Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ, CHUYÊN đề TOÀN cầu hóa, CHỦ ĐỘNG hội NHẬP KINH tế QUỐC tế và xây DỰNG nền KINH tế độc lập tự CHỦ ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.06 KB, 35 trang )

TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
VÀ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ,
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP TỰ CHỦ Ở VIỆT NAM
Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan
của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư
bản Mác-Ăngghen đã dự báo “Đại công nghiệp tạo ra thị trường toàn thế giới”.
Các ông cho rằng quốc tế hoá đời sống kinh tế là kết quả tất yếu trong sự phát
triển nội tại của nền đại công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của
lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế trước tác động của cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu thế khách quan
cuốn hút nhiều nước, nhiều khu vực trên thế giới, tác động đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội, chi phối những biến đổi của tình hình thế giới hiện nay và sắp
tới. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định, “toàn cầu hoá
kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế
này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc
gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu
cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”.
I

1. Toàn cầu hóa kinh tế và tác động của nó đến Việt Nam

II

1.1. Thực chất của toàn cầu hoá kinh tế
Toàn cầu hoá kinh tế là một khái niệm mới được đề cập rộng rãi trong
những thập kỷ cuối của thế kỷ XX. Trước đây người ta đã dùng tương đối phổ
biến khái niệm “quốc tế hoá đời sống kinh tế” dùng để chỉ mối quan hệ kinh tế
giữa các quốc gia, các nhóm nước trong khu vực và trên thế giới. Nhưng toàn
cầu hoá kinh tế là một khái niệm rộng hơn “quốc tế hoá đời sống kinh tế,” đó là
quá trình xã hội hoá lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế, các quan hệ
kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia, dân tộc lan toả ra phạm vi toàn


cầu trong đó hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, lao động, thông tin…vận
động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; mối quan hệ
kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau vừa hợp tác
1


vừa cạnh tranh và đấu tranh giữa các thành viên của cộng đồng quốc tế.
Theo đó, toàn cầu hoá kinh tế là trình độ phát triển cao hơn của quốc tế
hoá kinh tế. Nếu quốc tế hoá kinh tế gắn liền với cách mạng công nghiệp thì
toàn cầu hoá kinh tế gắn liền với những thành tựu mới nhất của cách mạng khoa
học công nghệ hiện đại; là quá trình lực lượng sản xuất và các quan hệ kinh tế
quốc tế đã lan rộng ra phạm vi toàn cầu và mang tính phổ biến; các nền kinh tế
khu vực và thế giới đan cài vào nhau làm xuất hiện các tổ chức kinh tế khu vực
và toàn cầu mà những nước tham gia phải tuân theo luật chơi chung của tổ chức
này. Như vậy, về thực chất toàn cầu hoá kinh tế là quá trình gia tăng mạnh
mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động và phụ thuộc vào nhau của
các quan hệ kinh tế giữa tất cả các nước, các dân tộc, các khu vực trên toàn
thế giới; là sự tiếp tục và sâu sắc hơn của quá trình quốc tế hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, nhưng nhìn nhận và đánh
giá vấn đề này đang có nhiều quan điểm lý luận khác nhau. Toàn cầu hoá dưới
góc nhìn của giai cấp tư sản hay vô sản, của các nước tư bản phát triển hay của
các nước đang phát triển ? Theo đó cũng xuất hiện hai tư tưởng lý luận đối lập
nhau về toàn cầu hoá với những cách hành xử khác nhau. Lý luận toàn cầu hoá
Mác-xít cho rằng: xã hội hoá (hay rộng hơn là quốc tế hoá) là kết quả của quá
trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội loài người tiến tới chủ nghĩa cộng
sản. Một thế giới đại đồng cả về kinh tế và văn hoá của những người lao động tự
do và phát triển toàn diện. Dự báo về xã hội tương lai (thế giới đại đồng) của
C.Mác có cơ sở vật chất từ chính sự phát triển của lực lượng sản xuất tất yếu dẫn
tới xã hội hoá sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Điều này chúng ta có thể đọc
trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” và trong bộ “Tư Bản” của Các

Mác. Các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã đưa lý luận này vào thực tiễn khi
thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEP).
Lý luận toàn cầu hoá kinh tế của giai cấp tư sản chính là lý thuyết của
“chủ nghĩa tự do mới” với khẩu hiệu “Tự do hoá thương mại toàn cầu”, “Tự do
hoá đầu tư”, “Tự do luân chuyển vốn trên thị trường tài chính toàn cầu”. Hiện
2


nay, cùng với việc tuyên truyền lý thuyết tự do mới, các nước tư bản phát triển
đang tìm cách sử dụng các thể chế kinh tế quốc tế để thực hiện một thứ chủ
nghĩa thực dân mới tinh vi hơn đối với các nước đang phát triển đó là “ chủ
nghĩa thực dân thương mại”, “chủ nghĩa thực dân thông tin”, “chủ nghĩa thực
dân công nghệ”…
Do vậy, nhận thức và hiểu rõ thực chất toàn cầu hoá kinh tế là vấn đề hệ
trọng cả về lý luận và thực tiễn. Nhưng dù xem xét bằng nhãn quan gì, ở góc độ
nào? thì quá trình toàn cầu hoá kinh tế cũng bao hàm sự khác biệt về lợi ích giữa
các chủ thể tham gia (các giai cấp, dân tộc, nhà nước, khu vực và khối kinh
tế…). Tính không đồng nhất về lợi ích kinh tế là nguyên nhân dẫn tới những
mâu thuẫn giữa các chủ thể tham gia quá trình này. Điều đó đặt ra cho các nước
phải có đối sách thích hợp để tận dụng thời cơ, vượt qua nguy cơ, thách thức khi
tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế.
1.2. Tính khách quan của toàn cầu hoá kinh tế
Toàn cầu hoá kinh tế là sự tiếp tục và phát triển cao của quá trình quốc tế
hoá kinh tế đã diễn ra từ nhiều thập kỷ trước đây. Toàn cầu hoá nẩy sinh và phát
triển thành xu thế tất yếu bắt nguồn từ các yếu tố sau:
- Trước hết, đó là kết quả của quá trình phát triển lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội ngày càng mang tính quốc tế hoá cao.
Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất đã tạo ra các công cụ, phương
pháp sản xuất hiện đại nâng cao năng xuất lao động, tăng nhanh khối lượng của
cải vật chất xã hội đòi hỏi phải mở rộng thị trường ra các nước khu vực và thế

giới. Phân công lao động xã hội ngày càng sâu rộng, mang tính quốc tế. Sự
chuyên môn hoá sản xuất đạt trình độ rất cao, một sản phẩm được sản xuất ra là
kết tinh lao động của rất nhiều công ty ở các nước trên thế giới. Kết quả làm
xuất hiện mạng lưới sản xuất toàn cầu, gia tăng tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các
công ty ở các quốc gia khác nhau trên thế giới.
- Sự tác động mạnh mẽ của cách mạng KHCN hiện đại trong nửa cuối của
thế kỷ XX cũng thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Những thành tựu mới của
3


