Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI CAO PHƯƠNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI CAO PHƯƠNG

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH
CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 60.38.01.05
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH

HÀ NỘI, 2017




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả đề cập trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng và chính xác.
Tác giả luận văn

BÙI CAO PHƯƠNG


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội chống người
thi hành công vụ
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ
1.4. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
2.1. Thực trạng nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc,
nội dung phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 - 2016
2.2. Thực trạng phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành

công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016
2.3. Thực trạng đấu tranh chống tội chống người thi hành công vụ
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016
Chương 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI
CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
3.1. Dự báo tình hình tội chống người thi hành công vụ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới
3.2. Tăng cường nhận thức về mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc,
nội dung trong phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới
3.3. Hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay
3.4. Hoàn thiện tổ chức phòng ngừa tình hình tội chống người thi
hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
7
7
14
19
20

27

27
35
52


61
61

64
67
75
79
81


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ANQG

: An ninh quốc gia

ANTT

: An ninh trật tự

BLHS

: Bộ luật hình sự

CAND

: Công an nhân dân

CQĐT


: Cơ quan điều tra

CSND

: Cảnh sát nhân dân

HKTT

: Hộ khẩu thường trú

TAND

: Tòa án nhân dân

TTATXH : Trật tự an toàn xã hội
TTXH

: Trật tự xã hội

THTP

: Tình hình tội phạm

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng quan của tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016

1

Bảng 2.2. Diễn biến của tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016

2

Bảng 2.3. Cơ cấu của tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016 theo đơn vị hành chính

3

Bảng 2.4. Cơ cấu của tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2012 – 2016 theo hình phạt đã áp dụng
Bảng 2.5. Đặc điểm về giới tính của người phạm tội

4
5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, nước ta đã giành

được những thắng lợi to lớn về mọi mặt, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát triển khoa học
công nghệ, nâng cao địa vị và uy tín đất nước trên trường quốc tế.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, cùng với xu thế phát
triển chung của đất nước, Đồng Nai đang ngày càng phát triển về mọi mặt của
đời sống xã hội, đời sống nhân dân trong toàn tỉnh ngày càng được cải thiện
và nâng cao. Bên cạnh những mặt tốt đẹp đạt được, Đồng Nai cũng đang nảy
sinh, tồn tại nhiều vấn đề phức tạp về ANTT, TTATXH. Tình hình phạm
pháp hình sự có chiều hướng gia tăng đang là vấn đề nhức nhối trên địa bàn
tỉnh, trong đó nổi cộm lên là tội phạm chống người thi hành công vụ - loại tội
phạm thể hiện sự coi thường kỷ cương, phép nước. Tình hình tội phạm chống
người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua do
nhiều nguyên nhân, điều kiện khác nhau gây ra. Những nguyên nhân và điều
kiện đó đang tồn tại cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đồng Nai
tiềm tàng những nguy cơ phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật khác đe dọa
và gây thiệt hại cho đời sống xã hội.
Trong những năm qua các cơ quan có thẩm quyền của tỉnh Đồng Nai
đã và đang thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng. Bước đầu những
biện pháp phòng ngừa ấy đã đạt được những kết quả nhất định, tuy nhiên hiệu
quả đạt được vẫn chưa cao, vẫn còn những hạn chế. Bằng chứng là tình hình
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh vẫn còn diễn biến phức tạp,
nhiều vụ việc gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin của nhân
dân vào chính quyền địa phương, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình

1


ANTT, TTATXH trên địa bàn. Tình hình đó đặt ra yêu cầu bức thiết là phải
nghiên cứu làm rõ các nguyên nhân, điều kiện tình hình tội phạm chống người

