1
Chuyên đề 3
MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRUNG QUỐC
Mặc dù cho đến nay, Trung Quốc vẫn thường được các học giải và các nhà
phân tích chính sách liệt kê vào số các nền kinh tế chuyển đổi, song kinh nghiệm
xây dựng và thực thi mô hình kinh tế thị trường cần được xem xét một cách
riêng rẽ. Điều này có nguyên nhân: Trung Quốc gặt hái được những thành tựu to
lớn trong cải cách kinh tế khiến cả thế giới phải khâm phục và thừa nhận. Trung
Quốc là nước duy nhất (trước cả Việt Nam) đã bắt đầu sự nghiệp xây dựng
khung lý luận và thử nghiệm trên thực tế mô hình kinh tế thị trường XHCN đặc
sắc Trung Quốc. Việt Nam đang trong quá phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, vì vậy việc nghiên cứu mô hình này có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn bổ ích.
1. Sự ra đời và các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa Trung quốc.
Thời điểm đánh dấu sự thay đổi có tính lịch sử chính thức chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc là Hội nghị Trung ương 3, khóa XI Đảng cộng sản Trung Quốc,
tháng 12 - 1978. Hội nghị này đã đưa ra những quyết định quan trọng cho
quá trình chuyển đổi nền kinh tế, đặc biệt bắt đầu chú ý coi trọng quy luật
giá trị. Quá trình cải cách, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang kinh tế thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với những bước đi thận
trọng, từ thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm, sau đó mới mở rộng trong từng
ngành và toàn bộ nền kinh tế qua các giai đoạn khác nhau.
Năm 1984, trên cơ sở những đổi mới ban đầu, Trung Quốc đã chính
thức thừa nhận nền kinh tế của đất nước là kinh tế hàng hóa và một số công
cụ điều tiết kinh tế vĩ mô theo cơ chế thị trường đã được thử nghiệm.
2
Năm1993, Trung Quốc đã chính thức tuyên bố xây dựng nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung
chính thức được thay thế bằng cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước.
Sự chuyển đổi cơ chế này là một nhân tố quan trọng của quá trình chuyển đổi
mô hình kinh tế ở Trung Quốc.
Về phương diện lý luận, Trung Quốc đã có sự nghiên cứu và chuẩn bị khá
kỹ những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường. Quan điểm chính thống của Trung
Quốc cho rằng, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ
đoạn kinh tế có hiệu quả cao, nó không có vấn đề “họ xã” hay “họ tư”; mọi quốc
gia đều cần sử dụng nó. Song vẫn có sự phân biệt về bản chất giữa “kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa“ và “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa“. Sự phân biệt
này chủ yếu thể hiện ở hai mặt: cơ sở của chế độ sở hữu và chế độ phân phối.
Với sở hữu, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở,
còn kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở. Tuy lấy
sở hữu công cộng làm cơ sở nhưng không có nghĩa là sở hữu công cộng thuần
nhất, tuyệt đối, mà sở hữu công cộng ở những ngành, những lĩnh vực nào nhằm
giữ vai trò chủ đạo đối với các hình thức sở hữu khác như: cá thể, tư nhân, hỗn
hợp. Và cũng không có nghĩa là, kinh tế công hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ
trọng với từng ngành kinh tế đến đâu cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự
phát triển của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định, kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào trong tay một số ít cá nhân
như kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung cho
mọi tầng lớp dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là chính,
nhưng cũng chấp nhận các hình thức phân phối khác. Tuy nhiên, sự khác biệt về
bản chất giữa kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa nêu trên, hiện vẫn không ít học giả cho rằng, đấy là những luận điểm
thiếu chính xác, quá co dãn, gượng ép và không thuyết phục, do đó vẫn còn
3
nhiều tranh cãi.
Phân đoạn một cách tương đối, thì quá trình chuyển sang kinh tế thị trường
của Trung Quốc từ tháng 12 - 1978 đến nay có thể chia thành 5 giai đoạn và
được thực hiện tập trung vào những vấn đề chính như sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Thay đổi phương thức quản lý, từ kế hoạch hóa tập
trung sang quản lý theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, mà hạt nhân là từ bỏ
cách Chính phủ trực tiếp quản lý nền kinh tế, thực hiện quản lý gián tiếp từ sản
xuất kinh doanh đến lĩnh vực phân phối; tách chức năng quản lý hành chính ra
khỏi chức năng kinh doanh; tách quyền sở hửu với quyền kinh doanh; mở rộng
quyền tự chủ cho các địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước theo phương
thức “đẩy xí nghiệp ra thị trường“.
- Giai đoạn thứ hai: Cải cách giá. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng gay
go nhất trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Quá trình tự do
hóa giá cả được thực hiện qua các giai đoạn khác nhau. Từ việc điều chỉnh giá
nhiều mặt hàng theo chế độ hai giá là giá quy định và giá hướng dẫn, đồng thời
thả nổi giá cả hàng nông sản và hàng công nghiệp nhẹ; cho đến việc bãi bỏ tem
phiếu, thực hiện giá cả thị trường tự do với nhiều loại nguyên, vật liệu; thừa
nhận tư liệu sản xuất, thông tin khoa học, kỹ thuật, tiền tệ, sức lao động, đất
đai… là hàng hóa. Đến nay, khoảng 75% vật tư và toàn bộ hàng nông sản là do
thị trường quyết định giá; hàng tiêu dùng do Nhà nước chỉ định giá chỉ chiếm
khoảng 10% tổng doanh thu.
- Giai đoạn thứ ba: Hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất.
Chính phủ ban hành luật pháp và các chính sách để thúc sự hình thành và phát
triển các loại thị trường như: thị trường kỹ thuật, vật tư, vốn, sức lao động, đất
đai… Sự xuất hiện và phát triển hệ thống thị trường đã làm cho cơ chế thị
trường ở Trung Quốc hoạt động ngày càng linh hoạt, mềm dẻo và rộng khắp
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Giai đoạn thứ tư: Đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo môi trường thuận
4
lợi cho sự phát triển của mọi thành phần kinh tế; thừa nhận chính thức sự tồn tại
lâu dài và khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh quá trình cấu
trúc lại kinh tế Nhà nước. Vì vậy, kinh tế tư nhân trong nước ngày càng được
khuyến khích phát triển mạnh bằng những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng…
và được liên doanh, liên kết với kinh tế nước ngoài.
- Giai đoạn thứ năm: Hình thành phong cách kinh doanh thích ứng với kinh
tế thị trường và kinh doanh quốc tế; tự do hóa thương mại; mở rộng quan hệ
kinh tế đối ngoại, gia nhập WTO.
Tóm lại: Quá trình chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế
thị trường ở Trung Quốc được thực hiện với nhiều bước đi, nhưng luôn luôn
nhất quán. Và thực tiễn đã chứng minh rằng, xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường của Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đứng vào hàng cao nhất thế giới trong hơn 20 năm qua.
