PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tế có những mất mát về nhan sắc, về hạnh phúc làm vợ, làm mẹ, mất mát về
khả năng vui chơi giải trí…Đó là những tổn thất về tinh thần, một loại thiệt hại tồn tại dai
dẳng, nó đau một cách âm ỉ, nhói lên trong lòng, có khi kéo dài đến suốt cuộc đời mà
không một phương thuốc nào chữa nỗi, dần già sẽ hình thành một “vết sẹo lòng” khó phai
trong mỗi người phải chịu nỗi đau này. “Giá trị tinh thần” có một vai trò quan trọng đối
với cuộc sống của mỗi con người. Đối với cá nhân, có tinh thần tốt thì mới có đủ sư tự
tin, ý chí phấn đấu vươn lên, có nghị lực để làm tốt nhiều việc. “Tâm bất biến” thì mới có
đủ sự thoải mái, ổn định tinh thần để yên tâm suy nghĩ và tập trung được nhiều chuyện
khác. Còn với tổ chức là sự tin tưởng, tín nhiệm mà tổ chức đó có được trong suốt quá
trình hoạt động và làm việc của mình. Một tổ chức không nhận được sự tín nhiệm của tổ
chức khác thì khó có thể hợp tác được với nhau, một tổ chức không nhận được sự tin
tưởng của cấp dưới thì khó có thể nhận được sự làm việc toàn tâm toàn lực của họ. Chính
vì vậy ma các giá trị tinh thần luôn được quan tâm, thể hiện qua việc ghi nhận trong các
văn bản pháp luật. Để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và khoa học, chế định bồi thường
tổn thất về tinh thần được qui định qua Bộ luật Dân sự của từng thời kì khác nhau.
Tổn thất về tinh thần là những “thiệt hại phi vật chất”, không thể cân, đo, đong,
đếm một cách chính xác được. Hơn nữa qui định của pháp luật về vấn đề này chủ yếu
dừng lại ở các qui định mang tính “định tính” mà không “định lượng” nên gây khó khăn
rất nhiều cho các cán bộ áp dụng pháp luật. Nhưng không vì thế mà không thừa nhận
trách nhiệm “bồi thường tổn thất về tinh thần”. Bản chất của bồi thường thiệt hại là bù
đắp những tổn thất và khôi phục tình trạng ban đầu. Trách nhiệm “bồi thường thiệt hại
tổn thất về tinh thần” tuy không thể khôi phục lại tình trạng ban đầu nhưng có thể bù đắp,
hạn chế, sẻ chia những gánh nặng về sự mất mát, thương đau mà chủ thể phải chịu đựng.
Chính vì pháp luật không qui định cụ thể nên đòi hỏi người áp dụng pháp luật ngoài nắm
vững các kiến thức chuyên môn còn phải có sự nhạy cảm, tinh tế và cái nhìn khách quan,
toàn diện để đưa ra sự phán quyết hợp lý thỏa mãn cho cả người gây thiệt hại và gia đình
người bị thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật hiện nay còn tồn tại một số qui định không rõ
ràng, cụ thể, không thống nhất gây nên nhiều tranh cãi, nhiều cách hiểu khác nhau trong
việc áp dụng pháp luật, không đảm bảo quyền lợi cho các bên tranh chấp.
Xuất phát từ tình hình trên đây, việc nghiên cứu, tìm hiểu các qui định của pháp
luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, “bồi thường tổn thất về tinh thần” nói
riêng là một trong những vấn đề có ý nghĩa pháp lý và thực tiễn sâu sắc. Vì những lý do
trên đây, tác giả đã chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần trong pháp
luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài thực hiện cho Tiểu luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung và “trách nhiệm bồi
thường tổn thất về tinh thần” nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu pháp luật
quan tâm. Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng cũng như “trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần”. Trong đó
phải kể đến: Tiến sĩ Đỗ Văn Đại với “Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng (Bản án và bình luận án)”, NXB Chính trị Quốc gia, năm 2010; Đỗ Văn Đại (2014),
Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận án, NXB Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh (xuất bản lần 2); Lê Thị Bích Lan, “Một số vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
và uy tín”, Luận văn Thạc sĩ học; Nguyễn Thị Thơm (2011), Trách nhiệm bồi thường tổn
thất về tinh thần trong pháp luật Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, Trường
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; Võ Thị Như Thương (2015), Trách nhiệm bồi thường tổn
thất về tinh thần theo pháp luật Dân sự Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật,
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh.
Bên cạnh đó cũng có một số Tạp chí tập trung nghiên cứu về vấn đề này, có thể kể
đến: Phạm Kim Anh (2001), “Về qui định bồi thường thiệt hại do danh dự, nhân phẩm,
uy tín bị xâm phạm trong Bộ Luật Dân sự Việt Nam và hướng hoàn thiện”, Tạp chí khoa
học pháp lý, Số chuyên đề (03); Đỗ Thanh Huyền, Bồi thường tổn thất về tinh thần, Tạp
chí Tòa Án nhân dân số 11/2004; Nguyễn Thanh Tú (2005), “Bồi thường thiệt hại về tinh
thần đối với thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra trong khi thi hành công vụ”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề (09); Đỗ Văn Đại (2008), “Bồi thường thiệt hại về
tinh thần trong Pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Tòa Án nhân dân, Số chuyên đề (06);
Nguyễn Văn Hợi(2013), “Xác định thiệt hại về tinh thần theo qui định của pháp luật Dân
sự Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số chuyên đề (08);…
Qua nghiên cứu các tài liệu trên, tác giả nhận thấy Tổn thất về tinh thần còn là một
vấn đề khái quát, pháp luật chưa có qui định cụ thể và còn có nhiều quan điểm khác nhau.
Từ thực tiễn nghiên cứu trên, tác giả mong muốn có thể sử dụng kiến thức và vốn hiểu
biết mà mình đã tích lũy được để tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và phát triển toàn diện hơn
về lý luận và thực tiễn xét xử của “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần theo
Pháp luật Dân sự Việt Nam”. Những phân tích gắn với thực tiễn áp dụng sẽ phản ánh
những thiếu sót và những điểm chưa hợp lý của các quy định pháp luật hiện hành. Từ đó
có thể đưa ra những định hướng hoàn thiện để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói
chung và đi sâu vào nghiên cứu “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần của Pháp
luật Việt Nam hiện hành” theo quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015 sắp sửa có hiệu
lực. Cụ thể là tìm hiểu khái niệm, căn cứ phát sinh, chủ thể có nghĩa vụ bồi thường,
những trường hợp không phải bồi thường và nguyên tắc bồi thường. Sau đó, đề tài sẽ làm
rõ về thực trạng áp dụng những quy định pháp luật nói trên. Từ đó phân tích nguyên nhân
để chỉ ra những điểm chưa hợp lý, chưa khả thi trong các qui định pháp luật và đưa ra
kiến nghị để hoàn thiện.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của đề tài là nghiên cứu “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
trong pháp luật Việt Nam”. Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong các qui
định của BLDS 2005, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009, Luật Sở hữu trí
tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009 và BLDS 2015 đang trên đà có hiệu lực. Trong phạm vi
giới hạn nghiên cứu, tác giả tập trung tìm hiểu, nghiên cứu các quy định của pháp luật
hiện hành về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Bên cạnh đó, tác giả cũng đề
cập đến một vài nội dung liên quan về thực tiễn giải quyết hiện nay của các cơ quan có
thẩm quyền để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong giải
quyết bồi thường tổn thất về tinh thần khi áp dụng các quy định của BLDS.
5. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của BLDS 2005 và BLDS 2015 sắp sửa có
hiệu lực giúp cho tác giả có cái nhìn hoàn chỉnh dưới lăng kính pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng, qua đó phục vụ tốt hơn cho công việc của bản thân.
Ngoài ra, qua việc nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cụ thể là
bồi thường thiệt hại về tổn thất tinh thần cũng như việc áp dụng vào thực tiễn sẽ tìm ra
được một số điểm bất cập. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế trên, góp phần hoàn thiện pháp luật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận nhận thức của chủ nghĩa Mác –
Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu khác như phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, chứng minh được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
đề tài được chia làm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về trách nhiệm bồi thường tổn
thất về tinh thần.
Chương 2: Thực trạng giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về
tinh thần và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM
BỒI THƯỜNG TỔN THẤT VỀ TINH THẦN
1.1.
Khái quát về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tổn thất về tinh thần
Trước hết, chúng ta hiểu như thế nào là tổn thất về tinh thần? Tổn thất “là sự
mất mát, hư hao, thiệt hại lớn” 1 và “tinh thần” là “những ý nghĩ, tình cảm, những
hoạt động thuộc về nội tâm của con người” 2. Vậy, “tổn thất về tinh thần” là sự đau
thương, mất mát về tình cảm, sự đau đớn, dằn vặt về nội tâm mà con người phải chịu
đựng. Hiện nay, pháp luật chưa có một qui định cụ thể nào về định nghĩa thế nào là
“tổn thất về tinh thần” nên khái niệm này được nhiều tác giả nghiên cứu và hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau. Có tác giả cho rằng, “tổn thất về tinh thần” là “sự tổn thất về
tình cảm, tâm trạng của con người, sự tín nhiệm của xã hội đối với pháp nhân và
các chủ thể khác mà biểu hiện là cá nhân phải chịu những đau đớn, lo lắng, buồn
khổ về tinh thần hay việc pháp nhân hay các chủ thể khác phải gặp nhiều khó khăn,
trở ngại trong các hoạt động thường ngày do bị suy giảm tôn trọng, tín nhiệm của xã
hội”3. “Tổn thất về tinh thần” là một dạng thiệt hại phi vật chất, nó gắn liền với tâm
lý, tình cảm, danh tiếng của cá nhân, tổ chức. Đối với cá nhân, “tổn thất về tinh thần”
chính là “phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc bị
mất uy tín, bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm” 4. Còn đối với tổ chức, thì “tổn thất về
tinh thần” là “danh dự. uy tín bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin vì bị
hiểu nhầm”5. Như vậy, chúng ta có thể hiểu là chủ thể bị tổn thất về tinh thần không
chỉ có cá nhân mà còn có cơ quan, tổ chức, pháp nhân.