cách mạng KHCN trong các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, sinh học, năng
lượng…được ứng dụng rộng rãi làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất của loài
người, đưa loài người từ nền văn minh công nghiệp lên văn minh tin học; từ cơ khí
hoá sản xuất lên tự động hoá, tin học hoá sản xuất; từ quốc tế hoá kinh tế lên toàn
cầu hoá kinh tế. Đặc biệt, sự tiến bộ vượt bậc và sử dụng phổ biến công nghệ thông
tin trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, đời sống xã hội…đã góp phần thay đổi cách
thức sản xuất, quản lý, nếp sống và giải trí của xã hội, thúc đẩy quá trình giao lưu
mang tính toàn cầu. Có thể nói cách mạng KHCN hiện nay đang tạo ra phương tiện
vật chất hiện đại thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế.
- Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường hiện đại cũng là một tác
nhân dẫn tới toàn cầu hoá kinh tế. Trong lịch sử, kinh tế hàng hoá ra đời đã phá
vỡ tính chất khép kín của kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc; dỡ bỏ tính chất cát cứ
vùng, miền trong từng quốc gia dân tộc, mở rộng giao lưu kinh tế, thương mại
giữa các quốc gia. Việc hình thành con đường tơ lụa, con đường lạc đà từ Trung
Quốc sang ấn Độ và Châu Âu đã nói lên điều đó. Cùng với sự phát triển của đại
công nghiệp và tác động của cách mạng KHCN, kinh tế thị trường ngày càng
mở rộng và mang tính quốc tế. Đặc biệt từ những năm 90 trở lại đây thương mại
quốc tế tăng lên nhanh và cao hơn mức tăng GDP.
Đồ thị : Tăng trưởng xuất khẩu và GDP toàn thế giới
(1990 – 2010)


Năm 2011 tăng 17 % so với 2010. Cơ cấu của thị trường quốc tế cũng mở rộng
không chỉ trong thương mại hàng hoá mà sang các lĩnh vực tài chính, tiền tệ, đầu tư,
4


chuyển giao công nghệ…với sự tham gia của nhiều nền kinh tế khác nhau trên thế
giới. Các phương tiện phục vụ cho mua bán trao đổi, thanh toán, vận chuyển…ngày
càng hiện đại làm gia tăng tính chất toàn cầu hoá của kinh tế thị trường hiện đại.
- Một nguyên nhân trực tiếp đồng thời cũng là biểu hiện của xu thế toàn
cầu hoá kinh tế là sự phát triển và bành trướng của các công ty xuyên quốc
gia (TNC). Hiện có khoảng 60.000 công ty TNC đang kiểm soát 2/3 thương mại
thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả nghiên cứu
và chuyển giao công nghệ của thế giới. Bằng việc thiết lập hệ thống các công ty
con, cháu, chắt… ở nhiều quốc gia, các TNC đã thúc đẩy hoạt động thương mại,
đầu tư, chuyển giao công nghệ…liên kết các quốc gia với nhau trong các hoạt
động kinh tế. Quá trình tổ chức lại nền kinh tế toàn cầu, phân chia lại thị trường
và khu vực ảnh hưởng của các TNC đang tạo ra sự phân công lao động quốc tế
mới, là động lực thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
- Vai trò của các tổ chức quốc tế và khu vực về chính trị, kinh tế, thương
mại, tài chính… đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Trước hết
phải kể đến Liên Hiệp Quốc (UN) với 191 nước thành viên chiếm đại đa số các
nước trên thế giới, thông qua các tổ chức trực thuộc của mình (UNDP,
UNESCO, FAO…) đang tác động đến tất cả các nước trên phạm vi toàn cầu.
Các tổ chức: thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
thế giới (WB), các thể chế khu vực như EU, APEC, AFTA, NAFTA… đang có
vai trò ngày càng tăng thúc đẩy tự do hoá thương mại, đầu tư, tài chính…và giải
quyết những vấn đề kinh tế, chính trị xã hội nẩy sinh của khu vực và trên thế
giới. Các tổ chức quốc tế và khu vực đã trở thành diễn đàn vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới.

Ngoài ra, thế giới đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu như: đói nghèo, bệnh
dịch, ô nhiễm môi trường, tội phạm quốc tế… mà không một quốc gia riêng lẻ
nào có thể tự giải quyết nếu không có sự hợp tác đa phương.
Những nhân tố nói trên đã khẳng định tính khách quan của xu thế toàn cầu
hoá kinh tế. Như dự thảo các văn kiện trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X
5


đã dự báo: “Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, tạo ra cơ hội phát
triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, đem lại khó khăn, thách
thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển.”
1.3. Đặc điểm của toàn của toàn cầu hóa kinh tế hiện nay
Một là, toàn cầu hoá kinh tế diễn ra ngày càng sâu rộng và mạnh mẽ.
Điều đó thể hiện ở sự tăng lên nhanh chóng của thương mại quốc tế. Nếu như
năm 1950 xuất khẩu thế giới đạt 69,7 tý USD thì năm 1990 đạt hơn 4000 tỷ
USD, năm 2009 là 12,736 tỷ USD. Tuy nhiên, do tác động của khủng hoảng
kinh tế nên thương mại quốc tế năm 2011 có sự giảm sút đảng kế so với 2010.
Theo ước tính của IMF, tốc độ tăng trưởng thương mại quốc tế theo khối lượng
của cả hàng hóa và dịch vụ năm 2011 của toàn thế giới chỉ ở mức 7,5%, giảm
đáng kể so với mức tăng 12,8% của năm 2010. Cùng với sự phát triển của
thương mại thế giới là sự mở rộng cơ cấu thị trường sang các lĩnh vực: đầu tư,
sở hữu trí tuệ, tài chính, tiền tệ…Thị trường tài chính quốc tế ngày càng có vai
trò quan trọng tác động trực tiếp đến nền kinh tế toàn cầu. Hiện mức giao dịch
ngoại hối và luân chuyển vốn trên thị trường chứng khoán toàn cầu đạt gần 400
ngàn tỷ USD mỗi ngày (trong khi đầu tư trực tiếp của các nước đang phát triển
chỉ đạt khoảng 350-400 tỷ USD/ năm). Quá trình liên kết kinh tế, hội nhập khu
vực và thế giới ngày càng mạnh mẽ. Hiện nay ngoài tổ chức hợp tác kinh tế toàn
cầu như tổ chức thương mại thế giới (WTO) còn có hơn 40 tổ chức hợp tác, liên
kết kinh tế thương mại liên khu vực (APEC, ASEM), khu vực (EU), tiểu khu
vực (AFTA, NAFTA…) được thành lập và phát triển ở mọi châu lục với thành

phần tham gia rất đa dạng, phong phú gồm nhiều nước có trình độ kinh tế và chế
độ chính trị khác nhau. Riêng WTO, đến năm 2010 hiện có 153 quốc gia thành
viên tham gia, chiếm gần 100% kim ngạch buôn bán quốc tế, với các quy định
và định chế thương mại hầu như đã trở thành chuẩn mực và cơ sở cho hoạt động
của các tổ chức liên kết khu vực, tiểu khu vực, hợp tác thương mại song phương
giữa các nước. Vì tầm quan trọng và lợi ích to lớn của việc tham gia tổ chức này
nên hiện nay có hơn 20 nước nộp đơn hoặc đang đàm phán gia nhập WTO.
6