2. Bản chất xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường Trung Quốc
Sau một phần ba thế kỷ thực hiện công cuộc cải cách, Trung Quốc đã đạt
được những thành tựu kinh tế - xã hội to lớn cả thế giới phải khâm phục. Kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc là vấn đề mới và có nội hàm vô
cùng phong phú, đang trong quá trình hình thành và phát triển cùng với công
cuộc cải cách của nhân dân Trung Quốc. Việc làm sáng rõ bản chất của chủ
nghĩa xã hội và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn to lớn, là đòi hỏi khách quan của công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã
hội nói chung cũng như ở Trung Quốc nói riêng.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã bàn về những đặc trưng cơ bản
của chủ nghĩa xã hội từ những góc độ khác nhau, nhưng tuyệt nhiên không dùng
từ “bản chất” để khái quát chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở phát triển nội dung cốt
lõi, thực chất quan niệm Mácxít về chủ nghĩa xã hội, đồng thời tổng kết lịch sử
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn, ông Đặng Tiểu Bình đã đưa ra quan
5
niệm mới về bản chất chủ nghĩa xã hội: “Bản chất của chủ nghĩa xã hội là giải
phóng lực lượng sản xuất, xóa bỏ bóc lột, loại bỏ phân hóa hai đầu, cuối cùng
là cùng giàu có”1. Tư tưởng nêu trên thể hiện được những vấn đề có tính nguyên
tắc của chủ nghĩa xã hội:
Một là, giữ vững và kiên trì chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đồng thời
khắc phục những những quan điểm phiến diện quá cường điệu mặt quan hệ sản
xuất tới mức tách rời lực lượng sản xuất, chỉ bàn luận chung chung về chủ nghĩa
xã hội, do đó góp phần nâng cao nhận thức khoa học về chủ nghĩa xã hội.
Hai là, bảo đảm sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa; giữa nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội; giữa
cơ sở vật chất và quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội; sự thống nhất giữa
phương tiện phát triển và mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.
Ba là, “Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất” là nhu cầu bức thiết phải
đặc biệt được chú trọng trong suốt thời kỳ lịch sử lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội
nhất là trong giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.
Bốn là, khi đã xây dựng chế độ cơ bản của chủ nghĩa xã hội phải dần dần
giải phóng sức lao động thông qua cải cách.
Năm là, cách thức để Trung Quốc giữ vững và phát triển chế độ xã hội chủ
nghĩa trong quá trình cải cách, đổi mới đất nước là phải kiên trì hai nguyên tắc:
Lấy chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa làm chủ thể và thực hiện cùng giàu có.
Kiên trì không dao động chế độ công hữu làm chủ thể và phân phối theo
lao động là tiền đề để thực hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội; còn hình thức
thực hiện chế độ công hữu và cơ cấu chế độ công hữu chỉ có thể căn cứ vào nhu
cầu thực tế của giải phóng và phát triển sức sản xuất, căn cứ vào tiến trình thực
tế dần dần thực hiện cùng giàu có để xác định.
Sáu là, kết hợp kế hoạch và thị trường. Phá vỡ quan niệm truyền thống coi
kinh tế kế hoạch là đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội. Ông Đặng Tiểu Bình
1
Võ Đại Lược, Nghiên cứu so sánh đổi mới kinh tế Việt Nam và cải cách kinh tế Trung Quốc, CTQG, H, 2003, tr
288.
6
nói: “Kế hoạch nhiều hơn một chút hay thị trường nhiều hơn một chút, không phải là
sự khác biệt về bản chất giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Kinh tế kế
hoạch không phải là của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản cũng có kinh tế kế
hoạch; kinh tế thị trường không phải là chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội cũng có
thị trường. Kế hoạch và thị trường đều là công cụ kinh tế”1. Những nhận thức mới
này đã loại bỏ tư tưởng trói buộc, thủ cựu, mở ra phương hướng mới cho việc cải tổ
thể chế kinh tế kế hoạch hóa trước đây của Trung Quốc và là một cống hiến cho kho
tàng lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Bảy là, bản chất của chủ nghĩa xã hội phản ánh lợi ích thiết thân của nhân
dân Trung Quốc và nhu cầu của thời đại. Khẳng định nghèo đói không phải là
chủ nghĩa xã hội. Phát triển quá chậm và tụt hậu, chủ nghĩa bình quân không
phải là chủ nghĩa xã hội. Hai cực phân hóa giàu nghèo và bất bình đẳng cũng
không phải là chủ nghĩa xã hội. Không có luật pháp và không coi trọng văn
minh tinh thần cũng không làm tốt chủ nghĩa xã hội.
Tóm lại: Chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là không ngừng giải
phóng, phát triển lực lượng sản xuất, là thực hiện cùng giàu có, cải cách mở cửa,
phát huy dân chủ và kiện toàn pháp chế, phát triển văn minh vật chất và văn
minh tinh thần, chủ trương duy trì hòa bình thế giới, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Mao Trạch Đông và lý luận Đặng Tiểu Bình làm kim chỉ nam, do Đảng
Cộng sản lãnh đạo, thực hiện chuyên chính dân chủ nhân dân.
3. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc
3.1. Đặc điểm cơ bản về giai đoạn sơ cấp của chủ nghĩa xã hội đặc sắc
Trung Quốc.
Để hiểu rõ đặc trưng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cần
phải nắm chắc những đặc điểm cơ bản của giai đoạn sơ cấp của chủ nghĩa xã hội
đặc sắc Trung Quốc. Chính những đặc điểm này chi phối làm cho kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa Trung quốc mang những đặc trưng riêng.
1
Sđd tr 290
7
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng XV Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nêu
những đặc điểm sau:
Một là, giai đoạn lịch sử từng bước thoát khỏi tình trạng không phát triển,
thực hiện về cơ bản hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, giai đoạn lịch sử từ quốc gia nông nghiệp với dân số nông nghiệp
chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu dựa vào lao động thủ công, từng bước trở thành nước
công nghiệp hóa, bao gồm công nghiệp - dịch vụ hiện đại, dân số phi nông
nghiệp chiếm đa số.
Ba là, giai đoạn lịch sử nền kinh tế tự nhiên, bán tự nhiên chiếm tỷ trọng
lớn, khoa học, kỹ thuật, văn hóa và giáo dục lạc hậu từng bước chuyển thành
quốc gia có khoa học, kỹ thuật, văn hóa và giáo dục tương đối phát triển.
Bốn là, giai đoạn lịch sử từ dân số mù chữ, bán mù chữ chiếm tỷ trọng rất
lớn, khoa học, kỹ thuật, văn hóa và giáo dục lạc hậu, từng bước chuyển thành
quốc gia có khoa học, kỹ thuật, văn hóa và giáo dục tương đối phát triển.
Năm là, giai đoạn lịch sử từ tỷ trọng dân số nghèo khổ rất lớn, mức sống
nhân dân tương đối thấp, từng bước trở thành quốc gia có đời sống tương đối
sung túc.
Sáu là, giai đoạn lịch sử từ chỗ kinh tế, văn hóa giữa các vùng rất chênh
lệch và không cân đối, thông qua phát triển có trước, có sau từng bước thu hẹp
khoảng cách phát triển.
Bảy là, giai đoạn lịch sử thông qua cải cách và thể nghiệm, xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa dồi dào sức sống, tương
đối phát triển, hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa và thể chế ở
các lĩnh vực khác.