Từ khái niệm nêu trên, có thể thấy tổn thất về tinh thần có những đặc điểm cơ
bản sau:
Thứ nhất, tổn thất về tinh thần là thiệt hại phi vật chất, không mang tính chất
kinh tế và tài sản, không thể tính thành tiền, không thể cân, đo, đong, đếm. Vì vậy,
không thể có công thức chung để quy ra bằng tiền áp dụng cho các trường hợp, tổn
thất về tinh thần không thể đo đếm được bằng giá trị vật chất, không thể chỉ dung
hình thức bồi thường vật chất là có thể khôi phục được tổn thất về tinh thần. Đây là
điểm khác biệt cơ bản giữa tổn thất vật chất với các tổn thất tinh thần6.
Thứ hai, tổn thất về tinh thần để lại những vết hằn tâm lý rất sâu sắc, khó phai
mờ trong ký ức của người bị thiệt hại. Nó có thể gây nên những đảo lộn trong tâm lý,
đời sống của người bị thiệt hại. Nên mục đích khi bồi thường tổn thất về tinh thần
1 . Nguyễn Văn Xô (chủ biện) (2008), Từ điển Tiếng Việt, NXB Thanh Niên (tái bản lần V), trang 757.
2 . Nguyễn Văn Xô (chủ biên), tài liệu đã dẫn, (01), trang 739.
3 . Lê Minh Hùng, Tập bài giảng Dân sự, Phần bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, năm 2007.
4 . Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
5 . Điểm b, tiểu mục 1.1, mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
6 . Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Bản án và bình luận án), NXB Chính Trị Quốc Gia, năm
2010, trang 260.
nhằm “bù đắp, xoa dịu” chứ không thể khôi phục tình trạng ban đầu nên không có
nghĩa là “bồi thường toàn bộ” cho những tổn thất về tinh thần.
Thứ ba, tổn thất về tinh thần phát sinh từ sự xâm phạm các quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ thể. Cụ thể là xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, thi thể của người khác. Nên tổn thất về tinh thần là “thiệt hại phái sinh”
của các thiệt hại về sức khỏe, tính mạng, danh sự, uy tín, nhân phẩm.
Thứ tư, khi có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức, có thể
gây ra thiệt hại về vật chất, và từ đó dẫn đến tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên, “tổn
thất về tinh thần” có thể tồn tại khi không có thiệt hại về vật chất7.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trách nhiệm dân sự.
Theo Điều 307 BLDS 2005 thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất về tinh
thần. Điều luật trên đã quy định cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất. Tuy nhiên trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần chưa được định nghĩa
cụ thể mà chỉ quy định chung về căn cứ phát sinh, cách thức mà chủ thể bị thiệt
hại yêu cầu chủ thể gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm do hành vi xâm phạm của
mình: “Người gây thiệt hại về tinh thần cho người khác do xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó thì ngoài việc chấm dứt
hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền
để bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại”8.
Trong chương XXI về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
BLDS 2005 dành một số điều luật quy định về các trường hợp được bồi thường
khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại khi người gây thiệt
hại có hành vi xâm phạm đến sức khỏe (Điều 609); tính mạng (Điều 610); danh
dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 611); thi thể (Điều 628).
Tương tự, trong chương XX về Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, BLDS 2015 cũng dành một số điều luật quy định về các trường hợp bồi
thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần như có hành vi xâm phạm đến sức
khỏe (Điều 590); tính mạng (Điều 591); danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 592);
thi thể (Điều 606).
Do đó, có thể xem trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần là một nội
dung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trách nhiệm bồi
thường tổn thất về tinh thần là một quan hệ dân sự mà trong đó người có hành vi
trái pháp luật xâm phạm danh dự, nhân phẩm uy tín; tính mạng; sức khỏe; thi thể
của người khác gây ra thiệt hại thì phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do chính
7 . Đỗ Văn Đại (2008), Bồi thường thiệt hại về tinh thần trong pháp luật Việt Nam, Tạp chí Tòa Án Nhân Dân, (16),
trang 16 – 17.
8 . Khoản 3 Điều 307 BLDS 2005.
1.2.
hành vi của mình gây ra. Trong mối quan hệ này giữa người gây ra thiệt hại và
người bị thiệt hại không có mối quan hệ hợp đồng với nhau. Mặc dù vậy giữa các
chủ thể vẫn phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần do xâm
phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín; sức khỏe; tính mạng; thi thể của người khác bởi
vì đây là quyền nhân thân bất khả xâm phạm, gắn liền với mỗi chủ thể và được
pháp luật quy định. Vì vậy, mọi hành vi xâm phạm đến quyền nhân thân này đều là
hành vi trái pháp luật.
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần là
một trách nhiệm dân sự, ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
công khai thì còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần
do hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thi thể của
chủ thể khác nhằm hạn chế, khắc phục, bù đắp một phần cho người bị thiệt hại
hoặc gia đình người bị thiệt hại.
Từ khái niệm trên, có thể thấy trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần có
những đặc điểm sau: Là một nội dung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng; Trách nhiệm này phát sinh khi có hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, thi thể của cá nhân, tổ chức và gây ra những tổn
thất về tinh thần; Trách nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần không thể
khôi phục lại tình trạng ban đầu của tinh thần, tức không thể khắc phục toàn bộ
thiệt hại về tinh thần; Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần bao gồm: buộc
chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường một khoản tiền
để bù đắp tổn thất về tinh thần.
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Là một loại trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ phát
sinh khi thỏa mãn các căn cứ do pháp luật quy định. Việc xác định căn cứ phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hết sức quan trọng: là cơ sở để
xác định trách nhiệm bồi thường, mức bồi thường…Căn cứ phát sinh trách nhiệm
bồi thường thiệt hại được đề cập tại Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005: “Người nào
do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài
sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Tương tự, ở Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 cũng quy định: “Người nào có hành
vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi
ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ
trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Ở quy định trên,
đối với cá nhân, BLDS 2005 theo hướng có phạm vi điều chỉnh rất rộng. Tuy
nhiên đối với pháp nhân, BLDS 2005 chỉ liệt kê tới ba đối tượng bị xâm phạm là
“danh dự, uy tín, tài sản” trong khi đó đối với cá nhân chúng ta thấy BLDS 2005
theo hướng còn liệt kê cả “quyền và lợi ích hợp pháp khác”. Trong thực tế đã xảy
ra trường hợp chủ thể bị xâm phạm không phải là cá nhân mà là một công ty và
đối tượng của họ bị xâm phạm không là “danh dự, uy tín, tài sản” như việc xâm
phạm tới số kiểm định xe. Trong trường hợp trên, Tòa án vẫn cho pháp nhân được
bồi thường. Tại Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 đã khắc phục nhược điểm của
BLDS 2005. Ở đây, đối tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
là “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp
pháp khác của người khác”. Phạm vi áp dụng của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người gây ra đã được mở rộng và pháp nhân đã được đối xử như cá nhân 9. Tuy
nhiên, những quy định trên còn khái quát, chung chung, chúng ta khó có thể xác
định cụ thể các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Tại mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP đã quy định cụ thể trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh khi có bốn yếu tố: Có thiệt
hại xảy ra trên thực tế; Có hành vi trái pháp luật; Có mối quan hệ nhân quả giữa
hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; Người gây thiệt hại có lỗi. Trách nhiệm
bồi thường tổn thất về tinh thần cũng là một bộ phận của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Nên, trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần cũng
có những điều kiện phát sinh tương tự. Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu những điều
kiện này.
1.2.1. Có thiệt hại xảy ra
Đây là điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất của trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng bởi nếu không có thiệt hại thì trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cũng không phát sinh. Mục đích của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại là khắc phục, bù đắp những tổn thất cho người bị thiệt hại, nên
phải có thiệt hại thì mới có thể thực hiện được mục đích.
Nếu thiệt hại do tài sản bị xâm phạm thì việc xác định có thiệt hại cũng
không quá khó khăn nhưng trường hợp tổn thất về tinh thần sẽ rất khó xác định
bởi nó mang tính chất “định tính” chứ không thể “định lượng” cụ thể được. Vậy
nên thiệt hại được hiểu theo hai khía cạnh: xã hội và pháp lý.
Theo ý nghĩa xã hội, thiệt hại chính là “bị mất mát về người, về của cải vật
chất hoặc tinh thần”10.
Dưới góc độ pháp lý, thiệt hại được hiểu là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân;
Tài sản, danh dự, uy tín của pháp nhân hoặc chủ thể khác được pháp luật bảo
vệ”11.
