Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

NGÔN NGỮ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.45 KB, 42 trang )

CHƯƠNG 1 BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ
1.

BẢN CHẤT CỦA NGÔN NGỮ

1.1. Nhận diện và định nghĩa ngôn ngữ
Cần phân biệt ngôn ngữ với tư cách là phương tiện giao tiếp và phát
triển tư duy của con người với những hiện tượng khác cũng được gọi là
ngôn ngữ.
Ví dụ:người ta thường nói “ngôn ngữ hội họa”,”ngôn ngữ điện
ảnh”,”ngôn ngữ âm nhạc”,”ngôn ngữ toán học”,v.v…Thực ra, trong
những trường hợp như vậy, “ngôn ngữ” phải được hiểu là “phương tiện
diễn tả, truyền đạt nào đó”. Đối với âm nhạc, đó là những âm thanh với
những giai điệu, tiết tấu khác nhau; đối với hội họa, đó là màu sắc và
đường nét với những sắc độ và quan hệ khác nhau, đối với toán học, đó
là hệ thống những kí hiệu biểu hiện những quan hệ trừu tượng,v.v… Tất
cả những thứ đó tất nhiên không phải là đối tượng nghiên cứu của ngôn
ngữ học.
Ngôn ngữ học chỉ nghiên cứu các ngôn ngữ tự nhiên mà thôi, ngôn ngữ
tự nhiên là phương tiện giao tiếp chung của loài người, tức là khả năng
chung của của các dân tộc dùng ngôn ngữ làm phương tiện giao tiếp và
các ngôn ngữ cụ thể của từng dân tộc.
Định nghĩa ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện
giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một
cộng đồng người; ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát
triển tư duy, truyền đạt truyền thống văn hóa- lịch sử từ thế hệ này
sang thế hệ khác.


1.2. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt


Bản chất xã hội của ngôn ngữ thể hiện ở chỗ:
1) Ngôn ngữ phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp giữa
mọi người, phương tiện trao đổi ý kiến trong xã hội
2) Ngôn ngữ thể hiện ý thức xã hội. Chính vì thể hiện ý thức xã hội
nên ngôn ngữ mới có thể làm phương tiện giao tiếp giữa mọi người.
3) Ngôn ngữ có khả năng hình thành văn hóa và là một bộ phận cấu
thành quan trọng của văn hóa.
4) Sự tồn tại và phát triển của ngôn ngữ gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của xã hội.
1.3. Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh
Ngôn ngữ là một hệ thống bởi vì nó cũng bao gồm các yếu tố và các
quan hệ giữa các yếu tố đó. Các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ chính là
các đơn vị ngôn ngữ, như âm vị, hình vị, từ và câu. Những quan hệ chủ
yếu trong ngôn ngữ là: quan hệ kết hợp ( quan hệ tuyến tính, quan hệ
ngang), quan hệ liên tưởng (quan hệ đối vị, quan hệ dọc), và quan hệ tôn
ti.
Theo quan niệm truyền thống, tín hiệu là một phương tiện biểu đạt
(expression) có tác dụng thay thế cho cái không thuộc về bản thân nó mà
ta gọi là nội dung biểu đạt (content). Trong hệ thống tín hiệu cái quan
trọng là sự khu biệt.
Ví dụ: so sánh một vết mực trên giấy và một chữ cái chúng ta sẽ thấy rõ
điều đó. Cả vết mực lẫn chữ cái đều có bản chất vật chất như nhau, đều
có thể tác động vào thị giác như nhau. Nhưng muốn nêu đặc trưng của
vết mực phải dùng tất cả các thuộc tính vật chất của nó: độ lớn, hình
thức, màu sắc, độ đậm nhạt, v.v…, tất cả đều quan trọng như nhau.


Trong khi đó, cái quan trọng với một chữ cái là làm cho nó khác với chữ
cái khác: chữ A có thể lớn hơn hay nhỏ hơn, đậm nét hơn hay thanh nét
hơn, có thể có màu sắc khác nhau, nhưng đó vẫn chỉ là chữ A mà thôi.

Sở dĩ như vậy là vì chữ A nằm trong hệ thống tín hiệu, còn vết mực
không phải là tín hiệu.
Ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu âm thanh, bởi vì đối với tất cả các ngôn
ngữ, phương tiện biểu đạt trước tiên là âm thanh.
Ví dụ: Trẻ con biết nói trước khi biết đọc, biết viết cũng chứng tỏ rằng
ngôn ngữ loài người trước hết là ngôn ngữ âm thanh.
1.4. Đặc trưng của ngôn ngữ
1.4.1. Tính võ đoán:
Trong "Giáo trình ngôn ngữ học đại cương" chỉ ra tính võ đoán của
ngôn ngữ thể hiện ở quan hệ giữa cái biểu hiện (Tức là hình tượng ngữ
âm) và cái được biểu hiện (Tức là ý niệm).
Ngôn ngữ có tính võ đoán vì giữa từ và đối tượng mà nó biểu thị
không có mối liên quan bên trong nào.
Ví dụ: Chúng ta cũng không hiểu vì sao:
- Trong Tiếng Việt, dùng âm bàn để biểu thị cái bàn.
- Trong Tiếng Anh, dùng âm table biểu thị cái bàn.
Tuy cùng một khái niệm được phản ánh, nhưng người Việt lại nói
là "bàn", người Anh lại nói là "Table"? Rõ ràng không có mối liên hệ
nào giữa âm thanh và khái niệm được biểu đạt. Đó được coi là tính võ
đoán của ngôn ngữ.
Nói tóm lại, tính võ đoán của ngôn ngữ là chỉ cái được biểu hiện và
cái biểu hiện, không có mối quan hệ tất yếu nào, mà chỉ đơn thuần là
một nhóm người qui ước với nhau, khi qui ước được chấp nhận rộng rãi,
nó sẽ được cố định.


Tuy nhiên, ngôn ngữ không có tính võ đoán hoàn toàn. Có những
trường hợp, ý nghĩa và âm thanh có tồn tại những liên tưởng nào đó.





Thứ nhất, những từ tượng thanh (Bốp, cách, keng, đoàng,..)
những từ này bắt chước âm thanh của tự nhiên. Ngoài ra, còn
có những từ mô phỏng, dùng đặc trưng cơ quan hình dáng để
mô phỏng tính chất, hình dáng, đặc trưng của đối tượng.
Thứ hai, những đơn vị từ vựng do các từ kết hợp lại với nhau
mà thành: Xe đạp thì phải dùng chân để đạp, chim bạc má là
loài chim có lông trắng ở má.