thi hành công vụ, từ đó đưa ra những dự báo khoa học và đề xuất hệ thống các
giải pháp hữu hiệu hơn nữa để phòng ngừa, ngăn chặn, hạn chế đến mức tối
đa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh. Xuất
phát từ yêu cầu cấp thiết đó tác giải lựa chọn đề tài: “Phòng ngừa tình hình
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai” để làm luận
văn tốt nghiệp Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về loại tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta
trong thời gian qua đã có một số công trình của các nhà khoa học thực hiện
hoặc đề cập đến như:
“Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo của
tác giả GS. TS Nguyễn Xuân Yêm năm 2001, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
Giáo trình tội phạm học của tác giả GS. TS Võ Khánh Vinh 2004, Trường
Đại học Huế, Huế.
“Thực trạng tội phạm chống người thi hành công vụ đối với cán bộ,
chiến sĩ Cảnh sát nhân dân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và các giải
pháp phòng chống” - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện CSND, TP Hồ Chí
Minh, của tác giả Trần Đức Trung năm 2007.
“Đấu tranh phòng, chống tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn
tỉnh Trà Vinh” – Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, của tác
giả Phạm Minh Tính năm 2010.
“Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống tội phạm chống người thi
hành công vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân công an Thành phố Hồ Chí
Minh” - Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học CSND, TP Hồ Chí Minh, của tác
giả Dương Hoàng Việt năm 2011.

2


“Hoạt động phòng ngừa, điều tra tội phạm chống người thi hành

công vụ của lực lượng CSĐTTP về TTXH Công an tỉnh Đồng Nai” - Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học CSND, TP Hồ Chí Minh, của tác giả Nguyễn
Chánh năm 2011.
“Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống” - Luận văn thạc sĩ
luật học, Học viện khoa học xã hội, của tác giả Hà Văn Đoàn năm 2011.
“Nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm chống người thi
hành công vụ của lực lượng Cảnh sát nhân dân công an tỉnh Tây Ninh” - Luận
văn thạc sĩ luật học, Đại học CSND, của tác giả Đinh Xuân Thuần năm 2012.
“Tội chống người thi hành công vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa
học xã hội, của tác giả Nguyễn Ngọc Hoài năm 2012.
“Tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh:
Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” - Luận văn thạc sĩ luật học,
Học viện khoa học xã hội, của tác giả Trương Công Thành năm 2012.
“Nguyên nhân và điều kiện của tội chống người thi hành công vụ trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai” - Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội,
của tác giả Nguyễn Bích Thủy năm 2015.
Đánh giá chung:
Có thể thấy, thời gian qua đã có khá nhiều công trình nghiên cứu có liên
quan đến tội phạm nói chung và tội chống người thi hành công vụ nói riêng.
Tuy nhiên các công trình nghiên cứu trên hoặc chỉ mới nghiên cứu phòng
ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ nói chung hay nghiên cứu
tình hình tội chống người thi hành công vụ ở một số địa phương nào đó. Cũng
có đề tài có nghiên cứu đến phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nhưng lại tiếp cận theo hướng truyền

3



thống là đi từ THTP đến nguyên nhân và điều kiện của THTP và giải pháp
phòng ngừa, có đề tài chỉ nghiên cứu về nguyên nhân, điều kiện của tình hình
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống chuyên về
phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai. Đây cũng chính là hướng tiếp cận nghiên cứu của đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu làm rõ lý luận và thực tiễn phòng ngừa tình hình
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, từ đó luận văn
hướng đến mục đích đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian
tới một cách có hiệu quả.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu hệ thống lý luận và cơ sở pháp lí cho việc phòng ngừa tội
chống người thi hành công vụ.
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó tìm ra
nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này và đề xuất các giải pháp phòng ngừa
tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Dự báo tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện, tăng cường hiệu quả hoạt động phòng ngừa tội phạm
chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động phòng ngừa tội chống người thi
hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.

