TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA GIÁO DỤC THỂ CHẤT & QUỐC PHÒNG
GIÁO TRÌNH
(Lƣu hành nội bộ)
CHẠY CỰ LY NGẮN, CHẠY TIẾP SỨC
(Dành cho hệ Cao đẳng chính quy chuyên ngành Sinh – Giáo dục thể chất)
Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn
Năm 2015
1
BÀI 1. KHÁI QUÁT CHUNG
I. Giới thiệu môn học
1. Giới thiệu môn điền kinh
Khái niệm: Điền kinh là tên gọi chung cho các môn thể thao được tiến hành
trên sân và trên đường.
Điền kinh là tên gọi của môn thể thao cơ bản gồm các nội dung đi, chạy, nhảy,
ném, đẩy và phối hợp các nội dung đó (nhiều môn phối hợp).
2. Giới thiệu chạy cự ly ngắn và chạy tiếp sức
- Chạy cự ly ngắn là môn thể thao hoạt động với công suất cực đại. Đặc điểm
điển hình của môn chạy cự ly ngắn là yêu cầu cao về tốc độ và sức bền tốc độ. Vì vậy
đòi hỏi người chạy có khả năng phát huy được tốc độ cao ngay sau khi xuất phát và
duy trì được tốc độ cao cho đến khi về đích.
Chạy cự ly ngắn: 100m, 200m, 400m (ngoài ra còn có những cự ly 50m, 60m,
300m tuy được công nhận kỷ lục lướt tốc nhưng không được áp dụng trong những
giải đấu quốc tế).
- Chạy tiếp sức là môn chạy theo đội, mỗi VĐV chỉ chạy 1 đoạn của cự ly quy
định. Tín gậy được VĐV cầm khi xuất phát, sau đó chuyển dần cho tới VĐV cuối
cùng để mang về đích. Ngoài ra còn có tiếp sức hỗn hợp, các cự ly chạy của mỗi
VĐV không giống nhau (800m, 400m, 200m, 100m).
Chạy tiếp sức: 400m, 1600m (ngoài ra còn có những cự ly 800m, 3200m,
6000m tuy được công nhận kỷ lục lướt tốc nhưng không được áp dụng trong những
giải đấu quốc tế).
Chạy tiếp sức thường tổ chức trong sân vận động, nhưng cũng có khi tổ chức
trên đường phố.
II. Phân loại các môn chạy, cự ly chạy
Phân loại:
+ Đi bộ thể thao: từ 3km đến 50km.
+ Chạy gồm các cự ly sau:
- Chạy cự ly ngắn: 60m, 100m, 200m, 400m
- Chạy cự ly trung bình: 1500m (nam); 800m (nữ)
- Chạy việt dã: 1000m (nữ), 5000m (nam)
- Chạy Maratoong: 10km - 42km195m.
- Chạy vượt rào, chạy vượt chướng ngại vật.
- Chạy tiếp sức: 4 x 100m.
+ Nhảy gồm các nội dung sau: Nhảy cao, nhảy xa, nhảy sào, nhảy ba bước.
+ Ném và đẩy:
- Ném: Ném lao, ném đĩa, ném tạ xích.
- Đẩy: Đẩy tạ.
III. Lịch sử phát triển các môn chạy ngắn và tiếp sức
1. Trên thế giới
2
- Đi, chạy, nhảy, ném là những dạng hoạt động, vận động tự nhiên quen thuộc
của con người ngay từ thời xa xưa. Các hoạt động đó chỉ coi là cách di chuyển, săn
bắt, tự vệ hoặc tấn công cách chạy trốn hoặc đuổi bắt của kẻ thù.
- Cùng với sự phát triển của loài người các dạng vận động đó ngày càng được
hoàn thiện, được nâng cấp và có vị trí ngày càng cao với cuộc sống con người.
- Môn thể thao Điền kinh phát triển sớm nhất ở Anh từ năm 1817 đã thi chạy
gần 2km ở thành phố Rebi. Năm 1851 thi Điền kinh ở Anh có nội dung bật xa tại chổ
và nhảy xa không có đà.
- Tại Pháp bắt đầu phát triển từ năm 1880 ở các trường THPT và đã thành lập
tổng hội điền kinh.
- Tại Mỹ 1868 câu lạc bộ điền kinh thành lập ở New York được thành lập ở các
trường đại học và trung tâm điền kinh mạnh ở Mỹ.
- Năm 1956 hiệp hội huấn luyện viên điền kinh quốc tế được thành lập.
- Ngày nay ngoài việc có chương trình của đại hội TDTT của các quốc gia và
quốc tế trên phạm vi toàn thế giới cứ 2 năm (vào những năm lẻ) giải vô địch điền kinh
thế giới được tổ chức 1 lần.
Cự li ngắn là các cự li từ 30m đến 400m. Có thể nói rằng cự li ngắn là cự li
được dùng trong thi đấu sớm nhất. Ngay từ thời Ai Cập cổ đại người ta đã tổ chức
một cuộc thi đấu lớn giữa những binh sĩ trong quân đội (sau đó mở rộng cho cả các
đối tượng khác). Sau Ai Cập, người ta còn thấy ở Hi Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc... cũng
có các cuộc thi tương tự. Người Hi Lạp đã sớm biết dùng các bài tập chạy, nhảy,
ném... để rèn luyện thể lực cho binh sĩ và cũng là người Hi Lạp từ năm 776 trước
Công nguyên đã tổ chức các Đại hội Ôlimpic cổ đại - theo chu kì 4 năm một lần. Ban
đầu trong những đại hội đó, các lực sĩ chỉ được chạy ở cự li bằng chiều dài của sân
vận động, là 192,27m. Về sau nội dung thi được bổ sung thêm, trong đó có nội dung
đòi hỏi các lực sĩ phải toàn diện nhất trong tất cả các hoạt động. Đó là môn có tên gọi
là “Pentalon” (tạm dịch là 5 môn phối hợp) bao gồm chạy 192,27m; nhảy xa; ném
đĩa; ném lao và vật.
Sau Công nguyên, lần đầu tiên thi đấu chạy cự li ngắn được tổ chức vào năm
1860 tại nước Anh với cự li 100Yard (Yard là đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng
91,4m).
Tiếp sức là tên gọi được du nhập từ tiếng Italia. Dễ hiểu là trước đây, để đạt
được việc đưa báo cáo tới nơi nhận bằng một phương pháp nhanh nhất, những người
chạy đưa tin hoả tốc buộc phải thay ngựa trong các trạm để duy trì được tốc độ di
chuyển cao nhất.
Chạy tiếp sức trong điền kinh hiện nay là một môn thi mang tính đồng đội có
sức hấp dẫn mạnh mẽ, đặc biệt là ở các cự ly ngắn.
2. Ở Việt Nam
- Đi, chạy, nhảy, ném là những hoạt động tự nhiên quen thuộc của người Việt
Nam từ thuở xa xưa, người Việt Nam đấu tranh với thiên nhiên để tồn tại và phát
triển.
3
- Điền kinh với địa vị là môn thể thao hiện đại vậy việc luyện tập và thi đấu
điền kinh được phổ biến rộng rãi.
- Ngày 21/12/1919 Trường TDTT đầu tiên do nhóm tri thức, đứng đầu là ông
Nguyễn Quý Toản - một giảng viên đứng ra thành lập gồm các môn: chạy, nhảy, ném.
- Tháng 4/1924 giải vô địch điền kinh chính thức ở Bắc Kì được tổ chức giải vô
địch điền kinh đầu tiên (dành được giải nhất chạy 100m, chạy vượt rào).
- Năm 1925 ở Bắc Kì cuộc thi 10 môn điền kinh phối hợp mang tên (Lực sĩ
toàn năng).
- Cuối năm 1930 rộ lên phong trào đi bộ, và môn nhảy cao được đưa vào Việt
Nam (nhảy bước qua và nhảy cắt kéo).
- Năm 1935 đến 1940 là thời kỳ phát triển thứ 2 của điền kinh Bắc Kì.
- Tháng 8/1945 Cách mạng thành công, thời gian này hoạt động TDTT theo lời
kêu gọi của Hồ Chủ Tịch "giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới,
việc gì cũng cần có sức khoẻ mới thành công".
- Ngày 20/07/1957 hoà bình lập lại. Đến năm 1975 TDTT là một bộ phận của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và sự nghiệp đấu tranh nhằm thống nhất đất
nước. Các trường đào tạo cán bộ TDTT của ngành TDTT được lần lượt thành lập.
- Năm 1980 Đại hội Olimpic được tổ chức ở Matxcơva, các vận động viên Việt
Nam cũng tham dự.
- Năm 1982 các vận động viên đã tham gia và mang về nhiều huy chương tại
các kỳ SeaGames.