Có thể nói, bản chất ngôn ngữ là một dấu hiệu tinh vi, nó khiến
cho ngôn ngữ có một nguồn vô tận cách biểu đạt.
1.4.2. Song tính:
Hệ thống ngôn ngữ có hai bộ cấu trúc: Một bộ cấu trúc của các âm
và một bộ cấu trúc của các nghĩa. Điều này là quan trọng đối với việc
hoạt động của ngôn ngữ.
Một số nhỏ các âm có thể nhóm lại và tái nhóm lại thành một số
lớn các đơn vị có nghĩa (các từ) và các từ đó có thể được sắp xếp và tái
sắp xếp thành số lượng vô hạn các câu.
Những phần tiếp theo sẽ trình bày những cách mà các âm tạo thành
từ, các từ tạo thành câu và mối quan hệ giữa hệ thống đó trong hệ thống
ngôn ngữ.
Đặc điểm này của ngôn ngữ đã biến nó thành một hệ thống phức
tạp, gồm nhiều hệ thống con. Nhờ đặc tính này mà con người ta có thể
nói những gì người ta muốn.
1.4.3. Sức sinh sản:
Ngôn ngữ có sức sinh sản nghĩa là những người sửa dụng ngôn
ngữ có thể hiểu và tạo ra những câu mà họ chưa nghe bao giờ.



Hằng ngày chúng ta nghe, tiếp nhận nhiều thông điệp mới và
truyền đi những thông điệp mà trước đó chúng ta chưa từng truyền đi.
Rất nhiều cái chúng ta nói và nghe lần đầu tiên.
Ví dụ: "Rất nhiều người sống trên Mặt Trăng." Là câu mới đối với
mọi người, miêu tả một hiện tượng nào đó, nhưng ai cũng hiểu câu nói
đó.
Tuy nhiên, ngôn ngữ loài người mới có mức sinh sản, còn loài vật
thì không.
Ví dụ: Hệ thống tiếng kêu của loài vượn từ trong một kho cố định,
và rất mau hết, không thể tạo ra gì mới nữa.
Điệu múa của loài ong chỉ để thông báo hướng của nguồn ăn,
ngoài ra con ong không thể nói về bản thân mình, về gió, về con
người.
1.4. 4.TÍNH DI VỊ
• Ngôn ngữ có thể dùng để biểu thị những cái hiện không có
mặt,những cái có thật và tưởng tượng trong quá khứ ,hiện
tại,tương lai ,cả những cái ở xa ,nói cách khác ngôn ngữ có
thể hướng vào những pham vi khác biệt với hoàn cảnh trực
tiếp của người nói
• Đặc diểm này của ngôn ngữ giúp cho người nói có thể dải
rộng các sự vât,thoát khỏi sự ngăn trở của không gian và thời
gian
1.4.5. Tính CHUYỂN GIAO VĂN HÓA



người ta chuyển giao ngôn ngữ từ thế hệ này sang thế hệ
khác nhờ giảng dạy và học tập hơn là nhờ bản năng ..Đặc
điểm này được gọi chuyển giao văn hóa
Đặc điểm này không phủ nhận khả năng ngôn ngữ của con

người là có cơ sở di truyền …

1.4. 6.KHẢ NĂNG THAY THẾ NHAU


Khả năng thay thế nhau có nghĩa là bất cứ người nào cũng
vừa là người phát vừa là người nhận thông điệp.
2. CHỨC NĂNG CỦA NGÔN NGỮ:
Ngôn ngữ của con người có các tính tự tạo, tính đệ quy, tính di chuyển,
và phụ thuộc hoàn toàn vào các nhu cầu của xã hội và học tập. Cấu trúc
phức tạp của nó cho phép thể hiện cảm xúc rộng rãi hơn so với bất kỳ hệ
thống thông tin liên lạc được biết đến của động vật. Ngôn ngữ được cho
là có nguồn gốc khi loài người thượng cổ (homo sapiens) dần dần thay
đổi hệ thống thông tin liên lạc sơ khai của họ, bắt đầu có được khả năng
hình thành một lý thuyết về tâm trí của những người xung quanh và một
chủ ý muốn chia sẻ thông tin. Sự phát triển này đôi khi được cho là đã
trùng hợp với sự gia tăng khối lượng của não, và nhiều nhà ngôn ngữ
học coi các cấu trúc của ngôn ngữ đã phát triển để phục vụ các chức
năng giao tiếp và xã hội cụ thể. Ngôn ngữ được xử lý ở nhiều vị trí khác
nhau trong não người, nhưng đặc biệt là trong khu vực của Broca và
Wernicke. Con người có được ngôn ngữ thông qua giao tiếp xã hội trong
thời thơ ấu, và trẻ em thường nói lưu loát khi lên ba tuổi. Việc sử dụng
ngôn ngữ đã định hình sâu sắc trong nền văn hóa của con người. Vì vậy,
ngoài việc sử dụng cho mục đích giao tiếp, ngôn ngữ cũng có nhiều
công dụng trong xã hội và văn hóa, chẳng hạn như tạo ra bản sắc nhóm,
phân tầng xã hội, cũng như việc làm đẹp xã hội và giải trí.
2.1. Chức năng giao tiếp
Khi con người muốn truyền đạt hay tiếp thu thông tin từ những người
xung quanh thì họ thực hiện hoạt động giao tiếp, và ngôn ngữ chính là
phương tiện để duy trì hoạt động đó. Có thể nói chức năng giao tiếp là

chức năng chủ yếu của ngôn ngữ, nó giúp duy trì hoạt động của con
người trong xã hội. Ngôn ngữ tồn tại trong mọi lĩnh vực trong đời sống
xã hội, duy trì sự tồn tại của xã hội. Ngôn ngữ giúp mọi người hiểu nhau
hơn, xã hội tồn tại và phát triển.


2.1.1. Chức năng hàn huyên,
Mỗi ngày con người trải qua nhiều cuộc hàn huyên tâm sự từ việc nhỏ
đến viêc lớn về cuộc sống thường nhật hay công việc giống như lời chào
hỏi, tạm biệt , hỏi thăm sức khoẻ… Chức năng hàn huyên tưởng chừng
vô nghĩa nhưng đây giống như công cụ giao tiếp thường xuyên trong
cuộc sống, giúp mọi người duy trì mối quan hệ với nhau.
2.1.2.Chức năng cầu khiến với mục đích khiến người nghe làm cái gì đó
có chức năng cầu khiến. ‘Cút đi đi “; “Vào đây mao lên", hay “khi nào
rãnh đến nhà mình chơi”.
2.1.3.Chức năng thông tin: dùng để thông tin về một vấn đề đã đang và
sẽ xảy ra cho người giao tiếp, chức năng này được sử dụng thường
xuyên phổ biến đặc biệt là trong lĩnh vực hoc tập. Nó đòi hỏi sự chính
xác cao, tính chân thực.
2.1.4.Chức năng hỏi: thường xuất hiện khi người nói nghi vấn một vấn
đề sự viêc nào đó, câu hỏi tập trung chủ yếu vào niềm tin chính kiến , sự
hiểu biết , sự phán xét cảm xúc và thái độ của người nghe . Ví dụ :” Dạo
này việc học của bạn tốt không?”; “Hôm qua đi chơi có vui không?”
2.1.5.Chức năng biểu cảm: dùng ngôn ngữ để bộc lộ cảm xúc của người
nói trong quá trình giao tiếp , làm tăng tính cảm tính cho lời nói, biểu đạt
suy nghĩ tình cảm chân thực hơn : “Trời ạ!” ; Than ôi; Hỡi ôi!
2.1.6.Chức năng gợi cảm : là dùng ngôn ngữ để tạo ra những cảm xúc
nhất định của người nghe nhằm giải trí , gây sự chú ý, làm vui, giật
mình,....Chức năng này thường gắn bó với chức năng biểu cảm.
2.1.7.Chức năng ngôn hành: ngôn ngữ còn được dùng để biểu đạt hành