Tám là, giai đoạn lịch sử mà quảng đại nhân dân giác ngộ, vững vàng lý
tưởng chung xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, phấn đấu tự cường,
rèn luyện chí tiến thủ, cần kiệm xây dựng đất nước, đồng thời xây dựng văn
minh vật chất, cùng nỗ lực xây dựng văn minh tinh thần.
8
Chín là, giai đoạn lịch sử thu hẹp từng bước khoảng cách so với trình độ
tiên tiến của thế giới, trên cơ sở chủ nghĩa xã hội thực hiện sự nghiệp phục hưng
dân tộc Trung Hoa.
Đặc điểm thứ nhất là đặc điểm cơ bản của giai đoạn này; đặc điểm thứ chín
là khái quát chung về nhiệm vụ lịch sử; và bảy đặc điểm còn lại là sự triển khai
các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa đối với đặc điểm cơ bản và nhiệm vụ lịch sử.
3.2. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc.
Đặc trưng kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc TQ được thể hiện ở bốn
nội dung:
Thứ nhất, xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó lấy công hữu làm
chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển.
- Đây là kết quả tổng kết kinh nghiệm và bài học về chế độ sở hữu trước đây ở
Trung Quốc. Là chế độ kinh tế cơ bản của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc. Do vậy, Hội nghị TW3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc
cho rằng cần thiết phải xây dựng chế độ kinh tế đa sở hữu, trong đó xác lập chế độ
công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở hữu cùng phát triển.
- Kiên trì xây dựng chế độ công hữu làm chủ thể. Điều đó là do: Nhà nước
Trung Quốc là nhà nước xã hội chủ nghĩa, do đó để bảo đảm từng bước đạt tới
mục tiêu cùng giàu có. Mặt khác, củng cố và phát triển nền chuyên chính dân
chủ nhân dân, cần phải kiên trì địa vị chủ thể của kinh tế công hữu.
- Kinh tế công hữu bao gồm cả kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và còn bao
gồm cả thành phần quốc hữu và tập thể tham gia trong kinh doanh sở hữu hỗn hợp.
- Địa vị chủ thể của kinh tế công hữu được thể hiện:
Tài sản vốn công hữu chiếm ưu thế trong tổng tài sản vốn xã hội. Ưu thế
này thể hiện ở chỗ cần bảo đảm về chất lượng nhất định nhưng phải chú trọng
nâng cao chất hiệu quả. Vận dụng vào thực tế, xem xét trong phạm vi cả nước
thì tùy nơi, tùy ngành mà có sự khác biệt.
9
Kinh tế quốc hữu khống chế huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, có vai trò
then chốt đối với việc phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường
thực lực kinh tế, sức mạnh quốc phòng và sự gắn bó của dân tộc Trung Quốc.
- Giải pháp để thực hiện vai trò của kinh tế quốc hữu:
Điều chỉnh lại cơ cấu kinh tế nhà nước. Đối với những ngành quan trọng và
lĩnh vực then chốt, liên quan đến huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, kinh tế
quốc hữu phải chiếm vị trí chi phối.
Ở những lĩnh vực khác có thể thông qua việc tổ chức lại tài sản và điều
chỉnh cơ cấu kinh tế mà tăng cường trọng điểm, nâng cao chất lượng chung cho
kinh tế quốc hữu.
Tiêu chuẩn về tối ưu hóa kết cấu và bố cục kinh tế quốc hữu không phải là
nhất thành bất biến mà sẽ thay đổi cùng với sự thay đổi của tình hình phát triển
và môi trường kinh tế.
Chỉ cần kiên trì kinh tế quốc hữu là chủ thể, kinh tế quôc hữu khống chế
các huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, sức điều tiết và sức cạnh tranh của
nền kinh tế quốc dân sẽ được tăng cường. Dưới tiền đề này, tỷ trọng kinh tế quốc
hữu có thể giảm đi một chút cũng sẽ không ảnh hưởng đến tính chất xã hội chủ
nghĩa của Trung Quốc.
- Kinh tế tập thể: là bộ phận hợp thành quan trọng của kinh tế quốc hữu
(công hữu). Kinh tế tập thể có ba đặc trưng cơ bản:
Người làm việc trong các doanh nghiệp vừa là chủ sở hữu vừa là người lao
động, họ tạo thành tập thể và có quyền điều hành doanh nghiệp;
Thành quả kinh doanh được phân phối trong nội bộ doanh nghiệp. Mọi tổ
chức, cá nhân không thuộc doanh nghiệp, không được chiếm hữu tài sản doanh
nghiệp cũng như không được hưởng thành quả của nó.
Về quan hệ với bên ngoài, doanh nghiệp không chịu sự can thiệp trực tiếp
của chính phủ cũng như sự ràng buộc của kế hoạch pháp lệnh, mà chủ yếu quan
hệ với thị trường và chịu sự chi phối của cơ chế thị trường.
10
Thực tiễn cải cách kinh tế ở Trung Quốc đã chứng minh, sự phát triển mạnh
mẽ của kinh tế tập thể ở cả thành thị và nông thôn có sức sống và khả năng thích
ứng với những nhu cầu và trình độ phát triển sản xuất khác nhau, do đó nó không
thể được thay thế bằng kinh tế nhà nước. Ví dụ, chế độ hợp tác cổ phần nhiều hình
thức là một biện pháp có hiệu quả thực hiện sự kết hợp giữa sức lao động và vốn,
giữa phân phối theo lao động và phân phối theo yếu tố sản xuất.
- Một đột phá quan trọng trong lý luận cải cách chế độ sở hữu của Trung
Quốc là tách chế độ công hữu với hình thức thực hiện chế độ công hữu. Trung
Quốc lập luận về vấn đề này như sau:
Chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể truyền thống là hai hình thức
thực hiện chế độ công hữu, ngoài ra còn bao gồm thành phần nhà nước và thành
phần tập thể trong chế độ sở hữu hỗn hợp. Nếu đồng nhất chế độ công hữu và
hình thức thực hiện nó sẽ làm cản trở sự phát triển và hạn chế tính ưu việt của
chế độ công hữu.
Hình thức thực hiện chế độ công hữu không hề quyết định trực tiếp tính
chất của chế độ công hữu, thậm chí hình thức này có thể đa dạng hóa.
Tất cả phương thức sản xuất kinh doanh và hình thức tổ chức kinh tế phản
ánh quy luật xã hội hóa đều có thể được mạnh dạn sử dụng. Hình thức tổ chức
doanh nghiệp cụ thể không hề quyết định công hữu hay tư hữu, điểm mấu chốt
là phải xem xét quyền kiểm soát cổ phần nằm trong tay ai.
Nếu Nhà nước và tập thể kiểm soát cổ phần doanh nghiệp thì tính chất công
hữu rõ ràng điều này có lợi cho việc mở rộng phạm vi chi phối của tài sản công
hữu cũng như tăng cường vai trò chủ đạo của chế độ công hữu.
- Đặc biệt, chế độ cổ phần cũng là một hình thức tổ chức tiền vốn và quản
lý của doanh nghiệp hiện đại, cho phép tách quyền sở hữu với quyền kinh
doanh, nâng cao hiệu quả vận hành của doanh nghiệp cũng như hiệu quả tiền
vốn. Chủ nghĩa tư bản đã sử dụng và chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng hình
thức doanh nghiệp cổ phần. Từ những năm 1980, khi áp dụng doanh nghiệp chế
11
độ cổ phần đã phát huy và tận dụng tốt các mặt sau:
Mở các kênh huy động tiền vốn mới; nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản
quốc hữu, thúc đẩy điều chỉnh kết cấu sản nghiệp và chuyển đổi cơ chế kinh
doanh của doanh nghiệp phù hợp với thị trường.