Như vậy, thiệt hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
được xác định bao gồm cả thiệt hại về vật chât lẫn tổn thất về tinh thần khi mà
9 . Đỗ Văn Đại (2015) (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật dân sự 2015, trang 454 – 455.
10 . Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học, năm 2006, trang 943.
11 . Bộ Tư Pháp, Viện nghiên cứu KHPL, Từ điển Luật học, NXB Từ điển bách khoa NXB Tư pháp, năm 2006,
trang 713.
quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể được pháp luật bảo vệ bị xâm phạm.
Trong đề tài này, tác giả sẽ không đi sâu phân tích thiệt hại về vật chất.
Thiệt hại về tinh thần là “tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy
sụp về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Khác với thiệt hại về vật chất, thiệt hại về
tinh thần không có tiêu chí chung để xác định cho mọi cá nhân bởi điều kiện hoàn
cảnh của từng cá nhân là khác nhau” 12. Tại điểm b mục 1.1 phần I Nghị quyết
03/2006/NQ – HĐTP đã quy định như sau: “Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của
cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà
người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích, gần gũi
nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị
giảm sút hoặc bị mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm…”. “Thiệt hại do
tổn thất về tinh thần của pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh
dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng
tin…vì bị hiểu nhầm…”. Qua quy định này, ta hiểu không chỉ có cá nhân mà tổ
chức cũng có thiệt hại về tinh thần. Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP đã liệt kê ra
những trường hợp tổn thất về tinh thần có thể xảy ra. Tuy nhiên, lại thiếu trường
hợp thi thể bị xâm phạm được BLDS 2005 và BLDS 2015 thừa nhận trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về tinh thần.
Pháp luật về dân sự nói chung, chế định bồi thường tổn thất về tinh thần nói
riêng là những vấn đề nhạy cảm và vô cùng phức tạp, bởi vì những thiệt hại về
tinh thần là những thiệt hại phi vật chất, không có công thức chung để quy ra tiền.
Việc giải quyết bồi thường một khoản tiền là bù đắp sự tổn thất về tinh thần cũng
chỉ nhằm an ủi, xoa dịu nỗi đau cho nạn nhân. Đây là một vấn đề phức tạp, cho
đến nay, các cơ quan có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể nào
để áp dụng thống nhất, vì vậy vẫn còn có nhiều tranh cãi trong quá trình áp dụng.
Thiệt hại về tinh thần là sự thiệt hại về giá trị tinh thần, tình cảm hoặc sự suy sụp
về tâm lý, tình cảm của cá nhân. Hình thức biểu hiện thiệt hại về tinh thần rất đa
dạng như sự suy sụp tâm lý của người bị thiệt hại sau khi sức khỏe bị xâm phạm
do bị tàn tật, bị biến dạng bề ngoài…Ngoài những thiệt hại về tinh thần mà bản
thân người bị thiệt hại phải gánh chịu thì có những trường hợp người thân thích
của họ cũng gánh chịu tổn thất về tinh thần này. Đó có thể là sự suy sụp, lo lắng,
sự đau thương của người thân thích đối với cái chết của nạn nhân. Khác với thiệt
hại vật chất, thiệt hại về tinh thần không có tiêu chí chung xác định cho mọi cá
nhân bởi điều kiện, hoàn cảnh của từng cá nhân là khác nhau, nhưng thiệt hại về
tinh thần thường đi kèm với thiệt hại vật chất.
Ngoài ra, muốn bồi thường, sự thiệt hại phải thõa mãn các điều kiện sau: thiệt
hại phải chắc chắn, nhất định, thực tế và chưa được bồi thường. Nói đến sự thiệt
12 . Bộ Tư Pháp, Viện nghiên cứu KHPL , Từ điển luật học, NXB Từ điển bách khoa NXB Tư pháp, năm 2006,
trang 714.
hại chắc chắn, nhất định, thực tế là nói đến một sự thiệt hại đã xảy ra hoặc chưa
xảy ra nhưng nhất định sẽ xảy ra và có thể ước lượng được. Để chứng minh sự
thiệt hại chắc chắn, người bị thiệt hại phải đưa ra những chứng cứ cần thiết và xác
đáng như: hóa đơn, chứng từ thanh toán những chi phí hợp lý nhằm cứu chữa,
phục hồi sức khỏe. Một sự thiệt hại không chắc chắn xảy ra hoặc có tính chất giả
định thì không được bồi thường. Bồi thường thiệt hại là nhằm khôi phục lại toàn
bộ hoặc một phần tình trạng tài sản trước khi thiệt hại xảy ra hoặc bù đắp những
tổn thất về tinh thần nên thiệt hại được coi là điều kiện có ý nghĩa quan trọng.
Không bồi thường khi không có thiệt hại xảy ra.
Buộc người gây thiệt hại cho người khác phải bồi thường một khoản tiền bù
đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại và cho những người thân thích của
họ là phù hợp về lý luận và thực tiễn, phù hợp với phong tục tập quán, truyền
thống tương thân tương ái của con người Việt Nam.
Qua những phân tích trên, chúng ta có thể thấy “có thiệt hại xảy ra” là điều
kiện tiền đề để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng như
bồi thường tổn thất về tinh thần. Khi xác định đúng thiệt hại sẽ có cơ sở để xác
định mục đích bồi thường, khoản bồi thường, mức bồi thường cũng như hình thức
bồi thường.
1.2.2. Có hành vi trái pháp luật
Sau khi xác định có thiệt hại xảy ra trên thực tế, tiếp theo phải xác định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là “phải có hành vi trái pháp
luật”. Hành vi gây thiệt hại trước tiên phải là hành vi pháp luật cấm thực hiện, nếu
hành vi đó được thực hiện mà pháp luật không cấm thì người thực hiện hành vi đó
không phải bồi thường thiệt hại. Không thể có người gây thiệt hại khi không có
hành vi gây thiệt hại. Hành vi gây thiệt hại là hành vi có ý thức của con người diễn
ra trái với quy định của pháp luật và gây thiệt hại tới các đối tượng được pháp luật
bảo vệ. Theo quy định tại mục 1.2 mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP
thì “hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện
thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật”.
Theo đó, hành vi gây thiệt hại có thể bằng hành động hoặc không hành động, hành
động và không hành động đều là những biểu hiện của con người ra ngoài thế giới
khách quan, được ý thức kiểm soát, lý trí điều khiển và đều có khả năng làm biến
đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho quan hệ xã hội
được pháp luật bảo vệ. Hành động gây thiệt hại có thể là tác động trực tiếp của chủ
thể vào đối tượng gây thiệt hại hoặc có thể là tác động gián tiếp của chủ thể vào
đối tượng thông qua công cụ, phương tiện gây thiệt hại. Không hành động gây
thiệt hại là một hình thức của hành vi gây thiệt hại, nó làm biến đổi tình trạng bình
thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho khách thể bằng việc chủ thể
không làm một việc pháp luật quy định bắt buộc phải làm mặc dù có đầy đủ điều
kiện để làm việc đó.
Như vậy, khi xác định hành vi gây thiệt hại cho người bị thiệt hại để phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chúng ta có thể thấy có những đặc điểm của
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại:
Thứ nhất, phải là “Những xử sự cụ thể của con người”.
Phải xem xét tổn thất về tinh thần xảy ra có phải do hành vi cụ thể của con
người gây ra hay không, vì pháp luật điều chỉnh các hành vi đã bộc lộ ra bên ngoài
thế giới khách quan chứ không điều chỉnh các “hành vi” còn nằm trong suy nghĩ
của chủ thể. Vì vậy, hành vi trái pháp luật chỉ có thể là những hành vi được thể
hiện ra bên ngoài bằng những hành động cụ thể, bằng những “biểu hiện” nhất
định13.
Xử sự cụ thể của con người thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành
động.
Thứ hai, tính trái pháp luật của hành vi.
Hành vi gây ra thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật, nếu không trái pháp
luật thì không phải bồi thường mặc dù có thiệt hại xảy ra. Hành vi trái pháp luật ở
đây được hiểu là hành vi vi phạm các quy định của pháp luật, ngoài ra có những
hành vi vi phạm các quy tắc xử sự sinh hoạt trong đời sống cũng có thể coi là hành
vi trái pháp luật nếu gây ra thiệt hại. Những hành vi gây thiệt hại nhưng do yêu
cầu nghề nghiệp hoặc gây thiệt hại theo bản án, quyết định của cơ quan Nhà Nước
thì không phải là hành vi trái pháp luật.
Theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ –
HĐTP thì tính trái pháp luật của hành vi được hiểu là “trái với các quy định của
pháp luật”. Tức là hành vi đó phải trái với các quy định của pháp luật nói chung,
có thể là pháp luật hành chính, hình sự hay dân sự…Hơn nữa, theo quy định của
Nghị quyết trên thì trái pháp luật không đương nhiên bao gồm cả hành vi vi phạm
đến đường lối, chính sách của Đảng, các quy tắc sinh hoạt xã hội. Mà chỉ khi nào
đường lối, chính sách của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật thì hành vi vi
phạm mới được xem là hành vi trái pháp luật.
Tóm lại, việc xác định một hành vi được xem là hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định các căn cứ làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, xác định chủ thể có trách nhiệm
bồi thường cho người bị thiệt hại.
Có những trường hợp dù không có hành vi trái pháp luật của con người
nhưng có tổn thất về tinh thần, ví dụ như: thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây
ra; thiệt hại do cây cối gây ra; thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng gây ra.