động của người nói,.
2.2. chức năng làm phương tiện tư duy


Gắn bó chặt chẽ với chức năng giao tiếp là chức năng tư duy, giao
tiếp bằng ngôn ngữ chỉ có thể giúp người ta trao đổi tư tưởng, tình cảm
với nhau nếu bản thân ngôn ngữ tàng trữ những kinh nghiệm, tư tưởng
tình cảm của con người. Trong thực tế người ta có thể nói một mình, viết
ra giấy một mình mà không cầm mói với ai, có thể suy nghĩ thầm lặng
mà không phát ra lời. Tư duy lấy ngôn ngữ làm phương tiện , tư duy
không tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, ngôn ngữ cũng không thể có đươc
nếu không dựa vào tư duy. Tư duy lấy ngôn ngữ làm phương tiện và
thông qua ngôn ngữ ta có thể biểu đạt ý tưởng tư duy của mình.
1)Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào,
câu nào mà lại không biểu hiện khái niệm hay tư tưởng và ngược lại
không có ý nghĩ, tư tưởng nào không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ. Ngôn
ngữ là biểu hiện thực tế của tư tưởng.
2)Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng.
Mọi ý nghĩ, tư tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện ra bằng ngôn
ngữ.

Tư duy và ngôn ngữ thống nhất với nhau nhưng không đồng nhất.
Đó là mối quan hệ giữa nội dung và nhận thức. Ngôn ngữ cố định và tư
duy là mối quan hệ trọng nhất có tính bản chất và cốt lõi của ngôn ngữ lí
luận từ xưa đến nay .Ngôn ngữ cố định lại kết quả tư duy, là phương tiện
biểu đạt kết quả của tư duy .
2.3. Những chức năng khác
2.3.1. Chức năng thơ
Theo Roman Jakobso, chức năng thơ (poectic function) của ngôn ngữ
là sự định hướng của thông báo vào bản thân ngôn ngữ và sự tập trung



chú ý vào thông báo vì chính bản thân ngôn ngữ. Chức năng thơ không
phải là chức năng duy nhất của nghệ thuật ngôn từ mà chỉ là chức năng
tâm có tính quy định, thể hiện như một yếu tố thứ cấp và có tính bổ sung
trong tất cả những dạng khác của hoạt động ngôn ngữ.
2.3.2. Chức năng siêu ngôn ngữ học
Chức năng siêu ngôn ngữ học (metalinguistic function) là dùng
ngôn ngữ làm phương tiện để nghiên cứu ngôn ngữ. Logic học hiện đại
phân biệt “ngôn ngữ đối tượng” và “siêu ngôn ngữ”. Siêu ngôn ngữ là
chỉ thứ ngôn ngữ được dùng làm phương tiện để nghiên cứu, để nói về
một thứ ngôn ngữ khác đóng vai trò làm ngôn ngữ đối tượng.
Ví dụ: khi hỏi lại, giải thích, bác bỏ điều đã nói, hay đánh giá nó, chú
giải nó về một phương diện nào đó. Khi đó ngôn ngữ đóng vai trò là siêu
ngôn ngữ của chính bản thân nó.
Hay nói một cách dễ hiểu đó chính là những thuật ngữ khoa học.
*Ngoài ra còn có các chức năng khác nữa
Các chức năng khác của ngôn ngữ “Thời kì cấu trúc luận”:
Chức năng hướng tới người nói (speaker - oriented) hay còn gọi là
chức năng bộc lộ - express function là sự phản ánh được tình cảm, cảm
xúc về quan điểm của người nói.
Ví dụ: tình cảm(vui, buồn, yêu, ghét,...) ; gia cảnh (giàu,
nghèo, sang, hèn, cao quý,...)
Chức năng hướng tới người nghe (Hearer - oriented) đây là chức
năng về thụ cảm ngôn ngữ (conative - function), nhờ ngôn ngư mà người
nghe có thể hiểu được ý nghĩa thông tin của người nói cũng như mong
muốn của người nói với mình.
Ví dụ: phân biệt giữa câu hỏi và câu mệnh lệnh



“ Con có đi học không ?”
“Con có đi học không thì bảo"
Chức năng biểu diễn, biểu hiện (Representative) : đây là chức năng
quan trọng nhất xét về mặt giao tiếp. Những thông tin, ước muốn, truyền
giao thông tin giữa người nói - người nghe được ngôn ngữ thực hiện
thông qua chức năng này. Bằng chức năng này, những thông tin thuần
tuý về thế giới, về tư duy, về các sự vật hiện tượng xung quanh đã được
truyền tải và tạo nên các thông điệp ngôn ngữ.

CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ
1. NGUỒN GỐC CỦA NGÔN NGỮ:
1.1. Các lí thuyết về nguồn gốc của ngôn ngữ
Vấn đề nguồn gốc của ngôn ngữ đã được loài người quan tâm lí giải từ
rất sớm, nhưng đến nay vẫn chưa thể giải quyết triệt để. Những ý kiến về
nguồn gốc ngôn ngữ mới chỉ là giả thuyết, bởi con người dù đã có cách
đây hàng triệu năm nhưng sử học chỉ có thể phác họa cuộc sống con
người cách ta trên dưới chục ngàn năm. Câu hỏi đặt ra là: Ngôn ngữ do
một thế lực siêu nhiên nào đó mang lại cho chúng ta hay đơn giản chỉ là
sản phẩm của quá trình phát triển của xã hội?
1.1.1.

Ngôn ngữ do đấng siêu nhiên tạo ra

Mỗi tôn giáo khác nhau có một vị thần sáng tạo ra ngôn ngữ khác nhau.
Theo Kinh thánh, đó là Đức Chúa Trời (hay Thiên Chúa). Người Ai Cập
tin rằng Thần Nabu là đấng sáng tạo ra ngôn ngữ. Trong Hindu giáo,
ngôn ngữ lại là sản phẩm của Nữ thần Tri thức Devi (hay còn gọi là
Thần Sarasvati). Còn ở Việt Nam, Trung Quốc, ngôn ngữ do Trời hoặc
Ngọc Hoàng Thượng đế tạo ra. Nhân dân đã nghĩ rằng ngôn ngữ có



quyền lực làm cho mọi sự diễn ra. Tuy nhiên, những chuyện thần thoại
và mê tín không thể trở thành luận điểm khoa học.
1.1.2.