Trong các môn thể thao hiện đại của thế giới được du nhập vào Việt Nam, điền
kinh là một trong những môn được phát triển rộng rãi hơn cả. Tháng 4 năm 1924,
Tổng cục Thể thao Bắc Kì tiến hành tổ chức được một giải điền kinh. Người Việt
Nam duy nhất giành được chức vô địch có tên là Thái - một hạ sĩ quan thuộc Trung
đoàn Bộ binh thứ nhất của quân đội Pháp đóng tại Hà Nội - ở chạy 100m với thành
tích 11”3 (và nhất ở chạy 110m rào với 16”35). Trước 1945, kỉ lục của Việt Nam ở
chạy 100m và 200m là 11”2 và 23”2 đều do Trương Văn Kí lập. Kỉ lục ở chạy 400m
thuộc về Nguyễn Ngọc Long là 57”. Cả ba kỉ lục trên đều được lập ở dưới chế độ dân
chủ cộng hoà rồi chế độ cộng hoà XHCN, nền thể dục thể thao Việt Nam không
ngừng phát triển cả về thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao. Nhiều vận
động viên ưu tú xuất hiện, các kỉ lục quốc gia liên tục được nâng cao, trong đó có các
kỉ lục ở chạy cự li ngắn. Chúng ta không quên những vận động viên đã đóng góp
nhiều công sức cho công việc khó khăn đó: Trần Tú Thi, Trần Bá, Trần Hữu Chỉ, Hà
Văn Canh, Nguyễn Trung Hoa, Nguyễn Đình Minh, Cù Thành Giang, Lương Tích
Thiện, Nguyễn Thanh Hải, Vũ Ngọc Thái... Các vận động viên nữ: Nguyễn Thị Minh,
Trần Thanh Hương, Nguyễn Trần Lam Thanh, Trương Hoàng Mỹ Linh, Nguyễn Lan
Hương, Nguyễn Thanh Hoa, Nguyễn Thị Tĩnh...
Cùng với những bước thăng trầm của lịch sử dân tộc, mặc dù cũng có những
tiến bộ đáng khích lệ, nhưng so với kỉ lục thế giới, kỉ lục ở chạy các cự li ngắn của
Việt Nam còn bị bỏ khá xa.
4
Bảng 3. Kỉ lục quốc gia và kỉ lục hội khoẻ Phù Đổng toàn quốc của lứa tuổi học
sinh THCS ở chạy cự li ngắn (tính đến tháng 03/2003)
Cự li
VĐV
Đơn vị
kỉ lục
Năm lập
200m
VĐV
Đơn vị
kỉ lục
Năm lập
400m
VĐV
Đơn vị
kỉ lục
Năm lập
100m
Nữ
Quốc gia
THCS
Hoàng Thị Lan Anh Vũ Thị Phượng
Hà Nội
Hà Nội
11"75
12"2
13/10/1967
Tháng 4/2000
Nguyễn Thị Tĩnh
Vũ Thị Phượng
Hà Nội
Hà Nội
24"06
25"6
21/11/2002
Tháng 4/2000
Nguyễn Thị Tĩnh
Hà Nội
53"86
Tháng 11-2002
Nam
Quốc gia
THCS
Nguyễn Trung Hoa Nguyễn Khắc Hoàng
Thanh Hoá
TP Hồ Chí Minh
10"58
10"6
Tháng 4-2000
Nguyễn Thanh Hải Nguyễn Khắc Hoàng
Nghệ An
TP Hồ Chí Minh
21"27
22"07
21-11-2002
Tháng 4-2000
Vũ Ngọc Thái
Quân đội
48"41
18- 11- 2002
Từ năm 1983, cứ 4 năm một lần, nước ta lại tổ chức Hội khoẻ Phù Đổng toàn
quốc cho học sinh các trường phổ thông. Hội khoẻ thi đấu theo ba lứa tuổi: từ 11 tuổi
trở xuống, từ 15 tuổi trở xuống và từ 18 tuổi trở xuống. Như vậy, học sinh Tiểu học
thuộc lứa tuổi thứ nhất. Cho tới nay đã có 5 Hội khoẻ Phù Đổng được tổ chức.
IV. Các kỉ lục của thế giới và Việt Nam
(Sinh viên tự tìm hiểu)
V. Tác dụng của việc luyện tập chạy cự ly ngắn và chạy tiếp sức
- Thành tích khi chạy ở cự ly ngắn đều gồm thời gian phản xạ, thời gian phản
xạ càng ngắn tốc độ trung bình chạy càng cao và thành tích người chạy càng tốt. Tập
luyện là quá trình hoàn thiện kỹ thuật và phát triển thể lực nhằm nâng cao thành tích
chạy ở cự ly ngắn. Phát triển sức nhanh và tốc độ là một trong các yếu tố thể lực (tố
chất vận động) quan trọng không thể thiếu của con người, con người vẫn còn phải
phát triển toàn diện không thể thiếu sức nhanh. Điều đó không loại trừ trong tiêu
chuẩn rèn luyện thân thể trong các đối tượng đó luôn có trong chạy cự ly ngắn.
- Xác định lứa tuổi tập luyện phù hợp nhất trong phát triển sức nhanh từ 9 - 16
tuổi.
- Tố chất sức nhanh là khả năng tốt đối với vận động viên hầu hết các môn thể
thao. Tập chạy cự ly ngắn tốt nhất là cơ sở để phát triển tố chất nhiều môn thể thao
khác.
- Cũng như tập nhiều môn thể thao khác chạy ngắn mang lại những biến đổi về
thể hình và chức năng của người tập, các VĐV chạy cự ly ngắn thường là những
người khoẻ mạnh và có cơ thể phát triển cân đối.
* Ý nghĩa tác dụng của tập luyện đi và chạy
- Đi và chạy là hình thức vận động di chuyển tự nhiên của con người, là
phương tiện giáo dục thể chất nâng cao sức khoẻ trong điều kiện không đòi hỏi sự
5
phức tạp về cơ sở vật chất và mọi lứa tuổi đều có thể tham gia tập luyện. Đi bộ thể
thao là hình thức di chuyển đặc biệt nhằm đạt được tốc độ di chuyển nhanh nhất
nhưng vẫn giữ được đặc tính cơ bản của đi bộ.
- Đi và chạy là hoạt động cơ bản trong đời sống sinh hoạt, học tập, lao động sản
xuất và bảo vệ Tổ quốc.
- Đi và chạy là một trong những nội dung dạy học thể dục ở trường phổ thông,
có tác dụng trực tiếp trong quá trình rèn luyện tư thế, tăng cường sức khoẻ, phát triển
toàn diện và nâng cao một số tố chất vận động cơ bản cho các em học sinh.
* Mục đích tác dụng của môn Đi và Chạy
- Nhằm rèn luyện tư thế cơ bản của cơ thể, tăng cường sức khoẻ cho học sinh,
phát triển sức mạnh cơ chân và sự chịu đựng của cơ quan nội tạng. Rèn luyện đi, chạy
làm cho hoạt động cơ bắp, các hệ thống cơ quan nội tạng được đẩy mạnh, quá trình
trao đổi chất và năng lượng được nhanh hơn. Các tố chất nhanh nhẹn, khéo léo được
phát triển, làm cơ sở tốt cho việc hình thành các kĩ năng vận động phức tạp khác.
- Giúp học sinh hiểu biết và rèn luyện tư thế đi đúng, đẹp, tự nhiên, khắc phục
các tư thế đi sai lệch như: đi chân chữ bát, đi vòng kiềng, đi hay cúi đầu, đi thân hay
lắc lư, lệch vai, gù lưng... Trên cơ sở đó mà các em sửa đổi tốc độ và bước đi dài ngắn
cho thích hợp, để nâng dần khả năng hoạt động tự nhiên, phục vụ cuộc sống. Cần
quan tâm và bảo đảm các yêu cầu kĩ thuật, để học sinh thực hiện được tư thế đi chính
xác.
6
BÀI 2. NGUYÊN LÝ KỸ THUẬT CHẠY, KỸ THUẬT CHẠY
CỰ LY NGẮN VÀ CHẠY TIẾP SỨC 4 x 100m
I. Các yếu tố quyết định thành tích
1. Các lực sinh ra có liên quan đến chu kỳ chạy
Trong chạy, khi ở thời kỳ chống trọng tâm cơ thể không ngừng di chuyển về
trước. Khi chống trước tốc độ hơi giảm, khi đạp sau tốc độ lại tăng lên.
Khi chống trước do điểm chống luôn ở phía trước hình chiếu trọng tâm cơ thể
trên mặt đất nên phản lực chống trước luôn có hướng ra sau và lên trên thành phần
thẳng đứng của phản lực này chống đỡ trọng tâm cơ thể, thành phần nằm ngang kìm
hãm cơ thể chuyển động về trước.
Phản lực chống trước thay đổi theo mức độ tăng của tốc độ chạy. Tốc độ chạy
càng lớn thì phản lực chống trước càng mạnh, sự kìm tốc độ nằm ngang càng nhiều.
Vì vậy kỹ thuật đặt chân chống trước trong chạy, nhất là chạy ngắn, rất quan trọng.
Để làm giảm lực chống trước kìm hãm tốc độ nằm ngang cần phải giảm thành
phần nằm ngang có hướng ngược chiều với sự di chuyển cơ thể. Muốn vậy người
chạy cần chú ý giảm chấn động trong lúc chống trước và tăng góc chống trước khi đặt
chân.
Để thực hiện được điều này chân cần chủ động đặt trên đất bằng động tác miết
từ trước ra sau. Song lực hãm cũng không bị triệt tiêu hoàn toàn. Nhiệm vụ của người
chạy làm sao giảm nó đến mức tối thiểu.
Khi phân tích phản lực chống trước trong chạy cần lưu ý đến trường hợp ngoài
lệ đó là những bước chạy đầu tiên khi lao ra khỏi bàn đạp xuất phát trong chạy ngắn.
Ở đây do độ gấp thân người về trước quá lớn đùi chân lăng không lăng cao, với xa mà
nhanh chóng đạp mạnh về sau nên khi đặt chân, điểm đặt nằm sau hình chiếu trọng
tâm cơ thể trên mặt đất. Lúc này phản lực chống khi đặt chân có hương lên trên ra
trước. Thành phần nằm ngang cùng hướng chuyển động của cơ thể và góp phần đẩy
7
cơ thể lao nhanh về trước. Như vậy trong những bước đầu sau khi chân rời bàn đạp
xuất phát, nhờ không có lực cản khi đặt chân, mà người chạy dễ dàng khắc phục được
sức ỳ của cơ thể và nhanh chóng đạt tốc độ cao nhất. Trường hợp trên không thể áp
dụng trong giai đoạn chạy giữa quãng trên cự ly ngắn, vì độ gấp quá lớn của thân sẽ
hạn chế việc nâng đùi làm ảnh hưởng nhiều đến độ dài bước, người chạy không thể
phát huy được tốc độ tối đa.