Nhiều nước mong muốn được tham gia Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái
Bình Dương (APEC), hiện có 21 thành viên chiếm 57% GDP và 47% thương
mại quốc tế. Các nước lớn, nhỏ đều giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, theo
đuổi chính sách kinh tế mở. Ngay những nước có tiềm năng về thị trường như:
Trung Quốc, Nga, Mỹ, ấn Độ…và cả một số nước vốn “khép kín” theo mô hình
tự cung, tự cấp trước đây cũng dần dần mở cửa thị trường từng bước hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Hai là, trong quá trình toàn cầu hoá sự bất bình đẳng giữa các nước
phát triển và đang phát triển ngày càng gia tăng.
Toàn cầu hoá không chia đều lợi ích và rủi ro cho các quốc gia. Với ưu
thế vượt trội hẳn so với đại đa số các nước đang phát triển về tiềm lực tài chính,
khoa học công nghệ… các nước phát triển đang chi phối và lợi dụng quá trình
toàn cầu hoá kinh tế. Họ tăng cường thực hiện bá quyền về kinh tế, áp đặt các
chính sách có lợi cho họ; các nước yếu hơn sẽ chịu thiệt thòi bởi sự cạnh tranh
tàn khốc mang tính chất của cuộc chiến tranh kinh tế. Tuy mở cửa thị trường, tự
do hoá thương mại song trên thực tế hàng hoá của các nước đang phát triển vẫn
khó thâm nhập vào thị trường các nước phát triển. Hố ngăn cách giầu nghèo
giữa các nước càng gia tăng, đa phần lợi ích của toàn cầu hoá được dồn vào các
nước phát triển. Theo báo cáo của chương trình phát triển liên hợp quốc (UNDP)
toàn thế giới còn 1,2 tỷ người nghèo (thu nhập dưới 1USD/ngày), từ khi diễn ra

quá trình toàn cầu hoá đến nay trên thế giới có 10 nước giàu lên, 130 nước
nghèo đi, trong đó có 60 nước có GDP thấp hơn trước khi tham gia toàn cầu hoá.
Ba là, toàn cầu hoá diễn ra dưới sự chi phối của các nước công nghiệp
phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia.
Do có ưu thế về tiềm lực kinh tế và khoa học công nghệ các nước công
nghiệp phát triển đang khống chế cục diện kinh tế toàn cầu. Hiện nay các nước
công nghiệp phát triển với hơn 1,2 tỷ người chiếm 86% GDP của thế giới, 4/5
thị trường xuất khẩu, hơn 80% công nghệ cao và 85% giá trị FDI đầu tư ra nước
ngoài của thế giới. Thông qua sức mạnh vượt trội của mình để khống chế thị
7


trường, chi phối các vùng nguyên liệu, nhiên liệu chiến lược…và áp đặt các
chính sách, quy định có lợi cho họ; thực hiện chủ nghĩa thực dân về kinh tế,
công nghệ, môi trường…Toàn cầu hoá làm tăng tính phụ thuộc về kinh tế của
các nước đang phát triển vào các nước phát triển từ đó dẫn đến sự lệ thuộc về
chính trị, nguy hại đến chủ quyền và an ninh quốc gia. Thông qua con đường
trao đổi, hợp tác kinh tế, đầu tư, cho vay, viện trợ, … theo hướng khuyến khích
tư nhân hoá, tự do hoá tư sản, gây sức ép về dân chủ, nhân quyền, dân tộc và tôn
giáo…các thế lực tư bản đứng đầu là Mỹ muốn áp đặt chính trị tư sản với các
nước khác, thực hiện “diễn biến hoà bình” để thay đổi chế độ kinh tế-xã hội theo
hướng phương tây; với các nước XHCN là nhằm xoá bỏ chế độ và sự lãnh đạo
của Đảng. Mặt khác Mỹ và các thế lực tư bản còn sử dụng các tổ chức kinh tế,
thương mại, tài chính quốc tế do họ chi phối làm công cụ để tác động vào kinh
tế và chính trị của các nước này; chúng muốn dùng kinh tế và thông qua kinh tế
để chuyển hoá chính trị, đưa các nước đó phát triển theo quỹ đạo TBCN do Mỹ
khống chế.
Bốn là, cùng với xu hướng tự do hoá thương mại là bảo hộ mậu dịch,
toàn cầu hoá kinh tế đi đôi với phản toàn cầu hoá.
Là một quá trình kinh tế đa dạng và phức tạp, toàn cầu hoá kinh tế mang

tính hai mặt cả tích cực và tiêu cực. Một mặt, thúc đẩy tự do hoá kinh tế, thương
mại tạo điều kiện cho phát triển kinh tế các nước, giảm dần sự lạc hậu của các
nước đang và chậm phát triển, vì vậy nó cổ vũ các nước tham gia vào toàn cầu
hoá. Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế là quá trình cạnh tranh gay gắt với sự chi
phối của các nước giầu vì lợi ích của họ, nó đặt các nước đang phát triển trước
những thách thức to lớn như: sự lệ thuộc về thị trường, vốn, công nghệ, sự ô
nhiễm môi trường và cạnh tranh không bình đẳng…Do đó, đã xuất hiện xu
hướng bảo hộ mậu dịch và phản đối toàn cầu hoá để bảo vệ lợi ích của mình và
hạn chế mặt tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế. Biện pháp bảo hộ mậu dịch
không chỉ các nước đang phát triển sử dụng để chống lại tự do hoá thương mại
mà cả các nước công nghiệp phát triển. Một mặt, họ lớn tiếng hô hào tự do hoá
8


kinh tế vì ý thức rõ lợi thế của kẻ mạnh, mặt khác họ luôn giăng ra những hàng
rào vô hình và hữu hình để bảo vệ lợi ích của mình. Vụ kiện cá tra và cá ba sa
của Mỹ với Việt Nam là một điển hình. Những mặt trái của toàn cầu hoá kinh tế
là nguyên nhân của các phong trào phản đối toàn cầu hoá với các cuộc biểu tình
rầm rộ hoặc bạo động đẫm máu xẩy ra. Phần lớn các phong trào này nhằm phản
đối hoặc công kích các tổ chức: WTO, IMF, WB…tố cáo các chính phủ tư sản
và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia đang tạo ra và làm trầm trọng thêm các
bất công xã hội, phân hoá giầu nghèo, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường…Thực
chất của phản toàn cầu hoá là nhằm chống lại tính chất tư bản chủ nghĩa của
toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Sự phản đối đó chỉ thực sự mất đi khi có một toàn
cầu hoá chân chính vì con người và công bằng xã hội.
1.4. Tác động của toàn cầu hoá kinh tế đến Việt Nam.
Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính khách quan nhưng được thực
hiện bởi các chủ thể kinh tế có các lợi ích khác nhau, trong đó các nước tư bản
phát triển có vai trò chi phối. Do đó, nó chứa đựng nhiều mâu thuẫn và mang
tính hai mặt: vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực; có cả thời cơ và thách

thức với tất cả các nước, trong đó các nước đang phát triển sẽ chịu nhiều thách
thức hơn cả. Đối với nước ta, trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH,HĐH và phát
triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, từng bước hội nhập quốc tế hiện nay,
toàn cầu hoá kinh tế tất yếu sẽ tác động đến các mọi mặt của đời sống kinh tế, xã
hội. Có thể xem xét sự tác động ấy trên các mặt sau:
* Tác động tích cực
- Góp phần mở rộng và khai thông thị trường nội địa với thị trường các
nước trong khu vực và thế giới thông qua các hiệp định song phương và đa
phương, qua việc tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại trong khu vực và
thế giới. Chẳng hạn, khi chúng ta tham gia đầy đủ vào các cam kết của AFTA thì
đến năm 2006 hàng hoá của Việt Nam có thể tiêu thụ tự do ở thị trường các
nước ASEAN có dân số 500 triệu dân với thu nhập trên 700 tỷ USD. Hiện nay
chúng ta đã gia nhập WTO được hưởng quyền ưu tiên tối huệ quốc trong thương
9