Đồng thời, chế độ hợp tác xã cổ phần thành lập rất nhiều ở thành phố và nông
thôn Trung Quốc lấy liên hiệp lao động và tiền vốn của người lao động làm chủ yếu,
bắt đầu trở thành hình thức quan trọng tổ chức doanh nghiệp hợp tác.
Kinh tế chế độ hợp tác xã cổ phần cũng phát huy vai trò quan trọng thu hút
tiền vốn phân tán trong xã hội, làm dịu áp lực việc làm, gia tăng tích lũy công
cộng và tăng thuế cho Nhà nước.
- Thực tiễn Trung Quốc chứng minh, kinh tế công hữu chỉ cần tìm được
hình thức thực hiện thích hợp thì sẽ có sức sống mạnh mẽ, có thể chiếm được
địa vị ưu thế trong cạnh tranh thị trường, thực sự củng cố địa vị chủ thể của chế
độ công hữu.
TQ cũng đưa ra khuyến cáo, trong quá trình tìm tòi hình thức thực hiện chế
độ công hữu, cần giữ được tỉnh táo và xử lý thận trọng, chú ý phòng ngừa phát
sinh tình huống lượng hóa không giới hạn, biến tài sản quốc hữu thành tài sản cá
nhân (cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam đã xuất hiện tình trạng
tiêu cực này) và cuối cùng tập trung vào tay một số ít người, tránh để cho chế độ
xã hội chủ nghĩa mất đi nền móng kinh tế. (Hội nghị TW 3 khóa XVI, Đảng
Cộng sản Trung Quốc coi chế độ cổ phần trở thành hình thức thực hiện chủ yếu
của chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa).
- Kinh tế phi công hữu.
Trung Quốc xác định: Kinh tế phi công hữu là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề được lập luận là: phát triển
kinh tế phi công hữu trong điều kiện kinh tế quốc hữu làm chủ thể là yêu cầu
khách quan của sự phát triển sức sản xuất của giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, quá trình cải cách chế độ công hữu của Trung Quốc hướng vào việc
12
cải tạo chế độ công hữu đơn nhất cũng chính là quá trình phát triển từng bước của
kinh tế phi công hữu. Sự nhìn nhận, đối xử đúng đắn hay không đối với kinh tế
phi công hữu có liên quan trực tiếp đến sự phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa Trung Quốc.
Bởi lẽ, giữa kinh tế phi công hữu và kinh tế thị trường có mối quan hệ chặt chẽ, tự
nhiên. Và, kinh tế phi công hữu có đặc trưng là quyền sở hữu được xác định rõ
rệt, quyền tự chủ trong các quyết sách và do đó cơ chế vận hành linh hoạt. Điều
đó thống nhất với các nguyên tắc và yêu cầu của thị trường. “Không có chế độ công
hữu thì không có chủ nghĩa xã hội; không có chế độ phi công hữu thì cũng không thể
xây dựng thành công kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc”1.
Thực tiễn Trung Quốc chứng minh rằng: kinh tế phi công hữu đóng vai trò quan
trọng với việc thỏa mãn các nhu cầu đa dạng của đời sống vật chất và văn hóa xã hội;
mở rộng việc làm; tăng tích lũy của Nhà nước; thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển.
Quan điểm của Trung Quốc đối với kinh tế phi công hữu là:
Nhà nước bảo vệ quyền lợi hợp pháp của kinh tế phi công hữu theo pháp
luật và khuyến khích phát triển lành mạnh, liên hệ mật thiết với kinh tế công hữu
đang chiếm vai trò chủ thể, làm cho kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc
Trung Quốc phát triển sôi động, mạnh mẽ và tràn đầy sức sống.
Đáng chú ý, kinh tế phi công hữu không chỉ được nhìn nhận và đánh giá
như một lực lượng quan trọng trong phát triển nền kinh tế quốc dân, mà còn
nhìn nhận và đánh giá ở góc độ biến đổi tính chất của nó dưới ảnh hưởng của hạ
tầng cơ sở cũng như thượng tầng kiến trúc trong một nền kinh tế mới - kinh tế
thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc.
- Về sở hữu đất đai: Đất đai ở thành phố thuộc sở hữu nhà nước. Đất đai ở
nông thôn thuộc sở hữu tập thể.
Nông dân chỉ có quyền duy nhất với đất đai là quyền sử dụng, không có
quyền chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp. Khi nông dân chuyển ra thành phố hay
1
Hội đồng lý luận Trung ương, Hội thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản TQ và Đảng Cộng sản VN: Chủ nghĩa xã
hội và kinh tế thị trường - Kinh nghiện của TQ và kinh nghiệm của VN, Nxb CTQG, H, 2003, tr 110.
13
đi nơi khác thì phải trả lại đất cho tập thể để giao cho người khác sử dụng.
Tuy nhiên, một số nơi vẫn có sự chuyển nhượng đất nông nghiệp, theo đó,
đất đai được tập trung vào một số người có ưu thế để hình thành doanh nghiệp
tư nhân, nhưng phải có điều kiện: Công nghiệp phải phát triển để thu hút nông
dân ly nông và ly hương và phải bảo đảm tốt về mặt xã hội cho nông thôn.
Ngoài ra, đất đai ở Trung Quốc còn được tập trung bằng phương thức di
chuyển theo gia đình. (Việc quản lý, sử dụng đất đai ở nông thôn Trung Quốc
không nhất thiết theo một phương thức cụ thể, mà rất linh hoạt cho phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương).
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện phương thức phân phối xã hội chủ nghĩa,
lấy phân phối theo lao động làm chủ thể, cho phép một bộ phận người và khu
vực giàu có trước, lôi kéo giúp đỡ những người, khu vực khác giàu có sau, từng
bước đi tới cùng giàu có, xây dựng xã hội khá giả toàn diện.
Đảng Cộng sản Trung Quốc và giới lý luận cho rằng:
- Chế độ kinh tế cơ bản lấy công hữu làm chủ thể, kinh tế nhiều chế độ sở
hữu cùng phát triển thực hiện ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, quyết định
phương thức thực hiện phân phối, trong đó phải kiên trì chế độ phân phối theo
lao động làm chủ thể, nhiều phương thức phân phối cùng tồn tại.
- Lý luận phân phối mới đã phá vỡ lý luận phân phối truyền thống ở những
nội dung sau:
Một là, lấy chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, các phương thức
phân phối song song cùng tồn tại, kết hợp phân phối theo lao động với phân
phối theo yếu tố sản xuất.
Một mặt, kiên trì lấy phân phối theo lao động làm chủ thể trong xã hội,
làm cho tỷ trọng phân phối theo lao động chiếm địa vị chủ thể trong tất cả các
phương thức phân phối; lượng thu nhập phân phối theo lao động của người lao
động trong kinh tế công hữu làm tiêu chuẩn đối chiếu về mức thu nhập của
người lao động trong các hình thức sở hữu khác.