Ngôn ngữ do con người tạo ra

- Thuyết tượng thanh
Thuyết này do Démocrite (460-370), Platon (427-347) nêu lên từ thời cổ
đại, được cụ thể hóa vào thế kỉ XVII – XIX và tồn tại dai dẳng đến nay.
Theo thuyết tượng thanh, ngôn ngữ bắt nguồn từ sự bắt chước âm thanh
trong tự nhiên. Platon cho rằng âm thanh ngôn ngữ mô phỏng âm thanh
có sẵn. Ví dụ, trong tiếng Hi Lạp, [r] là âm rung, âm thanh phát ra nhờ
sự rung động của lưỡi nên được sùng gọi tên những vật có đặc điểm lưu
động như sông ngòi (river); âm [m] là âm môi, mang tính mềm mại, do
đó dùng để gọi cái ngọt ngào (mel-mật ong). Muốn bắt chước âm thanh
trong tự nhiên, con người phải có cơ quan phát âm và tư duy hoàn thiện.
Con người dùng cơ quan phát âm của mình mô phỏng những âm thanh
do sự vật phát ra như tiếng chim kêu, tiếng nước chảy, tiếng mèo kêu,…
Ví dụ, chim cuckoo kêu “cuckoo”, tiếng suối chảy róc rách,…
- Thuyết cảm thán (hay thuyết tiếng kêu khi xúc động)
Được W. Humbolt, Stendhal nêu lên và phát triển mạnh vào thế kỉ XVIII
- XX, cho rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ tiếng kêu cảm xúc của con người
như khi mừng, giận, buồn, vui, đau đớn,… Trong một số trường hợp, đó
là những thán từ .Trong các trường hợp khác thì có thể xem xét mối liên
hệ gián tiếp giữa âm hưởng của từ và trạng thái cảm xúc của con người.
Cơ sở của thuyết này là thán từ và những từ phái sinh từ thán từ trong
ngôn ngữ như: ối, ái, a ha, chao ôi, than ôi, ối dào, ối giời trong tiếng
Việt,…Hay ah, oh, aha, hi, halloo, hallo,…trong tiếng Pháp.
Tuy nhiên thán từ có số lượng không nhiều so với vốn từ của một ngôn

ngữ, vì tiếng kêu bộc lộ cảm xúc chỉ là phản ứng tự nhiên, bản năng cá


nhân trong khi ngôn ngữ là của toàn xã hội. Cho nên thuyết này khó
đứng vững.
- Thuyết tiếng kêu trong lao động
Thuyết này do L.Nuare đưa ra ở thế kỉ XIX trong tác phẩm “Lao động
và nhịp điệu” . Theo thuyết này,ngôn ngữ xuất hiện từ những tiếng kêu
trong lao động tập thể. Người nguyên thủy thường phát ra âm thanh
đồng loạt để tạo sự nhịp nhàng, cộng tác trong lao động. Bên cạnh đó,
cũng có thể là những tiếng kêu hổn hển phát ra do hoạt động cơ năng.
Đó là những âm đầu tiên mà sau này chúng trở thành tên gọi động tác
lao động, công cụ lao động. Lí thuyết này cũng có cơ sở thực tế trong
lao động của con người hiện nay.
- Thuyết khế ước xã hội
Thuyết này do Grotxri nêu lên vào thế kỉ XVII và được J.J.Rousseau
tiếp tục vào thế kỉ XVIII. Thuyết được xây dựng trên cơ sở tính ước lệ,
tính võ đoán của kí hiệu ngôn ngữ và các từ ngữ do quy ước mà có như
biệt ngữ, thuật ngữ,… Theo Rousseaus, quá trình hình thành ngôn ngữ
gồm hai giai đoạn: giai đoạn tự nhiên, ngôn ngữ ra đời từ cảm xúc, và
giai đoạn văn minh, ngôn ngữ là sản phẩm của khế ước xã hội.
- Thuyết ngôn ngữ cử chỉ
Thuyết này do Wilhelm Wundt nêu lên đầu thế kỉ XX và được Marr tiếp
tục. Thuyết này cho rằng, lúc đầu, khi chưa có ngôn ngữ thành tiếng, con
người giao tiếp với nhau bằng các tư thế của tay, chân, nét mặt và sự
phối hợp giữa chúng. Theo Marr, Ngôn ngữ cử chỉ tồn tại cách đây một
triệu đến một triệu rưỡi năm còn ngôn ngữ âm thanh chỉ có cách đây
năm vạn đến 50 vạn năm. (...) ngôn ngữ cử chỉ có thể biểu thị tư tưởng,
khái niệm hình tượng hóa, có thể làm công cụ giao tiếp giữa các thành
viên trong cùng một bộ lạc và với cả các bộ lạc khác. Cơ sở tồn tại của



thuyết này là hệ thống ngôn ngữ cử chỉ đi kèm với ngôn ngữ âm thanh.
Ngoài ra, hiện nay, một số dân tộc vẫn còn sử dụng hệ thống ngôn ngữ
cử chỉ rất phong phú. Người Aranđa - một bộ tộc ở Châu Úc- có khoảng
450 kí hiệu bằng cử chỉ để gọi tên sự vật và báo hiệu cho nhau khi ở xa.
Tuy nhiên, thuyết nay không chỉ ra được sự chuyển hóa từ ngôn ngữ cử
chỉ sang ngôn ngữ âm thanh.
1.2. Vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ
Có rất nhiều ngôn ngữ hiện diện trên hành tinh của chúng ta, rất đa dạng
và phong phú. Vì thế nguồn gốc của ngôn ngữ là một câu hỏi gây đau
đầu cho các nhà nghiên cứu trong nhiều thế kỷ qua. Để làm rõ nguồn
gốc của ngôn ngữ có hai vấn đề cần được làm sáng tỏ đó là điều kiện
nảy sinh ngôn ngữ và tiền thân của ngôn ngữ là gì?
1.2.1 Điều kiện nảy sinh ra ngôn ngữ:
Nhắc đến ngôn ngữ người ta sẽ nghĩ ngay đến tiếng nói, âm thanh. Các
nhà khoa học thí nghiệm trên các thú vật và các loài chim, dạy chúng
đáp ứng lại với một vài tiếng nói đơn giản. Thí dụ như loài vượn, sau khi
được huấn luyện, có thể sử dụng một vài điệu bộ hay cử chỉ để diễn tả
một vài cảm xúc của chúng. Nhưng khả năng diễn tả cảm xúc bằng một
vài dấu hiệu đơn giản của loài vượn hay loài chim còn quá đơn giản,
không thể nào so sánh được với khả năng ngôn ngữ diệu kỳ của con
người. Vì thế nhu cầu biểu hiện tình cảm cũng không phải là điều kiện
nảy sinh ra ngôn ngữ. Có một số nhà khoa học họ không chấp nhận ngôn
ngữ là do con người tạo ra nên nên tìm cách giải thích nguồn gốc của
tiếng nói hay ngôn ngữ qua các phương cách tự nhiên Họ cho rằng
trong quá trình tiến hóa từ loài khỉ cho đến con người, thanh quản đã tự
điều chỉnh để có thể phát ra nhiều thanh âm khác nhau, đồng thời bộ não
cũng lớn dần ra, giúp cho con người có thể kiểm soát và sử dụng các dây
phát âm trong bộ thanh quản hữu hiệu hơn để phát ra tiếng nói. Theo lối