mại với 153 nước thành viên. Tuy vậy, việc mở rộng thị trường ra bên ngoài còn
phụ thuộc vào khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, vào khả năng tiếp
thị của các doanh nghiệp trong quá trình mở cửa hội nhập. Theo báo cáo trên,
tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Việt Nam năm 2011 dự tính sẽ đạt con số
kỷ lục là 202 tỷ USD, bằng 170% GDP. Trong đó tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
96 tỷ USD, tăng 33% so với năm 2010; tổng kim ngạch nhập khẩu đạt 106 tỷ
USD, tăng 25%. Theo đó, nhập siêu giảm mạnh, cả năm dự kiến khoảng 10 tỷ
USD, bằng 10,5% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề
ra (không quá 18%). Cũng trong báo cáo trên, dự tính cán cân tổng thể năm
2011 sẽ thặng dư tới 3,1 tỷ USD, cao hơn cả dự báo của một lãnh đạo chuyên
trách đưa ra trước đó. Đây là sự cải thiện lớn khi năm 2009 cán cân tổng thể
thâm hụt 8,8 tỷ USD và năm 2010 thâm hụt 3,07 tỷ USD.
- Tạo khả năng thu hút các nguồn lực nước ngoài như vốn, kỹ thuật công
nghệ, kinh nghiệm quản lý tiên tiến,… Nhờ có xu hướng tự do hoá thương mại,

đầu tư…các luồng vốn, kỹ thuật công nghệ,…vận động thông thoáng tạo điều
kiện cho nước ta mở cửa thu hút các nguồn lực này đẩy mạnh CNH,HĐH. Tuy
nhiên, mức độ thu hút các ngoại lực và hiệu quả sử dụng nó còn phụ thuộc vào
chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, các chính sách kinh tế của chính phủ. Đặc
biệt, hiện nay nhiều nước trong khu vực có chính sách rất thông thoáng thu hút
ngoại lực để phát triển kinh tế như: Trung Quốc, Thái Lan, Malaixia…Trong
môi trường cạnh tranh mạnh của khu vực, Việt Nam sẽ phải làm rất nhiều việc
để có thể tận dụng tối đa những cơ hội của toàn cầu hoá mang lại. Tính đến ngày
15/12/2011, Việt Nam có 13.667 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 198 tỷ
USD, trong đó công nghiệp và xây dựng chiếm 54%. Singapore là nhà đầu tư
lớn nhất vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký 24 tỷ USD, tiếp theo lần lượt là
Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương
dẫn đầu trong thu hút FDI với 32,67 tỷ USD còn hiệu lực, tiếp theo là Bà RịaVũng Tàu, Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương.
- Góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực. Là
10


một nước có lực lượng lao động rồi rào, cần cù, thông minh, khéo léo, tuy vậy
số lao động đã qua đào tạo nghề, chuyên môn kỹ thuật còn thấp. Do đó, dẫn tới
tình trạng thừa lao động phổ thông, nhưng lại thiếu lao động và các chuyên gia
kỹ thuật công nghệ. Quá trình toàn cầu hoá kinh tế sẽ tạo môi trường mở rộng
giao lưu, khai thông nguồn nhân lực giữa nước ta và thế giới. Thông qua các
hình thức: hợp tác đào tạo, trao đổi chuyên gia, xuất khẩu lao động…sẽ góp
phần nâng cao trình độ tay nghề, tiếp thu kỹ thuật công nghệ mới, giải quyết
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Hiện nay, nước ta đã có hàng trăm
ngàn lao động và chuyên gia đang làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài,
mỗi năm gửi về nước hàng tỷ đô la.
- Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và của nền kinh tế. Tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải đối đầu với
cuộc cạnh tranh gay gắt với các công ty nước ngoài. Trong môi trường đó buộc họ

phải đổi mới công nghệ, quản lý…nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại, phát triển.
Đồng thời, qua đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ học được những tri thức kinh
doanh trong cơ chế thị trường và từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài.
- Củng cố an ninh, quốc phòng đất nước. Thông qua mở cửa, hợp tác và
hội nhập thu hút ngoại lực để tăng cường tiềm lực quốc phòng-an ninh, đồng
thời tạo ra sự đan xen về lợi ích giữa nước ta với các nước, các trung tâm quyền
lực, tạo thế và lực cho công cuộc bảo vệ đất nước.
Những tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế sẽ tạo ra những thuận
lợi cho đất nước phát triển; tuy nhiên, cần nhận thức rằng đó mới chỉ ở dạng
tiềm năng. Để trở thành hiện thực đòi hỏi sự nỗ lực rất cao của nhà nước và
nhân dân ta trong việc nhận thức và chuẩn bị những điều kiện để chủ động tham
gia vào quá trình này.
* Tác động tiêu cực
- Toàn cầu hoá làm tăng tính lệ thuộc vào nền kinh tế thế giới, như lệ thuộc về
vốn, kỹ thuật công nghệ, về thị trường…theo đó nền kinh tế dễ bị tổn thương.
Sức ép của những biến động kinh tế thế giới sẽ càng gia tăng khi tham gia
11


càng sâu, rộng vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, đặc biệt với những nước có
nền kinh tế yếu như nước ta. Nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ, bãi thải công
nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường đang là một thực tế hiện nay đối với các
nước đang phát triển nói chung và nước ta nói riêng. Các cuộc khủng hoảng
kinh tế, tài chính xẩy ra sẽ lan rộng và ảnh hưởng đến các nước, gây ra hậu quả
nặng nề. Điển hình là cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ bắt đầu nổ ra ở Thái
Lan tháng 7 năm1998 rồi lan ra các nước trong khu vực; khủng hoảng tài chính
tiền tệ toàn câu những năm gần đây; hoặc ảnh hưởng của tăng giá vàng, thép,
xăng dầu trên thị trường thế giới đến kinh tế Việt Nam trong những năm qua là
những minh chứng.
- Thúc đẩy phân hoá giầu nghèo giữa các nước, các vùng, các tầng lớp xã

hội. Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế lớn đang lôi cuốn nhiều nước, nhiều khu
vực trên thế giới tham gia. Xu thế này đang bị các nước tư bản phát triển đứng đầu
là Mỹ chi phối và lợi dụng do chiếm ưu thế về tiềm lực kinh tế, khoa học công
nghệ,…Theo đó, dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế sự phân cực giầu nghèo giữa
các nước, các vùng, các tầng lớp xã hội ngày càng gia tăng. Phần lớn những lợi ích
của toàn cầu hoá đều rơi vào tay các nước tư bản phát triển, các tập đoàn tư bản xuyên
quốc gia. Báo cáo của UNDP về sự phát triển nhân loại năm 2009 cho rằng: “Xét trên
nhiều khía cạnh thì dân số ở 85 quốc gia trên thế giới đã có mức sống thấp hơn cách
đây 10 năm, khoảng cách giữa các nước giầu và các nước nghèo ở mức báo động.
Trong khi các nước công nghiệp phát triển chỉ với 1,2 tỷ người (1/5 dân số thế giới )
hiện đang chiếm 86% GDP toàn cầu thì 1/5 dân số thuộc các nước nghèo nhất chỉ
chiếm 1% GDP toàn thế giới mà thôi”.
Là một nước có nền kinh tế chậm phát triển tham gia vào quá trình toàn cầu hóa kinh
tế, Việt Nam đang phải đối mặt với các nguy cơ: tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các
nước trong khu vực và thế giới, sự phân hóa giầu nghèo giữa các vùng, miền…
- Nguy cơ bị chèn ép, áp đặt và thôn tính do cạnh tranh không cân sức
với các công ty lớn của các nước tư bản phát triển.
Việt Nam tham gia hội nhập từ một nền kinh tế còn lạc hậu, sức cạnh tranh
12