14
Mặt khác, cùng với sự phát triển các hình thức phân phối khác, kết hợp
phân phối theo lao động với phân phối theo yếu tố sản xuất, cho phép khuyến
khích các yếu tố sản xuất như vốn, kỹ thuật tham gia vào phân phối.
Lý luận phân phối trên không chỉ thể hiện quy luật khách quan của sự phát
triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội mà còn thể
hiện yêu cầu vận hành nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Tất cả các hình thức sở hữu phù hợp với ba điều có lợi đều có thể và nên
khuyến khích sử dụng để phục vụ cho chủ nghĩa xã hội. Tương tự như vây, tất cả
các phương thức phân phối phù hợp với ba điều có lợi đều có thể và nên khuyến
khích sử dụng.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, muốn phát huy
vai trò mang tính nền móng của thị trường đối với việc phân bổ và sử dụng các
nguồn lực thì phải phát triển mạnh thị trường các yếu tố sản xuất như: Lao động,
tiền vốn, kỹ thuật, thông tin…
Trong quá trình sản xuất hàng hóa, đối với lao động sống tạo ra giá trị thì
yêu cầu thực hiện chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể; các yếu tố sản
xuất khác như: Tiền vốn, kỹ thuật, thông tin… là những điều kiện quan trọng
của sản xuất hàng hóa không thể thiếu được thì đòi hỏi cho phép tham gia vào
phân phối lợi ích thu được ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội.
Kết hợp phân phối theo lao động với phân phối theo yếu tố sản xuất tạo
điều kiện thuận lợi cho việc động viên tính tích cực của quảng đại thành viên xã
hội, có lợi cho việc phân bổ và sử dụng hợp lý các nguồn lực, có lợi cho phát
triển sức sản xuất của xã hội.
Hai là, thực hiện chính sách ưu tiên năng suất, hiệu quả và chú trọng công bằng.
Trung Quốc cho đây là một nguyên tắc. Bởi lẽ, phát triển lực lượng sản xuất là
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của chủ nghĩa xã hội; năng suất là nền tảng của
công bằng, công bằng lại là tiền đề cho năng suất, thực hiện tốt hai điều này
cũng là yêu cầu cơ bản của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc.
15
Đồng thời, trong các tầng bậc phân phối khác nhau, lại có sự xử lý khác
nhau trong mối quan hệ giữa năng suất và công bằng.
Trong quá trình tái sản xuất, lĩnh vực phân phối lần đầu phải kiên trì
nguyên tắc ưu tiên năng suất, chú ý hơn nữa tới năng suất và hiệu quả là chính
để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong lĩnh vực phân phối lại thì nên kiên trì nguyên tắc chú trọng công
bằng, đề xướng công bằng nhiều hơn để hạn chế phân hóa hai đầu.
Ba là, cho phép khuyến khích một bộ phận người giàu lên trước bằng lao
động và kinh doanh trung thực, đề xướng người giàu trước giúp người giàu sau,
cuối cùng thực hiện xã hội cùng giàu có. Về vấn đề này, TQ cho rằng:
Trong chính sách phân phối phải xóa bỏ chủ nghĩa bình quân, xóa bỏ “nồi
cơm lớn”; cho phép cổ vũ một số người, một số khu vực giàu lên trước, dần đạt
được mục đích cùng giàu có. Chính sách này lấy việc thừa nhận sự khác biệt làm
tiền đề, lấy lao động chính đáng và kinh doanh hợp pháp làm điều kiện, cuối
cùng lấy thực hiện cùng giàu có làm mục tiêu.
Cách thực hiện như trên nhờ thế mà kết hợp được tính nguyên tắc của chủ
nghĩa xã hội với tính linh hoạt của chính sách và phản ánh được yêu cầu khách
quan của lực lượng sản xuất.
Cùng giàu có thể hiện bản chất của chủ nghĩa xã hội, nhưng không phải
cùng giàu có của chủ nghĩa bình quân. Thực hiện quá trình cùng giàu có chỉ có
thể bằng cách khuyến khích một số nơi, một số người giàu lên trước, hình thành
hiệu ứng làm mẫu và thông qua những người giàu lên trước, giúp đỡ những
người giàu có sau, cuối cùng thực hiện cùng giàu có.
Bốn là, xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, hoàn thiện chế
độ cứu tế xã hội, xã hội hóa việc cung cấp bảo hiểm xã hội cơ bản nhất.
Cùng với quá trình cải cách, để duy trì sự ổn định xã hội, Trung Quốc đã thực
hiện nguyên tắc công bằng trong kinh tế, luôn chú ý xây dựng và hoàn thiện chế độ
bảo hiểm xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
16
Trung Quốc xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội nhiều tầng nấc, xã hội hóa
công tác bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm y tế, dưỡng lão… Ngoài ra, trong quá
trình hoàn thiện cơ cấu và phương thức phân phối thu nhập còn phải chú ý bảo
hộ thu nhập hợp pháp theo luật. Chống các hình thức thu nhập bất chính, điều
chỉnh thu nhập bất hợp lý; thông qua chính sách phân phối thu nhập và thuế,
Nhà nước điều tiết những thu nhập quá cao, phòng ngừa phân hóa hai cực và sự
cách biệt quá lớn về giàu nghèo.
Thứ ba, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
với sự điều hành vĩ mô của Nhà nước.
Trung Quốc cho rằng, phương thức phân bổ các nguồn tài nguyên là yếu tố
quyết định hiệu quả vận hành của hệ thống kinh tế. Xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa làm cho vai trò nền móng của thị trường trong
phân bổ các nguồn tài nguyên được phát huy một cách đầy đủ, sẽ nâng cao mạnh
mẽ hiệu quả vận hành của nền kinh tế, tăng cường sức sống của nền kinh tế.
Để xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
Trung Quốc đề ra nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc 1: Xử lý tốt mối quan hệ giữa điều hành vĩ mô của Nhà nước
với vai trò điều tiết của cơ chế thị trường.
Trong điều kiện kinh tế thị trường, tất cả các hoạt động kinh tế đều phải
tuân theo yêu cầu quy luật giá trị, thích ứng với sự thay đổi của cung - cầu; cần
phải thông qua công năng của đòn bẩy giá cả và cơ chế cạnh tranh để phân bổ
tài nguyên vào đúng khâu có hiệu quả, loại bỏ cơ chế xin - cho và đặc quyền của
doanh nghiệp nhà nước. Cần phải sử dụng ưu điểm của thị trường phản ứng
nhanh nhạy với các tín hiệu kinh tế, thực hiện cơ chế chọn lọc tự nhiên, tốt thì
chiến thắng, yếu kém thì bị đào thải đối với doanh nghiệp, thúc đẩy cân đối giữa
sản xuất và nhu cầu.
Tuy nhiên, vai trò mang tính nền móng của thị trường đối với phân bổ các
nguồn lực cần phải được tiến hành dưới sự điều hành vĩ mô của Nhà nước. Bởi
17
vì, để khắc phục những nhược điểm và bất cập của tính tự phát thị trường, cần
phải dựa vào sự chỉ đạo, điều hành vĩ mô của Nhà nước đối với hoạt động kinh
tế. Đặc biệt ở thời kỳ đang chuyển đổi thể chế kinh tế khi nâng cấp kết cấu sản
nghiệp và kinh tế phát triển với gia tốc nhanh, thì củng cố và hoàn thiện vai trò
điều hành vĩ mô của Nhà nước càng quan trọng.