4



- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về tình hình tội chống
người thi hành công vụ trong Tội phạm học.
Phạm vi không gian: phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
Về thời gian: phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong thời gian từ năm
2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Phương pháp luận của Luận văn là phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm đường lối chính sách của Đảng về công tác phòng
ngừa tội phạm nói chung và tội chống người thi hành công vụ nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương
pháp phân tích, tổng hợp, điều tra, so sánh, trích dẫn tài liệu; phương pháp
tổng kết thực tiễn; phương pháp thống kê; phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ
án cụ thể; điều tra xã hội học; phương pháp trao đổi với các chuyên gia, cán
bộ thực tế về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: Luận văn góp phần hoàn thiện lí luận phòng ngừa THTP nói
chung, cũng như phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ
qua đó làm giàu thêm tri thức của Tội phạm học về phòng ngừa tội phạm.
- Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là một trong
những nguồn tài liệu tham khảo cho việc hoạch định chính sách phòng ngừa
tình hình tội chống người thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong
thời gian tới.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tình


5


hình tội chống người thi hành công vụ nói riêng của các cơ quan Nhà nước
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn được cấu trúc thành 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ trên địa bàn tỉnh Đồng Nai

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA
TÌNH HÌNH TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội chống người
thi hành công vụ
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ
Phòng ngừa tội phạm là hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội trong
lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm với mục tiêu là hướng tới việc xóa
bỏ nguyên nhân, điều kiện phát sinh, phát triển tội phạm, ngăn chặn tiến tới
loại bỏ hiện tượng tội phạm ra khỏi đời sống xã hội và đảm bảo ổn định an

ninh, trật tự xã hội.
Nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền
tảng và điểm xuất phát để tiếp tục nghiên cứu những nội dung khác trong lý
luận tội phạm học. Cho nên, phòng ngừa tội phạm vừa là bộ phận cấu thành
quan trọng của tội phạm học, vừa là mục tiêu, chức năng cơ bản của tội phạm
học. Hơn nữa, suy cho cùng thì mục đích của ngành khoa học về tội phạm học
chính là để phòng ngừa tội phạm, để tội phạm không xảy ra, không gây ra các
hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Theo GS.TS Đào Trí Úc “...Tội phạm học có mục đích đưa ra những
kiến nghị về các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng, chống
tội phạm...”. Do đó, mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của ngành khoa
học này là tìm ra được những biện pháp tác động vào quy luật phát sinh, tồn
tại và phát triển của tội phạm, đồng thời khắc phục được nguyên nhân và điều
kiện phạm tội. Tư tưởng về phòng ngừa tội phạm và sự cần thiết của phòng
ngừa tội phạm đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử loài người để bảo vệ, duy trì
trật tự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng,

7


của xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp tục kế
thừa và phát triển những tư tưởng văn minh và tiến bộ này. Chủ nghĩa Mác Lênin cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tội phạm phát sinh và tồn tại là
do những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, song “với bản chất tốt đẹp
của mình, Nhà nước xã hội chủ nghĩa hoàn toàn có khả năng tiến hành cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm có kết quả. Trong Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm phải được coi là một bộ phận
của cuộc đấu tranh giai cấp và trong cuộc đấu tranh đó, phải đặc biệt quan
tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm...”[26, tr. 9].Còn ở nước ta, từ ngay
sau khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã rất quan tâm đến công tác phòng ngừa tội phạm. Cụ thể, riêng trong

công tác tư pháp (xét xử), Người đã từng nói “xét xử là tốt, nhưng nếu không
phải xét xử thì càng tốt hơn”. Câu nói này của Người đã thể hiện phương
châm rất quan trọng trong đường lối xử lý của Nhà nước ta là lấy giáo dục,
phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống tội phạm tốt. Yêu
cầu là phải ngăn chặn và phòng ngừa tội phạm ngay từ đầu để tội phạm ít xảy
ra và tiến tới không xảy ra tội phạm, và để việc chống tội phạm, xử lý tội
phạm chỉ là hạn hữu, là việc làm bất đắc dĩ, lấy việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật là quan trọng hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa tội
phạm chiếm vị trí quan trọng, về sau trong nội dung chính sách hình sự của
Đảng và Nhà nước ta, phòng ngừa tội phạm được coi là một bộ phận quan
trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân, cũng như của tất cả các cơ quan, tổ chức, trong đó các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Công an là lực lượng trung tâm và nòng cốt. Như
vậy, phòng ngừa tội phạm không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức và
cũng không phải của một ngành khoa học nào trong lĩnh vực tư pháp hình sự
mà nó chính là nhiệm vụ chung của toàn xã hội. Điều này hoàn toàn phù hợp