của doanh nghiệp và của nền kinh tế thấp, trình độ quản lý, kinh doanh yếu lại
phải đương đầu cạnh tranh với các công ty tư bản có tiềm lực tài chính mạnh,
công nghệ hiện đại, do vậy, chúng ta rễ bị chèn ép, thua thiệt là điều không tránh
khỏi. Việc tham gia vào các định chế kinh tế, thương mại khu vực và toàn cầu
như WTO, AFTA…theo đó nước ta sẽ phải dỡ bỏ hàng rào thuế quan theo lộ
trình, hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào thị trường nước ta đặt các doanh nghiệp
trong nước trước nguy cơ phá sản do cạnh tranh không cân sức.Toàn cầu hoá
kinh tế luôn bị các nước công nghiệp phát triển chi phối và lợi dụng. Một mặt họ
hô hào mở cửa thị trường, tự do hoá thương mại, bình đẳng đối sử; nhưng mặt

khác họ vẫn áp dụng các hình thức bảo hộ cả công khai (như hạn ngạch), hoặc
trá hình (như các quy định tiêu chuẩn chất lượng, môi trường, điều kiện lao
động…), sử dụng các chiêu bài “sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp” để ngăn cản
các nước nghèo tiếp cận công nghệ mới.
- Toàn cầu hoá tạo môi trường thuận lợi cho các tệ nạn xã hội, tội phạm,
buôn lậu quốc tế, các văn hoá phẩm đồi truỵ lan truyền và phổ biến trên phạm vi
toàn cầu. Tạo cơ hội cho các thế lực thù địch đứng đầu là Mỹ thực hiện “diễn
biến hoà bình” đối với nước ta. Vấn đề văn hoá dân tộc, độc lập, chủ quyền, an
ninh quốc gia đứng trước thách thức to lớn do tác động của toàn cầu hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan, tác động đến mọi nước trong đó
có Việt Nam, có cả mặt tích cực và cả mặt tiêu cực; vừa tạo ra thời cơ và những
thuận lợi cho sự phát triển, vừa mang lại những khó khăn thách thức cần phải
vượt qua. Chúng ta cần phê phán cách xem xét, nhìn nhận giản đơn, phiến diện
về sự tác động của toàn cầu hóa kinh tế, hoặc chỉ thấy mặt tích cực mà dẫn tới
chủ quan, nóng vội trong mở cửa, hội nhập; hoặc chỉ thấy mặt tiêu cực của nó
dẫn tới chần chừ, do dự, bỏ lỡ cơ hội trong sự phát triển. Do đó, cần nhận thức
quá trình này một cách khách quan, toàn diện, lịch sử và phát triển; tích cực và
chủ động chuẩn bị điều kiện đưa đất nước hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
13


2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi tất yếu của sự phát triển đất nước.
* Quan niệm về hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh tế và khoa
học công nghệ giữa các nước trên quy mô toàn cầu; là quá trình tham gia
giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội có tính chất toàn cầu như vấn đề dân số,
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sống…, là quá trình tham gia loại
bỏ dần các hàng rào trong thương mại, thanh toán quốc tế và việc di chuyển
các nhân tố sản suất giữa các nước.

Hiện nay trên thế giới đã hình thành nhiều hình thức, nhiều mức độ hội
nhập kinh tế quốc tế như: Hiệp hội thương mại, Liên minh thuế quan, Thị trường
chung, Liên minh tiền tệ…Tham gia vào các thể chế kinh tế đó đã trở thành xu
hướng chung của nhiều nước hiện nay.
Hội nhập kinh tế quốc tế xét về thực chất là quá trình mở cửa nền kinh tế
nhằm kết hợp các nguồn lực trong nước với nguồn lực nước ngoài để phát triển
và xác lập vị trí của mình trong quan hệ kinh tế quốc tế. Đó là quá trình thực
hiện những điều chỉnh về chính sách, luật lệ trong nước cho thích ứng với tình
hình và thông lệ quốc tế; đồng thời thực hiện sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm
phát huy lợi thế so sánh, nâng cao sức cạnh tranh của mình trong quan hệ kinh tế
quốc tế.
* Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi khách quan bắt nguồn từ các lý do sau:
Một là, toàn cầu hoá kinh tế đã trở thành một xu thế khách quan của thời
đại đang lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia mà Việt nam không thể đứng
ngoài cuộc. Bản thân xu thế này không chỉ có mặt tiêu cực, mà có cả những mặt
tích cực mà các nước tham gia có thể khai thác để củng cố, phát triển nền kinh tế
độc lập tự chủ của mình.
Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế còn bắt nguồn từ nhận thức mới về xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong môi
trường toàn cầu hoá không có nghĩa là nền kinh tế đóng cửa, khép kín; ngược
lại, đó phải là một nền kinh tế mở cửa, có quan hệ rộng mở với tất cả các nước
14


trong cộng đồng thế giới. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tiếp thêm
sinh lực mới cho việc củng cố nền kinh tế độc lập tự chủ mà còn góp phần
khẳng định vị trí của đất nước trong thế giới hiện nay.
Ba là, do yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong sự nghiệp CNH,HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay, Việt Nam phải tranh thủ những cơ hội do tiến trình toàn cầu hoá đem

đến về vốn, kĩ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý…trên cơ sở phát huy các
lợi thế so sánh của mình về tài nguyên, về lao động rẻ, về thị trường…để thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ đẩy nhanh sự phát triển kinh
tế. Do đó, hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo điều kiện để kết hợp nội lực với ngoại
lực thành sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước hiện nay.
Hội nhập kinh tế quốc tế là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng CNXH ở
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, cũng cần nhận rõ những bất lợi và thách thức khi tham
gia hội nhập kinh tế quốc tế như: cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, nền kinh tế rễ bị tổn
thương, sự lệ thuộc vào nước ngoài về vốn, công nghệ, thị trường…Do vậy, để bảo vệ
độc lập chủ quyền và định hướng XHCN nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
để hội nhập kinh tế quốc tế một cách tích cực và chủ động.
* Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hành vi có ý thức, tự giác của
nhà nước, doanh nghiệp trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược
kinh tế - xã hội, chiến lược đầu tư, sản xuất kinh doanh trên cơ sở lộ trình,
hình thức và bước đi đã lựa chọn nhằm phát triển có hiệu quả những lợi thế
của đất nước và tránh được những tác động tiêu cực trong quá trình hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải tích cực trong công tác
chuẩn bị các điều kiện, có kế hoạch cụ thể với lộ trình, bước đi phù hợp, không
nóng vội giản đơn, nhưng cũng không chần chừ do dự, bỏ lỡ thời cơ. Kết hợp
chặt chẽ giữa nội lực với ngoại lực tạo sức mạnh tổng hợp trong đó nội lực có
vai trò quyết định. Quá trình hội nhập cũng là quá trình chủ động đẩy nhanh các
15