- Nguyên tắc 2: Cần phải giữ vững cân bằng tổng lượng kinh tế, thúc đẩy
kết cấu kinh tế tối ưu hóa, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
Sự cân bằng tổng cung xã hội với tổng cầu xã hội là tiền đề cơ bản cho sự tăng
trưởng ổn định của nền kinh tế quốc dân. Chỉ khi tổng lượng kinh tế cân bằng, toàn
bộ sản phẩm và dịch vụ hình thành tổng cung đều có thể thực hiện được giá trị của
chúng, tức tổng sức mua của xã hội có năng lực chi trả thể hiện tổng nhu cầu có thể
thực hiện được thì nền kinh tế quốc dân mới vận hành thông suốt.
Vì vậy, sự cân bằng giữa kết cấu cung sản phẩm và dịch vụ trong tổng cung
xã hội với kết cấu nhu cầu là cơ sở của cân bằng tổng lượng kinh tế. Bất kỳ sự
cân bằng tổng lượng nào cũng lấy sự cân bằng kết cấu nhất định làm nội dung.
Chỉ có trên cơ sở cân bằng kết cấu kinh tế mới có khả năng tránh được tình hình
trong khi một sản phẩm ngắn hạn cung thấp hơn so với cầu, lại tồn tại một số
sản phẩm dài hạn nào đó cung vượt quá cầu.
Nền kinh tế quốc dân không thể phát triển lành mạnh trong tình huống kết
cấu kinh tế không cân bằng như vậy. Nhiệm vụ điều hành kinh tế vĩ mô của Nhà
nước chính là hiểu biết những tình huống và nắm được toàn cục phát triển của
nền kinh tế, dựa vào xu thế thay đổi của nền kinh tế quốc dân và tính quy luật
mà vận dụng các biện pháp điều tiết dựa trên vai trò của cơ chế thị trường, điều
hành quan hệ kinh tế trên các mặt nhằm giữ vững cân bằng tổng lượng kinh tế,
thúc đẩy kết cấu kinh tế đạt tối ưu, thực hiện kinh tế tăng trưởng ổn định.
- Nguyên tắc 3: Vận dụng các biện pháp kinh tế, pháp luật và hành chính
cần thiết phụ trợ để thực hiện nhiệm vụ điều hành vĩ mô.
Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phương
18
thức điều hành vĩ mô của Nhà nước phải chuyển từ trực tiếp là chủ yếu sang
gián tiếp. Biện pháp kinh tế chủ yếu bao gồm vận dụng các chính sách tài chính,
tiền tệ và chỉ đạo công tác kế hoạch hóa để điều tiết nền kinh tế quốc dân. Để
bảo đảm sự hài hòa trong chính sách điều hành vĩ mô và vận dụng tổng hợp các
đòn bẩy kinh tế, cần phải xây dựng được cơ chế phối hợp qua lại ràng buộc lẫn
nhau giữa tài chính, tiền tệ và kế hoạch.
Ngoài ra, cần xây dựng một hệ thống tổ chức điều hành có uy tín và chế độ
tương quan, nhằm làm cho các cơ quan điều hành vĩ mô có thể độc lập hoạt
động theo chức năng của mình, đồng thời lại có thể phối hợp được nhịp nhàng
theo một mục tiêu thống nhất, tăng cường hiệu quả chỉnh thể của điều hành vĩ
mô. Vận dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế có thể giúp cho hoạt động vi mô
của doanh nghiệp thực sự phù hợp với mục tiêu vĩ mô của Nhà nước, thực hiện
phân bổ tối ưu nguồn tài nguyên và hợp lý hóa kết cấu sản nghiệp.
Biện pháp pháp luật bao gồm vận dụng các quy phạm pháp luật và pháp quy
về quản lý kinh tế, làm cho các hoạt động kinh tế có thể được tiến hành theo trật tự.
Trong quá trình chuyển đổi sang thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ
nghĩa, sử dụng biện pháp hành chính trong phạm vi nhất định vẫn cần thiết,
nhưng phạm vi này sẽ ngày càng thu nhỏ cùng với sự hoàn thiện của các biện
pháp kinh tế và biện pháp pháp luật. Cần lấy biện pháp kinh tế là chủ yếu, vận
dụng tổng hợp các biện pháp, phát huy vai trò của hệ thống điều hành vĩ mô, bảo
đảm cho nền kinh tế phát triển cao liên tục và bền vững.
Như vậy, tính chất cơ bản của thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là
dưới sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, thị trường đóng vai trò cơ sở trong việc
phân phối nguồn lực; hoạt động kinh tế phải tuân theo quy luật giá trị, phù hợp
với quan hệ cung cầu, thông qua giá cả và cơ chế cạnh tranh để tiến hành phân
phối các nguồn lực vào những lĩnh vực có hiệu quả, thực hiện quy luật đào thải
tự nhiên của thị trường. Trung Quốc cho rằng, phương thức chủ yếu để hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là: “Thể chế kinh tế thị trường
19
pháp trị tự do, cạnh tranh bình đẳng, can thiệp có giới hạn, giám sát, quản lý
theo pháp luật”.
Thứ tư, mở cửa đối ngoại, tích cực tham gia hợp tác và cạnh tranh quốc tế,
nâng cao tiềm lực mọi mặt của đất nước Trung Quốc.
- Mở cửa đối ngoại là giải pháp chiến lược nhằm hiện đại hóa Trung Quốc và
cũng là quốc sách cơ bản lâu dài để hiện đại hóa chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ yếu
của mở cửa đối ngoại bao gồm: Một là, xác định quốc sách mở cửa đối ngoại, thực
hiện mở cửa trên mọi lĩnh vực, xây dựng các thể chế với hình thức mở. Hai là, mạnh
dạn tiếp thu những thành tựu văn minh thế giới (của cả chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản), sử dụng cả hai nguồn tài nguyên, hai thị trường trong nước và quốc tế.
Ba là, mở cửa đối ngoại đa nguyên, đặc biệt xây dựng các đặc khu kinh tế. Bốn là,
xử lý chính xác mối quan hệ giữa mở cửa, tranh thủ ngoại lực và tự lực cánh sinh.
Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ XVIII (11/2012) xác định: “Xuất khẩu,
đầu tư và thị trường nội địa” là ba vấn đề để phát triển kinh tế thị trường đặc sắc
Trung Quốc, nhằm xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện vào năm 2020.
- Sự lạc hậu của Trung Quốc là do trong suốt một thời gian lịch sử dài bế
quan tỏa cảng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải có nhiệm vụ khắc phục sự lạc
hậu đó và không ngừng phát triển lớn mạnh, rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển. Do đó, phải mở cửa, học hỏi khoa học công nghệ tiến tiến và các
phương pháp quản lý kinh doanh của các nước phát triển, thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
- Mở cửa đối ngoại của Trung Quốc không phải chỉ một phương diện,
một lĩnh vực nào mà mở cửa đối ngoại trên mọi phương diện, mọi tầng bậc
như: Chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ, thực hiện phân công
lao động quốc tế một cách tự giác.