Trong những trường hợp này thì chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng phải
chịu trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại, người
thân thích của người bị thiệt hại.
13 . Đỗ Văn Đại (2014), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và binh luận bản án, NXB Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, (xuất bản lần 2), trang 60.
1.2.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra được
xây dựng trên cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả. Hành vi trái pháp luật phải
xảy ra trước thiệt hại và “thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái
pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại” 14. Xét
về nguyên tắc, nguyên nhân phải xảy ra trước kết quả trong khoảng thời gian xác
định và hành vi trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp. Có nghĩa là thiệt hại đã có
sẵn cơ sở trong hành vi. Một hành vi vi phạm nhất định trong một điều kiện xác
định thì chỉ làm nảy sinh ra hậu quả này chứ không phải là hậu quả nào khác.
Thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của hành vi vi phạm và ngược lại, nếu
không có hành vi thì thiệt hại sẽ không xảy đến. Nếu không xác định được mối
quan hệ này sẽ không xác định được trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người có
hành vi vi phạm và không buộc được người gây thiệt hại phải bồi thường cho
người bị thiệt hại.
Ví dụ: Do có mâu thuẫn với nhau, A xách dao đến nhà B hăm dọa đánh B.
Do A có hung khí nên B không chuẩn bị kịp. Hậu quả B bị thương 40%. A đã có
hành vi trái pháp luật chính là gây thương tích cho người khác. Ngoài việc A phải
chịu trách nhiệm về tội cố ý gây thương tích thì về trách nhiệm dân sự A còn phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho B. Trong đó có bồi thường thiệt hại về
tinh thần do hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác. Bởi vì hành vi gây
thương tích là nguyên nhân làm cho sức khỏe của B bị thiệt hại dẫn đến B bị tổn
thất về tinh thần.
Nếu chúng ta làm rõ được mối quan hệ nhân quả sẽ trả lời hai câu hỏi được
đặt ra: Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh không? Mức bồi thường thiệt
hại được xác định như thế nào nếu nhiều người gây ra thiệt hại cho một người
hoặc cả người gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi? Trong thực tế mối
quan hệ giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra biểu hiện rất phức tạp.
Cần phân biệt giữa nguyên nhân và điều kiện: nguyên nhân trực tiếp gây ra
thiệt hại còn điều kiện thì không trực tiếp gây ra thiệt hại nhưng có tác động để
cho thiệt hại xảy ra nhanh hơn. Vậy trong mối quan hệ nhân quả, nguyên nhân là
yếu tố quyết định còn điều kiện là yếu tố quan trọng dẫn đến kết quả. Nguyên
nhân và điều kiện trong mối quan hệ nhân quả có thể là một hay nhiều hiện tượng,
nhưng giữa chúng có một điểm khác nhau ở chỗ quan hệ với hậu quả xảy ra. Nếu
không có nguyên nhân thì không có hiện tượng, sự vật xảy ra và cũng không tồn
tại một điều kiện. Nhưng nhiều trường hợp có nguyên nhân xảy ra nhưng không
có kết quả nếu không có điều kiện. Về nguyên tắc thì không có việc hiện tượng
này chỉ là nguyên nhân còn hiện tượng kia là điều kiện. Mối quan hệ nhân quả có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định thiệt hại. Về mặt lý luận cũng như thực
tiễn để xác định mối quan hệ nhân quả là một vấn đề tương đối khó khăn. Bởi vì
14 . Xem tiểu mục 1.2 mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
sự thiệt hại thường thì do nhiều nguyên nhân chứ không chỉ do một nguyên nhân
gây ra. Các nguyên nhân này không tồn tại độc lập mà phối hợp với nhau phát sinh
ra kết quả, nếu thiếu một trong các nguyên nhân thì không có kết quả xảy ra. Tuy
nhiên mức độ tác động của từng nguyên nhân đối với kết quả có thể là khác nhau,
sự khác nhau này đã tạo ra vai trò chủ yếu và thứ yếu của từng nguyên nhân.
Trong thực tiễn thì thiệt hại có thể có nhiều nguyên nhân, vậy xác định nguyên
nhân nào là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, nguyên nhân nào là nguyên nhân
thứ yếu và gián tiếp, một thiệt hại có thể kéo theo nhiều thiệt hại khác, thiệt hại
đầu tiên có được coi là nguyên nhân của thiệt hại sau hay không. Chúng ta không
thể căn cứ vào thứ tự trước sau của hành vi gây thiệt hại đẻ xác định nguyên nhân
chủ yếu hay thứ yếu được, nhất là trong các vụ án có nhiều người tham gia.
Do đó, để trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh cần xem xét
một cách khách quan, toàn diện hành vi trái pháp luật nào xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp được pháp luật bảo vệ là nguyên nhân dẫn đến tổn thất về tinh
thần xảy ra.
1.2.4. Người gây ra thiệt hại có lỗi cố ý hoặc vô ý
“Lỗi là thái độ tâm lý của người gây ra thiệt hại, thể hiện nhận thức và
mong muốn của mình đối với hành vi gây thiệt hại và thiệt hại do hành vi đó gây
ra”15. Lỗi thể hiện dưới hai hình thức: lỗi cố ý và lỗi vô ý. Theo quy định tại tiểu
mục 1.4 mục 1 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ – HĐTP thì: Lỗi cố ý “là trường
hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại
xảy ra”. Lỗi vô ý “là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra
hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt
hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được” 16. Lỗi được cấu thành bởi hai yếu
tố đó là lý trí và ý chí. Lý trí là sự thể hiện năng lực nhận thức thực tại khách quan,
còn ý chí là yếu tố biểu hiện năng lực điều khiển hành vi trên cơ sở nhận thức thực
tại khách quan.
Như vậy, một người bị coi là có lỗi khi người gây thiệt hại nhận thức được
hoặc không nhận thức được nhưng đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính
chất gây thiệt hại của hành vi và có đủ điều kiện để điều khiển một hành vi khác
không gây thiệt hại. Như vậy, để xác định được lỗi cố ý hay vô ý, chúng ta phải
dựa vào thái độ chủ quan và nhận thức lý trí của người gây thiệt hại 17. Phân loại lỗi
có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thiệt hại và mức bồi thường đối với các
hành vi xâm phạm. Tuy không rõ ràng như ba yếu tố còn lại nhưng lỗi cũng được
15 . Bộ Tư Pháp, Viện nghiên cứu KHPL, Từ điển luật học, NXB Từ điển Bách Khoa NXB Tư Pháp, năm 2006,
trang 468.
16 . Xem Điều 308 BLDS 2005.
17 . Hoàng Thế Liên (chủ biên), (2013), tài liệu đã dẫn, (18), trang 703 – 704.
hầu hết pháp luật các nước thừa nhận là điều kiện bắt buộc trong những trường
hợp thông thường. Trong pháp luật Sở hữu trí tuệ, lỗi không phải là yếu tố bắt
buộc làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các chủ thể có hành vi
xâm phạm18. Một khía cạnh khác khi nghiên cứu về yếu tố lỗi trong trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chính là trách nhiệm bồi thường cả trong
trường hợp người gây ra thiệt hại không có lỗi 19. Luật trách nhiệm bồi thường Nhà
Nước quy định thiệt hại phải do người thi hành công vụ gây ra trong quá trình thi
hành công vụ. Nên hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra thiệt
hại là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn không đúng
quy định của pháp luật và được xác định trong văn bản của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước trong hoạt động
quản lý hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, thi hành án phải có văn
bản của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi hành
công vụ là trái pháp luật và thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại các
Điều 13, 28, 38 và 39 của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước. Còn đối
với việc xác định trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước trong hoạt động tố tụng
hình sự phải có bản án, quyết định của cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền xác định
người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 của
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2009. Người bị thiệt hại có quyền yêu
cầu bồi thường khi “có văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định
hành vi của người thi hành công vụ là trái pháp luật” 20 hoặc “có văn bản của cơ
quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại
trong trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26 Luật Trách nhiệm bồi
thường của Nhà Nước”21. Với quy định của pháp luật hiện hành xuất phát từ sự
khác biệt của trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước với trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của các chủ thể dân sự khác.
Như vậy, để đảm bảo cho việc “xác định chủ thể bồi thường thiệt hại một
cách trực tiếp và theo đó quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại được bồi
thường kịp thời, ngăn chặn hữu hiệu các cơ quan có thái độ thờ ơ, thiếu trách
nhiệm làm cho quyền lợi của nhân dân bị thiệt hại” 22 thì cho dù người thi hành
công vụ có lỗi hay không có lỗi thì khi gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần cho
chủ thể khác trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao thì Nhà Nước cũng phải bồi
thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Khi gây ra thiệt hại, đặc biệt là tổn thất về
18 . Xem Khoản 6 Điều 203 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009.
19 . Xem Khoản 2 Điều 604 BLDS 2005.
20 . Điểm a Khoản 1 Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước năm 2009.
21 . Điểm a Khoản 2 Điều 6 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước năm 2009.
22 . Phùng Trung Tập (2007), Nguyên tắc của pháp luật Dân sự cần được quy định trong luật bồi thường Nhà Nước,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (08), trang 44.
tinh thần, người thi hành công vụ được suy đoán là có lỗi và yếu tố lỗi được dùng
làm căn cứ xem xét trách nhiệm hoàn trả của họ cho ngân sách Nhà Nước đối với
khoản tiền mà Nhà Nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại23.