cuộc đàm phán song phương, đa phương để gia nhập vào các liên kết kinh tế khu
vực và toàn cầu tạo ra thế và lực mới để hội nhập có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, do
tính phức tạp của quá trình toàn cầu hoá đòi hỏi phải khéo léo trong giải quyết
mối mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, giữa kinh tế và chính trị, xã hội,

giữa kinh tế đối ngoại với an ninh quốc phòng…nhằm giữ vững độc lập chủ
quyền và định hướng XHCN trong quá trình hội nhập. Văn kiện Đại hội X của
Đảng chỉ rõ: Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có
lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng cũng
không được nóng vội, giản đơn.
Theo tinh thần đó, những năm qua chúng ta đã thực hiện đường lối đối
ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, nền
kinh tế nước ta đã từng bước hội nhập với khu vực và thế giới. Đến nay, nước ta
đã phát triển quan hệ đầu tư với gần 70 nước và lãnh thổ; bình thường hoá quan
hệ với các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế như WB, IMF, ADB; gia nhập
ASEAN; tham gia diễn đàn Á- Âu (ASEM); gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á- Thái bình dương (APEC); trở thành quan sát viên của WTO và đang
đàm phán để gia nhập tổ chức này. Nước ta đã ký hiệp định khung về hợp tác
kinh tế với Liên minh châu Âu và hiệp định song phương với Hoa Kỳ theo
chuẩn mực của WTO; đã có quan hệ thương mại với gần 170 nước và vùng lãnh
thổ. Nhờ có bước đi vững chắc trong quá trình chủ động hội nhập vừa qua, nước
ta đã mở rộng được quan hệ kinh tế đối ngoại; phá được thế bao vây, cấm vận
của các thế lực thù địch, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc; nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, hạn
chế được ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở khu vực
trong những năm 90 của thế kỷ XX; đã thu hút được một số lượng đáng kể
nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, tiếp thu những thành tựu mới về khoa họccông nghệ, về quản lý tiên tiến; bước đầu đưa hoạt động của doanh nghiệp và
nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh, tạo lập tư duy mới cho đội ngũ cán bộ
quản lý và kinh doanh thích nghi dần với điều kiện mới, tạo tiền đề để đẩy mạnh
16


quá trình hội nhập kinh tế quốc tế những năm tiếp theo.
Tuy vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vừa qua cũng bộc lộ những
mặt yếu kém. Đó là nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập kinh tế

quốc tế chưa đạt được sự nhất trí cao và nhất quán; một bộ phận cán bộ nhận
thức chưa đầy đủ về cơ hội và những thách thức nảy sinh, dẫn đến chậm trễ
trong công tác chuẩn bị; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm chưa phát huy đựơc
tốt hơn những lợi thế so sánh của đất nước; sức cạnh tranh của doanh nghiệp và
của nền kinh tế còn yếu; cơ chế, chính sách, luật pháp chưa đồng bộ, còn thiếu,
chưa phù hợp với thông lệ và các cam kết quốc tế; bộ máy và cán bộ quản lý
còn nhiều bất cập,… những yếu kém đó đã cản trở và gây ra những bất lợi trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà nước ta phải vượt qua.
* Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế
Nội dung hội nhập là những yêu cầu mà các nước tham gia vào các tổ
chức kinh tế khu vực và thế giới cam kết thực hiện. Cam kết kinh tế mang tính
toàn cầu là tổ chức thương mại thế giới (WTO), được thành lập năm 1995 từ tổ
chức tiền thân là hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) thành lập
năm 1947. Nguyên tắc hoạt động của WTO đưa ra là không phân biệt đối xử,
tiếp cận thị trường, cạnh tranh công bằng, giành ưu đãi cho các nước chậm phát
triển. Do đó, nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế là mở cửa thị trường
cho nhau, thực hiện thuận lợi hoá, tự do hoá thương mại và đầu tư.
- Về thương mại hàng hoá: bãi bỏ hàng rào phi thuế quan như hạn ngạch,
giấy phép xuất nhập khẩu và thay vào đó là thuế; biểu thuế nhập khẩu được giữ
hiện hành và giảm dần theo lịch trình thoả thuận. Các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật, dịch tễ, môi trường… được áp dụng trên cơ sở khoa học và công bằng
không lạm dụng để cản trở thương mại.
- Về thương mại dịch vụ: Các nước mở cửa thị trường cho nhau với cả 4
phương thức cung cấp dịch vụ như: cung cấp dịch vụ qua biên giới, sử dụng dịch
vụ ngoài lãnh thổ, thông qua liên doanh, sử dụng thể nhân người nước ngoài.
- Về đầu tư: Thực hiện các cam kết trong lĩnh vực đầu tư theo hướng thuận
17


lợi hóa các điều kiện và lĩnh vực đầu tư, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, thông

thoáng cho các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc điều chỉnh hệ thống luật
pháp, cơ chế chính sách đồng bộ. Tuân thủ nguyên tắc “không phân biệt đối xử”
mà WTO và BTA của các nước với Việt Nam đưa ra. Nguyên tắc này được thể hiện
các qui chế: Quy chế tối huệ quốc – MFN và Quy chế đối xử quốc gia – NT.
- Về tài chính tiền tệ: Tham gia vào các tổ chức tiền tệ, tài chính, ngân
hàng thế giới và khu vực như WB, IMF, ADB, tham gia vào các thị trường tài
chính tiền tệ như bảo hiểm, chứng khoán; điều chính các cơ chế, chính sách, luật
pháp theo các quy định của WTO để mở cửa các thị trường tiền tệ, tài chính
ngân hàng.
- Về khoa học công nghệ: thực hiện các cam kết song phương và đa
phương trong các chương trình hoạt động nghiên cứu, triển khai, chuyển giao
khoa học công nghệ, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bằng phát minh sáng chế.
2.2. Những thành tựu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam
- Về quan hệ hợp tác song phương, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại
giao với hơn 170 quốc gia trên thế giới, mở rộng quan hệ thương mại, xuất khẩu
hàng hoá tới trên 230 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ[1], ký kết trên 90
Hiệp định thương mại song phương, gần 60 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ
đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều Hiệp định hợp tác về văn
hoá song phương với các nước và các tổ chức quốc tế.[2]
Việt Nam đã thiết lập quan hệ tốt với tất cả các nước lớn, trong đó có 5
nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (P5), các nước trong nhóm
G8; nâng quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc trở thành đối tác chiến
lược toàn diện, gia tăng nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược với Nga, thiết
lập quan hệ đối tác chiến lược với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Anh, Tây Ban
Nha. Số lượng các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài cũng tăng lên (91 cơ
quan) với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán, 4 phái đoàn thường trực bên
cạnh các tổ chức quốc tế, 1 văn phòng kinh tế văn hóa.
18