- Mục đích mở cửa kinh tế trên mọi lĩnh vực tầng bậc nhằm: Tranh thủ các
nguồn tài nguyên quốc tế to lớn bao gồm các mặt vật chất, vốn, thông tin, tri
thức. Thực hiện phân phối hợp lý các nguồn tài nguyên trong phạm vi rộng và
20
tích cực tham gia hợp tác, cạnh tranh quốc tế. Phát huy đầy đủ lợi thế so sánh và
ưu thế phát triển theo chiều sâu. Không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh
quốc tế của nền kinh tế. Tăng cường khả năng tự lực cánh sinh và nguồn sức
mạnh tổng hợp của Trung Quốc. Thúc đẩy hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân và
tăng cường tiềm lực mọi mặt cho đất nước.
- Trong việc thực hiện mở cửa, cần ra sức phát triển ngoại thương, mở rộng
xuất khẩu, tích cực thu hút thiết bị, kỹ thuật hiện đại, tiên tiến, tích cực sử dụng
có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài.
Không chỉ sử dụng tiền vay chính phủ nước ngoài, tiền vay của IMF… mà
còn cho phép thương nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp, thành lập các doanh
nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Thậm chí còn đầu tư ra nước ngoài và phát hành trái khoán, tích cực phát
triển công trình nhận thầu nước ngoài và hợp tác lao động, phát triển viện trợ kỹ
thuật - kinh tế đối ngoại và hợp tác cùng có lợi dưới nhiều hình thức.
Học hỏi sáng tạo những phương thức kinh doanh và quản lý tiên tiến của
các nước phát triển.
- Xây dựng những đặc khu kinh tế để thực hiện chủ trương mở cửa kêu gọi
đầu tư, hợp tác kinh tế với nước ngoài của Trung Quốc là một sáng kiến quan
trọng trên phương diện mở cửa kinh tế đối ngoại.
Trung Quốc đã triển khai và xây dựng thành công nhiều đặc khu kinh tế
như: Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu. Những đặc khu kinh tế này
không chỉ tạo ra những thành tựu kinh tế được cả thế giới biết đến về xây dựng
thành công mô hình kinh tế hướng ngoại, mà còn trở thành cánh cửa và cây cầu
của công cuộc mở cửa đối ngoại của Trung Quốc; là tấm gương về sự thành
công trong cải cách mở cửa của Trung Quốc, có tác dụng lôi kéo, phát huy tính
tích cực của cả nền kinh tế Trung Quốc.
- Về tư tưởng chỉ đạo, Trung Quốc luôn nhấn mạnh phải xử lý tốt, chính
xác các mối quan hệ có lợi cho công cuộc cải cách mở cửa, phát triển lành
21
mạnh, có trật tự, trong đó phải xử lý tốt và chính xác các mối quan hệ giữa mở
cửa đối ngoại và giữ vững độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh.
Tư tưởng trên Trung Quốc rút ra từ kinh nghiệm lịch sử. Trung Quốc cho
rằng, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong mở cửa đối ngoại nếu bỏ qua nguyên tắc
này sẽ làm mất đi cơ sở, nền móng để xây dựng, phát triển.
Trung Quốc xác định: Độc lập, tự chủ, tự lực cánh sinh trong quá khứ, hiện tại
hay trong tương lai đều là điểm tựa của Trung Quốc. Kiên trì mở cửa đối ngoại để có
thể tăng cường khả năng tự lực cánh sinh, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nói cách khác:
Mở cửa đối ngoại của Trung Quốc là mở cửa đối ngoại lấy tự lực cánh sinh làm cơ
sở, là tự lực cánh sinh dưới tiền đề của mở cửa đối ngoại.
Trong mở cửa đối ngoại, tất yếu phải tăng cường khả năng tự lực cánh sinh,
hình thành cơ chế phát triển tuần hoàn và thúc đẩy lẫn nhau giữa tự lực cánh
sinh và mở cửa đối ngoại; tăng cường phòng ngừa và chống đỡ rủi ro của nền
kinh tế thế giới, từ đó duy trì độ an toàn của nền kinh tế Trung Quốc.
Ngoài ra mở cửa đối ngoại của Trung Quốc còn phải chú trọng xử lý chính
xác các mối quan hệ giữa mở cửa đối ngoại và kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản,
giữa mở cửa đối ngoại với bình đẳng, cùng có lợi; mở cửa đối ngoại với ổn định;
giữa mở cửa đối ngoại với tăng cường văn minh tinh thần… Xử lý đúng đắn mối
quan hệ này trên thực tế vẫn luôn là thách thức đặt ra cho Trung Quốc và là vấn
đề không thể xem thường trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phức tạp của tình
hình chính trị thế giới ngày nay.
4. Ưu điểm, hạn chế của mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Trung Quốc và bài học kinh nghiệm với Việt Nam
* Ưu điểm
Hơn 30 năm cải cách, mở cửa, chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã đạt được những
thành tựu nổi bật sau đây:
- Tạo ra động lực mới cho phát triển kinh tế.
22
Trong hơn 30 năm qua, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt mức tăng trưởng cao
nhất thế giới và ổn định trong nhiều năm. Xét trong lịch sử hơn 60 năm của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (1949 - 2012), 30 năm đầu là giai đoạn khó
khăn, như từ 1952 đến 1978, GDP hàng năm của Trung Quốc chỉ tăng trưởng
4,4% năm, thấp hơn mức tăng trưởng chung của thế giới là 4,5% năm. Từ khi
cải cách, mở của năm 1978 đến năm 2008, kinh tế Trong Quốc phát triển ổn
định với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới, GDP tăng bình quân đạt 9,6%
năm; thu nhập bình quân đầu người từ dưới 200 đô la/người/năm tăng lên 2.770
đô la/người/năm. Từ vị trí thứ 19 thế giới về tổng lượng kinh tế, ngày nay Trung
Quốc đã vươn lên đứng hàng thứ hai thế giới (tổng GDP đạt 5.550 tỷ đô la),
vượt qua Nhật Bản, chỉ xếp sau Mỹ. Điều đáng chú ý là trong bối cảnh khủng
hoảng tài chính, suy giảm kinh tế toàn cầu, kinh tế Trung Quôc vẫn đạt mức tăng
trưởng kinh tế trên 8% năm.
- Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được củng cố; các thành phần kinh tế
được phát triển trong tất cả các ngành, các lĩnh vực pháp luật không cấm, cạnh
tranh bình đẳng trên thị trường, không bị phân biệt đối xử. Kinh tế nhà nước giữ
được vai trò chủ đạo trong các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế nhưng với
những hình thức thể hiện rất phong phú, đa dạng.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được xây dựng đồng bộ. Cơ
chế thị trường được thực hiện trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân góp phần khai
thác tiềm năng, phân bổ và sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực cho
phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý
kinh tế của Nhà nước Trung Quốc; tăng cường quốc lực, bảo đảm các cân đối
lớn của nền kinh tế.
- Mở cửa nền kinh tế, khai thông thị trường trong nước với thị trường khu
vực và thế giới; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, của
các doanh nghiệp và của cả nền kinh tế quốc dân Trung Quốc. Đặc biệt, là khả
năng thích ứng nhanh nhạy, đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng của người tiêu
23
dùng thế giới với chất lượng sản phẩm, dịch vụ và giá cả rất cạnh tranh.