Thành phần thẳng đứng của lực chống trước ngăn cản việc tiếp tục hạ thân
xuống thấp, lúc này tốc độ di chuyển của thân giảm đi, quá trình làm việc của cơ
mang tính chất nhường bộ của những cơ chân chống. Lúc này việc kéo căng các cơ
duỗi chân đến một giới hạn nhất định sẽ có tác dụng kích thích làm tăng khả năng co
lại của chúng trong thời gian đạp sau.
Khi chống trước, chân tiếp xúc 1/2 phía trước bàn chân, cách đặt như vậy làm
cho những cơ gấp gan bàn chân (cơ tam đầu cẳng chân,... cơ mác) khi gấp cổ chân về
trước được kéo căng ra làm tăng sức mạnh của chúng khi co lại ở giai đoạn đạp sau.
Nếu người chạy đặt chân bằng gót thì những cơ này không có tác dụng làm
giảm chấn động lúc đặt chân, phản lực chống xuất hiện trong trường hợp này tăng lên,
người chạy giảm tốc độ. Ngoài ra nếu đặt bằng gót những cơ duỗi sẽ không chuẩn bị
để phát huy hết sức mạnh của chúng khi đạp sau.
Trong thời điểm thẳng đứng, do hình chiếu trọng tâm cơ thể trùng trên điểm
chống, lực tác dụng của cơ thể trên đất theo chiều từ trên xuống dưới, phản lực chống
hướng ngược chiều từ dưới lên trên lúc này chỉ có tác dụng chống đỡ cơ thể và không
ảnh hưởng gì tới tốc độ nằm ngang.
Đạp sau được bắt đầu từ lúc hình chiếu của trọng tâm cơ thể đi qua điểm chống
và kết thúc lúc chân rời đất. Đây là giai đoạn tăng tốc độ người chạy trong mỗi một
bước sau khi tốc độ bị giảm đi khi chống trước. Do điểm chống lúc này ở phía sau
hình chiếu trọng tâm cơ thể trên đất. Thì phản lực trên điểm chống sẽ có hướng ra
trước lên trên. Thành phần thẳng đứng của phản lực, chống đỡ trọng tâm cơ thể, thành
phần nằm ngang cùng hướng tiến của cơ thể, giúp cho cơ thể chuyển động về trước.
Góc độ đạp sau: Thường xác định bằng góc của phản lực chống sau, góc độ
này thay đổi phụ thuộc vào tốc độ chạy. Khi chạy nhanh phản lực chống trong lúc đạp
sau không chỉ lớn hơn mà còn làm thành một góc với phương nằm ngang nhỏ so với
chạy chậm. Hai điều này làm tăng thành phần nằm ngang phản lức chống sau và tăng
tốc độ chạy để tăng hiệu quả đạp sau cần phải nhanh, mạnh, duỗi hết các khớp và góc
độ hợp lý. Tùy thuộc vào cự ly chạy mà góc độ đạp sau có sự thay đổi nhỏ nhất trong
chạy ngắn, lớn nhất trong chạy dài (từ 550 – 600). Kết thúc giai đoạn đạp sau cơ thể
chuyển sang giai đoạn bay.
Trong lúc bay người chạy không tăng tốc độ và năng lượng động học của toàn
thân vì nội lực không có mối quan hệ với ngoại lực trong điều khiện không có điểm
tựa. Vì vậy trong chạy ngắn, để tạo nên tốc độ chuyển động cao người chạy phải giảm
bớt thời gian bay, bằng cách đạp sau với góc độ nhỏ, khi chống trước phải tích cực
miết chân về phía sau để chạm đất sớm.
8
Động đánh tác tay: Bàn tay hơi nắm lại lòng bàn tay hướng vào trong và hơi
quay xuống dưới, khuỷ tay gấp lại với góc độ 900 góc này có thể nhỏ hay lớn tuỳ theo
đặc điểm cá nhân của vận động viên. Khi đánh ra trước hơi hướng vào trong và góc
gấp khớp cũng nhỏ. Qua phương thẳng đứng hơi tăng lên. Ra sau tay hơi hướng ra
phía ngoài và góc gấp của tay lại nhỏ đi. Biên độ động tác tay không phải lúc nào
cũng như nhau, mà phụ thuộc vào tốc độ chạy. Tốc độ chạy càng cao, biên độ và tốc
độ đánh tay càng lớn. Hoạt động chéo nhau giữa tay và chân khi chạy làm cho trọng
tâm cơ thể đỡ bị dao động sang hai bên, tạo điều kiện để dự thăng bằng và tăng độ dài
bước.
Thân người: Khi chạy hơi đổ về trước hoặc thẳng đứng, đổ về trước nhiều thì
dễ dàng cho đạp sau nhưng khó khăn cho lăng đùi về trước làm giảm độ dài bước. Đổ
thân ra sau thì nâng đùi dễ nhưng lại tăng góc độ đạp sau. Độ ngả thân người có ảnh
hưởng tới tốc độ chạy, nhất là khi chạy ngắn.
Khi chạy trên đường vòng, do phải khắc phục lực ly tâm, kỹ thuật chạy có một
vài thay đổi. Bán kính đường vòng càng nhỏ, tốc độ chạy càng lớn lực ly tâm càng
mạnh và độ nghiêng của thân người về phía trong càng nhiều. Để chạy đường vòng
được tốt, người chạy cần đặt chân gần mép trong của đường chạy, bên trái của ô chạy,
bàn chân trái tiếp xúc đất má ngoài, bàn chân phải tiếp xúc đất bằng má trong. Hai gót
chân hơi hướng về bên phải đường chạy.
Động tác tay khi chạy đường v.ng cũng hơi khác so với chạy đường thẳng. Tay
phải khi đánh ra trước đưa vào phía trong nhiều hơn, tay trái khi đánh ra sau đưa ra
phía ngoài nhiều hơn.
Khi chạy, do sức mạnh đạp sau lớn nên dao động thẳng đứng của trọng tâm cơ
thể lên tới 10cm hoặc hơn nữa. Vị trí trọng tâm cơ thể cao nhất lúc bay và thấp nhất
khi chống.
Quỹ đạo trọng tâm cơ thể trong khi chạy là một đường cong phức tạp vừa dao
động lên xuống, vừa di chuyển sang hai bên. Việc dao động quá lớn trọng tâm cơ thể,
sẽ ảnh hưởng đến tốc độ chạy, vì vậy kỹ thuật chạy là cần hạn chế mặc dù không thể
triệt tiêu được nó.
2. Mối quan hệ giữa tần số và độ dài bƣớc chạy.
Trong chạy, tần số và độ dài của bước chạy được coi là hai thành phần chủ yếu
và quyết định tốc độ chạy. Xét tổng thể trong cơ học vận tốc chạy có thể được đánh
giá theo công thức sau:
V = f.l
Trong đó:
V: tốc độ chạy
f: tần số bước chạy
l: là độ dài bước chạy
Như vậy muốn tăng tốc độ chạy thì phải tăng tần số và độ dài của bước chạy.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng, độ dài của bước chạy phụ thuộc vào tầm vóc của con
người: người cao có chân dài thì bước chạy của họ sẽ dài hơn đối với những người
9
thấp, chân ngắn. Do đó điều cơ bản mỗi người phải lựa chọn cho mình tần số và một
độ dài bước thích hợp với tầm vóc, thể lực và tốc độ chạy của mình. Sao cho không
không phải cường điệu giai đoạn đạp sau, không, không kéo dài giai đoạn bay trên
không (như chạy đạp sau trong các bài tập bổ trợ chuyên môn).
Để có được sự phối hợp nhịp nhàng cần có sự tập luyện thường xuyên liên tục.
Trong các bài tập chạy thì các bài tập chạy tăng tốc độ là bài tập có hiệu quả nhất.
Nhìn chung, việc tập luyện để chạy đúng kỹ thuật, không căng thẳng trong sự
phối hợp ưu tiên giữa tần số và bước chạy là rất quan trọng.
Nghiên cứu một chu kỳ bước chạy, người ra thấy rằng đề tăng tốc độ chạy cần
tăng hiệu quả đạp sau (đạp nhanh, mạnh với góc độ thích hợp) và rút ngắn giai đoạn
bay trên không.
II. Phân tích một chu kỳ chạy (bƣớc đơn)
Dù chạy với bất kì tốc độ nào và ở cự ly nào đều là việc lặp lại các chu kì gồm
2 bước đơn:
- Chu kì được bắt đầu từ khi chân trái chạm đất rồi chân phải chạm đất (Bước
1) rồi chân trái lại chạm đất (Bước 2) kết thúc một chu kì.
- Trong mỗi chu kì như vậy, chúng ta thấy có hai lần cơ thể hoàn toàn bay trên
không (không có bộ phận nào chạm đất) và có hai lần cơ thể chạm đất bằng một chân
(mỗi chân một lần).
a. Hoạt động của chân:
- Nó liên quan trực tiếp tới hiệu quả khi đi và chạy. Hoạt động của hai chân như
nhau và luân phiên. Mỗi chân luân phiên chống và đưa lăng. Khi chân chống trên mặt
đất gồm: chống trước, thẳng đứng và đạp sau. Tuỳ theo vị trí của điểm đặt chân với
điểm dọi của trọng tâm cơ thể để xác định các tình huống trên.