giải thích này, thoạt tiên con người thô sơ chỉ biết hú hay biết gào để
diễn tả suy nghĩ và cảm xúc, nhưng qua quá trình tiến hóa lâu dài, đã tự
hoàn chỉnh thanh quản để đạt được tiếng nói thật phức tạp và sinh động
như ngày nay.
Tóm lại có rất nhiều giả thuyết được đặt ra về nguồn gốc của ngôn ngữ
nhưng không có giả thuyết nào giải thích được ngôn ngữ đã nảy sinh
trong điều kiện nào. Người giải thích một cách khoa học, sâu sắc điều
kiện tạo ra ngôn ngữ của loài người là Friedrich Engles. Trong cuốn “
Tác dụng của lao động trong sự chuyển biến từ vượn thành người”, ông
viết: “ Đem so sánh con người với động vật, ta sẽ thấy rõ rang ngôn ngữ
bắt nguồn từ lao động và cùng nảy sinh với lao động, đó là cách giải
thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
Điểm khác biệt giữa loài người và loài vượn là đôi tay được giải phóng,
nhờ có đôi tay mà con người có thể chế tạo ra công cụ lao động. Nhờ có
công cụ lao động mà lao động của con người trở nên sang tạo hẳn lên.
Từ đó tư duy của con người được hình thành và ngày càng phát triển.
Như vậy theo Engles năng lực tư duy trừu tượng của con người đã lớn
lên cùng với sự lao động. Tuy nhiên, nếu như chỉ có tư duy không mà
không có ngữ liệu để ghi chép lại thì tư duy sẽ tồn tại một cách trần trụi
và thoát khỏi ngữ liệu, cho nên tư duy hình thành thì ngôn ngữ cũng ra
đời. Chính vì thế, ngôn ngữ sinh ra là do nhu cầu, do sự cần thiết phải
giao tiếp. Mà nhu cầu giao tiếp của con người bắt nguồn từ lao động.
Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng thế giới trong thế kỷ 20- ông Noam
Chomsky đã tiến hành các phương pháp nghiên cứu để chứng minh
nguồn gốc của ngôn ngữ. Giáo sư Noam Chomsky quan sát rằng, nếu
đặt một em bé chưa biết nói và một con mèo con vào chung một môi
trường có tiếng nói, thì sau một thời gian ngắn, đứa bé có khả năng nhận
biết tiếng nói và bắt đầu nói được, trong khi con mèo chẳng bao giờ nói

được cả, Như vậy, tư duy là yếu tố quan trọng hình thành nên ngôn ngữ.


Tư duy trừu tượng phát triển nên nội dung mà con người cần trao đổi với
nhau ngày càng phong phú. Từ đây ta thấy được rõ rang lao động đã
quyết định sự ra đời của ngôn ngữ. Bởi vì khi con người lao động thì cần
phải có ngôn ngữ để nói chuyện, giao tiếp với nhau không những thế,
lao động còn làm cho con người cần phải có ngôn ngữ để tư duy, hình
thành tư tưởng, lấy đó làm nội dung giao tiếp với nhau.
Tóm lại, nguồn gốc của ngôn ngữ là xuất phát từ lao động, nhờ có
lao động mà các tư duy trừu tượng và ngôn ngữ cùng ra đời một lúc
dưới tác dụng của lao động. Đây chính là dấu hiệu phân biệt con
người và con vật.
1.2.2 Tiền thân của ngôn ngữ loài người:
Như chúng ta được biết, nguồn gốc của ngôn ngữ bắt nguồn từ lao động,
tuy nhiên, đấy chỉ mới khẳng định được điều kiện nảy sinh ngôn ngữ
chứ chưa nói rõ ngôn ngữ đã nảy sinh từ những cái gì. Có nhiều giả
thuyết cho rằng lúc đầu con người chưa có ngôn ngữ thành tiếng và tư
duy trừu tượng, vì vậy muốn diễn đạt cần phải dung ngôn ngữ cử chỉ,
tức là sử dụng tư thế của tay chân và thân thể. Tuy nhiên giả thuyết trên
là hoàn toàn không có cơ sở. Những giả thuyết về nguồn gốc ngôn ngữ
trước Marx nếu như không giải thích được điều kiện tao ra ngôn ngữ thì
ít nhiều đều hướng về tiền thân của ngôn ngữ loài người.
Ngôn ngữ có thể được xem là hệ thống tín hiệu thứ hai. Với tư cách là
hệ thống tín hiệu thứ hai phải bắt nguồn từ hệ thống tín hiệu thứ nhất.
Hệ thống tín hiệu thứ nhất là tất cả những ấn tượng, cảm giác, và biểu
tượng thu được từ những bối cảnh tự nhiên bên ngoài thông qua những
phản xạ, kích thích ở dạng mọi cảm giác: thính giác, thị giác, xúc giác,
vv.. Hệ thống tín hiệu thứ nhất tiến hành giao tiếp trong phạm vi tư duy
trừu tượng, một mặt nó lấy hình tượng mà bộ máy cảm giác nhận được

làm cái biểu hiện còn cái được biểu hiện là tư duy hình tượng. Sự giao


tiếp như vậy rất đơn sơ vì nó không có tư duy trừu tượng nhưng dần sau
vẫn có tác dụng giao tiếp.
Vì ngôn ngữ lấy ngữ âm làm vật kích thích vật chất, lấy khái niệm làm
nội dung chính của những vật kích thích ấy nên chỉ bộ phận tín hiệu thứ
nhất nào có tác dụng giao tiếp lấy âm thanh làm vật kích thích mới trở
thành ngôn ngữ.
Như vậy, có thể mộ phần của sự bắt chước âm thanh là nguồn gốc của
một phần ngôn ngữ. Nhưng phải là những âm thanh mà con người mô
phỏng âm thanh do sự vật phát ra để làm tín hiệu giao tiếp.
Tóm lại, tiền thân của ngôn ngữ loài người với những bộ phận tiếng kêu
trong lao động, tiếng kêu cảm thán có tác dụng giao tiếp với tư cách là
hệ thống ngôn ngữ thứ nhất đều có thể trở thành những bộ phận cấu
thành của ngôn ngữ sau này.
2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÔN NGỮ:
2.1 Quá trình phát triển của ngôn ngữ
Để hình thành nên các dân tộc hiện đại như ngày nay, xã hội loại người
đã trải qua nhiều hình thức tổ chức khác nhau như: thị tộc, bộ lạc hay
các bộ tộc. Quá trình này diễn ra một cách khúc khủy, phức tạp chứ
không theo một con đường thẳng đuột. Quá trình thống nhất và phân li
chồng chéo lẫn nhau.