8


với các Nghị quyết của Đảng, văn bản pháp luật và lợi ích chung của Tổ quốc
và nhân dân.
Tuy nhiên, ngành khoa học về tội phạm (tội phạm học) phải có nhiệm
vụ thực hiện chức năng phòng ngừa tội phạm. Phòng ngừa không để tội phạm
xảy ra chứ không phải để tội phạm xảy ra rồi mới tìm cách khắc phục. Trường
hợp hạn hữu nếu tội phạm có xảy ra thì ở mức độ hạn chế gây hậu quả (thiệt
hại) cho xã hội, kịp thời xử lý nhanh chóng tội phạm, khắc phục hậu quả.
Trên cơ sở này, tội phạm học còn phải xây dựng được cơ sở và các nguyên tắc
trong hoạt động phòng ngừa, xác định chủ thể phòng ngừa, lập và xây dựng
kế hoạch phòng ngừa đầy đủ và khoa học và có hệ thống các biện pháp phòng

ngừa. Do đó, nếu thực hiện tốt nhiệm vụ này mới có thể từng bước ngăn chặn
tội phạm và tình hình tội phạm trong xã hội, không cho tội phạm phát triển,
qua đó từng bước đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Hiện nay, nghiên cứu trong khoa học về tội phạm còn nhiều quan điểm khác
nhau về khái niệm này, trong đó khoa học và sách báo pháp lý một số nước
đều thống nhất cho rằng: “phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy
ra, thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm...” hay “không để cho
tội phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, thủ tiêu nguyên nhân và kiểm
soát được tội phạm, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội
phạm và vi phạm pháp luật, cũng như có các biện pháp cải tạo, giáo dục
người phạm tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội và cho
cộng đồng...”.
Tuy nhiên, trong thực tiễn của công cuộc đấu tranh phòng chống tội
phạm, phòng ngừa tội phạm lại được hiểu một cách trực tiếp và đơn giản
chính là hoạt động chủ yếu của các cơ quan chuyên môn, chuyên trách trong
công tác bảo vệ pháp luật và phòng chống tội phạm, mà cụ thể là: Công an,
Tòa án, Viện kiểm sát, Thanh tra, cơ quan Thi hành án hình sự và một số cơ

9


quan Nhà nước khác (Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển...)
nhằm ba mục đích sau:
Một là, loại trừ và thủ tiêu các nguyên nhân và điều kiện phạm tội, xóa
bỏ các tác nhân là điều kiện tạo thuận lợi việc phát sinh ra tội phạm.
Hai là, nghiên cứu môi trường sống (gia đình - nhà trường - xã hội) xung
quanh các nguyên nhân và điều kiện phạm tội và người phạm tội, qua đó hạn
chế, ngăn ngừa những hiện tượng có ảnh hưởng bất lợi và không đúng đến việc
hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực chống đối xã hội của bản thân người
phạm tội.

Ba là, trên cơ sở này, đưa ra các giải pháp tổng thể và có hệ thống
phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực và tội phạm, các tác nhân ảnh hưởng và
những thiếu sót trong cơ chế quản lý về các mặt (như: kinh tế, xã hội, công
tác tổ chức cán bộ...) cũng như kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp
luật tố tụng hình sự và các ngành luật khác.
Tóm lại, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học đã nêu, kết hợp
với thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm ở nước ta trong thời gian
vừa qua, dưới góc độ tội phạm học, theo tác giả phòng ngừa tội phạm có thể
được khái niệm như sau: phòng ngừa tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ
quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội và
của mọi công dân trong xã hội áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp
khác nhau hướng vào thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội,
cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành
phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng thời từng bước hạn chế, đẩy lùi và tiến tới
loại bỏ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội. Nói một cách ngắn gọn khác, phòng
ngừa tội phạm là một bộ phận cấu thành của lý luận tội phạm học, đồng thời
là hoạt động của toàn xã hội trong việc tìm ra các nguyên nhân phát sinh ra tội