* Chống trước: Được bắt đầu từ khi chân phía trước chạm đất, khi điểm đặt
chân còn ở phía trước điểm dọi của trọng tâm cơ thể, khoảng cách giữa 2 điểm đó
càng xa, lực cản do chống trước càng lớn, thời gian chuyển từ chống trước qua thẳng
đứng để sang đạp sau càng lâu làm cho tốc độ chạy giảm. Tốc độ chạy càng lớn thời
gian vượt qua giai đoạn đó càng nhanh.
- Sau khi chạm đất có động tác hoãn xung, làm giảm chấn động khi chống
chân, thời gian chuyển từ chống trước sang đạp sau cũng nhanh hơn nhờ đó tăng hoặc
duy trì được tốc độ chạy.
* Thẳng đứng: Khi điểm đặt chân trùng với điểm dọi của trọng tâm cơ thể cững
là thời điểm kết thúc chống trước trong một chu kì, tốc độ chạy càng nhanh trọng tâm
cơ thể càng thấp thì sự chuyển đó càng nhanh.
* Đạp sau: Khi điểm đặt chân ở phía sau của điểm dọi TTCT chỉ đạp sau mới
có tác dụng đưa cơ thể tiến về phía trước. Đạp sau tốt là đạp nhanh, mạnh với góc độ
phù hợp và đẫy được hông về trước, muốn chạy nhanh phải khai thác triệt để hiệu quả
của giai đoạn này, vào nhiều yếu tố như sau:
- Sức mạnh đạp sau của chân: Sức mạnh đó càng lớn đạp sau càng mạnh, càng
nhanh.
10
- Góc độ đạp sau: Góc độ càng nhỏ hướng đạp sau càng gần, hiệu quả đạp sau
càng lớn.
- Cấu trúc của chân ảnh hưởng tới hiệu quả của đạp sau.
- Chất lượng đường chạy ảnh hưởng tới hiệu quả của đạp sau (mặt đường mềm,
xốp hoặc là trơn) sẽ triệt tiêu lực đạp sau, hiệu quả đạp sau giảm.
- Kết thúc đạp sau chân rời khỏi mặt đất chuyển qua giai đoạn đưa lăng, tuỳ
thuộc vào vị trí của đùi chân lăng với đường thẳng từ trọng tâm cơ thể hạ vuông góc
với đường chạy bao gồm các giai đoạn nhỏ: đưa lăng sau thẳng đứng và đưa lăng
trước thẳng đứng.
b. Hoạt động của tay: Đóng vai trò quan trọng nhất định, đánh tay để giữ thăng
bằng, giữ trọng tâm ổn định và đánh tay cùng với nhịp thở có tác dụng điều chỉnh tần
số bước chạy, tốc độ chạy càng cao nhu cầu thăng bằng càng lớn.
- Để phát huy tác dụng của hai tay phải đánh tay so le với chân, chuyển động
chéo của tay và chân làm cho TTCT ít bị dao động sang hai bên.
- Trong trường hợp chạy với tốc độ chậm cơ thể mất thăng bằng không lớn, nhu
cầu duy trì nhịp điệu chạy không cao, người chạy thả lỏng hai vai và buông thả hai tay
để tự nhiên.
c. Hoạt động của thân trên: Tư thế đúng của thân trên khi ngã về trước, điểm
dọi của trọng tâm cơ thể chuyển về trước điểm chống, tư thế đúng là khi đầu và thân
trên cùng trên một đường thẳng.
d. Sự di chuyển của trọng tâm cơ thể khi chạy: Khi chạy là di chuyển trọng tâm
cơ thể của mình từ vị trí này đến vị trí khác. Khi chạy TTCT vừa di chuyển sang hai
bên vừa di chuyển lên xuống, sự dao động đó càng lớn đường di chuyển của trọng
tâm cơ thể càng dài so với cự ly phải chạy, tốc độ chạy càng chậm và sức lực phải bỏ
ra càng lớn.
- Muốn có thành tích tốt phải chú ý giảm các dao động sang hai bên và dao
động lên xuống của TTCT để giảm dao động của trọng tâm cơ thể sang hai bên. Khi
chạy phải đặt trên một đường thẳng hoặc hai bên của đường thẳng (ô chạy).
e. Mối quan hệ giữa tần số và độ dài của bước chạy:
- Tần số và độ dài của bước chạy là thành phần chủ yếu quyết định tốc độ chạy.
- Bước chạy càng dài tần bước càng cao thì thành tích càng cao.
- Độ dài bước phụ thuộc vào tầm vóc của mỗi người (độ dài của bước chân).
Tóm lại việc tập chạy đúng kĩ thuật không căng thẳng phối hợp tối ưu giưa tần
số và độ dài bước chạy rất quan trọng. Để tăng tốc độ chạy cần tăng hiệu quả của đạp
sau (nhanh, mạnh với góc độ phù hợp) và rút ngắn thời gian bay trên không.
III. Nhiệm vụ của các giai đoạn kỹ thuật chạy cự ly ngắn
Kỹ thuật chạy cự ly ngắn tương đối phức tạp so với kỹ thuật chạy ở cự ly khác.
Chạy các cự li 30m, 60m và 80m cũng là chạy ở cự li ngắn. Về kĩ thuật, so với chạy ở
cự li 100m thì cơ bản không có gì khác. Mặc dù chạy bất cứ ở một cự li nào, đều là
một quá trình liên tục từ khi xuất phát đến khi về đích, nhưng để tiện cho việc phân
tích kĩ thuật trong chạy cự li ngắn, người ta vẫn chia quá trình đó làm bốn giai đoạn:
11
Xuất phát, chạy lao sau xuất phát, chạy giữa quãng và chạy về đích. Riêng chạy cự li
100m, sự khác biệt trong kĩ thuật ở bốn giai đoạn đó là khá rõ ràng và đều có vai trò
quan trọng đối với thành tích của người chạy. Chính vì vậy, khi hiểu và thực hiện tốt
kĩ thuật của bốn giai đoạn, người ta mới có thể đạt được thành tích chạy cao nhất so
với khả năng của mình.
Để dễ phân tích giảng dạy người ta chia làm 4 giai đoạn:
- Xuất phát
- Chạy lao sau xuất phát
- Chạy giữa quãng
- Chạy về đích
a. Xuất phát: (Dùng xuất phát thấp với bàn đạp)
- Giới hạn: Giai đoạn này bắt đầu từ khi người chạy vào bàn đạp đến khi chân
rời khỏi bàn đạp.
Ưu điểm:
- Có thêm 2 điểm chống tựa của tay giúp cơ thể thăng bằng ổn định để bắt đầu
thuận lợi, dễ dàng.
- Nhờ có bàn đạp với góc độ nhất định và đặt chắc trên mặt đất giúp cho việc
phát huy tác dụng tương hỗ của cơ thể thông qua 2 chân lớn, tạo điều kiện đẩy người
lao nhanh về phía trước.
- Góc độ đạp đất nhỏ phù hợp với nguyên lý chuyển động cơ học, vì vậy người
chạy sớm phát huy được tốc độ cao sau một khoảng chạy nhất định.
- Nhiệm vụ: Tận dụng mọi khả năng để xuất phát nhanh và đúng luật.
Trong chạy 100m, để xuất phát được nhanh, phải dùng kĩ thuật xuất phát thấp
(kĩ thuật xuất phát thấp có từ năm 1887 với bàn đạp). Xuất phát thấp giúp ta tận dụng
được lực đạp sau để cơ thể xuất phát nhanh (do góc đạp sau gần với góc di chuyển).
Việc sử dụng bàn đạp giúp ta ổn định kĩ thuật và có điểm tựa vững vàng để đạp chân
lao ra khi xuất phát. Nên dùng bàn đạp tách rời từng chiếc để tiện điều chỉnh khoảng
cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang. Thông thường có ba cách đóng bàn đạp.
a) Kiểu phổ thông: Bàn đạp trước đặt cách vạch xuất phát từ 1 – 1,5 bàn chân
vơi góc nghiêng từ 450 – 500. Bàn đạp sau cách bàn đạp trước bằng độ dài cẳng chân
người chạy với góc nghiêng 600 – 800. Khoảng cách trái – phải giữa 2 bàn đạp khoảng
từ 10 – 15cm. Cách này phù hợp với những người mới tập chạy cự li ngắn.
b) Kiểu ngắn (còn gọi là đóng “gần”, cách “dồn gần”): Rút ngắn khoảng cách
giữa 2 bàn đạp bằng cách đưa bàn đạp sau lên gần bàn đạp trước hơn ở kiểu phổ
thông. Cả hai bàn đạp được đặt gần vạch xuất phát hơn - bàn đạp trước đặt cách vạch
xuất phát có độ dài 1 bàn chân (hoặc ngắn hơn), bàn đạp sau cách bàn đạp trước 1 đến
1,5 bàn chân. Bằng cách này, tận dụng được sức mạnh của 2 chân khi xuất phát nên
xuất phát ra nhanh, nhưng thường phù hợp với những người thấp có chân tay khoẻ.
Việc chân rời bàn đạp gần như đồng thời sẽ khó cho ta khi chuyển qua dùng sức đạp
sau luân phiên từng chân (ở trình độ thấp, dễ xảy ra hiện tượng bị dừng, 2 chân cùng
12
nhảy ra khỏi bàn đạp). Dù theo cách nào, trục dọc của hai bàn đạp cũng phải song
song trục dọc của đường chạy.
c) Kiểu dài (còn gọi là cách cách “xa”, “kéo dài”, hay “kéo giãn”): Giữ nguyên
bàn đạp sau như kiểu phổ thông và kéo dài, khoảng cách giữa bàn đạp trước với vạch
xuất phát gần một bàn chân. Cách này thường phù hợp với người cao, sức mạnh của
chân và tay bình thường. Đóng bàn đạp theo cách này, cự li chạy dài hơn cự li thi đấu
2 bàn chân.
