thuật,
tạo nên khái niệm kép – không thời gian nghệ thuật. Đó là hình tượng thời gian
sinh động, gợi cảm, là sự cảm nhận về thế giới được dùng làm ý thức nghệ thuật
để phản ánh hình tượng, tổ chức tác phẩm. Cũng như không gian nghệ thuật,
thời gian nghệ thuật là hình tượng thời gian được tác giả sáng tạo nên trong tác
phẩm nghệ thuật. Trước hết, nó cũng xuất phát từ thời gian tự nhiên với quy luật
vận động theo hướng: quá khứ- hiện tại– tương lai; có tốc độ, nhịp độ, quy
mô… của thời gian khách quan.
Nhưng bên cạnh đó thời gian nghệ thuật cũng có những đặc trưng riêng.
Thời gian ấy mang tính chủ quan của tác giả, gắn liền với quan niệm về thế giới
– lịch sử, với mơ ước, lý tưởng của mỗi người sáng tác cũng như phù hợp với
hành động tâm lý có liên tưởng, hồi tưởng của con người. Thời gian nghệ thuật
lại có thể dồn nén, kéo căng. Tất cả tạo nên đặc điểm riêng của thời gian nghệ
thuật ở mỗi tác giả.
Thời gian trong thơ Đường mang nặng tính hoài cổ. Các thi nhân muốn
tìm về quá khứ xa xăm để nhìn nhận thực tại, gởi gắm vào hậu thế. Việc giải
quyết thời gian tạo nên nét đặc biệt cho mỗi phong cách của mỗi nhà thơ, đặc
biệt là Lý Bạch.


2.3.2.1


Thời gian vũ trụ tuần hoàn:

Thời gian trong thơ Lý bạch là một chân trời nghệ thuật. Ở đó là cả quy
luật của tự nhiên, vũ trụ, đời người. Và chỉ khi mỗi cá nhân được ý thức đầy đủ
thì con người mới quan tâm đến sự tồn tại. Lý bạch chọn phạm trù thời gian
tuần hoàn vĩnh viễn của vũ trụ để nói lên cảm thức của mình.
Cách nhìn nhận dòng thời gian trôi của Lý Bạch tiên sinh rất độc đáo.
Ông hay dùng khái niệm “quan hóa” ( xem sự biến đổi) thấy đời trôi vô thường
vẫn rất an nhiên:
Quan hóa dụ vô ngần
(Tống Sầm Vi quân quy Minh Cao Sơn)
(Quan sát sự biến đổi đổi không ngừng)
Hay:
Quan hóa nhập liêu thiên
(Đại đình khố)
(Xem sự biến hóa vào cõi mênh mang)
Ta nhận ra một dòng thời gian rất chảy theo một hướng rất quy luật, rất
tuần hoàn trong thơ ông. Và trong thơ của “thi tiên”, thế giới nghệ thuật qua
bước đi thời gian của tự nhiên rất đẹp mà cũng rất chân thực:
Thu phong thanh,
Thu nguyệt minh.
Lạc diệp tụ hoàn tán,
Hàn nha thê phục kinh.
(Thu phong từ)
(Gió thu thanh,
Trăng thu sáng.
Lá rụng lúc tụ lúc tán,
Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình.)
Hay:



Biệt lai kỷ xuân vị hoàn gia,
Ngọc song ngũ kiến anh đào hoa.
(Cửu biệt ly)
(Từ chàng ra đi đã mấy xuân không về,
Trước cửa ngọc đã năm lần thấy hoa anh đào nở.)