10


phạm từ đó khắc phục, ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm ra khỏi
đời sống xã hội.
Như vậy “Phòng ngừa tội phạm chống người thi hành công vụ là hoạt
động của tất cả các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án, các cơ quan Nhà
nước và tổ chức xã hội và của mọi công dân trong xã hội sử dụng đồng bộ
các biện pháp để phát hiện, ngăn ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất sự tác
động của các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm chống người thi
hành công vụ, cũng như loại bỏ các yếu tố tiêu cực làm ảnh hưởng đến quá
trình hình thành phẩm chất cá nhân tiêu cực, đồng thời từng bước hạnh chế,

đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội chống người thi hành công vụ ra khỏi đời sống
xã hội”.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ
- Ý nghĩa lý luận của phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ: Phòng ngừa tình hình tội phạm với tư cách là một khoa học pháp lý
hình sự độc lập trong quá trình lịch sử đấu tranh với tình hình tội phạm của xã
hội loài người, vừa là mục đích của khoa học này, cái chỉ có thể đạt được trên
cơ sở đã hiểu rõ khách thể nghiên cứu của nó là tình hình tội phạm, cũng như
đã xác định được quy luật vận động của khách thể đó. Quy luật này chính là
đối tượng nghiên cứu của tội phạm học và nó được xác định thông qua việc
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm trên cơ sở của cơ
chế hành vi phạm tội. Từ đó cho thấy nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tội
chống người thi hành công vụ trên cơ sở nguyên nhân và điều kiện thực tế của
tình hình tội chống người thi hành công vụ. Điều đó có nghĩa rằng tình hình
tội chống người thi hành công vụ là hiện tượng tiêu cực tồn tại khách quan và
chủ quan gây ra. Vì thế, để phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ có hiệu quả phải khống chế được các yếu tố tiêu cực và tội phạm này

11


và khắc phục cả những yếu tố xuất phát từ phía nạn nhân của tội phạm để từ
đó từng bước đẩy lùi tội phạm này khỏi đời sống xã hội. Đó chính là cái nghĩa
lý luận, giải thích tại sao, phòng ngừa tội phạm hay tình hình tội phạm có ý
nghĩa vô cùng quan trọng.
- Ý nghĩa thực tiễn của phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ: Tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ xuất phát từ những
nguyên nhân và điều kiện rất đa dạng, phong phú. Tiến hành nghiên cứu nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ có ý

nghĩa đối với công tác phòng ngừa tội phạm chống người thi hành công vụ trong
thời gian tới cả về mặt lý luận và trong thực tiễn [21, tr. 23].
Phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ nhằm
loại bỏ các tác động tiêu cực của tội phạm này đối với đời sống xã hội và hạn
chế tới mức thấp nhất tội phạm xảy ra trong xã hội. Việc thực hiện tốt phòng
ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ sẽ góp phần thực hiện
nghiêm chỉnh và đầy đủ các Nghị quyết, Chỉ thị, đường lối và Chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước đảm bảo ANQG, TTATXH.
Trên cơ sở những nội dung, kiến thức đã nghiên cứu làm rõ nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ từ đó
tìm ra các giải pháp phòng ngừa loại tội phạm này có hiệu quả nhất. Bằng
việc nghiên cứu tổng quát về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
chống người thi hành công vụ nói chung, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm chống người thi hành công vụ tại địa phương nói riêng góp
phần làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tội phạm chống người thi hành
công vụ từ đó dự đoán xu hướng của loại tội phạm này trong thời gian tới, đề
xuất các biện pháp phòng ngừa chung và phòng ngừa cụ thể với tội phạm này.
Phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ tốt còn
góp phần huy động sức mạnh tổng thể, đồng bộ trong đấu tranh phòng, chống