Hình 1. Bàn đạp cấu trúc liền (a), bàn đạp rời (b)
và 3 kiểu bàn đạp khi đóng xuất phát vào đường thẳng
Khoảng cách giữa hai bàn đạp theo chiều ngang thường là 10 – 15cm sao cho
hoạt động của hai đùi không cản trở nhau (do hai bàn đạp gần nhau quá). Bàn đạp đặt
trước dùng cho chân thuận (chân khoẻ hơn).
Các đinh của bàn đạp cần được đóng xuống mặt đường chạy, sao cho bàn đạp
không bị bung khỏi đường khi vận động viên xuất phát.
Góc độ của mặt bàn đạp: Góc giữa mặt bàn đạp trước với mặt đường chạy phía
sau là 450 – 500; bàn đạp sau là 600 – 800. Cần nắm quy luật bàn đạp càng xa vạch
xuất phát, thể lực của người chạy càng kém thì góc độ càng giảm (nếu ngược lại,
người chạy dễ xuất phát sớm và dễ phạm quy).
Kỹ thuật giai đoạn xuất phát thấp và cách thực hiện các tư thế theo khẩu lệnh
“Vào chỗ”, “Sẵn sàng”, “Lệnh xuất phát”
Trong thi đấu, sau khi đóng bàn đạp và thử xuất phát, vận động viên về vị trí
chuẩn bị đợi lệnh xuất phát. Có ba lệnh, kỹ thuật theo mỗi lệnh như sau:
13
Hình 2. Tư thế của cơ thể khi (a) “Vào chỗ”, (b) “Sẵn sàng”
+ "Vào chỗ": Nghe khẩu lệnh người chạy từ khu vực chuẩn bị phía sau tiến về
phía trước bàn đạp chống 2 tay xuống đất đặt lần lượt chân sau rồi chân trước vào mặt
nghiêng của bàn đạp. Sau đó hạ đầu gối chân sau xuống đất và thu 2 tay về chống
thẳng sau vạch xuất phát. Khoảng cách của 2 tay rộng bằng vai hoặc hơn vai 1 chút,
ngón cái hướng vào trong, 4 ngón kia chụm lại hướng ra ngoài đầu gối tự nhiên cổ thả
lỏng. Mắt nhòn cách xa vạch xuất phát từ 40 – 50cm vai hơi nhô về phía trước, trọng
lượng cơ thể dồn vào 2 tay và đồi gối của chân đặt phía sau. Toàn thân ổn định ở tư
thế trên chuẩn bị động tác tiếp theo.
Hình 3. Hai tư thế “Sẵn sàng”, tư thế (a) có lợi hơn
+ "Sẳn sàng": Cùng với khẩu lệnh người chạy từ từ chuyển người về trước,
đồng thời cũng từ từ nâng hông lên cao bằng vai hoặc hơn vai (từ 10cm trở lên tuỳ
khả năng mỗi người), đầu gối chân sau rời đất, hai bàn chân tiếp xúc rộng trên mặt
nghiêng của bàn đạp, góc độ của chân khoảng 60 0 khớp gối chân trước khoảng 900
chân sau khoảng 1100 – 1200. Hai vai có thể nhô về trước vạch xuất phát từ 5 – 10cm
tuỳ khả năng chịu đựng của hai tay. Cơ thể có 4 điểm chống trên mặt đường chạy là 2
bàn tay và 2 bàn chân. Người chạy hít vào tương đối sâu, động tác thực hiện khẩn
trương nhưng không quá đột ngột vội vàng. Giữ nguyên tư thế đó, tập trung tư tưởng
chú ý chờ lệnh tiếp theo và lập tức lao ra khi nghe lệnh xuất phát.
14
Hình 4. “Sẵn sàng” và xuất phát
+ "Chạy": Hiệu lệnh này có nhiều âm thanh khác nhau: Ngôn ngữ, tiếng súng,
còi. Khi nghe khẩu lệnh người chạy đạp nhanh mạnh 2 chân vào bàn đạp lao nhanh về
phía trước nhờ sức đẩy tương hổ của mặt đất thông qua bàn đạp, 2 tay rời mặt đường
chạy, đánh so le với chân (vừa để giữ thăng bằng, vừa để hỗ trợ lúc đạp sau của 2
chân). Động tác lao ra thực hiện nhờ phối hợp tích cực các bộ phân trong cơ thể. Tuần
tự 2 tay chân đạp sau và chân lăng lúc này chân trước đạp với lực tối đa chân sau gập
lại ở khớp gối và lăng tích cực về phía trước, thân trên gần như song song với mặt đất.
Chân sau không đạp hết, mà nhanh chóng đưa về trước để hoàn thành bước chạy thứ
nhất. Chân trước phải đạp duỗi thẳng hết các khớp rồi mới rời khỏi bàn đạp, đưa
nhanh về trước để thực hiện và hoàn thành bước chạy thứ 2. Khi đưa lăng, mũi bàn
chân không chúc xuống để tránh bị vấp ngã.
b/ Chạy lao sau xuất phát:
+ Giới hạn: Từ khi chân rời khỏi bàn đạp đến khi kĩ thuật chạy ổn định (khoảng
10 – 15m).
+ Nhiệm vụ: Phát huy tốc độ cao trong thời gian ngắn.
+ Kĩ thuật: Để đạt được thành tích trong chạy ngắn, điều rất quan trọng trong
xuất phát là nhanh chóng đạt được tốc độ gần cực đại trong giai đoạn chạy lao. Thực
hiện đúng và nhanh các bước chạy từ lúc xuất phát phụ thuộc vào độ lao của cơ thể
dưới một góc nhọn so với mặt đường, cũng như vào sức mạnh, sức nhanh của vận
động viên. Bước đầu tiên được kết thúc bằng việc duỗi thẳng hoàn toàn chân đạp sau
khỏi bàn đạp trước và việc nâng đùi đồng thời của chân kia lên. Ta thấy rõ độ nghiêng
lớn khi xuất phát và việc nâng đùi chân lăng tới mức tối ưu tạo thuận lợi cho việc
chuyển sang bước tiếp theo.
Bước đầu tiên được kết thúc bằng việc tích cực hạ chân xuống dưới - ra sau và
chuyển thành đạp sau mạnh. Động tác này thực hiện càng nhanh thì việc đạp sau tiếp
theo xảy ra càng nhanh và mạnh.
Trong một vài bước chạy đầu tiên, vận động viên đặt chân trên đường ở phía
sau hình chiếu của tổng trọng tâm thân thể. Ở những bước tiếp theo, chân đặt trên
hình chiếu của tổng trọng tâm và sau đó thì đặt chân ở phía trước hình chiếu của tổng
trọng tâm.
c/ Chạy giữa quãng
15
Dài hay ngắn tuỳ thuộc theo mỗi cự ly chạy và trình độ luyện tập của từng
người. Nhịp điệu phối hợp khẩn trương nhưng tự nhiên của tay chân thân người, trong
đó hoạt động của chân có ý nghĩa quyết định nhất.
a) Động tác chân: Phụ thuộc vào lực đạp đất của chân sau duỗi thẳng các khớp
tạo nên góc giữa chân và mặt đất 1 góc từ 450 – 500. Chân lăng phối hợp nhịp nhàng
với đạp sau bằng động tác gập lại ở khớp gối nâng đùi tích cực lên cao ra trước tiếp
xúc của bàn chân và mặt đất gần với điểm dọi của trọng tâm cơ thể bằng nữa phía
trước bàn chân và thẳng hướng với đường chạy.
b) Động tác tay: Nhịp điệu đánh tay phải phù hợp với nhịp điệu của chân, động
tác phải khẩn trương tích cực hưng thả lỏng. đặc biệt thả lỏng khớp vai khi đánh tay
bàn tay thả lỏng tay hơi gập lại khoảng 900 khi ở phía trước và phía sau. Tay đánh ra
trước hơi vào trong không cao quá, đánh ra sau hơi rộng ra ngoài và tận dụng hết biên
độ của khớp vai.
c) Tư thế thân người: Trong quá trình chạy tư thế thân người hợp lý sẽ tạo điều
kiện cho các cơ bắp và hệ thông cơ quan hoạt động thuận lợi đạt hiệu suất cao. Khi
chạy thân trên ngã về trước 700 – 750. Đối với người mới tập hải chú ý phát triển sức
mạnh ở cơ lưng cơ bụng gây nên tư thế thân người không hợp lý khi chạy.
Cùng với việc tăng tốc độ, độ nghiêng thân về trước của vận động viên giảm đi
và kỹ thuật chạy lao dần chuyển sang kỹ thuật chạy giữa quãng. Chạy giữa quãng
thường bắt đầu từ mét thứ 25 đến mét thứ 30 (sau khoảng 13 – 15 bước chạy), khi đạt
tới 90 – 95% tốc độ chạy tối đa, song không có giới hạn chính xác giữa chạy lao sau
xuất phát và chạy giữa quãng. Các vận động viên cấp cao cần tính toán để đạt được
tốc độ cực đại ở mét thứ 50 – 60, ở lứa tuổi trẻ em 10 – 12 tuổi thì ở mét thứ 25 – 30.