Ngôn ngữ được sinh ra và phát triển đồng thời với xã hội loài người,
nên nó cũng trải qua quá trình thống nhất và phân li tương tự như thế.
Qua mỗi chặng đường, ngôn ngữ cũng được thay đổi về chất. Toàn bộ
quá trình đó, có thể thấy những bước như sau: ngôn ngữ bộ lạc, ngôn



ngữ khu vực, ngôn ngữ dân tộc, ngôn ngữ văn hóa dân tộc, ngôn ngữ
cộng đồng tương lai.

2.1.1. Ngôn ngữ bộ lạc và các biến thể của nó
Ngôn ngữ đầu tiên của xã hội loài người là những ngôn ngữ bộ lạc. Do
mỗi bộ lạc gồm nhiều thị tộc và những thị tộc này có quan hệ rất chặt
chẽ với nhau nên không có ngôn ngữ riêng. Thế nhưng trong thực tế, thì
vẫn có ngôn ngữ riêng trong mỗi bộ lạc.
Ở những bộ lạc suy yếu hợp lại, thì rất ít khi trong cùng một bộ lạc mà
người ta lại nói cùng hai ngôn ngữ rất gần nhau. Do sự phân chia của
một bộ lạc sẽ hình thành nên một số bộ lạc độc lập khác, có họ hàng với
nhau. Đó chính là sự phân li của ngôn ngữ và ngôn ngữ của các bộ lạc
này cũng phát triển theo những nét riêng độc lập.
Mặc dù việc liên minh giữa các bộ lạc có thể phát triển theo những nét
chung. Nhưng dẫu sao, liên minh bộ lạc cũng chỉ mang tính chất là tạm
thời, nên ngôn ngữ riêng của từng bộ lạc vẫn giữ vai trò chủ yếu.

2.1.2 Ngôn ngữ khu vực
Các dân tộc ra đời dựa trên sự tan rã của các bộ lạc, bộ tộc và liên minh
bộ lạc. Ở các dân tộc có thể thấy, đây được xem như một tổ chức xã hội
mang tính hoàn thiện cao về mọi mặt. Từ kinh tế, chính trị và nhà nước
đều được mở rộng và liên kết mối quan hệ. Dân tộc là một khối cộng
đồng ổn định, hình thành trên cơ sở cộng đồng về ngôn ngữ, về lãnh thổ,
về sinh hoạt kinh tế và về cấu tạo tâm lý, biểu hiện cộng đồng về văn
hóa. Như vậy, dân tộc có thể bao gồm các bộ lạc khác nhau và nói những
tiếng khác nhau.


Dĩ nhiên, trước khi thống nhất chung thành ngôn ngữ của toàn dân tộc
thì nó phải trải qua quá trình quá độ. Đó là diễn ra sự thống nhất ngôn

ngữ trong phạm vi từng khu vực.
Những mối liên hệ với thị tộc, bộ lạc dần dần mất đi, nhường chỗ cho
những mối liên hệ mới về kinh tế, chính trị giữa những người thuộc các
thị tộc, bộ lạc khác nhau cùng chung sống trong một khu vực. Do nhu
cầu đòi hỏi phải có ngôn ngữ chung thống nhất, mà ngôn ngữ khu vực ra
đời. Nó trở thành phương tiện giao tiếp chung của tất cả mọi người trong
một vùng. Các ngôn ngữ khu vực nằm trong một quốc gia thống nhất về
kết cấu có thể rất gần nhau như các tiếng địa phương ở Nga, và cũng có
thể rất xa nhau như các tiếng địa phương ở Đức hay Trung Quốc.

2.1.3 Ngôn ngữ dân tộc và các biến thể của nó
Sau khi đã hình thành nên ngôn ngữ khu vực, thì bước tiếp theo do nhu
cầu của sự phát triển dân tộc, mà cần có sự thống nhất một ngôn ngữ
chung cho toàn xã hội. Chính từ nhu cầu khách quan đó, ngôn ngữ dân
tộc đã ra đời.
Ngôn ngữ dân tộc là phương tiện giao tiếp chung của toàn dân tộc,
không biệt sự khác nhau về lãnh thổ hay xã hội của họ. Tùy theo hoàn
cảnh lịch sử mà sự hình thành của dân tộc và ngôn ngữ dân tộc ở mỗi
nơi, mỗi thời kỳ là khác nhau.
Theo Marx và Engles thì có ba con đường hình thành nên ngôn ngữ dân
tộc:
1.
Từ chất liệu vốn có: Ví dụ như tiếng Pháp. Trước khi ngôn ngữ dân
tộc Pháp hình thành thì trên đất Gôloa đã có sự pha trộn của tiếng Latin
và tiếng Xentich. Trên cơ sở này, phát triển thành nhiều tiếng địa


phương ở Pháp. Vào thời Phục hưng, tiếng địa phương miền Paris chiếm
ưu thế và phát triển lên thành ngôn ngữ dân tộc vào thế kỷ XVI-XVII.
2.

Sự pha trộn nhiều dân tộc: Lấy tiếng Anh làm ví dụ. Các tiếng
Ănglô Xắcxông vốn ngự trị trên đất Anh từ thời cổ. Đến thế kỷ IX và X
lại có sự pha trộn với tiếng Đan Mạch. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XVI lại
có sự pha trộn lần nữa của tiếng Noocmăng. Ngôn ngữ dân tộc Anh hiện
đại hình thành trên cơ sở tiếng địa phương Luân Đôn là sự pha trộn của
ba thứ tiếng Ănglô Xắcxông, Đan Mạch và Noocmăng
3.
Sự tập trung của các tiếng địa phương: Lấy tiếng Nga làm ví dụ.
Ngôn ngữ dân tộc Nga hình thành vào thế kỷ XVI – XVII cùng với sự
thành lập của quốc gia Moskva, trên cơ sở khẩu ngữ Moskva có tính
chất chuyển tiếp của tiếng địa phương miền Bắc và miền Nam
Ngôn ngữ dân tộc không phải là một thể thống nhất hoàn toàn. Bên cạnh
ngôn ngữ chung của toàn dân vẫn tồn tại những biến thể khác nhau như:
phương ngữ (regional dialect), thời ngữ (temporal dialect), phương ngữ
xã hội (social dialect)

a.
Phương ngữ: Phương ngữ là hình thức đặc biệt của một ngôn ngữ
được sử dụng trong một không gian địa lý nhất định. Ở nước ta có 3
phương ngữ, đó là phương ngữ Bắc dùng trong giao tiếp ở Bắc bộ,
phương ngữ Trung bao gồm các tỉnh Bắc Trung bộ từ Thanh Hóa đến
đèo Hải Vân, phương ngữ Nam là một phương ngữ mới, trải dài từ đèo
Hải Vân đến cực Nam của Tổ quốc
b.
Thời ngữ: Thời ngữ là một loại ngôn ngữ được xác định bởi thời
gian mà người ta sống lúc đó. Nguyễn Tài Cẩn đã phân kì lịch sử 12 thế
kỷ của tiếng Việt như sau:


A: Giai đoạn Proto Việt, vào khoảng thế kỷ VIII, IX





B: Giai đoạn tiếng Việt tiền cổ, vào khoảng thế kỷ X, XI, XII



C: Giai đoạn tiếng Việt cổ, vào khoảng thế kỷ XIII, XIV, XV, XVI


D: Giai đoạn tiếng Việt trung đại, vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII
và nửa đầu thế kỷ XIX


E: Giai đoạn tiếng Việt cận đại, vào thời gian Pháp thuộc



G: Giai đoạn tiếng Việt hiện đại, từ năm 1945 trở đi

c. Phương ngữ xã hội: là biến thể ngôn ngữ được những người thang
độ xã hội sử dụng. Chẳng hạn, ngôn ngữ do những người cùng tuổi,
cùng giai cấp, cùng nghề nghiệp, cùng giới tính sử dụng
d. Biệt ngữ cá nhân: là một thuật ngữ ngôn ngữ học được dùng để chỉ
biến thể ngôn ngữ trong cách sử dụng cá nhân. Ở mỗi cá nhân cũng có
những từ, ngữ, và cách diễn đạt tư tưởng riêng mà mình ưa chuộng. Đó
có thể là giọng nói, cao độ, mô hình trọng âm, sự lựa chọn từ vựng và
cấu trúc ngữ pháp thường bộc lộ đặc tính cá nhân của mỗi người. Trong
ngôn ngữ viết thường biết đến như là phong cách của nhà văn.


2.1.4 Ngôn ngữ văn hóa và các biến thể của nó
Ngôn ngữ văn hóa (cultural language) là ngôn ngữ của dân tộc đã đạt
đến trình độ văn hóa cao, có ý nghĩa quốc gia. Sự ra đời của ngôn ngữ
văn hóa là một cái mốc lớn trên con đường thống nhất ngôn ngữ dân tộc.
Ngôn ngữ văn hóa trong thời kỳ này chỉ là ngôn ngữ trên phương ngữ.
Chỉ khi các dân tộc phát triển, ngôn ngữ văn hóa dân tộc mới hình thành.
Ngôn ngữ văn hóa dân tộc hoạt động theo những quy tắc chặt chẽ được
gọi là chuẩn mực. Ở ngôn ngữ văn hóa là cả một sự chọn lọc những đơn


vị, những phạm trù ngôn ngữ đáp ứng nhiều nhất cho những yêu cầu của
toàn dân tộc, tước bỏ những hạn chế có tính chất địa phương và xã hội.
Ngôn ngữ văn hóa dân tộc là biểu hiện tập trung nhất tính thống nhất
của ngôn ngữ dân tộc, nhưng nó không phải là nhất dạng mà cũng có
những biến thể khác nhau. Do mục đích, hoàn cảnh khác nhau mà dẫn
đến các phong cách khác nhau, mỗi phong cách phục vụ cho một lĩnh
vực nào đó trong đời sống xã hội. Những phong cách chủ yếu là: phong
cách hội thoại, phong cách sách vở (phong cách chính luận, phong cách
khoa học, phong cách hành chính).
Ngôn ngữ văn hóa dân tộc là ngôn ngữ thống nhất và chuẩn mực của
dân tộc. Nhưng không phải tất cả những gì được dùng trong tác phẩm
khoa học, chính trị, văn nghệ v.v… đều là chuẩn mực.

2.1.5 Ngôn ngữ cộng đồng tương lai
Đây được xem như mơ ước to lớn của toàn nhân loại, đó là sử dụng một
ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người trên thế giới. Nếu việc này được
thực hiện sẽ tạo một cầu nối lớn cho nhân loại, tiết kiệm chi phí, sức lực,
trí tuệ học và dạy ngoại ngữ như hiện nay. Tuy ngôn ngữ cộng đồng vẫn
chưa trở thành hiện thực, thế nhưng đã có xuất hiện ngôn ngữ quốc tế do

Descartes và Leibniz đã đề xướng tạo ra. Có nhiều ngôn ngữ quốc tế
nhân tạo được đề nghị, nhưng chỉ có tiếng Espernto được chấp nhận
nhiều nhất.
Một số dự đoán cho tương lai ngôn ngữ học loài người:

Một số người cho rằng, trong tương lai các ngôn ngữ sẽ thâm nhập
lẫn nhau, hòa vào nhau. Trên phạm vi toàn thế giới, mầm sống của ngôn
ngữ cộng đồng tương lai cũng đã xuất hiện và thể hiện ở các hệ thống
thuật ngữ có tính chất quốc tế.



Một số người dự đoán sự phát triển của ngôn ngữ loài người sẽ đi
theo con đường tạo ra các ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các dân tộc.
Ngôn ngữ chung này sẽ không phải là một ngôn ngữ nào mới được tạo
ra, mà chỉ là ngôn ngữ có sẵn nhưng được đưa lên cương vị ngôn ngữ
giao tiếp chung giữa các dân tộc.
2.2. Những nhân tố khách quan và chủ quan làm cho ngôn ngữ biến
đổi và phát triển
2.2.1. Những nhân tố khách quan
Sự biến đổi và phát triển của các ngôn ngữ luôn luôn diễn ra trên cả hai
mặt cấu trúc và chức năng. Quá trình phát triển từ ngôn ngữ bộ lạc đến
ngôn ngữ cộng đồng tương lai là quá trình phát triển của các ngôn ngữ
về mặt chức năng. Sự phát triển về mặt cấu trúc của ngôn ngữ thể hiện ở
sự biến đổi của hệ thống ngữ âm, thành phần hình thái học, từ vựng-ngữ
nghĩa và cơ cấu ngữ pháp của nó.
Nếu như sự phát triển của ngôn ngữ bao gồm nhiều mặt, nhiều khía cạnh
thì nguyên nhân làm cho nó biến đổi và phát triển cũng rất đa dạng và
phong phú. Người ta đã từng giải thích sự phát triển của ngôn ngữ là do
sự tiến bộ của bộ máy phát âm, do ảnh hưởng của điều kiện địa lí và khí

hậu, do ảnh hưởng của tâm lí dân tộc, do đòi hỏi phải tiết kiệm hơi sức
hao phí cho bộ máy phát âm, do chơi chữ, do đặc điểm của trẻ em học
nói v.v... Chúng ta không phủ nhận tác dụng của các yếu tố kể trên đối
với sự phát triển của ngôn ngữ, nhưng đó chưa phải là nguyên nhân chủ
yếu, quyết định phương hướng và cách thức phát triển của ngôn ngữ.
Với tư cách là hiện tượng xã hội đặc biệt, sự phát triển của ngôn ngữ
phải do những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá và các điều kiện xã
hội khác quy định. Người ta chỉ có thể hiểu được một ngôn ngữ và quy
luật phát triển của nó khi nào người ta nghiên cứu nó theo sát lịch sử của
xã hội, lịch sử của nhân dân có ngôn ngữ đó, sáng lập và bảo tồn, sử