Trong dự thảo năm 2012 đã đề xuất bỏ yếu tố lỗi trong các căn cứ làm phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Ngày nay, khoản 1 Điều 584 BLDS 2015
khẳng định “người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín, tài sản, quyền lợi ích hợp pháp khác mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác”. Ở đây,
chỉ cần tồn tại yếu tố có thiệt hại xảy ra trên thực tế, có hành vi trái pháp luật (xâm
phạm tới lợi ích của người khác mà không thuộc trường hợp không chịu trách
nhiệm bồi thường) và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt
hại thực tế xảy ra thì đã làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, không cần
xem xét người gây thiệt hại có lỗi hay không có lỗi. Tuy nhiên, cũng cần làm rõ
mặc dù yếu tố lỗi không còn tồn tại trong danh sách các căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường nhưng lỗi vẫn còn nguyên giá trị trong việc xem xét mức độ
thiệt hại được bồi thường24.
1.3.
Trường hợp được bồi thường tổn thất về tinh thần
1.3.1. Theo BLDS 2005 và BLDS 2015
1.3.1.1.
Trường hợp sức khỏe bị xâm phạm
Sức khỏe của con người là vô giá, khó có thể xác định được bằng một
khoản tiền hay lợi ích chính xác. Do vậy, việc xác định làm căn cứ xác định
thiệt hại là vô cùng khó khăn. Mặc dù vậy, khi một hành vi trái pháp luật xâm
hại tới sức khỏe cần thiết phải tính toán đến những thiệt hại thực tế mà người
bị thiệt hại phải gánh chịu. Vì vậy, bồi thường thiệt hại về sức khỏe thực chất
có ý nghĩa đền bù một phần thiệt hại về vật chất, tạo điều kiện cho nạn nhân
hay gia đình nạn nhân khắc phục khó khăn do tai nạn gây ra, và một số trường
hợp có ý nghĩa trợ cấp cho nạn nhân, gia đình nạn nhân. Việc điều trị chỉ làm
lành vết thương thể xác chứ không thể làm lành vết thương tinh thần.
Tại BLDS 2005, Điều 609 và Điều 590 BLDS 2015 cũng quy định khi sức
khỏe bị xâm phạm thì ngoài các khoản bồi thường về vật chất như chi phí hợp
lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe,…người gây ra thiệt hại
còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần.
Không phải tổn thất về tinh thần ở trường hợp nào cũng được bồi thường
như nhau. “Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần căn cứ vào sự ảnh
hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá
nhân”25. Tòa án phải xem xét mức độ tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại
23 . Võ Thị Như Thương (2015), Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần trong pháp luật Việt Nam, trang 16.
24 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, (2016), trang 454.
25 . Điểm b tiểu mục 1.5 mục 1 phần II Nghị quyết 03/2006/ NQ – HĐTP.
phải gánh chịu mới có thể quyết định được mức bồi thường tổn thất về tinh
thần. Đây cũng không phải là vấn đề dễ dàng bởi thiệt hại về tổn thất ở mỗi
trường hợp, mỗi người là khác nhau. Không phải cùng một tỉ lệ thương tật thì
mức độ bồi thường thiệt hại là như nhau, không phải tỉ lệ thương tật càng cao
thì mức độ bồi thường càng nhiều. Ví dụ một thanh niên 18 tuổi và một người
già cùng bị thiệt hại như nhau và bị thương tật là mù vĩnh viễn, nhưng không
phải mức độ tổn thất về tinh thần là như nhau, phía trước anh thanh niên còn cả
một tương lai dài trong khi người già họ đã sống gần trọn một phần đời nên
mức độ đau buồn có khi sẽ ít hơn. Cũng có những người chịu những nỗi đau
như nhau nhưng có người có thể vượt qua được và tiếp tục sống tốt nhưng
cũng có người không thể vượt qua, cứ sống dày vò trong nỗi đau trong một
thời gian dài rồi dẫn đến rối loạn thần kinh, có khi bị tâm thần dẫn đến tự sát.
Cũng có trường hợp cùng bị thương như nhau nhưng có những người để lại vết
sẹo bên trong thân thể, có người lại bị sẹo ngay mặt khiến họ cảm thấy tự ti,
mặc cảm với bản thân và sống xa lánh mọi người…Sự đau thương, buồn phiền,
mất mát về tình cảm khi sức khỏe bị xâm phạm không thể nào xác định được.
Ngoài các căn cứ nêu trên, chúng ta còn có thể dựa vào một số yếu tố khác
như mức độ, tính chất tương thích của nạn nhân. Có những thương tật vĩnh
viễn, tồn tại suốt đời và không thể phục hồi được, “tồn tại dai dẳng, kéo dài cả
cuộc đời”26. Những người này phải chịu nỗi đau tinh thần lớn hơn nhiều so với
những người bị thương tích nhẹ, còn khả năng lao động hoặc có thể phục hồi
được. Ví dụ, một người bị tổn hại sức khỏe dẫn đến mất khả năng lao động
vĩnh viễn thì những tổn thất về tinh thần mà họ gánh chịu sẽ khác so với những
người cũng bị tổn hại sức khỏe nhưng tỉ lệ thương tật thấp. Cùng bị thiệt hại về
mất đi quyền làm cha, làm mẹ vĩnh viễn nhưng những người đã có con cũng
nguôi ngoai được phần nào so với những người chưa có con 27. Bên cạnh đó,
dựa vào hoàn cảnh, điều kiện kinh tế cũng như vai trò của người bị thiệt hại
trong gia đình cũng có vai trò trong việc xác định tổn thất về tinh thần.
“Trường hợp gia đình nạn nhân rất khó khăn về kinh tế, nạn nhân lại đóng vai
trò là trị cột gia đình, là người có thu nhập chủ yếu thì thiệt hại xảy ra sẽ gây áp
lực rất lớn về tinh thần đối với nạn nhân hơn là thiệt hại nạn nhân không có
nghề nghiệp và sống dựa vào gia đình”28. Cũng có thể dựa vào mối quan hệ
giữa tính chất của thương tích với đặc điểm nhân thân của người bị thiệt hại:
độ tuổi, giới tính, vị trí xã hội, nghề nghiệp…Những yếu tố này sẽ phản ánh sự
tác động trực tiếp của những thiệt hại về vật chất đối với đời sống tinh thần của
26 . Trích theo Đỗ Văn Đại (2008), tài liệu đã dẫn (04), trang 15.
27 . Phùng Trung Tập, Cần bổ sung một số quy định trong dự thảo BLDS về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
Tạp chí Dân chủ Pháp luật số 4/2005, trang 4.
28 . Nguyễn Văn Huy, Trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng do tổn thất về tinh thần theo pháp luật hiện hành,
Luận văn cử nhân, Người hướng dẫn: ThS. Chế Mỹ Phương Đài, năm 2010, trang 12.
họ. Ví dụ như, một vận động viên điền kinh có đôi chân bị tàn tật là một tổn
thất rất nghiêm trong đối với họ. Ngoài ra, chúng ta còn có thể xem xét các căn
cứ khác như: vị trí của thương tích, thời gian chịu thiệt hại dài hay ngắn, tình
trạng thể chất và tổn thất của nạn nhân…Nên các cán bộ áp dụng pháp luật cần
có một cái nhìn khách quan và toàn diện để xác định một cách đúng đắn mức
độ tổn thất về tinh thần, từ đó làm căn cứ tính mức bồi thường tổn thất.
Sau khi xác định được có tổn thất về tinh thần và mức độ tổn thất, vấn đề
đặt ra ở đây là mức bồi thường. Vậy, mức bồi thường bao nhiêu là hợp lý?
Theo quy định tại điểm c tiểu mục 1.5 mục 1 phần II nghị quyết 03/2006/NQ –
HĐTP thì pháp luật cho phép các bên tự thỏa thuận. Thông thường, các bên
không thể tự thỏa thuận được do lợi ích đối lập nhau và bên bị thiệt hại luôn
muốn được bồi thường nhiều nên thường thì các bên yêu cầu Tòa án giải quyết.
Theo BLDS 2005 nếu không thỏa thuận được thì được xác định là “một khoản
tiền” tương đương với số tháng lương tối thiểu tùy thuộc vào trường hợp cụ
thể nhưng không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời
điểm giải quyết bồi thường. Cơ sở này đã được thay thế bằng “mức lương cơ
sở do Nhà nước quy định” trong BLDS 2015 cho “tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định” trong BLDS 200529. Mức lương sẽ thay đổi theo từng thời
kỳ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội tại thời điểm giải quyết bồi thường
để xác định mức lương tối thiểu chung. Hiện nay, mức lương tối thiểu chung
được thay thế bằng mức lương cơ sở theo quy định tại Nghị định 66/2013/NĐ
– CP ngày 27/6/2013 của Chính Phủ quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ,
công chức, viên chức và lực lượng vũ trang để làm căn cứ tính mức bồi thường
tổn thất về tinh thần từ ngày 01/7/2013 là 1.150.000 đồng/tháng 30. BLDS 2015
đã tăng mức tối đa khi các bên không đạt được thỏa thuận. Đối với sức khỏe bị
xâm phạm thì BLDS 2005 ấn định “mức tối đa không quá 30 tháng lương tối
thiểu do nhà nước quy định” còn khoản 2 Điều 590 BLDS 2015 theo hướng ấn
định “không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Mặc dù Nhà
nước quy định như vậy nhưng việc xác định còn gặp nhiều khó khăn do chỉ
mang tính chất tương đối nên các cán bộ áp dụng pháp luật cần có cái nhìn
toàn diện để ra quyết định cho hợp lý.