Các vận động viên chạy cự ly ngắn ở bất kì đẳng cấp và lứa tuổi nào, trong giây
đầu tiên sau xuất phát cần đạt được 55% tốc độ tối đa; trong giây thứ 2 là 76%; trong
giây thứ ba là 91%; trong giây thứ tư là 95%; và giây thứ năm là 99%.
Hình 5. Xuất phát và chạy lao sau xuất phát
16
Tốc độ chạy lao sau xuất phát được tăng lên chủ yếu do độ dài bước chạy và
một phần không nhiều do tăng tần số bước. Việc tăng độ dài bước chủ yếu đến bước
thứ 8, thứ 10 (bước sau dài hơn bước trước từ 10 – 15cm), sau đó độ dài bước được
tăng ít hơn (4 đến 8cm). Việc thay đổi độ dài bước đột ngột dưới hình thức nhảy là
không tốt vì làm mất nhịp điệu chạy.
Cùng với việc tăng tốc độ di chuyển của cơ thể, thời gian bay trên không tăng
lên và thời gian tiếp đất giảm đi. Tay đánh mạnh về trước cũng có ý nghĩa đáng kể.
Trong chạy lao sau xuất phát, về cơ bản việc đánh tay cũng tương tự như trong chạy
giữa quãng song với biên độ lớn hơn.
Ở những bước đầu tiên sau xuất phát, 2 bàn chân đặt xuống đường hơi tách
rộng so với chạy giữa quãng. Sau đó cùng với việc tăng tốc độ, hai chân được đặt gần
hơn đến đường giữa.
Nếu so sánh thành tích chạy 30m xuất phát chạy, 30m tốc độ cao của cùng một
vận động viên thì dễ dàng tìm hiểu được thời gian tiêu phí lúc xuất phát và tăng tốc độ
sau xuất phát. Ở những vận động viên chạy giỏi, mức tiêu phí trong giới hạn từ 0,8’’
đến 1,0’’.
* Tại sao đóng bàn đạp đường vòng lại đóng tiếp tuyến với vạch kẻ giới hạn
đường vòng đó?
Chạy 200m và 400m khác với chạy 100m, vận động viên xuất phát và chạy
ngay vào đường vòng ở nửa đầu cự li. Do vậy, chạy 200m và 400m khác về vị trí
đóng bàn đạp trên đường chạy và khác về kĩ thuật đặt chân, đánh tay, độ ngả thân trên
khi chạy trên đường vòng.
Cách bố trí bàn đạp khi xuất phát chạy vào đường vòng:
Khi chạy đường vòng người chạy luôn luôn bị ảnh hưởng của lực li tâm. Chạy
theo đường thẳng có lợi cho việc tăng tốc độ, là con đường ngắn nhất giữa hai điểm.
Do vậy, bàn đạp dùng trong xuất phát 200m và 400m không đặt giữa ô chạy mà đặt
lệch sang bên phải ô chạy.
Trục dọc của hai bàn đạp tiếp tuyến với đường giới hạn bên trái ô chạy, như
vậy cho phép người chạy tận dụng được đoạn đường thẳng có lợi nhất. Từ bước đầu
tiên xuất phát ra không bị ảnh hưởng lực li tâm và có ý thức chạy hướng vào phía
trong đường vòng.
Hình 6. Vị trí đóng bàn đạp khi xuất phát vào đường vòng
17
- Kĩ thuật giai đoạn chạy giữa quãng
Giai đoạn chạy giữa quãng
- Giới hạn: Kết thúc giai đoạn chạy lao sau xuất phát đến khi cách đích từ 15
đến 20m là giai đoạn chạy giữa quãng.
- Nhiệm vụ: Duy trì tốc độ cao đã đạt được ở kết thúc chạy lao (mà không phải
tiếp tục tăng tốc độ chạy). Trong giai đoạn này, kỹ thuật chạy khá ổn định.
- Kĩ thuật: Bàn chân đặt xuống mặt đường chạy có hoãn xung bằng cách đặt từ
nửa trước bàn chân. Điểm đặt chân thường ở phía trước trọng tâm cơ thể từ 30 đến
40cm tuỳ theo tốc độ chạy. Tiếp đó là chân chống trước chuyển sang chống thẳng
đứng rồi thành đạp sau; đồng thời với động tác đạp sau là động tác đưa chân kia về
trước. Khi chân đạp sau duỗi hết cũng là lúc hoàn thành đưa lăng chân kia (đùi chân
này được nâng đủ cao - gần song song với mặt đất).
Tốc độ chạy chủ yếu phụ thuộc vào hiệu quả đạp sau nên động tác đó cần được
thực hiện chủ động nhanh về tốc độ, mạnh và đúng hướng khi dùng sức. Để hỗ trợ
cho đạp sau, chân đưa lăng cũng phải đưa nhanh và đúng hướng. Để đưa chân lăng
được nhanh, sau khi đạp sau, cẳng chân được thu về phía đùi, vừa thu bán kính động
tác, vừa giúp thả lỏng các cơ vừa phải dùng sức tích cực trong chống tựa và đạp sau.
Cần cố gắng đưa chân lăng về trước chứ không phải là lên cao, để không giảm hiệu
quả của lực đạp sau.
Hình 7. Kĩ thuật chạy giữa quãng trong chạy cự li ngắn
Do sức mạnh của hai chân thường không đều nên tốc độ chạy khó ổn định (vì
tần số và độ dài bước không ổn định, khi chân khoẻ đạp sau bước chạy sẽ dài hơn),
cần chú ý tập cho hai chân khoẻ đều để hạn chế ảnh hưởng xấu đó. Ngay khi chân
18
chống trước chạm mặt đường, vai và hông phải chủ động chuyển về trước (giúp cơ
thể chuyển nhanh từ chống trước sang đạp sau).
Chuyển động của vai so với hông cũng so le như tay với chân.
Thân trên cần được giữ ở độ ngả về trước nhất định (khoảng 50 so với phương
thẳng đứng) tuy vẫn có sự thay đổi trong từng bước chạy: ngả nhiều hơn khi đạp sau
và ít ngả hơn khi cơ thể bay trên không...).
Hai tay gập ở khuỷu, đánh so le và phù hợp với nhịp điệu hoạt động của hai
chân. Góc gập không cố định: nhỏ khi kết thúc đánh trước hoặc đánh sau, lớn khi qua
vị trí thẳng đứng. Khi đánh tay hai vai phải thả lỏng, khi đánh về trước thì khuỷu tay
hơi khép vào trong, khi đánh ra sau thì khuỷu tay hơi mở (nhưng không phải đánh
sang hai bên) để giữ thăng bằng cho cơ thể.
Hai bàn tay nắm hờ (hoặc duỗi các ngón tay). Không được dùng sức để duỗi
thẳng các ngón tay hoặc cũng không nắm chặt bàn tay; Cả hai đều gây căng thẳng ảnh
hưởng xấu tới tần số và nhịp điệu chạy. Khi chạy giữa quãng (cũng như chạy trên
toàn cự ly) việc thở vẫn tiến hành thậm chí còn thở tích cực hơn lúc bình thường. Tuy
nhiên phải bảo đảm rằng việc thở đó không làm rối loạn kỹ thuật và nhịp điệu chạy.
Để tăng tốc độ chạy, có nhiều người chủ động tăng nhịp thở, nhưng cũng có người cố
nhịn thở. Dù theo cách nào cũng không được vì vậy mà làm rối loạn nhịp điệu chạy.
Nhìn chung, do đoạn chạy giữa quãng là dài so với các đoạn khác nên thành
tích chạy 100m phụ thuộc rất lớn vào thành tích ở đoạn chạy giữa quãng. Chạy giữa
quãng tốt là chạy được với tần số và độ dài bước lớn nhưng phù hợp với đặc điểm của
mỗi người. Phối hợp nhuần nhuyễn giữa dùng sức và thả lỏng, đảm bảo cho cơ bắp
được hoạt động với hiệu suất cao nhất.
Cần chạy nhẹ nhàng, thả lỏng, không có các động tác thừa.
Do chạy cự ly 60 – 80m ngắn hơn nên đoạn chạy giữa quãng ở các cự ly đó
phải rút ngắn tương ứng. Cần sớm vào giai đoạn rút về đích, tránh tình trạng sau khi
qua đích vẫn còn sung sức trong khi thành tích chạy lại kém.
- Giai đoạn chạy giữa quãng quyết định đến thành tích chạy.
Giai đoạn chạy giữa quãng chiếm quãng đường dài nhất, kĩ thuật chạy giữa
quãng ổn định nhất, cho phép người chạy phát huy tốt nhất tốc độ của mình để đạt
thành tích cao.
- Kỹ thuật chạy đường vòng khác chạy đường thẳng ở những điểm:
Kĩ thuật chạy ở đường vòng
Chạy ở đường vòng người chạy luôn bị lực li tâm F tác động. Mà F = mv2/r;
Trong đó m là khối lượng cơ thể người chạy; v là tốc độ chạy; r là bán kính đường
vòng. Lực li tâm luôn luôn kéo người chạy ra xa ô chạy phía trong (bên trái). Nếu
không có cách khắc phục hiệu quả, người chạy sẽ không tiếp tục chạy được trong ô
của mình hoặc phải chạy với cự li dài hơn quy định dẫn đến bị thiệt thòi về thành tích.
Khi chạy ở đường vòng, toàn bộ cơ thể phải ngả vào phía trong (bên trái). Cần
thay đổi độ ngả phù hợp với sự tăng hoặc giảm lực li tâm để không chạy mất bình
thường. Khi chạy ở đường vòng chân và tay phải làm việc tích cực hơn so với chân và
19
tay trái. Chân phải đạp sau tích cực hơn và khi đưa lăng về trước đùi hướng vào trong.