Chịu ảnh hưởng tư duy của triết học cổ, thời gian trong thơ Lý Bạch vận
động trong mối liên hệ chặt chẽ với con người. Có nhiều khi ông nhấp đôi chén
rượu mà ngồi ngẫm lại, chiêm nghiệm lại cái sự chuyển dời của sự vật để rồi ý
thức sâu sắc hơn cái sự chảy trôi của thời gian.
Tương Tiến Tửu là một bài thơ lớn vì nó đã phơi bày một cách chung
nhất của một đời người ngắn ngủi, hiện hữu trong một vũ trụ bao la bất di bất
dịch. Bài thơ mở đầu bằng một hình ảnh, một ẩn dụ sinh động triết lý:
Quân bất kiến:
Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai,
Bôn lưu đáo hải bất phục hồi!
Để rồi:
Hựu bất kiến:
Cao đường minh kính bi bạch phát,
Triêu như thanh ty mộ thành tuyết.
(Anh không thấy:
Nước sông Hoàng Hà chảy từ trên trời xuống
Chảy ra đến biển không quay trở lại nữa
Anh lại không thấy:
Cha mẹ soi gương buồn nhìn tóc bạc
Sáng còn xanh mượt, chiều tối đã thành trắng như tuyết.)
Ông nhận ra rằng rồi con người cũng sẽ đi đến đoạn cuối của cuộc đời.
Nước sông Hoàng Hà từ trên trời chảy lại rồi chảy xuôi về biển và không bao

giờ trở lại, và nếu có trở lại chăng thì đâu có còn nguyên vẹn dòng nước ban
đều. Trong bài thơ Thề Non Nước, Tản Đà đã viết:
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mải không về cùng non.


Hai nhà thơ Việt và Hoa đã có những tư duy giống nhau về giòng chảy
của thời gian bởi cuộc đời qua tháng năm mới buổi sáng mái tóc còn tơ xanh,
buổi chiều đã ngã màu tuyết trắng để rồi đi vào cõi già, cõi chết.
Cuộc đời con người cuối cùng cũng sẽ trôi qua mãi mãi, Lý Bạch tiên
sinh âu cũng nhận thức rõ cái khắt nghiệt của thời gian nên trong thơ ông cũng
chất đầy những nỗi buồn man mác:
Thiên tuy trường
Địa tuy cửu
Kim ngọc mãn đường ưng bất thủ
Phú quý bách niên năng kỹ hà
Tử niên nhất độ nhân giai hữu.
(Bi ca hành)
(Trời tuy trường
Đất tuy cửu
Vàng ngọc đầy nhà không thể giữ
Giàu có trăm năm rồi được gì
Đời người một lần ai cũng tử.)
Ai cũng chỉ có sống một lần dẫu cho vũ trụ xoay vần như một con thoi.
Chỉ kẻ thức thời như nhà thơ mới hiểu được, mới thấu, mới xót xa cho sự tàn
khốc của thời gian.
Cái quãng thời gian “ba vạn sáu nghìn” của đời người tồn tại chính là ý
thức của cá nhân nhà thơ:
Bách niên tam vạn lục thiên nhật,
Nhất nhật tu khuynh tam bách bôi.

(Tương Dương ca)
(Trăm năm, ngày tròn ba vạn sáu,
Một ngày ba trăm chén cũng ừ.)
Một đời người “ba ngàn sáu vạn” ngày được đem ra để so với sự vô hạn
của nhật nguyệt – thiên thu vạn cổ mà xót xa, nhấm nháp, tiêu sầu cho ta nhận
ra sự ý thức của “Tiên thi” về đời người hữu hạn:


Hô nhi tương xuất hoán mỹ tửu,
Dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu.
(Tương tiến tửu)
(Kêu đứa nhỏ ra đem đổi lấy rượu
Cùng bạn tiêu mối sầu vạn cổ.)
2.3.2.2

Sự vô thường qua những sát-na sinh diệt:

“Tiên thi” Lý Bạch không chỉ thấy được cái tuần hòa vận động của thời
gian mà ông còn nhận ra sự vô thường của “thời gian sinh mệnh thoáng chốc”
( chữ dùng trong luận án Thi pháp thơ Lý Bạch một số phương diện chủ yếu,
Trần Trung Hỷ, 2002). Ông khôn nguôi nỗi ám ảnh của cái thoáng chốc sinh
mệnh kia của đời người.
Hình ảnh của quãng thời gian “nhân sinh đạt mệnh”, “nhân sinh đắc ý”,
“nhân sinh tại thế”, “đương niên”… được miêu tả như một ánh chớp thoáng qua
rồi mất hút trong cõi vô cùng:
Dung nhan nhược phi điện
Thời cảnh như phiêu phong
Thảo lục sương dĩ bạch
Nhật tây nguyệt phục đông
(Dung nhan như ánh chớp

Thời gian như gió thổi
Cỏ xanh nhuốm sương trắng
Trời lặn ánh trăng lên)
(Cổ phong số 28)
Mấy câu thơ mở đầu của bài Cổ phong 28 đã cho ta cái nhìn của nhà thơ
về hiện thực khốc liệt. Rằng dung mạo sẽ phai, cỏ xanh rồi cũng úa tàn, thời
gian chảy qua như cơn gió, lướt qua mọi sinh mệnh.
Nhà thơ cũng như các nhà thơ phương Đông khác, ít nhắc đến cái chết.
Không phải là không nhận thức được mà Lý Bạch muốn tránh đi sự tang


thương, bi lụy về nó. Thái độ hư vô, chập chờn giữa còn và mất, giữa tồn tại và
hủy diệt là cách mà Lý Bạch đối xử với sự khắc nghiệt của thời gian:
Thanh hiên đào lý năng kỷ hà
Lưu quang khi nhân hốt sa đà
(Ngoài hiên đào lý khoe sắc được bao lâu
Tháng ngày trêu người cứ thoáng trôi)
(Tiền hữu tửu trung thành)
Giới hạn trăm năm của đời người chỉ như một sát- na, chớp mắt một cái
đã đi đến bờ bên kia của cuộc đời. Các cặp từ đối lập “tạc nhật- kim thành”,
“triệu- mộ”, diễn tả vẻ bồn chồn của nhà thơ trước bước đi của thời gian qua đời
người:
Tạc nhật chu nhan tử
Kim thành bạch phát thôi
(Ngày hôm qua mặt mày còn hồng hào
Hôm nay tóc đã giục giã)
(Đối tửu)
Hay:
Triêu như thanh ty mộ thành tuyết
(Buổi sớm như tơ xanh chiều đã thành tuyết trắng)

(Tương tiến tửu)
Nhân vật trữ tình như Lý Bạch tiên sinh cảm nhận được sự biến thiên của
vạn vật, không gì có thể thoát khỏi cái vòng quẩn quanh sinh diệt, không thoát
được vòng luân chuyển với tốc độ ghê gớm ấy:
Tích nhật phù dung hoa
Kim thành đoạn căn thảo
(Ngày xưa nhan sắc như hoa phù dung
Nay đã thành nắm cỏ đứt gốc)


(Thiếp bạc mệnh)
Trong sự đối sánh xưa- nay, hôm qua- hôm nay, tối- sớm trên, các nhà thơ
Đường, cũng như Lý bạch nói riêng thường không quan tâm đến diễn biến cụ
thể của thời gian mà chỉ tập trung vào hai cực của quá khứ- hiện tại.
Thời gian nghệ thuật trong thơ Lý Bạch được thể hiện trong sự phá hoại
của thời gian vật lý ngắn ngủi như những sát- na. Sinh mệnh chỉ như thoáng
chốc được dồn nén trong mấy câu thơ nhưng lại làm kéo căng tâm lý người tiếp
nhận, làm con người ta phải suy ngẫm chiêm nghiệm lại cuộc đời mà từ đó sống
sao cho phải. Đó chính là vẻ đẹp, là giá trị cao cả của thế giới thơ Lý Bạch.
Thời gian được diện hình qua các tác phẩm của Lý Bạch gắn chặt giữa
thời gian vũ trụ xoay vần và khoảnh khắc sinh diệt của vạn vật. Nó gắn chặt với
con người thời đại mà nó xuất hiện thông qua cảm nhận của nhà thơ trước cuộc
đời đầy biến động, là phương tiện để xây dựng thế giới nghệ thuật đồng thời
cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng của Lý Bạch.
2.2.3 Hình tượng:
“ Thế giới nghệ thuật văn học là một thế giới vận động và mang ý nghĩa”
( Lý luận văn học tập 2, Nhà xuất bản Đại học Sư pham, tr.89)”. Trong thơ
Đường nói chung và thơ Lý Bạch nói riêng có những hình tượng vô cùng đặc
trưng, mang đậm dấu ấn sáng tạo.
2.2.3.1 Thế giới thiên nhiên phong phú:

Lý Bạch được mệnh danh là “thi tiên” bởi một phần do cuộc sống ông
gắn liền với rừng núi. Vậy nên những sáng tác mang đầy âm điệu hùng tráng là
điều dễ dàng bắt gặp trong thơ Lý Bạch. Thiên nhiên trong thơ ông vô cùng ấn
tượng. Sông núi, hang trời, động biển, khe suối đều cao rộng và đồ sộ. Những
bài thơ nổi tiếng phải kể đến là Thục đạo nan, Hành lộ nan, Nga Mi sơn nguyệt
ca,… Và sẽ thật thiếu sót nếu quên đi Vọng Lư sơn bộc bố đầy hùng vĩ và tráng
lệ qua đôi mắt tài hoa của người nghệ sĩ :
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này:
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
Đặc biệt là Ức Đông Sơn ( kì 1) chỉ với bốn dòng đầy tinh tế và nên thơ :
Đông Sơn lâu chẳng tới.
Mấy độ nở hoa hồng?
Mây trắng còn giăng mắc,
Nhà ai ánh nguyệt lồng?
Hay như Thu phong từ:


Gió thu lành
Trăng thu thanh
Lá rơi tụ lại tán
Quạ lạnh chợt rùng mình
Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp ?
Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình...
Số lượng tác phẩm đề cập đến thiên nhiên trong thơ ông rất nhiều, mà đề
tài cũng phong phú. Một trong số đó, trăng có lẽ là mảng màu sắc đặc biệt nhất.
Trăng là hình ảnh thơ đầy biểu tượng xuất hiện dày đặc trong thơ Lý Bạch.
Ngay trong nhan đề, người đọc đã dễ dàng bắt gặp những Nguyệt hạ độc chước,
Nga Mi sơn nguyệt ca, Vọng nguyệt hữu hoài, Cửu nguyệt thập nhật tức sự.

Ngay cả cái chết của nhà thơ cũng tạo nên một giai thoại liên quan đến trăng.
Theo tôi, Tĩnh dạ tứ có lẽ là bài thơ về trăng sâu sắc và ấn tượng nhất của ông :
Đầu giường ánh trăng rọi,
Mặt đất như phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
Trăng nói riêng và thiên nhiên trong thơ Lý Bạch nói chung là một mảng
hình tượng quan trọng. Đây là điều dễ hiểu bởi thơ Đường thường “ tả cảnh ngụ
tình” , nhờ thiên nhiên để bộc lộ cảm xúc cá nhân. Ta có thể tìm thấy điều này
trong bất cứ bài thơ Đường nào.
2.3.3.2 Hình ảnh con người xuất hiện rộng khắp:
Bên cạnh thiên nhiên, hình ảnh con người trong thơ Lý Bạch cũng xuất
hiện khá nhiều và đa dạng. Thơ ông từng phê phán, đả kích sâu cay bọn mũ cao
áo dài, khinh thường bọn quyền quý, vua quan bất tài. Bài cổ phong thứ 15 Lí
Bạch viết:
Cớ sao bậc cao sỹ
Vứt như rác bên đường
Châu ngọc mua cười hát
Tấm cám nuôi hiền lương.
Hơn thế nữa, ông còn thẳng thắn lên án châm biếm bọn nho sĩ bất tài ưa
xu nịnh, hủ lậu. thơ ông lại thường xuất hiện những vần thơ phê phán nho giáo
khá sắc sảo, những kẻ “phụ mẫu chi dân” :
Ông già nước Lỗ bàn chuyện năm kinh
Tóc bạc vùi trong những từ chương đã chết
Hỏi ông cách giúp đời, giúp nước
Ông ngơ ngác như từ mây mù rơi xuống
Chân ông đi giày viễn du