Khi đã xác định được mức độ tổn thất và mức bồi thường, vấn đề còn lại là
xác định chủ thể được bồi thường. “Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do
sức khỏe bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại” 31. Vậy
người có sức khỏe bị xâm phạm dẫn đến tổn thất về tinh thần là người được bồi
thường. Trong thực tế, người thân thích của nạn nhân cũng có thể chịu những
29 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của BLDS 2015, (2016), trang 469.
30 . Khoản 2 Điều 3 Nghị định 66/2013/NĐ – CP ngày 27/6/2015.
31 . Điểm a tiểu mục 1.5 mục 1 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
1.3.1.2.
tổn thất về tinh thần “do chịu những đau đớn về tổn thất, lo lắng cho nạn
nhân”. Ví dụ, cha mẹ, anh em cảm thấy lo lắng và đau đớn khi nhìn thấy con,
anh chị em của mình hôn mê trên giường bệnh chưa thể tỉnh lại. Mặc dù tổn
thất về tinh thần của những chủ thể này cũng có tồn tại nhưng pháp luật chỉ
chấp nhận bồi thường cho nạn nhân có sức khỏe bị xâm phạm.
Trường hợp tính mạng bị xâm phạm
Tính mạng của con người là một thứ vô giá, một người bị chết thì không
thể bù đắp, thay thế được32. Đây là một quyền nhân thân được Hiến Pháp ghi
nhận và được pháp luật bảo vệ. Hành vi xâm phạm tính mạng không những
phải chịu trách nhiệm hình sự mà còn phải chịu trách nhiệm dân sự là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Một người bị xâm phạm tính mạng sẽ để lại mất
mát lớn về tổn thất đối với những người thân thích, gần gũi của người đã chết.
Thiệt hại ở đây là “khoản tiền do gia đình nạn nhân phải bỏ ra và số tiền mà
những người được nạn nhân cấp dưỡng sẽ nhận được, và khoản tiền bù đắp tổn
thất về tinh thần cho những người thân thích, gần gũi của nạn nhân” 33. Theo
quy định tại Khoản 1 Điều 610 BLDS 2005, còn phải bồi thường “một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất” của người bị thiệt hại, “nếu không có những người này
thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi
dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này”34. Khi “một người chết đi
thì để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với những người thân thích, gần gũi của họ
và một số trường hợp nhất định nó gây tổn hại đến sức khỏe, làm suy sụp,
khủng hoảng tinh thần nhất là trong trường hợp phải chứng kiến cái chết đau
đớn của người thân”35. Nhưng không phải mọi trường hợp, mức độ tổn thất về
tinh thần như nhau vì trạng thái tâm lý của mỗi người là khác nhau.
Có thể dựa vào một số căn cứ để đánh giá mức độ đau thương, buồn phiền
của người thân thích như: “địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối
quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của
người bị thiệt hại”36. Việc xác định mức độ thiệt hại còn gặp nhiều khó khăn.
Nếu “người bị thiệt hại có địa vị, có tầm quan trọng và mối quan hệ tình cảm
gắn bó khăng khít với các thành viên khác trong gia đình, họ lại là lao động
chính, là trụ cột mà chết đi thì sự mất mát, đau thương là rất lớn đối với những
32 . Bùi Văn Thẩm, Tìm hiểu về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, NXB Chính Trị quốc gia Hà Nội, năm 2004,
trang 30 và 31.
33 . Hoàng Thế Liên (chủ biên), (2013), tài liệu đã dẫn (18), trang 722.
34 . Khoản 2 Điều 610 BLDS 2005.
35 . Nguyễn Thanh Tín (2005), Bồi thường thiệt hại về tinh thần đối với thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra trong
khi thi hành công vụ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (09), trang 22 – 23.
36 . Điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
người thân thích, gần gũi nhất của họ”37. Ví dụ, một gia đình chỉ có hai mẹ con,
người con là lao động chính để nuôi cả nhà, nếu người con mất đi thì sự đau
đớn để lại cho người mẹ là rất lớn. Bên cạnh đó có thể dựa vào các yếu tố khác
như: các đặc điểm nhân thân của người bị hại38; cách thức thực hiện hành vi
xâm phạm tính mạng cũng như tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm
phạm, số lượng người xâm phạm, tình trạng sức khỏe của người bị hại; trạng
thái tinh thần, tình trạng sức khỏe của người thân thích của nạn nhân khi hoặc
ngay sau khi người bị hại chết.
Sau khi xác định được có tổn thất về tinh thần, cũng giống như trường hợp
sức khỏe bị xâm phạm, vấn đề đặt ra ở đây cũng là mức bồi thường. Và mức
bồi thường ở đây cũng giống như trường hợp do sức khỏe bị xâm phạm là do
các bên thỏa thuận. Theo Khoản 2 Điều 610 BLDS và điểm d tiểu mục 2.4 mục
2 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP đều ghi nhận quyền tự do thỏa
thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì mức bồi thường tối đa là
không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”. Theo đó, khi tính
mạng bị xâm phạm thì tất cả những người thân thích của nạn nhân bị tổn thất
về tinh thần được hưởng chung một khoản bồi thường nhưng không quá 60
tháng lương tối thiểu được Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi
thường. Nhưng quy định này còn khái quát, chung chung, chưa nêu cụ thể
được có nhiều người cùng bị xâm phạm tính mạng trong cùng một gia đình thì
những người thân thích ở trường hợp một người bị xâm phạm tính mạng và
nhiều người cùng bị xâm phạm tính mạng trong cùng một gia đình. Trong
trường hợp nhiều người bị xâm phạm tính mạng trong cùng một gia đình thì
đương nhiên nỗi đau sẽ tăng lên rất nhiều. Đối với tính mạng bị xâm phạm,
khoản 2 Điều 591 BLDS 2015 ấn định “mức bồi thường không quá 100 lần
mức lương cơ sở do Nhà Nước quy đinh”. Về mức bồi thường tối đa khi không
có thỏa thuận, BLD 2005 không thực sự rõ ràng đối với trường hợp khi một gia
đình có nhiều người chết cùng lúc. Thực tế, trong một vụ việc có 3 người trong
cùng một gia đình chết, tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm không thống nhất (lúc là
60 tháng lương tối thiểu, lúc là 180 tháng lương tối thiểu) còn Tòa giám đốc
thẩm thì lại không rõ ràng39. Do đó, trong dự thảo luật 2012 theo hướng làm rõ
nội dung này trong BLDS. Ngày nay, khoản 2 Điều 591 BLDS 2015 khẳng
định “nếu không thỏa thuận được được thì mức tối đa cho một người có tính
mạng bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà Nước quy
định”. Như vậy, mức tối đa là chỉ áp dụng cho một người có tính mạng bị xâm
37 . Nguyễn Thị Kim Thanh (2009), “Trao đổi về bài: Vấn đề bồi thường tổn thất về tinh thần theo Khoản 2 Điều
610 BLDS 2005”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (22), trang 42.
38 . Thanh Thủy (2004), “Xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm theo quy định của BLDS”, Tạp chí Tòa án
nhân dân, (10), trang 22.
39 . Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoai hợp đồng Việt Nam, Tập 1, Bản án số 50 – 54.
1.3.1.3.
phạm40. Chính vì vậy các nhà làm luật cần có một cái nhìn khách quan để áp
dụng pháp luật cho hợp lý, bù đắp một phần nào đó nỗi đau của những người
thân thích của người bị hại.
Sau khi xác định được mức độ tổn thất về tinh thần và mức bồi thường,
tương tư ta xác định chủ thể được bồi thường ở đây gồm những ai? Theo
Khoản 2 Điều 610 quy định những người được bồi thường gồm những người
thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại. Theo điểm a tiểu
mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP quy định những
người này bao gồm “vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con
nuôi của người bị thiệt hại”. Nếu không có những chủ thể trên thì điểm b tiểu
mục 2.4 mục 2 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP quy định “người được
nhận khoản bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực
tiếp nuôi dưỡng và người trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại”. Liên quan
đến tính mạng bị xâm phạm, BLDS 2005 chỉ ghi nhận cho “người thân thích
thuộc hàng thừa kế thứ nhất” của người có tính mạng bị xâm phạm được bồi
thường tổn thất về tinh thần và điều này đã dẫn đến trường hợp Tòa án Việt
Nam không cho bà được bồi thường khi cháu có tính mạng bị xâm phạm và
không cho em được bồi thường khi anh có tính mạng bị xâm hại 41. Do đó,
trong dự thảo năm 2012 đã đề xuất thay “người thân thích thuộc hàng thừa kế
thứ nhất” bằng “người thân thích gần gũi” của người có tính mạng bị xâm
phạm. Với hướng này “cha, mẹ, vợ, chồng, con” thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của người có tính mạng bị xâm phạm là người thông thường được bồi thường
nhưng không phải là người duy nhất có thể được bồi thường, người thân thích
khác như ông bà, anh, em người có tính mạng bị xâm hại cũng có thể được bồi
thường. Dự thảo Chính Phủ trình Quốc hội đã theo hướng trên với quy định ghi
nhận “bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích của người bị
thiệt hại”. Tuy nhiên, trước khi Quốc hội thông qua dự thảo,quy định cũ lại
được khôi phục và đây là điều rất đáng tiếc42
Việc xác định thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm có ý nghĩa thực tiễn
trong việc xét xử. Nhưng việc bồi thường do các hành vi trái pháp luật gây nên
không chỉ là bồi thường một khoản tiền cụ thể mà cần căn cứ vào đời sống
thực tại để việc thực thi pháp luật đạt được đúng ý nghĩa. Nhờ đó pháp luật sẽ
đạt được hiệu quả cần thiết vốn có, thiết lập một Nhà nước kỷ cương, đảm bảo
trật tự xã hội.
Trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
40 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, (2016), trang 469 – 470.
41 . Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam, Tập 1, Bản án số 50 – 54.
42 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, (2016), trang 471 – 472.
Mặc dù danh dự, nhân phẩm, uy tín là những giá trị nhân thân không trị
giá được bằng tiền, tuy nhiên, xâm phạm đến những giá trị này có thể ảnh
hưởng đến sự tồn tại và phát triển của chủ thể bị xâm phạm. Thiệt hại mà chủ
thể bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín phải gánh chịu bao gồm cả thiệt
hại vật chất và tổn thất về tinh thần.
Trước hết, chúng ta cần hiểu như thế nào là danh dự, nhân phẩm, uy tín?
Danh sự là sự đánh giá của xã hội đối với một cá nhân về mặt đạo đức, phẩm
chất chính trị và năng lực của người đó. Danh dự của một người được hình
thành từ những hành động và cách cư xử của người đó, từ công lao và thành
tích mà người đó có được qua những năm tháng của cuộc đời và được xã hội
đánh giá theo những tiêu chuẩn và nguyên tắc đạo đức Xã hội chủ nghĩa 43.
Nhân phẩm là “phẩm giá con người” 44. Nó được xem là “tổng hợp những phẩm
chất mang tính đặc trưng của mỗi cá nhân, là toàn bộ những yếu tố tạo nên giá
trị con người”45. Uy tín là “thế mạnh được người ta tín nhiệm và yêu quý” 46.
Nó chính là “giá trị về mặt đạo đức và tài năng được công nhận ở một cá nhân
thông qua hành động thực tiễn của mình tới mức mà mọi người trong một tổ
chức, một dân tộc cảm phục tôn kính và tự nguyện nghe theo”47.
Từ đó, ta thấy danh dự, nhân phẩm, uy tín của mỗi cá nhân hình thành
trong cuộc sống hằng ngày, trong quan hệ xã hội của mỗi người. Nó được hình
thành từ nhân cách, lối sống, thái độ ứng xử, đạo đức của họ. Danh dự, nhân
phẩm, uy tín không chỉ có ở riêng cá nhân mà nó còn tồn tại ở pháp nhân. Đó
chính là sự đánh giá, công nhận của xã hội đối với những giá trị tốt đẹp mà
pháp nhân đó đạt được trong quá trình hoạt động để tạo nên lòng tin và sự tín
nhiệm của mọi người đối với pháp nhân đó. Một pháp nhân có được lòng tin và
sự tín nhiệm thì mới có thể nhận được sự tin dùng của khách hàng và lòng tin
từ phía các đối tác khác. Nên đối với mỗi pháp nhân, chữ “tín” luôn đi đầu
trong quá trình hoạt động của mình.
Khi bị xâm phạm, không phải mức độ tổn thất về tinh thần của mọi chủ thể
bị xâm phạm là như nhau mà tùy vào từng trường hợp cụ thể. Theo quy định
tại điểm b tiểu mục 3.3 mục 3 phần III Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP thì
cần căn cứ vào “hình thức xâm phạm bằng lời nói hay đăng trên báo viết hay
báo hình, hành vi xâm phạm, mức độ lan truyền thông tin xúc phạm…”. Thông
thường hình thức xâm phạm bằng lời nói có phạm vi tác động hẹp hơn so với
43 . Phạm Kim Anh (2001), tài liệu đã dẫn (21), trang 36.
44 . Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, NXB. Tp. Hồ Chí Minh, trang 1317.
45 . Tưởng Duy Lượng (2009), Pháp luật dân sự và thực tiễn xét xử, NXB Chính Trị Quốc Gia (tái bản có sửa chữa,
bổ sung), Hà Nội, trang 221.
46 . Nguyễn Lân (2000), tài liệu đã dẫn (44), trang 1983.
47 . Phạm Kim Anh (2001), tài liệu đã dẫn (21), trang 36.
hình thức xâm phạm bằng việc đăng báo hay báo hình vì số lượng người có thể
tiếp xúc với thông tin đó rộng hơn, nhiều hơn. Hình thức xâm phạm cũng ảnh
hưởng rất lớn đến mức độ lan truyền gây ra mức độ tổn thất về tinh thần. Nếu
một người nào đó có hành vi xâm phạm ở giữa chỗ đông người đối với một
người khác thì mức độ lan truyền cũng sẽ nhanh hơn. Hành vi xâm phạm bằng
cách đưa ra những thông tin sai sự thật, làm biến dạng sự thật làm cho mọi
người hiểu nhầm và đánh giá sai về chủ thể bị xâm phạm. Đây là những hành
vi nhằm làm cho người khác coi thường, khinh rẻ, mất lòng tin vào chủ thể bị
xâm phạm. Hành vi xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín gây ra những thiệt
hại tổn thất về tinh thần cho chủ thể bị xâm phạm. Đối với cá nhân, đó là sự
khinh bỉ, đánh giá sai của người khác về mình, bị bạn bè xa lánh, cảm thấy lo
lắng, mất tự tin, cảm giác bực bội, nhục nhã hoặc nỗi ám ảnh khi bị xâm phạm.
Đối với tổ chức, đó là sự giảm sút, mất đi sự tín nhiệm, lòng tin vì bị hiểu
nhầm”48, lợi nhuận giảm sút.
Có thể xem xét một số tiêu chí sau để đánh giá mức độ tổn thất về tinh
thần của người bị thiệt hại: Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi xâm
phạm; Hành vi xâm phạm đã hoàn thành hay diễn ra nửa chừng, cường độ xâm
phạm như thế nào; Về thời gian, địa điểm: Thời gian xâm phạm diễn ra dài hay
ngắn, địa điểm diễn ra hành vi xâm phạm là ở đâu? Thường thì ở nơi công
cộng nhiều người biết đến hơn là chỗ vắng vẻ, ít người; Về đặc điểm nhân thân
của người phạm tội: độ tuổi, giới tính, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp…
Bên cạnh đó, còn xem xét hậu quả của hành vi xâm phạm ảnh hưởng đến
tinh thần của người bị thiệt hại: Hậu quả để lại cho tâm lý của nạn nhân lâu dài
và nghiêm trọng hay không? Có để lại bệnh tật cho nạn nhân không? Có ảnh
hưởng đến hạnh phúc gia đình của nạn nhân không?
Tương tự như hai mục trên, sau khi xác định mức độ tổn thất, tiếp đến là
xác định mức bồi thường như thế nào cho hợp lý? Khoản 2 Điều 611 BLDS
2005 và điểm c tiểu mục 3.3 mục 3 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP
cũng quy định “mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho
người bị xâm phạm trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận
được thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần phải căn cứ
vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 10 tháng lương tối
thiểu do Nhà Nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường”. Cũng tương
tự như hai mục trên, tại Khoản 2 Điều 592 BLDS 2015 quy định “mức bồi
thường tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm
không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Quy định này còn
khái quát, chung chung, chưa nêu rõ được là có áp dụng cho trường hợp danh
dự, uy tín, nhân phẩm của tổ chức bị xâm phạm hay không nên đã gây nhiều
tranh cãi trong quá trình áp dụng pháp luật.
48 . Điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP.
1.3.1.4.
Cũng tương tự, vấn đề đặt ra tiếp theo là chủ thể được bồi thường. Theo
điểm a tiểu mục 3.3 mục 3 phần II Nghị quyết 03/2006/NQ – HĐTP, chủ thể
được bồi thường trong trường hợp này chính là cá nhân, tổ chức có danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm.
Trường hợp thi thể bị xâm phạm
Trước hết, chúng ta hiểu như thế nào là thi thể? Thi thể là xác của người
chết, gắn liền với cá nhân của người chết, không thể chuyển dịch, thay thế cho
cá nhân khác. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tổn thất do xâm phạm thi thể
lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều 628 BLDS 2005, BLDS 1995 không quy
định về điều này. Hành vi được xem là xâm phạm thi thể khi hành vi đó tác
động đến thi thể bằng biện pháp sinh học hoặc cơ học, xâm phạm đến tính toàn
vẹn của thi thể, làm cho thi thể bị biến dạng, thiếu hụt các bộ phận vốn có của
thi thể trước khi bị xâm phạm như: lấy một hoặc một số bộ phận của thi thể
người chết, băm chặt, chém thi thể, giao cấu với người đã chết, đốt xác, ngâm
vào dung dịch axit…
Hành vi lấy mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết, lấy xác phải tuân theo
quy định tại Điều 4 Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy
xác năm 2006. Tức việc lấy mô, bộ phận cơ thể người sau khi chết, hiến xác
phải nhằm mục đích nhân đạo, chữa bệnh, giảng dạy hoặc nghiên cứu khoa
học. Hành vi đó phải được sự đồng ý của cá nhân trước khi chết; của cha mẹ
hoặc người giám hộ, vợ chồng hoặc đại diện, các con đã thành niên của người
đó trong trường hợp không có ý kiến của người quá cố trước khi người đó chết;
hoặc trong những trường hợp cần thiết phải có quyết định của tổ chức y tế, cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền trong một số trường hợp 49. Nếu hành vi lấy mô,
bộ phận cơ thể người sau khi chết hoặc lấy xác mà không tuân theo quy định
của pháp luật thì được xem là hành vi xâm phạm thi thể. Người xâm phạm thi
thể bên cạnh việc phải chịu trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Khi thi thể bị xâm phạm thì người thân của người có thi thể
cảm thấy đau buồn, bức rức khó chịu, cảm thấy có lỗi với người đã chết. Nên
pháp luật quy định phải bồi thường thiệt hại là một quy định hợp lý, có thể làm
giảm bớt nỗi đau, nhiều chi phí khác cho người thân của người có thi thể bị
xâm phạm.