- Về hợp tác đa phương và khu vực: Việt Nam đã có mối quan hệ tích cực
với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Á Châu, Quỹ
tiền tệ thế giới, Ngân hàng thế giới. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam được đẩy mạnh và đưa lên một tầm cao hơn bằng việc tham gia các tổ chức
kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa
phương. Tháng 7/1995 Việt Nam đã gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á (ASEAN) và chính thức tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA)
từ 1/1/1996. Đây được coi là một bước đột phá về hành động trong tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đó, năm 1996 Việt Nam tham gia sáng
lập Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) và đến năm 1998, Việt Nam được kết nạp
vào Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC).
Đặc biệt, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã có một bước
đi quan trọng khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) vào ngày 11 tháng 01 năm 2007 sau 11 năm đàm phán gia
nhập Tổ chức này.
Tình hình Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
có một số điểm nổi bật sau:
1) Việt Nam đang tích cực tham gia và phát huy vai trò thành viên trong
các tổ chức kinh tế quốc tế.
Với tư cách là thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế: WTO, ASEAN,
APEC, Việt Nam đã nỗ lực thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết và tích cực
tham gia các hoạt động trong khuôn khổ các tổ chức này. Cụ thể như sau:
* Trong khuôn khổ WTO:
Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách chính sách
thương mại theo hướng minh bạch và tự do hóa hơn, việc cải cách này thể hiện
ở các cam kết đa phương về pháp luật và thể chế cũng như các cam kết mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ.
Việt Nam đã thực hiện đúng các cam kết đa phương và các cam kết mở cửa
thị trường hàng hoá, dịch vụ cũng như các biện pháp cải cách đồng bộ nhằm tận

19


dụng tốt các cơ hội và vượt qua thách thức trong giai đoạn ta hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế toàn cầu.
Là thành viên của WTO, ta đã cố gắng tham gia tích cực các cuộc đàm
phán trong khuôn khổ WTO ở các nội dung có liên quan đến Việt Nam có liên
quan đến Việt Nam như nông nghiệp, công nghiệp, sở hữu trí tuệ, trợ cấp thủy
sản và chương trình hỗ trợ thương mại của WTO... Vệt Nam đang tích cực chuẩn
bị cho phiên rà soát chính sách thương mại lần đầu tiên của Việt Nam, dự kiến diễn
ra trong khoảng thời gian đầu năm 2013.
* Trong khuôn khổ ASEAN
Sau 16 năm tham gia Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN, 19952011), mối quan hệ hợp tác khu vực giữa Việt Nam với ASEAN ngày càng phát triển
toàn diện và có tác động sâu sắc tới đời sống kinh tế, xã hội và chính trị của Việt
Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên các diễn đàn hợp tác khu vực và
thế giới. Đối với Việt Nam, ASEAN luôn là đối tác thương mại và đầu tư lớn nhất
(riêng năm 2009, ASEAN là nhà đầu tư lớn thứ 2 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ).
Việc thực hiện các cam kết hội nhập sâu rộng nhằm xây dựng Cộng đồng
ASEAN vào năm 2015 đã đóng góp thiết thực cho việc cải thiện môi trường luật
pháp trong nước, tạo thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài, cũng như làm cơ sở, làm tiền đề giúp Việt Nam tham gia các
khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương khác.
Sau khi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Chủ tịch luân phiên của ASEAN vào
năm 2010, trong năm 2011, Việt Nam đã tích cực tham gia các chương trình hợp
tác nhằm thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Cho tới nay, Việt Nam là
một trong số các nước có tỷ lệ thực hiện cao các biện pháp và sáng kiến đề ra
trong Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN.
* Trong khuôn khổ APEC
Đối với Việt Nam, Diễn đàn APEC có ý nghĩa hết sức quan trọng. APEC là
khu vực dành viện trợ phát triển lớn nhất, chiếm tới 65% tổng số vốn đầu tư nước

ngoài, 60% giá trị xuất khẩu, 80% giá trị nhập khẩu, và 75% tổng số khách du lịch
20


quốc tế tới Việt Nam. Hầu hết các đối tác chiến lược quan trọng và các đối tác kinh
tế - thương mại hàng đầu của ta là các nền kinh tế thành viên của APEC.
Kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn APEC năm 1998,
Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các cam kết hợp tác của APEC như Báo cáo
về Chương trình Hành động Quốc gia hàng năm, thực hiện Chương trình Hành
động tập thể, các kế hoạch hợp tác về thuận lợi hoá thương mại, đầu tư... Ta
cũng đảm nhận vị trí Chủ tịch và điều hành nhiều Nhóm công tác quan trọng
như Nhóm Công tác Y tế nhiệm kỳ 2009 - 2010, Nhóm công tác về Đối phó với
tình trạng khẩn cấp, Nhóm công tác về thương mại điện tử… Việt Nam đã triển
khai thành công hơn 60 sáng kiến, đồng bảo trợ hàng trăm sáng kiến trên hầu hết
các lĩnh vực thương mại, đầu tư, hợp tác kinh tế kỹ thuật, y tế, đối phó với thiên
tai, chống khủng bố... Việt Nam đã được đánh giá là một trong những thành viên
năng động, đã có nhiều sự đóng góp tích cực cho Diễn đàn APEC.
* Trong khuôn khổ ASEM
Là diễn đàn đại diện hơn 60% dân số thế giới và đóng góp hơn 50% tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) toàn cầu, ASEM không chỉ là cầu nối cho quan hệ đối
tác mới giữa hai châu lục Á-Âu mà còn hướng tới mục tiêu đem lại những đóng
góp thiết thực cho hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới.
Trong hai năm qua (2010-2011), Việt Nam đã tích cực đề xuất và triển khai
nhiều sáng kiến, hoạt động của ASEM, nổi bật là việc tổ chức thành công nhiều
hội thảo quan trọng như "Hội thảo về tăng cường hình ảnh ASEM thông qua các
hoạt động văn hóa", "Hội thảo ASEM về vượt qua khủng hoảng- định hình sự
phát triển bền vững", "Diễn đàn ASEM về an ninh lương thực", "Diễn đàn
ASEM về biến đổi khí hậu", "Diễn đàn ASEM về lưới an toàn xã hội", Diễn đàn
Á – Âu (ASEM) về tăng trưởng xanh với chủ đề: “Cùng hành động hướng tới
các nền kinh tế xanh tăng”…

2) Việt Nam đang tích cực tham gia vào đàm phán, ký kết các Hiệp định
thương mại tự do
Trong những năm gần đây, thế giới đang được chứng kiến sự gia tăng
21


nhanh chóng của các Hiệp định thương mại tự do (FTA) để thiết lập các Khu
vực thương mại tự do. Phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế của thế
giới và khu vực, tiến trình đàm phán và ký kết các FTA của Việt Nam đã được
khởi động và triển khai cùng với tiến trình gia nhập các tổ chức quốc tế và khu
vực. Đến nay, Việt Nam đã tham gia thiết lập FTA với 15 nước trong khung khổ
của 6 FTA khu vực, bao gồm:
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) được thiết lập bởi Hiệp định
ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung từ năm 1996; mở rộng sang lĩnh vực đầu tư
bởi Hiệp định khu vực đầu tư ASEAN (AIA) từ năm 1998 sau đó được thay thế
bằng Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Trung Quốc được thiết lập bởi Hiệp
định khung về hợp tác kinh tế quốc tế ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) năm
2002 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN – Trung Quốc (ACTIG) năm
2004, thực hiện từ 1/7/2005; riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Biên bản
ghi nhớ Việt Nam – Trung Quốc (tháng 7/2005).
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN- Hàn Quốc được thiết lập bởi Hiệp định
hàng hoá ASEAN-Hàn Quốc (AKTIG) ký tháng 8 năm 2006, thực hiện từ 1/6/2007.
Khu vực thương mại tự do ASEAN – Nhật Bản được thiết lập bởi Hiệp định đối tác
Kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) ký kết năm 2003, thực hiện từ năm
1998, riêng Việt Nam còn được điều chỉnh bởi Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam –
Nhật Bản (VJEPA) năm 2008; thực hiện từ 1/1/2009.
+ Khu vực thương mại tự do ASEAN – Úc và Niu Dilân được thiết lập bởi
Hiệp định thương mại tự do và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện ASEAN – Úc và
Niu Dilân (AANZCERFTA), ký kết từ tháng 2/2009, thực hiện từ 1/1/2010.