Đầu ông chít khăn kiểu phương sơn

Khệnh khạng ông bước trên đường thẳng
Chưa đi đã thấy bụi bay mù mịt
Phủ thừa tướng nhà Tần
Không trọng những người áo dài lụng thụng
Ông không phải là Thúc Tôn Không
So với tôi ông cũng không giống
Chuyện đời ông còn chưa thông tỏ
Hãy về cày ruộng ở bến sông vấn đi.”
(Giễu ông đồ nước Lỗ)
Việc này có liên quan đến con đường công danh của ông. Lý Bạch từng
làm quan và hơn ai hết ông chứng kiến mọi sự nhũng nhiễu của bọn quan lại
hách dịch.
Không chỉ vậy, người đẹp trong thơ của vị “thi tiên” cũng hiện hữu khá
nhiều. Tây Thi, Dương Quý Phi, Phi Yến là những cái tên nổi bật được tìm thấy
trong thơ và mang lại nhiều màu sắc đặc biệt. Chẳng hạn Ngô vương mỹ nhân
bán túy:
“Gió lộng hồ sen ngát điện hương
Cô Tô vui mở tiệc Ngô vương
Tây Thi say múa thân mềm mại
Cười tựa bên song ngả xuống giường”
Ngoài ra, Lý Bạch còn dành riêng một mảng thơ viết về bằng hữu, về tình
bạn thắm thiết của ông với Đỗ Phủ, Mạnh Hạo Nhiên, Uông Luân. Mà bài thơ
Hoàng Hạc Lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng đã thực sự khiến người
đọc ngưỡng mộ trước tình bạn cũng như tài năng của Lý Bạch:
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng


Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời

Hay chăng:
Tôi yêu thầy Mạnh Hạo Nhiên
Tiếng phong lưu đã lan truyền thế gian
Trẻ thì mũ áo coi thường
Bạc đầu nằm giữa mây thông hững hờ
Thường cùng với nguyệt say sưa
Cỏ hoa ham thú, việc vua chẳng màng
Núi cao đâu thể sánh bằng
Chỉ đành ngưỡng mộ mùi hương tuyệt vời.
( Tặng Mạnh Hạo Nhiên)
Cùng với thiên nhiên, con người trong thơ Lý Bạch đã góp phần tạo nên
một đề tài thú vị và hấp dẫn người đọc. Qua những con người mà tác giả kể, tả,
bạn đọc có thể hình dung được phần nào về đời sống tình cảm của ông.
2.3.3.2 Xã hội loạn lạc, rối ren trong thơ Lý Bạch:
Bất cứ nhà thơ nào khi sáng tác đều bị hiện thực khách quan ảnh hưởng.
Sau đó tác phẩm nghệ thuật của họ phản ánh nó theo nhiều cách khác nhau. Lý
Bạch sống trong giai đoạn nhiều loạn lạc, biến cố nên dù không chú tâm phô
bày hiện thực xã hội thì điều đó vẫn hiển hiện trong thơ ông.
Cuộc đời ông gắn liền với tinh thần phản phong, chống lại thế lực đen tối
lên án cường quyền . Ông thẳng thắn chống lại lễ giáo hủ tục phong kiến, đả
kích trật tự xã hội.Vạch trần mặt thối nát của xã hội, khẳng khái lên án những
hiện tượng đồi bại được che giấu dưới cảnh phồn hoa, thăng bình của thời Thịnh
đường.
Ông vẽ lại những mảng đen tối do sự xa hoa của vua quan nhà Đường
gây ra ngay khi làm quan ở Tràng An trong bài Hành lộ nan (Đường đi khó) bài
thứ 2 ông viết:
Đại đạo như thanh thiên