Tay phải đánh mạnh hơn, với biên độ lớn hơn. Khi đánh về sau hơi mở rộng. Tay trái
đánh với biên độ hẹp hơn so với tay phải. Khi đặt chân, cả chân phải và chân trái đều
cố đặt sát vạch phía trong ô chạy mũi chân hơi chếch vào trong. Nếu khi chạy từ
đường thẳng vào đường vòng - độ ngả của thân trên tăng dần, thì khi chạy từ đường
vòng ra đường thẳng, độ ngả đó giảm dần (Hình 8).
Hình 8. Tư thế chạy đường vòng
Khi chạy 200m, do 100m đầu là đường vòng nên phải chạy ở đường vòng, lại
thêm xuất phát từ trạng thái tĩnh, nên khi vượt qua đoạn đó cần chạy chậm hơn thành
tích tốt nhất của mình ở chạy 100m đường thẳng từ 0,1 – 0,3”.
Khi chạy 400m, do chạy cự li dài nên không thể chạy trên toàn cự li với cường
độ như khi chạy 200m và không thể như chạy 100m. Điều quan trọng là phải chạy với
một tư thế thoải mái, nhịp nhàng. Sau xuất phát, nhanh chóng đạt được tốc độ cần
thiết rồi chuyển sang chạy thoải mái và duy trì tốc độ đó càng lâu càng tốt. Diễn biến
tốc độ khi chạy 400m nên như sau:
Tăng tốc độ 100m đầu, duy trì tốc độ đã đạt ở 100m thứ hai bị giảm sút ở 100m
thứ ba và cố gắng bứt phá (nhất là ở 70 – 50m) cuối cùng để về đích. 100m đầu nên
chạy chậm hơn so với kỉ lục cá nhân ở chạy 100m từ 0,3 – 0,5”. Chạy 200m đầu chậm
hơn so với kỉ lục cá nhân ở chạy 200m từ 1,3 – 1,8”.
Khi cơ thể đã mệt mỏi, kỹ thuật chạy bị biến đổi theo hướng bất lợi cho người
chạy; Chỉ với sự nỗ lực ý chí cao và đem hết sức lực còn lại, cố gắng duy trì tần số và
độ dài bước chạy đã có mới hạn chế được những hậu quả do mệt mỏi gây ra.
d/ Giai đoạn về đích
Đòi hỏi phải cố gắng duy trì tốc độ cao để hoàn thành cự ly thông thường còn
10 – 20m cuối VĐV đều bị giảm sút tốc độ. Cách dây đích còn khoảng 1 – 2m nhanh
chóng dướn thân ngươi về phía trước, dùng bộ phận ngực hoặc vai hơi ép xuống chạm
vào dây đích. Khi qua đích không nên dừng lại đột ngột tiếp tục giảm tốc độ chạy thả
lỏng 1 đoạn để tránh bị ngất.
- Giới hạn: Cách đích từ 15 - 20m.
- Nhiệm vụ: Dồn hết sức còn lại nhanh chóng chạy về đích kết thúc cự li chạy.
20
- Kỹ thuật: Tuỳ khả năng người chạy, khi cách đích khoảng 15 – 20m cần
chuyển từ chạy giữa quãng sang rút về đích. Tập trung hết sức lực để tăng tốc độ, chủ
yếu là tăng tần số bước. Cố tăng độ ngả người về trước để tận dụng hiệu quả đạp sau.
Người chạy hoàn thành cự li 100m khi có một bộ phận thân trên (trừ đầu, tay) chạm
vào mặt phẳng thẳng đứng, chứa vạch đích và dây đích. Bởi vậy, ở bước chạy cuối
cùng, người chạy phải chủ động gập thân về trước để chạm ngực vào dây đích (hoặc
mặt phẳng đích) - cách đánh đích bằng ngực. Cũng có thể kết hợp vừa gập thân về
trước vừa xoay để một vai chạm đích - cách đánh đích bằng vai. Không “nhảy” về
đích vì sẽ chậm - sau khi nhảy lên, cơ thể chuyển động (bay trên không) chỉ theo quán
tính, nên tốc độ chậm dần đều. Sau khi về đích, nếu dừng đột ngột dễ bị “sốc trọng
lực”, có thể gây ngất. Do vậy, cần phải chạy tiếp vài bước và chạy nhẹ nhàng theo
quán tính, chú ý giữ thăng bằng để không ngã và không va chạm với người cùng về
đích. Thực ra động tác đánh đích chỉ có ý nghĩa khi cần phân thứ hạng giữa những
người có cùng thành tích. Bình thường chỉ là chạy qua đích để kết thúc cự li. Tuy
nhiên, kĩ thuật chạm đích tốt giúp vận động viên chạm dây đích sớm hơn khi có hai
hay nhiều đối thủ ngang nhau muốn tranh thứ hạng.
Nếu không quen hoặc kỹ thuật chưa thuần thục thì nên chạy qua đích với tốc độ
hết sức còn lại mà không nên nghĩ tới việc thực hiện kỹ thuật đánh đích.
Hình 9. Kỹ thuật đánh đích
IV. Kỹ thuật chạy tiếp sức 4 x 100m
Chạy tiếp sức có nhiều cự ly nhưng đi sâu vào cự ly 4 x 100m. Chạy tiếp sức
đòi hỏi VĐV vừa có kỹ thuật chạy ngắn tốt vừa có kỹ thuật chạy tiếp sức. Kỹ thuật
chạy tiếp sức có các bước sau:
1. Xuất phát của người chạy ở các đoạn khác nhau
Xuất phát của người chạy đoạn đầu tiên
Trong 4 thành viên của đội tiếp sức 4 x 100m, chỉ có người đầu tiên là xuất
phát thấp với bàn đạp. Điều đặc biệt ở đây là xuất phát với tín gậy cầm ở tay phải.
Ngón cái và ngón trỏ tách và chống trên đường chạy, sau vạch xuất phát, các ngón
còn lại nắm tín gậy.
Việc xuất phát, chạy lao sau xuất phát và chạy giữa quãng của người này
không khác với khi chạy 100m. Điều khác và khó ở đây là làm sao giữ được tốc độ
21
chạy cao cho tới khi trao tín gậy cho người chạy đoạn 2 ở cuối khu vực quy định, khi
VĐV đó đã đạt tốc độ tối đa.
Xuất phát của người chạy đoạn thứ hai
Khu vực được tiến hành trao nhận tín gậy dài 20m (trong đó có 10m thuộc cự
ly của người chạy thứ nhất và 10m thuộc cự ly của người chạy thứ hai). Khi thấy
người thứ nhất chạy tới đó thì người thứ hai xuất phát, việc trao - nhận tín gậy sẽ diễn
ra ở cuối khu vực quy định và vào lúc người thứ hai đã đạt tốc độ tối đa.
Xuất phát của người chạy đoạn 3 và đoạn cuối cũng có nhiệm vụ giống như của
người chạy đoạn 2, họ cũng phải xác định mốc báo hiệu nói trên. Những người này
đều dùng kỹ thuật xuất phát cao với 3 hoặc 2 điểm chống (hai chân và 1 tay) hoặc chỉ
dùng 2 chân - không dùng bàn đạp. Điều khác ở đây là những người này đều phải
quay mặt về phía sau để theo dõi người sẽ trao tín gậy cho mình.
2. Cách trao - nhận tín gậy trong khu vực 20m quy định
Có 2 cách trao gậy: Trao từ dưới lên và từ trên xuống
- Cách trao từ dưới lên: Người nhận gậy khi đưa tay về sau, các đầu ngón tay
chĩa xuống dưới, bàn tay chẽ ra như đo gang. Gậy sẽ được đưa từ dưới lên vào giữa
ngón cái và ngón trỏ (ngón 1 và ngón 2).
- Cách trao từ trên xuống: Người nhận gậy phải ngữa lòng bàn tay lên trời. Gậy
sẽ được đặt từ trên xuống (để đảm bảo trao chính xác người trao cho gậy trượt theo
cẳng tay để xuống bàn tay của người nhận).
Hình 10. Hai cách trao nhận tín gậy
Mỗi cách trao đều có những ưu, nhược điểm riêng cần chọn cách nào cho phù
hợp với mình và người nhận.
Nhận tín gậy từ dưới lên là dễ đối với người nhận nhưng do tay lại cầm tín gậy
ở phía trên tay người trao nên phần đầu phía trước sẽ ngắn dần khó khi trao tiếp. Để
khắc phục tình trạng đó, người nhận phải nắm gậy sát điểm nắm của người trao; nếu
thấy phần gậy phía trước điểm nắm bị ngắn, cần làm động tác: khi tay cầm gậy đánh
về sau thì chống đuôi gậy vào đùi để đẩy gậy về phía trước (làm dài phần gậy phía
22
trước điểm nắm). Phải nhớ nắm gậy đủ chặt để cho gậy có thể trượt về phía trước
nhưng không tuột khỏi tay.
Trao từ trên xuống có tác dụng tốt là người nhận nắm chính xác vào đầu gậy
phần đầu gậy phía trước luôn đủ dài nên trong quá trình chạy không cần có thêm động
tác phụ. Song vì phải vặn cổ tay ngoài và hướng lòng bàn tay lên trên hơi khó tập.
Việc trao - nhận tín gậy phải được thực hiện nhanh, chính xác, vì nếu ngược lại
sẽ làm rối loạn nhịp điệu chạy, ảnh hưởng tới thành tích. Nhiều đội phải chấp nhận
thất bại, do có sự chậm trễ đó mà đội khác tranh thủ vượt được lên.