12


tội phạm, làm giảm sự gia tăng của tội phạm và vi phạm pháp luật từ đó tạo
trạng thái tâm lý ổn định, bình an trong quần chúng nhân dân, an toàn cho
cộng đồng và dân cư, làm tăng niềm tin, hy vọng của quần chúng nhân dân
vào nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tạo sự ổn định có trật tự pháp luật, từ đó
nâng cao sự tín nhiệm vào khả năng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo
vệ pháp luật. Ở mức độ rộng hơn, điều này còn kéo theo sự ủng hộ, tích cực
và hăng say, nhiệt tình tham gia của quần chúng nhân dân trong công tác đấu

tranh phòng, chống tội phạm tạo ra sự hưởng ứng của xã hội, của cộng đồng
đối với những hành vi tiêu cực, vi phạm pháp luật hoặc lệch chuẩn.
Thực hiện tốt phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành
công vụ thông qua việc thực hiện các chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm; tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước;
tham gia phòng ngừa tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội, vận động gia đình,
bạn bè, con cháu cùng thực hiện… góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật, tích cực tác động đến các đối tượng thành viên trong gia đình, lôi cuốn
mọi người tham gia phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ
và các tội phạm khác.
Phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ mang đậm ý
nghĩa chính trị xã hội, làm tốt công tác phòng ngừa giúp giữ vững an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài sản của xã hội, công dân, tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của mọi người dân. Ngoài ra, còn góp
phần cung cấp những thông tin hữu ích không chỉ dành riêng cho ngành Luật
hình sự hay ngành Tội phạm học mà còn cung cấp thông tin cho các ngành khoa
học pháp lý khác sử dụng làm tài liệu để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem xét đối
tượng nghiên cứu của mình, đồng thời là cơ sở áp dụng các phương pháp, biện
pháp trong thực tế phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm chống người
thi hành công vụ nói riêng.

13


Tóm lại, để tìm ra các biện pháp phòng ngừa tội phạm chống người thi
hành công vụ nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ trên một
địa bàn nhất định thì phải tìm ra được nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
này. Nếu như không nêu được hoặc nêu không đúng, không chính xác nguyên
nhân và điều kiện của tội phạm chống người thi hành công vụ thì mọi định
hướng, giải pháp cho cuộc đấu tranh với loại tội phạm này sẽ không chính

xác, không đạt hiệu quả như mong muốn.
1.2. Mục đích, các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ
1.2.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ
Phòng ngừa tình hình các tội phạm chống người thi hành công vụ là một
trường hợp cụ thể của phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, nên mục đích
của nó cũng được quy định bởi mục đích của “Cái chung”, tức là ngăn chặn và
từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội [27, tr. 119], còn cái riêng là
ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội phạm chống người thi hành công vụ khỏi
đời sống xã hội. Mục đích của phòng ngừa tội phạm nói chung là cần phải
hướng đến để không hình thành và tồn tại các nguyên nhân và điều kiện phạm
tội, tức là phải hạn chế, cô lập, tiến tới loại trừ những mầm mống tội phạm ấy.
Đối với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ cần phải hạn chế, làm
giảm, chặn đứng không để có sự gia tăng phát triển tội phạm này trong xã hội
và tiến tới xóa bỏ, thủ tiêu hiện tượng này khỏi đời sống xã hội. Do đó, mục
đích của phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ cũng
được quy định bởi mục đích chung của hoạt động phòng ngừa tội phạm là ngăn
chặn, tức là từng bước hạn chế, làm giảm dần và tiến tới loại bỏ tội phạm
chống người thi hành công vụ khỏi đời sống xã hội.
Vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung luôn được Đảng và
Nhà nước rất quan tâm. Bộ Công an đã tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban bí

14


thư ban hành Chỉ thị số 48-/CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, Chỉ thị số 09/CT/TW về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân
bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới. Xuất phát từ tình hình tội phạm
và quán triệt tinh thần của Chỉ thị nêu trên, phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng đều hướng tới các