+ Khu vực thương mại tự do ASEAN - Ấn độ bước đầu hình thành và thiết
lập bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Ấn độ
(AICECA) ký năm 2003 và Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN - Ấn độ
(AITIG) ký kết năm 2009, thực hiện từ 01/06 năm 2010.
Ngoài việc ký kết và tham gia các Hiệp định Thương mại tự do với tư cách là
22


thành viên khối ASEAN thì Hiệp định Thương mại tự do đầu tiên mà Việt Nam ký kết
với tư cách là một bên độc lập là Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (2008),
tiếp đó là Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Chi Lê (11/11/2011). Hiện Việt Nam
đang nghiên cứu tiền khả thi và triển khai đàm phán FTA với một số đối tác như EFTA
(bao gồm 4 nước là Thuỵ Sỹ, Na Uy, Liechtenstein và Ai-xơ-len), Liên minh Hải quan
(bao gồm 3 nước là Nga, Belarus và Kazakhstan), EU, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ... Việt
Nam cũng đã chính thức tham gia vào đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược
xuyên Thái Bình Dương (TPP) từ tháng 11/2010.
3) Việt Nam đã và đang thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế với
mức độ tự do hoá sâu rộng
* Các cam kết trong khuôn khổ WTO:
Toàn bộ các cam kết về thuế quan của Việt Nam trong WTO được thể hiện
trong Biểu cam kết về Hàng hoá của Việt nam:
- Việt Nam cam kết ràng buộc với toàn bộ Biểu thuế nhập khẩu hiện hành
gồm 10.600 dòng thuế.
- Thuế suất cam kết cuối cùng có mức bình quân giảm đi 23% so với mức
thuế bình quân hiện hành (thuế suất MFN) của Biểu thuế (từ 17,4% xuống còn
13,4%). Thời gian thực hiện sau 5- 7 năm.
- Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam cắt giảm thuế với khoảng 3.800
dòng thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế);
* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong các FTA khu vực
- Về mức độ tự do hoá: cơ bản là cao hơn mức cam kết gia nhập WTO của Việt

Nam. Trong đó, khoảng 90% số dòng thuế (tính theo dòng thuế của kim ngạch nhập
khẩu) với khung thời gian thực hiện cắt giảm xuống 0% trong vòng 10 năm, có một số
ít tỉ lệ dòng thuế được phép linh hoạt trong khoảng thời gian kéo dài thêm 2 – 6 năm.
Trong đó, mức độ tự do hoá trong cam kết AFTA/CEPT/ATIGTA cao nhất (99 dòng
thuế 8 số), thấp nhất là trong cam kết AIFTA/AITIG (80 dòng thuế 6 số) và trong cam
kết AJCEP (88,6% dòng thuế 10 số).
- Về lộ trình cắt giảm thuế: Với AFTA, ACFTA và AKFTA việc giảm thuế
23


sẽ được thực hiện theo lộ trình qui định cho các bước giảm thuế hàng năm
(AFTA: 1996 – 2006 – 2015 – 2018, AKFTA: 2007 – 2016 – 2018). Mô hình
giảm thuế đối với các FTA còn lại (AJCEP, AIFTA, AANZFTA, VJEPA) sẽ cắt
giảm dần đều từng năm để đạt mức thuế suất cuối cùng theo cam kết. (AJCEP:
2008 – 2018 – 2024, VJEPA: 2009 – 2019 – 2015, AANZFTA: 2010 – 2018 –
2020, và AIFTA: 2010 – 2018 – 2021).
* Cam kết thuế quan của Việt Nam trong FTA Việt Nam – Chi Lê
- Việt Nam cam kết xoá bỏ thuế quan đối với 87,8% số dòng thuế trong
biểu thuế nhập khẩu hiện hành (chiếm 91,22% kim ngạch nhập khẩu từ Chi lê
sang Việt Nam năm 2007) trong vòng 15 năm. Trong 12,2% số dòng thuế còn lại
có 4,08% số dòng thuế thuộc danh mục loại trừ (không tham gia giảm, xoá bỏ
thuế), 3,37% số dòng thuế được giữ nguyên thuế suất cơ sở và 4,75% số dòng
thuế được giảm thuế một phần.
4) Việt Nam đã và đang gặt hái được những thành tựu trong việc tự do hoá
thương mại và mở cửa thị trường
- Thời kỳ 2001-2010, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình
quân 17,42%, cao hơn 2,42% so với chỉ tiêu đề ra tại Chiến lược phát triển xuất
khẩu 2001-2010.
Tính riêng trong giai đoạn 2007-2010, là giai đoạn sau khi gia nhập WTO,
xuất khẩu tăng bình quân 14% năm, nhập khẩu tăng bình quân 11% năm.

Đến năm 2011, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa
xuất khẩu đạt 96,3 tỷ USD là là mức cao nhất từ trước tới nay, tăng 33,3% so với
kỷ lục đạt được trong năm 2010. Đồng thời, mức nhập siêu của năm 2011 là
mức thấp nhất trong vòng 5 năm qua.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 đã có sự
chuyển dịch khá tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến và
giảm dần hàng xuất khẩu thô. Trong đó, tỷ trọng của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ
sản giảm dần từ 29,37% năm 2001 xuống còn 23,3% vào năm 2010; nhóm hàng
công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp đã tăng mạnh từ 35,72% vào năm
24


2001, lên 48,9% năm 2010; nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản giảm từ 34,92%
năm 2001 xuống còn 27,8% năm 2010.
- Thị trường ngoài nước ngày càng mở rộng, đa dạng. Số lượng thị trường
xuất khẩu đã tăng gấp hơn 1,4 lần sau 10 năm, từ 160 thị trường lên trên 230 thị
trường. Cơ cấu thị trường xuất, nhập khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng
giảm dần lệ thuộc vào thị trường Châu Á.
2.3. Những định hướng chủ yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhận thức rõ xu thế khách quan của toàn cầu hoá kinh tế, Đảng ta đã từng
bước đề ra chủ trương về hội nhập kinh tế trong quá trình đổi mới, mở cửa, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Văn kiện đại hội VII, Đảng ta
xác định đường lối đối ngoại “độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá”,
“Việt nam sẵn sàng là bạn của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”. Đại hội Đảng lần thứ VIII cụ thể hoá và chỉ rõ
nhiệm vụ: mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức
quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Đến đại hội IX, Đảng ta tiếp tục khảng định: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững. Nghị quyết 07.NQ/TW của Bộ Chính Trị Đảng

cộng sản Việt Nam ngày 27/11/2001 đã cụ thể hóa chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế thành nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hiện nay. Văn kiện
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ,
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có
trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc tế theo
những định hướng chủ yếu sau:
* Mục tiêu của chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là nhằm củng cố và mở
rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh
CNH,HĐH theo định hướng XHCN, thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội
25


×