dụng ngôn ngữ đó. Sản xuất phát triển, các giai cấp xuất hiện, chữ viết ra
đời, các quốc gia hình thành cần giao dịch thư từ có quy thức ít nhiều
cho việc hành chính; nền thương nghiệp trưởng thành càng cần giao dịch
thư từ có quy tắc hơn nữa, báo chí ấn loát xuất hiện, văn học tiến lên, tất
cả những điều đó đã đưa lại những biến đổi lớn lao trong sự phát triển
của ngôn ngữ. Ảnh hưởng đến sự phát triển của ngôn ngữ còn phải kể
đến những nhân tố khách quan như: hình thức cộng đồng tộc người, dân
số, trình độ học vấn; hình thức thể chế nhà nước; môi trường tộc người;
tốc độ phát triển kinh tế-xã hội; mối liên hệ kinh tế, chính trị, văn hoá;
thế tương quan giữa trình độ phát triển của một dân tộc với các dân tộc
láng giềng; truyền thống văn hoá, mức độ phân chia thành các tiếng địa
phương.
Tuy nhiên, điều kiện kinh tế, văn hoá, chính trị,... của xã hội mới chỉ là
nguyên nhân bên ngoài, đề ra những yêu cầu nhất định đối với ngôn
ngữ, còn bản thân ngôn ngữ có nhiều biến đổi và phát triển được hay
không lại do nguyên nhân bên trong nó quyết định. Nguyên nhân bên
trong chính là sự đối lập, mâu thuẫn giữa các yếu tố trong ngôn ngữ.
Những yêu cầu của xã hội đặt ra sẽ được đáp ứng thông qua việc giải

quyết những mâu thuẫn trong nội bộ ngôn ngữ. Nguyên nhân bên trong
thể hiện tình hình và khả năng nội bộ của ngôn ngữ. Chính vì vậy, những
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội,... có thể trực tiếp giải thích quy luật
phát triển của kết cấu ngôn ngữ nói chung, tức là sự phát triển của ngôn
ngữ từ ngôn ngữ bộ lạc, đến ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ cộng đồng
tương lai, nhưng lại chưa đủ để giải thích những quy luật phát triển nội
bộ của ngôn ngữ, tức là quy luật phát triển các mặt, các yếu tố của nó.
Engels viết: “Nếu không muốn làm thành trò cười, thì cũng khó mà dùng
nguyên nhân kinh tế để cắt nghĩa sự tồn tại của mỗi tiểu bang trong nước
Đức trước kia và hiện nay, hay cắt nghĩa nguồn gốc của hiện tượng di
chuyển phụ âm trong tiếng Thượng-Đức là hiện tượng đã mở rộng
đường phân giới địa lí do dãy núi từ Xu-đet đến Tanuxơ tạo nên, thành


cả một đường nứt thực sự xuyên qua toàn nước Đức”(1). Như vậy,
những quy luật phát triển nội bộ của ngôn ngữ chỉ có thể giải thích gián
tiếp qua điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội. Bản thân những
hiện tượng mới trong ngôn ngữ đều phát triển từ những hiện tượng đã
có, trên cơ sở những hiện tượng đã có.
2.2.2. Những nhân tố chủ quan
Ngôn ngữ phát triển theo những quy luật khách quan của mình. Sự phát
triển ấy chính là kết quả tác động của những nguyên nhân khách quan
(nguyên nhân bên trong cũng như nguyên nhân bên ngoài). Tuy nhiên,
nhân tố chủ quan của con người cũng góp phần không nhỏ trong sự phát
triển của ngôn ngữ. Chính sách ngôn ngữ là thể hiện ý chí chủ quan của
con người đối với sự phát triển ấy. Bản thân chính sách ngôn ngữ chỉ
phát huy được tác dụng trong chừng mực phù hợp với quy luật phát triển
khách quan. Muốn đề ra chính sách ngôn ngữ đúng đắn cần phải nắm
vững quy luật phát triển của xã hội nói chung và của ngôn ngữ nói riêng.
Có thể nói chính sách ngôn ngữ là lí luận và thực tiễn tác động một cách

có ý thức vào quá trình phát triển ngôn ngữ. Nó là một bộ phận của
chính sách dân tộc của một quốc gia, một giai cấp, một đảng nào đó.
Chính sách ngôn ngữ tác động trước hết đến mặt chức năng của ngôn
ngữ, và qua đó, trong chừng mực nhất định, tác động đến mặt cấu trúc
của ngôn ngữ.
Nội dung chính sách ngôn ngữ của Đảng và Nhà nước ta thể hiện ở
những chủ trương sau:
.-Tôn trọng tiếng mẹ đẻ của các dân tộc, bảo đảm sự phát triển tự do và
bình đẳng của tất cả các ngôn ngữ dân tộc ở Việt Nam.


Trong chế độ phong kiến và tư bản, xuất phát từ ý thức miệt thị dân tộc,
bọn thống trị ra sức ngăn cản sự phát triển ngôn ngữ của các dân tộc ít
người.
Do chỗ phân tích đúng đắn quy luật phát triển của xã hội cho nên chủ
nghĩa Mác chủ trương “bình đẳng dân tộc, dưới đủ mọi hình thức (ngôn
ngữ, trường học...)”, đó là yếu tố không thể thiếu được trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc. Chủ nghĩa Mác chủ trương hoàn toàn xoá bỏ mọi
đặc quyền dành cho một dân tộc nào đó, cho một ngôn ngữ nào đó. Thái
độ của công nhân thuộc những dân tộc đã đóng vai trò đi áp bức dưới
thời chủ nghĩa tư bản..., là phải giúp đỡ quần chúng cần lao của những
dân tộc trước kia bị áp bức không những thiết lập một nền bình đẳng
thực tế, mà còn phát triển ngôn ngữ và văn học nữa, để xoá bỏ tất cả
những dấu vết của tinh thần nghi kị và phân lập do chủ nghĩa tư bản để
lại; phải làm cho nhân dân có các trường học, trong đó, việc giáo dục
được tiến hành bằng tất cả các thứ tiếng địa phương, và phải đề ra trong
hiến pháp một điều luật cơ bản nhằm xoá bỏ mọi thứ đặc quyền, bất cứ
là thứ đặc quyền nào, đã ban cho một dân tộc nào, và nhằm huỷ bỏ tất cả
mọi sự vi phạm đến các quyền của một dân tộc thiểu số.
Tiếng nói chung giữa các dân tộc hình thành một cách khách quan do

điều kiện kinh tế, chính trị,... quy định. Lênin viết: “Những nhu cầu về
kinh tế sẽ tự quyết định ra một ngôn ngữ chung cho toàn quốc, ngôn ngữ
mà đa số người vì lợi ích liên hệ mậu dịch sẽ thấy là có lợi, nếu biết
được ngôn ngữ đó”(1).
Trung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã có
những chính sách rất đúng đắn về dân tộc và ngôn ngữ dân tộc. Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng khi mới thành lập (1930) đã đề ra chính sách
“đoàn kết dân tộc trên cơ sở những nguyên tắc bình đẳng và tương trợ
lẫn nhau để giành lấy độc lập và hạnh phúc chung cho các dân tộc”.
Chính cương của Đảng năm 1951 ghi rõ: “Các dân tộc sống trên đất


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×