mục đích:
Thứ nhất là nhằm xây dựng và thực hiện cơ chế phát huy sức mạnh
tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, đẩy mạnh phong trào cách mạng của
toàn dân, nâng cao trách nhiệm vai trò chủ động của các ngành, đoàn thể, tổ
chức xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng ngừa, phát hiện đấu
tranh ngăn chặn các loại tội phạm, tệ nạn xã hội.
Thứ hai là thông qua thực hiện công tác phòng ngừa tội phạm chống
người thi hành công vụ thì phát huy chức năng của các cơ quan Nhà nước, các
đơn vị sự nghiệp, các đơn vị vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã
hội xây dựng chương trình hành động, gắn việc thực hiện các kế hoạch phát
triển kinh tế – xã hội với phòng ngừa tội phạm nói chung bảo vệ trật tự an
toàn xã hội, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phát hiện, điều tra và xử
lý nghiêm đối với các loại tội phạm nói chung và tội phạm chống người thi
hành công vụ nói riêng. Xây dựng lực lượng Công an nhân dân và các cơ
quan bảo vệ pháp luật thật sự trong sạch, vững mạnh để thực hiện tốt vai trò
nòng cốt, xung kích trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chống người thi
hành công vụ.
Thứ ba là không ngừng xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp
luật và tổ chức tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, phục vụ kịp
thời, có hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng ngừa tình hình tội phạm
chống người thi hành công vụ.

15


Thứ tư là tiếp tục phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, xây
dựng phong trào toàn dân tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
chống người thi hành công vụ.
1.2.2. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội chống người thi
hành công vụ

Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung là chiến lược hành động của
toàn xã hội do Đảng lãnh đạo nhằm giải quyết hai vấn đề có liên quan chặt
chẽ với nhau là vấn đề thực trạng của tình hình tội phạm và vấn đề nguyên
nhân, điều kiện của hiện tượng tiêu cực này. Trên cơ sở những nguyên tắc này
sẽ hình thành hệ thống các biện pháp nhằm ngăn chặn tội phạm và biện pháp
loại trừ tội phạm chống người thi hành công vụ trong thực tế. Vì thế, phòng
ngừa tội phạm nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng
phải tuân thủ nhiều nguyên tắc, phụ thuộc vào mục đích, quy mô và phạm vi
tác động của biện pháp áp dụng.
1.2.2.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo trong phòng ngừa tình hình tội
chống người thi hành công vụ
Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp 2013 khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và
xã hội.”
Nội dung của nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ mọi hoạt động
phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, tội phạm chống người thi hành
công vụ nói riêng cũng như mọi chủ thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa
tội phạm đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với lý luận
khoa học chủ đạo là chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với tư tưởng Hồ Chi
Minh làm kim chỉ nam trong mọi hoạt động.

16


1.2.2.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong phòng ngừa tình
hình tội chống người thi hành công vụ
Nội dung của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện ở chỗ hoạt

động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và việc áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm chống người thi hành công vụ phải có cơ sở pháp luật,
phải phù hợp với các quy định của pháp luật, đồng thời trong quá trình tiến
hành các hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm các chủ thể tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật.
Tội phạm chống người thi hành công vụ là loại tội phạm xâm phạm trật
tự quản lý hành chính Nhà nước mà hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm
chống người thi hành công vụ ở mức độ này hoặc mức độ khác đều mang tính
quyền lực nhà nước. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm vụ chung mà xã
hội và Nhà nước đặt ra vì lợi ích chung của xã hội, của cả cộng đồng. Vì vậy,
không có bất cứ lý do nào mà việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa tội phạm
nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ
nói riêng có thể thoát ly khỏi các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Ngược
lại, chỉ có thực hiện đúng các quy định của pháp luật, phòng ngừa tình hình
chống người thi hành công vụ thì quyền lực nhà nước mới được thực thi, mới
đảm bảo mục đích của nó là phục vụ lợi ích của toàn xã hội, của Nhà nước và
công dân góp phần xây dựng cuộc sống của nhân dân ngày càng tốt đẹp hơn.
1.2.2.3. Nguyên tắc dân chủ trong phòng ngừa tình hình tội chống
người thi hành công vụ
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một nội dung Nhà nước xã hội chủ nghĩa
thể hiện ở việc lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân dân lao động, các cơ quan
nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần và
toàn xã hội tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung.