Ngã do bất đắc xuất

Tu trục Trường An xã chung nhi
Xích kê bạch cẩn đổ lê lật
(Đường lớn như trời xanh
Ta còn chưa đến được
Thẹn không bằng lũ nhóc Trường An
Đá gà, đấu chó chơi thoả thích…)

2.3.4. Ngôn ngữ và thể thơ-phương thức thể hiện thế giới nghệ thuật:
2.3.4.1 Ngôn ngữ thơ gợi nhiều hơn tả, ý tại ngôn ngoại:
“Thơ của Lý Bạch rất giản dị tự nhiên, không cầu kì chải chuốt, gọt dũa
mà ý thơ sâu sắc, có sức truyền cảm mạnh mẽ và sức quyến rủ một cách lạ
lùng”.
Sở dĩ người ta nhận định thơ của Lý Bạch như thế là vì trong thơ ông sử
dụng hệ thống ngôn ngữ rất tự nhiên chân thực nhưng vẫn chắt lọc, tinh
tuý,tràn trề hình ảnh và cảm xúc. Và thật không thể thiếu đi cái vẻ đẹp ngôn ngữ
một thứ tinh hoa- chất liệu để xây dựng nên thế giới nghệ thuật trong thơ ông.
Người ta sẽ bắt gặp rất nhiều vần thơ đầy hình ảnh của ông nhưng chỉ
gói gọn trong hai mươi chữ ,một bức tranh thuỷ mặc về cảnh mộng đêm trăng
gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân với bút pháp lãng mạn thần tình ‘ánh trăng
và cố hương’ gắn bó với nhau trong mạch cảm hứng trữ tình, hoà quyện thành
một liên tưởng thấm thía, cảm động, nâng cánh cho hồn thơ bay lên. Ngôn ngữ
thơ hàm súc, hình tượng hoa lệ, cảm xúc mênh mang gợi lên bao nỗi buồn đẹp.

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sơn
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương.


(Tĩnh dạ tứ)

(Đầu tường trăng sáng soi
Ngỡ là sương trên mặt đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương.)
Ông sử dụng từ ngữ rất “tiết kiệm” nhưng tình cảm vẫn được biểu đạt
một cách dào dạt bay bổng, vẫn mang được nỗi niềm của một kẻ xa quê và
chạm được vào trái tim của mỗi thế hệ người đọc.
Hay trong bài thơ: “Xa ngắm thác núi lư”.
Nhật chiếu Hương lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trục há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
(Vọng Lư sơn bộc bố)
(Nắng rọi hương lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.)

Một hình ảnh thơ quá đẹp, quá tuyệt vời khi Lí bạch cảm chừng như
“nước bay thẳng xuống ba nghìn thước”. Với động từ mạnh “bay thẳng” đã
khẳng định được vẻ đẹp kì vĩ, lớn lao, hùng vĩ và có phần hiểm trở của thiên
nhiên nơi đây. Và ý ở ngoài lời,gợi nhiều hơn tả cũng là ở chỗ đó. Ông đã giúp
người đọc cảm nhận được cái hùng vĩ của thiên nhiên nơi đây mặc dù chưa một
lần đặt chân đến.
Mặc dù “ý tại ngôn ngoại” là một thi pháp rất quen thuộc trong thơ
Đường nhưng nó vẫn mang đậm dấu ấn cá nhân trong thơ Lý Bạch là thế. Bằng
việc sử dụng ngôn ngữ mang nét đặc trưng đó mà Lý Bạch đã đem được cái hồn


phiêu du, cái tình mênh man, cái hương vị ngọt ngào vào trong khung trời nghệ

thuật của ông.