Khi thấy tới lúc thích hợp thì người trao phát tín hiệu bằng miệng, người nhận
sau khi nghe tín hiệu vẫn đánh tay tiếp 1 nhịp nữa rồi mới đưa tay về phía sau để
nhận. Sau khi phát tín hiệu, người trao phải chăm chú nhìn phát hiện chính xác vị trí
phải đưa gậy và không xô vào đồng đội. Do biết trước thời điểm và động tác của
người nhận nên người trao sẽ dễ dàng trao gậy nhanh và chính xác.
Thời điểm trao và nhận tối ưu là khi cả 2 người đều đang thực hiện đạp sau và
cách nhau 1 - 1,3m là khoảng cách tay người phía trước đưa ra sau hết và tay người
phía sau đưa ra trước hết và cách nhau một đoạn vừa đủ để trao và nhận được gậy.
Nơi trao - nhận phải ở đoạn 2 – 3m cuối cùng của khu vực quy định.
Cầm tín gậy trong tay khi chạy cần chú ý là không nắm chặt gậy quá sẽ ảnh
hưởng tới tần số động tác đánh tay, cũng không được cầm lỏng lẻo quá có thể làm rơi
gậy trong khi chạy.
Khi chạy tiếp sức dù chạy với tốc độ rất cao, nếu đúng kỹ thuật, không khi nào
xảy ra hiện tượng người trao gậy xô, đạp vào người nhận. Tuy nhiên để đề phòng các
rủi ro bất ngờ và tạo thuận lợi cho việc trao - nhận tín gậy, tuỳ theo thứ tự, phải thực
hiện những điều sau: Người thứ nhất cầm tín gậy ở tay phải, chạy lệch sang bên trái ô
chạy. Người thứ hai phải chạy sát phía ngoài ô chạy và nhận tín gậy bằng tay trái và
sau đó trao nó vào tay phải của người thứ ba. Cũng như người thứ nhất vì chạy ở
đường vòng nên người thứ ba cũng chạy sát mép trong của ô chạy để không bị chạy
cự ly dài hơn quy định. Người thứ tư (chạy trên đường thẳng) chạy sát bên phải ô
chạy và nhận tín gậy bằng tay trái.
Tốc độ chạy trên các đoạn tiếp sức cự ly ngắn cần duy trì ở mức tối đa và
không được giảm ở vùng trao gậy. Vì vậy, thời gian vượt qua vùng trao gậy có thể
dùng làm chỉ đặc trưng cho thành tích chạy tiếp sức. Các VĐV nam có trình độ
chuyên môn cao, thời gian vượt qua đoạn này khoảng 2,0 giây hoặc nhỏ hơn. Còn đối
với người nhận gậy tiếp sức thì cần sử dụng đầy đủ khoảng cách 0m (10m trước vùng
trao gậy và 20m trong vùng trao gậy) để phát huy được tốc độ cao nhất làm cho việc
trao gậy được diễn ra khi mà tốc độ của người trao và người nhận gậy bằng nhau.
BÀI 3. PHƢƠNG PHÁP GIẢNG DẠY. LUẬT, CÁCH TỔ CHỨC VÀ
TRỌNG TÀI THI ĐẤU
I. Phƣơng pháp giảng dạy chạy cự ly ngắn và chạy tiếp sức
1. Phƣơng pháp giảng dạy chạy cự ly ngắn
23
a. Các phương pháp giảng dạy chủ yếu
Trước khi dạy, GV cần tìm hiểu trước đó học sinh đã học chạy nhanh đến mức
độ nào. Nếu đã học hết và thực hiện tốt các giai đoạn kỹ thuật thì cần hoàn thiện việc
phối hợp các giai đoạn và phát triển thể lực chuyên môn để nâng thành tích. Nếu việc
học kỹ thuật chưa tốt thì phải tập trung hoàn thiện kỹ thuật xuất phát thấp; phân biệt
và thực hành tốt chạy lao sau xuất phát, chạy giữa quãng... Việc tập thể lực chuyên
môn trong nội khóa ít nên để HS tự luyện tập thêm ở nhà.
- Việc dạy và hoàn thiện kỹ thuật đánh đích không nên thành nhiệm vụ riêng
mà có thể kết hợp khi tập các nội dung chạy khác.
- Phải làm cho HS thấy rõ các yếu tố ảnh hưởng tới thành tích để khai thác các
yếu tố tích cực và hạn chế tác hại của các yếu tố bất lợi. Thấy rõ các mặt mạnh, mặt
yếu của mình để phát huy hoặc khắc phục…
- Khởi động đầy đủ cho các khớp tay, chân là rất cần thiết.
b. Khắc phục khó khăn, thiếu thốn về điều kiện giảng dạy
Khi dạy cự ly ngắn điều kiện tối thiểu cần có:
- Đường chạy bằng phẳng, không quá cứng hoặc quá mềm, không trơn và có
thể 2 - 3 HS cùng chạy. Cuối đường chạy có một khoảng trống an toàn để chạy qua
đích.
- Cần có số lượng đôi bàn đạp và ô chạy.
- Có 1 đồng hồ bấm giây.
c. Tiến trình giảng dạy
Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật và tìm hiểu đặc điểm chạy của người
học thông qua các biện pháp chủ yếu sau:
- Giáo viên phân tích và làm mẫu kỹ thuật.
- Cho xem phim, ảnh kỹ thuật (đúng và sai, toàn bộ và chi tiết động tác).
- Cho người học chạy lặp lại 30 – 50m, giáo viên nhận xét ưu nhược điểm của
từng người.
Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật chạy giữa quãng (trên đường thẳng) thông qua các
biện pháp sau:
- Chạy bước nhỏ, chạy nâng cao đùi, chạy đạp sau, chạy tăng tốc (tăng dần cự
ly, tần số và độ dài bước chạy).
- Chạy tăng tốc độ sau đó chạy theo quán tính, từ 60 – 70m.
- Tập đánh tay (đứng tại chỗ, tăng dần biên độ và tần số động tác).
Chạy biến tốc các đoạn ngắn (40 – 60m).
Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp và chạy lao sau xuất phát thông qua
các biện pháp sau:
- Giới thiệu cách đóng bàn đạp và tập đóng bàn đạp.
- Thực hiện động tác theo khẩu lệnh “vào chỗ”, “sẵn sàng”.
- Tự xuất phát không có khẩu lệnh.
- Xuất phát thấp với tín hiệu chạy khác nhau (tiếng hô, súng phát lệnh, tiếng
còi…).
24
- Xuất phát thấp chạy lao 30 – 40m.
Nhiệm vụ 4: Dạy kỹ thuật chuyển từ chạy lao sang chạy giữa quãng thông qua
các biện pháp sau:
- Chạy tăng tốc độ sau đó chạy theo quán tính.
- Xuất phát thấp, chạy lao rồi chạy theo quán tính.
- Chạy biến tốc các đoạn ngắn (50 – 60m).
- Chạy 60m xuất phát thấp.
Nhiệm vụ 5: Dạy kỹ thuật chạy về đích thông qua các biện pháp sau:
- Giới thiệu và làm mẫu kỹ thuật.
- Chạy 6 – 10m làm động tác chạm đích.
- Chạy tăng tốc độ 15 – 20m làm động tác chạm đích.
- Chạy 50m làm động tác chạm đích.
Nhiệm vụ 6: Hoàn thiện kỹ thuật chạy 100m thông qua các biện pháp sau:
- Chạy 30m xuất phát thấp (lặp lại).
- Chạy 50m, 100m xuất phát thấp với toàn bộ kỹ thuật (từ 80 – 100% tốc độ tối
đa).
Nhiệm vụ 7: Kiểm tra đánh giá kết quả (kỹ thuật và thành tích).
Việc giảng dạy kỹ thuật có thể tiến hành theo 2 phương án: dạy riêng và dạy
ghép.
2. Phƣơng pháp giảng dạy chạy tiếp sức
a. Tiến trình giảng dạy.
a. Do chạy tiếp sức 4 x 100m là chạy tiếp sức ở cự ly ngắn nên người tập phải
có cả kỹ thuật chạy tiếp sức (xuất phát thấp và chạy với tín gậy; trao nhận tín gậy
trong khu vực quy định sao cho có lợi nhất) và kỹ thuật chạy cự ly ngắn. Do việc dạy
chạy tiếp sức được thực hiện sau khi đã học kỹ thuật chạy cự ly ngắn nên trong quá
trình học chỉ cần cho ôn kỹ thuật chạy cự ly ngắn. Khi dạy CTS 4 x 100m GV cần
giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ 1: Xây dựng khái niệm kỹ thuật.
GV giới thiệu, phân tích kết hợp làm mẫu hoặc xem tranh ảnh kỹ thuật (nếu
có).
- Nhiệm vụ 2: Dạy kỹ thuật trao và nhận tín gậy - theo cả 2 cách.
+ GV giới thiệu cách trao và nhận tín gậy (trao từ trên xuống; trao từ dưới lên),
giảng giải rõ ưu điểm nhược điểm của từng cách trao.
+ Cho HS tập các bài tập.
- Nhiệm vụ 3: Dạy kỹ thuật xuất phát thấp với tín gậy và kỹ thuật xuất phát cao
với 3 điểm chống, mặt quay về phía sau.
+ GV giải thích lý do, phân tích, làm mẫu kỹ thuật và cho HS tập các bài tập.
- Nhiệm vụ 4: Dạy HS xác định và điều chỉnh mốc báo hiệu.
+ GV nêu rõ ý nghĩa quyết định của việc xác định chính xác mốc báo hiệu, dạy
cách xác định và điều chỉnh.
- Nhiệm vụ 5: Hoàn thiện kỹ thuật
25