17


Nguyên tắc đó đòi hỏi phải phát huy tinh thần chủ động, tính tích cực, sáng
tạo của mọi chủ thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm.
Do đó, trong phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành công

vụ cũng phải tuân thủ các nội dung của nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Nó đòi hỏi phải đảm bảo sự tham gia đông đủ của các tầng lớp xã hội và cá
nhân vào hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm chống người thi hành
công vụ, mọi người đều có quyền phát huy sáng kiến, vai trò của mình tham
gia vào việc tổ chức và hoạt động phòng ngừa đó.
1.2.2.4. Nguyên tắc phối hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa tình hình
tội chống người thi hành công vụ giữa các chủ thể
Trong quá trình đấu tranh phòng, chống tội phạm nguyên tắc phối
hợp chặt chẽ hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể là một nguyên tắc vô
cùng quan trọng. Nguyên tắc ấy đòi hỏi hoạt động phòng ngừa phải đặt
trong một cơ chế phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, có sự điều hành thống
nhất giữa các cơ quan chuyên trách và không chuyên trách, giữa các cơ
quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế mà mọi công dân,
giữa trung ương với địa phương. Hình thức, nội dung và phạm vi hoạt động
phòng ngừa cần phải được xác định thống nhất giữa các chủ thể hoạt động
phòng ngừa tội phạm.
Hoạt động phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ
nhằm loại bỏ các tác động tiêu cực của nó đối với xã hội và hạn chế, làm giảm
tới mức thấp nhất xảy ra tội phạm trong xã hội do các chủ thể phòng ngừa
khác nhau thực hiện. Do vậy, phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành
công vụ chỉ có thể đạt hiệu quả cao nhất nếu đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ
hoạt động phòng ngừa giữa các chủ thể phòng ngừa, đồng bộ giữa các biện
pháp khác nhau trong hệ thống đó. Để thực hiện nguyên tắc này, trước hết
phải đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng, sự phối hợp nhịp nhàng với các

18


cơ quan tư pháp, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và phải có chương
trình, kế hoạch được xây dựng một cách khoa học, quá trình áp dụng phải

đồng bộ, có sự chỉ đạo thống nhất, tập trung thì mới đạt hiệu quả cao.
1.3. Nội dung phòng ngừa tình hình tội chống người thi hành công vụ
Khi nghiên cứu về tội phạm học trên thế giới và cả ở Việt Nam cho đến
nay, trong nhiều tài liệu cho thấy, phòng ngừa tội phạm được phân loại theo
một số hệ thống khác nhau, như: Chung - Riêng; Cơ bản - Phái sinh; Ngăn
chặn - Loại trừ hay Ngăn chặn - Đẩy lùi. Như vậy, sự phân loại là có sự thống
nhất và biện chứng, tức là phân đôi cái thống nhất để nhận thức và thực hiện.
Ở đây, trong Luận văn này, tư tưởng đó được áp dụng và kế thừa quan điểm
của Nhà nước ta được thể hiện tại Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12.05.2009,
tức là lấy mục đích để phân loại nội dung của phòng ngừa tình hình tội phạm.
Phòng ngừa tội phạm có hai bộ phận: một bộ phận gồm các biện pháp
tác động vào nhân, được gọi là những biện pháp loại trừ (đẩy lùi) tội phạm;
một bộ phận khác gồm các biện pháp gồm các biện pháp tác động vào quả,
tức là phản ứng trực diện với hiện trạng của tình hình tội phạm, được gọi là
những biện pháp ngăn chặn tội phạm.
Thực tế của tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta
xác nhận hai bộ phận của lý luận phòng ngừa tình hình tội phạm chống người
thi hành công vụ là ngăn chặn và đẩy lùi tội phạm [23, tr. 119].
Ngăn chặn tội phạm chống người thi hành công vụ là đề cập đến những
biện pháp được áp dụng đối với những con người cụ thể đang rơi vào hoàn
cảnh, tình huống đặc biệt cần phải được giúp đỡ, trợ giúp từ bên ngoài, từ
phía xã hội, nếu không những người đó dễ dàng phạm tội. Ngăn chặn tội
phạm nói chung và tội phạm chống người thi hành công vụ nói riêng có ba
mức độ: ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra, ngăn chặn không cho tội phạm
được thực hiện đến cùng và ngăn chặn không cho tái phạm [27, tr. 121].

19



×