2.3.4.2 Thể thơ, hình thức- phương thức thể hiện thế giới nghệ thuật
của Lý Bạch:
Các nhà thơ đời Đường sử dụng hai thể thơ chính là Cổ thể (gồm ngũ cổ
và thất cổ) và Kim thể (hay cận thể ,gồm luật thi, tứ tuyệt hay bài luật). Cổ thể
không có luật lệ nhất định, không hạn định số câu, cách gieo vần rất rộng rãi
uyển chuyển. Kim thể còn gọi là thơ “Đường luật”, thể thơ này tuy bị gò bó về
niêm luật, song nó cũng có ưu điểm cấu trúc chặt chẽ, cân đối , hài hoà. Với thi
Tiên Lý Bạch, ông đã sử dụng cả Cổ thể và Kim thể trong sáng tác làm cho
thơ của ông mang tầm vóc đồ sộ là thế.
2.3.4.2.1 Ngũ cổ:
Đây là thể loại chiếm nhiều nhất trong thơ Lý Bạch sau Tứ Tuyệt và Luật
thi. Với ngũ cổ Lý Bạch muốn đem cái trang nhã mực thước của thể thơ này để
đề cập nhiều đến vấn đề xã hội và cá nhân có vẻ hướng ngoại. Ví dụ bài thơ:
Quan san nguyệt.

Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.



Và về mặt hình thức thì trong Ngũ cổ Lý Bạch sử dụng điển cố, những cặp đối
ngẫu, hay biện pháp ẩn dụ rất nhiều.
2.3.4.2.2 Thất cổ:
Đây có thể được xem như là thơ tự do vì hầu như nó không gò bó về câu
chữ (có sự đan xen giữa câu thơ dài ngắn) và niêm luật.
Thất cổ Lý Bạch chỉ có khoảng 150 bài. So với Ngũ cổ thì Thất cổ tự do,
hào mại và phóng túng, trình bày đầy đủ những diễn biến phức tạp của Lý Bạch.
Và có lẽ con người Lý Bạch trong thất cổ trở nên cuồng phóng hơn và được cực
tả hơn.
Ví dụ những câu thơ trong bài: Tương tiến tửu sẽ cho chúng ta thấy rõ
điều này.
Thiên sinh ngã tài tất hữu dụng
Thiên kim tán tận hoàng phục lai
Phanh dương tể ngưu thả vi lạc
Hội tu nhất ẩm tam bách bôi
Sẩm phu tử, Đan Khâu sinh
Tương tiến tửu
Bôi mạc đình.
(Tương tiến tửu)
(Trời sinh ta có tài ắt sẽ có chỗ dùng
Ngàn vàng tiêu hết rồi lại có
Mổ bò nấu dê để làm tiệc vui
Gặp nhau nên uống một lần ba trăm chén
Hỡi thầy giáo Sầm, hỡi học trò Đan Khâu
Rượu sắp mời rồi
Chớ ngừng chén)