Tương tự như những mục trên, vấn đề đặt ra tiếp theo là mức bồi thường.
Mức bồi thường tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa
thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần để quy định
mức bồi thường cho phù hợp, và tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do
Nhà nước quy định. Về mức bồi thường, khoản 3 Điều 628 BLDS 2005 chưa
rõ về mức bồi thường tối đa đối với một gia đình có nhiều thi thể bị xâm phạm:
có một thi thể bị xâm phạm có khác với nhiều thi thể bị xâm phạm không? Do
49 . Điều 32 BLDS 2005; Điều 21,22 Luật hiến, lấy ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác năm 2006.
1.3.1.5.
vậy, trong dự thảo 2012 đã đề xuất bổ sung cụm từ “đối với mỗi thi thể bị xâm
phạm” sau cụm từ “mức tối đa” được quy định trong Khoản 3 Điều 606 BLDS
2015. Hướng của BLDS 2015 giúp cho Tòa án tránh những khó khăn khi giải
quyết những tranh chấp liên quan đến thi thể bị xâm phạm đối với gia đình có
nhiều thi thể bị xâm phạm. Ngoài thay đổi trên, còn có thay đổi nữa về mức bồi
thường là, theo khoản 3 Điều 628 BLDS 2005, “nếu không thỏa thuận được thì
mức tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định”, còn
theo Khoản 3 Điều 606 BLDS 2015, “nếu không thỏa thuận được thì mức tối
đa đối với mỗi thi thể bị xâm phạm không quá 30 lần mức lương cơ sở do Nhà
nước quy định”. Việc thay đổi này là để phù hợp với Nghị định số 66/2013/NĐ
– CP và cũng để tương thích với các quy định chung về xác định thiệt hại do
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm50
Chủ thể được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong
trường hợp này quy định tại Khoản 3 Điều 628 BLDS 2005 là “những người
thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người chết. Nếu không có những
người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền
này”.
Trường hợp mồ mả bị xâm phạm
Liên quan đến bồi thường thiệt hại do xâm phạm mồ mả, Điều 629 BLDS
2005 quy định: “Cá nhân, pháp nhân, chủ thể gây thiệt hại đến mồ mả của
người khác phải bồi thường thiệt hại. Thiệt hại do xâm phạm mồ mả bao gồm
chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại”. Điều 629 BLDS 2005 chỉ quy
định bồi thường thiệt hại về vật chất mà không quy định bồi thường tổn thất về
tinh thần khi mồ mả bị xâm phạm. Trong thực tế như vụ xâm phạm mồ mả ở
Hà Đông51, người liên quan đến Tòa án đều thừa nhận có tổn thất về tinh thần
nhưng do BLDS 2005 không quy định bồi thường tổn thất về tinh thần nên Tòa
án đã rất lung túng để giải quyết theo hướng người bị thiệt hại được bồi thường
tổn thất về tinh thần. Ngày nay, Khoản 3 Điều 607 BLDS 2015 được bổ sung
và theo hướng: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả
của người khác bị xâm phạm phải bồi thường một khoản tiền theo quy định tại
Khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho
những người thân thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu không có
những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản
tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận;
nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả bị xâm phạm
không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”. Hướng sửa đổi
trên tạo sơ sở pháp lý cho Tòa án trong quá trình giải quyết tranh chấp liên
50 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, (2016), trang 482 – 483.
51 . Đỗ Văn Đại, Luật bồi thường thietj hại ngoài hợp đồng Việt Nam, (tập 2), trang 306.
quan đến việc xâm phạm mồ mả, tránh trường hợp Tòa án đã phải “lòng vòng”
để tìm cơ sở pháp lý cho hướng giải quyết bồi thường tổn thất về tinh thần52.
1.3.2. Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung 2009
Bồi thường thiệt hại là một biện pháp quan trong và hữu hiệu được áp dụng
để xử lý các hành vi xâm phạm quyền Sở hữu trí tuệ và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ cũng được hiểu là hình thức
trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm
pháp luật về sở hữu trí tuệ gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và
tinh thần cho bên bị thiệt hại. Tổn thất về tinh thần do quyền sở hữu trí tuệ bị xâm
phạm được hiểu là “bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh
tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây trồng”53. Tức là, không phải mọi đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ nào bị xâm phạm cũng làm phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn thất
về tinh thần, chỉ có thể là tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học;
người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống
cây trồng. Việc xác định thiệt hại theo Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) trên tinh thần các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại của
BLDS 200554 và BLDS 2015. Các trường hợp được bồi thường tổn thất về tinh
thần cũng được xây dựng trên nền tảng các trường hợp được bồi thường quy định
tại BLDS 2005 và BLDS 2015 đó là sự tổn hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín. Tuy
nhiên, Luật Sở hữu trí tuệ cũng đã mở rộng ra trường hợp bị tổn thất về “danh
tiếng” và cả trường hợp tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, người
biểu diễn, tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, giống cây
trồng. Chung quy lại thì đó là những tổn thất về tinh thần phát sinh do “quyền
nhân thân của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; người biểu diễn, tác giả
của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí bị xâm phạm, tác giả bị tổn hại
về danh dự, nhân phẩm bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, danh tiếng, lòng tin
vì bị hiểu nhầm…”. Được coi là có tổn thất nếu có những căn cứ sau đây: lợi ích
về tinh thần là có thực và thuộc về người bị thiệt hại; Người bị thiệt hại có khả
năng đạt được những lợi ích vừa nêu; Có sự giảm sút hoặc mất lợi ích của người bị
thiệt hại sau khi hành vi xâm phạm xảy ra so với có khả năng đạt được lợi ích đó
khi không có hành vi xâm phạm và hành vi xâm phạm là nguyên nhân trực tiếp
gây ra sự giảm sút, mất lợi ích đó. Vấn đề xác định mức bồi thường cũng chỉ là
định khung, giới hạn một khoản tiền bồi thường. Theo quy định tại Khoản 2 Điều
52 . Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015, (2016), trang 483 – 485.
53 . Điểm b Khoản 1 Điều 204 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bỏ sung năm 2009.
54 . Bùi Thị Dung Huyền, Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự TAND, Tạp chí Tòa án nhân dân số
16/2006, trang 14.
205 Luật sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009) thì mức bồi thường sẽ
trong giới hạn từ “năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”, “tùy thuộc vào mức
độ thiệt hại”. Khác với quy định về mức bồi thường trong BLDS 2005 và BLDS
2015, Luật sở hữu trí tuệ đã quy định mức bồi thường bằng một khoản tiền cụ thể
trong giới hạn và tùy theo mức độ thiệt hại.
1.4.
Nguyên tắc bồi thường và hình thức bồi thường tổn thất về tinh thần
1.4.1. Nguyên tắc bồi thường tổn thất về tinh thần
Khi giải quyết các vụ án liên quan đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng phải tuân thủ các nguyên tắc về bồi thường thiệt hại. Dưới góc độ lý thuyết
thì nguyên tắc là các tư tưởng pháp lý chỉ đạo có ý nghĩa bao trùm, xuyên suốt
trong quá trình ban hành văn bản pháp luật cũng như áp dụng pháp luật các chủ
thể phải tuân theo. Những nguyên tắc cụ thể được áp dụng trong việc giải quyết
bồi thường thiệt hại do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy
tín của người khác đều xuất phát từ những nguyên tắc cơ bản chung được ghi nhận
trong BLDS Việt Nam. Cũng giống như các nguyên tắc cơ bản của BLDS, nguyên
tắc bồi thường cơ bản mang đặc tính cơ bản của pháp luật dân sự là tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình và sự thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ pháp
luật dân sự. Theo Điều 605 BLDS 2005 quy định:
“Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà
gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại
hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường”.
Tại Điều 7 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà Nước cũng ghi nhận:
“Việc giải quyết bồi thường phải tuân theo các nguyên tắc sau: Kịp thời,
công khai, đúng pháp luật; Được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa các cơ
quan có trách nhiệm bồi thường với người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của
họ; Được trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Đầu tiên là nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên. Đây là một
trong những nguyên tắc cơ bản mang tính chất đặc thù của quan hệ dân sự.
Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc các bên có quyền từ định đoạt trong quan
hệ dân sự được quy định tại Điều 4 BLDS 2005. Khi thiệt hại xảy ra, các bên có
quyền thỏa thuận với nhau. Việc thừa nhận nguyên tắc này chính là tôn trọng
quyền tự do ý chí của các bên. Các bên có thể tự thỏa thuận về mức bồi thường
thiệt hại, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường. Thứ nhất là thỏa thuận
về mức bồi thường, mức bồi thường này có thể cao hoặc thấp hơn so với những