* Nhược điểm
Tất nhiên, gắn liền với những thành quả, quá trình phát triển kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội
phức tạp như tình trạng thất nghiệp tăng, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng
ngày càng sâu sắc thêm, tình trạng di dân cơ học vào các khu đô thị vượt ra khỏi
tầm kiểm soát… Nhưng Trung Quốc cho rằng, những khó khăn và phức tạp là
tất yếu trên con đường đi tới mục tiêu. Cụ thể những hạn chế như sau:
- Khá đông dân chúng Trung Quốc không thích ứng được với sự biến đổi
xã hội nhanh chóng nên dễ rơi vào trạng thái hoang mang, hỗn loạn.
- Cơ cấu kinh tế và xã hội biến đổi nhanh chóng khiến cho mô thức quản lý
đất nước trước đây trên chừng mực rất lớn lại mất tác dụng. Sự tách rời nghiêm
trọng, sự không hài hòa, không thích ứng giữa hạ tầng kinh tế biến đổi nhanh
chóng với thượng tầng kiến trúc biến đổi chậm chạp đã trở thành nguồn gốc gây ra
những vấn đề xã hội mang tính phổ biến, thậm chí có khả năng bùng nổ nghiêm
trọng như quan liêu, tham nhũng hoành hành, không đủ việc làm, thất nghiệp gia
tăng nghiêm trọng, thị trường hỗn loạn, môi trường sinh thái bị phá hoại…
- Các lực lượng thị trường, nhà nước và xã hội đang đẩy Trung Quốc trượt
theo ba hướng biến thành một xã hội “không ngừng mất cân bằng”, “nhanh
chóng bị ngăn cách”, đây là cái họa bên trong đe dọa sự thống nhất, ổn định,
phồn vinh và dân chủ ở Trung Quốc.
Sự mất cân đối và ngăn cách giữa thành thị và nông thôn.
Sự mất cân đối và ngăn cách giữa Miền Đông và Miền Tây.
Sự mất cân đối và ngăn cách giữa các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội.
Cách đây 10 năm, năm 2001 “khoảng cách giàu nghèo giữa gần 2 triệu người
Trung Quốc chiếm tới 70% của cải vật chất của xã hội, trong khi 1,2 tỷ dân chiếm
phần còn lại chiến 30%. Dân số đô thị trên 470 triệu người nhưng chiếm khoảng
88% của cải vật chất của xã hội, trong khi đó trên 800 triệu dân còn lại chiếm
24
chừng 12% của cải vật chất của xã hội”1.
Như vậy, khi chấp nhận kinh tế thị trường phát triển tương đối “nóng”,
Trung Quốc đã vấp phải nhiều khó khăn về các vấn đề xã hội, mục tiêu công
bằng xã hội trên thực tế đã bị “hy sinh”. Chính vì như thế, bắt đầu từ Đại hội lần
thứ XVI, đặc biệt là từ hội nghị Trung ương 5 khóa XVI Đảng Cộng sản Trung
Quốc và Đại hội XVII đã điều chỉnh theo hướng “phát triển hài hòa”, xây dựng
“xã hội hài hòa”, “thế giới hài hòa”.
Đây là những vấn đề thực tiễn của Trung Quốc mà Đảng Cộng sản Việt
Nam cần quan tâm khi xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và theo đó là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
* Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, về xây dựng và phát triển kinh tế, Việt Nam có thể
tham khảo những bài học kinh nghiệm chủ yếu sau đây từ Trung Quốc:
Một là, chuyển hướng tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu.
Cần chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế một cách khoa học nhằm
nâng cao hiệu quả và bảo đảm tính bền vững. Xu thế hiện nay của kinh tế thế
giới không những là toàn cầu hóa mà còn là tri thức hóa. Có kết cấu kinh tế hợp
lý và có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao thì phát triển kinh tế mới đạt hiệu quả
cao và bền vững.
Trong thế kỷ 20, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng theo chiều rộng, chủ yếu
dựa vào số lượng tiền vốn, nguyên liệu và lao động. Sang thế kỷ 21, Trung Quốc
chuyển hướng tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, đặc biệt khuyến khích phát
minh đổi mới khoa học công nghệ, tiết kiệm vật tư, năng lượng. Việt Nam hiện
nay đã chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN nên cần có chiến lược
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, thực sự chuyển đổi phương thức phát triển
kinh tế, bảo đảm tính hiệu quả cao và sự bền vững của nền kinh tế.
Hai là, kết hợp hài hòa kinh tế trong nước và kinh tế đối ngoại.
1
Thông tấn xã VN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, ngày 4/11/2002.
25
Kinh tế đối ngoại đóng vai trò rất lớn trong tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
hơn 30 năm qua. Trong thời gian đó, Trung Quốc đã sử dụng trên 1.000 tỷ USD
vốn ngoại (gồm vốn nước ngoài, vốn Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan). Năm
2008, xuất khẩu Trung Quốc chiếm 38% GDP. Xuất siêu là nguồn chủ yếu để
Trung Quốc có trên 2.000 tỷ USD ngoại tệ dự trữ. Tuy nhiên, tình hình quốc tế
hiện nay đã khác, ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, kinh tế toàn cầu còn lâu
dài và nhiều nhân tố chưa thể xác định. Trung Quốc có thị trường trong nước
rộng lớn với hơn 1,3 tỷ dân, nhờ gói kích cầu mở rộng thị trường trong nước 586
tỷ USD mà Trung Quốc đã giảm được thiệt hại do xuất khẩu sụt giảm. Xuất
khẩu cũng chiếm vị trí quan trọng trong kinh tế Việt Nam. Chúng ta cố gắng để
cải thiện tình hình xuất khẩu, nhưng cần nhớ rằng quan hệ kinh tế thương mại
quốc tế sẽ không lặp lại như trước đây, ngay cả khi cuộc khủng hoảng hiện nay
được khắc phục. Do vậy, Việt Nam cần có sự điều chỉnh thích hợp để nền kinh
tế không quá lệ thuộc vào xuất khẩu, biện pháp là mở rộng và khai thác tối đa thị
trường trong nước.
Ba là, thiết lập bộ máy hành chính gọn nhẹ.
Tích cực cải cách hành chính, chuyển đổi chức năng của chính quyền, hạn
chế tối đa những trở ngại hành chính đối với phát triển kinh tế. Sau khi chuyển
sang kinh tế thị trường, Trung Quốc đã đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm gạt
bỏ mọi trở ngại cản trở sự phát triển của kinh tế thị trường, thiết lập bộ máy
hành chính gọn nhẹ, hiệu quả cao, không những có nhiệm vụ quản lý mà còn có
nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Vấn đề được đặc biệt nhấn mạnh là
phải tách bạch, phân rõ chính quyền và doanh nghiệp, quyền quản lý với quyền
kinh doanh. Thực hiện điều đó không những có thể thúc đẩy phát triển kinh tế
mà còn hạn chế việc lạm dụng quyền lực hành chính để tham nhũng.
Tóm lại: Đề xuất lý luận xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
đặc sắc Trung Quốc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn: Với Trung Quốc, đây
là bước đột phá lớn so với lý luận xã hội chủ nghĩa truyền thống và mang ý