2.3.4.2.3 Luật thi:

Tiền Mộc Yêm, tác giả sách Ðường âm thẩm thể nói rằng: "Luật đây là
sáu luật, là luật hoà hợp âm thanh. Luật thơ cũng giống như kỷ luật dụng binh,
pháp luật hình án, nghiêm ngặt chặt chẽ, không được vi phạm". Có thể giải
thích thêm về thể cách của thi như sau:
a) Trong một câu, bằng trắc cần phải điều tiết;
b) Trong khoảng hai câu liền nhau, sự đối ngẫu cần phải khéo;
c) Trong một bài, âm thanh cần phải chọn sao cho có sự cao thấp, bổng trầm.
Tóm lại, ba điều kiện cần thiết của luật thi là niêm, luật và đối.
Luật thi chiếm số lượng ít trong thơ Lý Bạch, vì vốn dĩ ông không thích
gò bó về cách luật . Nhưng với vẻ đẹp diễm lệ, tự nhiên của thể thơ này lại rất
phù hợp để Lý Bạch dành cho việc tống tặng hay dâng lên vua chúa.
Tuy Luật thi có sự quy định nghiêm ngặt về niêm luật nhưng đôi lúc nó
vẫn được phá vỡ ra khỏi quy phạm đó. Ví dụ :
Về luật, sự sử dụng "ảo cú" làm cho quy tắc bớt chặt chẽ, câu thơ có âm
điệu biến đổi bất thường. Ảo cú là câu thơ trong đó có chữ đáng bằng đổi thành
trắc, hay đáng trắc đổi ra bằng, không theo cách thường.
Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt,
Tuỳ quân trực đáo Dạ Lang tây
(Lòng sầu ta gởi cùng trăng sáng,
Theo gót người đi đến Dạ Lang).
Và thủ pháp này cũng từng xuất hiện trong thơ Đỗ Phủ:
Ánh giai bích thảo tự xuân sắc,
Cách diệp hoàng ly không hảo âm
(Soi thềm, cỏ biếc còn tươi thắm;
Cánh lá, oanh vàng vẫn hót hay).


2.3.4.2.4 Tuyệt cú:
Với thể thơ này Lý Bạch đã chụp lại những khoảnh khắc rất đời thường,
gần gũi bằng sự nhẹ nhàng và tinh tế, không hề mang màu sắc triết lý hay sự

cuồng phóng gì trong đó. Vì thế mà ông khá thành công ở những bài thơ Tuyệt
cú và được thời đại đánh giá cao. Mỗi bài thơ như là một dòng tâm trạng được
ghi vào nhật ký vậy!
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
(Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng)
(Bạn cũ từ biệt tại lầu Hoàng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.)
Như vậy nếu ngôn ngữ là một chất liệu làm nên thế giới nghệ thuật trong
thơ ông thì có lẽ sự phong phú của các thể thơ sẽ là thứ hương liệu- chất xúc tác
để tạo nên cái men say trong những vần thơ của Lý Bạch.
CHƯƠNG 3: TỔNG KẾT
Thế giới nghệ thuật thơ ông mang những triết lý nhân sinh sâu sắc thể
hiện qua không gian, thời gian, hình tượng thơ. Không gian được miêu tả đã cho
ta nhận ra những điểm nhìn của lăng kính “tiên thi”. Đó là không gian cao rộng,
phóng khoáng như con người nhà thơ, là không gian lý tưởng thể hiện những
ước vọng, những phản kháng mạnh mẽ với xã hội đương thời. Gắn với hình ảnh
không gian bao là nhiều biểu tượng là thời gian nghệ thuật đặc sắc. Thời gian
trong thơ Lý Bạch mang sự tuần hoàn của vũ trụ, sự trăn trở về đời người ngắn
ngủi như những sát- na đẹp đấy nhưng cũng chóng tàn. Bên cạnh những hình
ảnh không- thời gian là hình tượng thơ đặc sắc. Hình tượng nghệ thuật trong thơ
Lý Bạch tiên sinh tạo dựng lại một thiên nhiên phong phú, con người phóng
khoáng với kiếm- rượu- trăng, đề cao tình bằng hữu. Hình ảnh xã hội loạn lạc
cũng được tái hiện qua những trang thơ. Tất cả những không- thời gian, những
hình tượng nghệ thuật ấy chuyển tải thành công bằng ngôn ngữ, tứ thơ… được
trau chuốt một cách tỉ mỉ, giàu tính biểu đạt. Một khi nhắc đến thơ Đường luậtmột thành tựu rực rỡ của văn học Trung Hoa, không thể không nhắc đến thơ Lý

Bạch. Ở đó là cả một chân trời nghệ thuật cần khám phá, tìm tòi và nghiên cứu.




×