VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ THU TRANG
YẾU TỐ TÂM LINH TRONG
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI - 2017
Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đăng Điệp
Phản biện 1: GS.TS. Trần Đình Sử
Phản biện 2: PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Thiện
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại ..................................................................
vào hồi ........ giờ ......... phút, ngày......... tháng ...... năm ........
Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
-
Thư viện Học viện khoa học xã hội
-
Thư viện Quốc gia Việt Nam
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, nhờ những phát minh vĩ đại, những tiến bộ vượt bậc
của khoa học mà con người có thể du hành vào vũ trụ. Song thế giới
tâm linh vẫn là một lĩnh vực tinh thần bí ẩn, phong phú, khó nắm bắt
mà khoa học chưa thể giải thích được. Các lĩnh vực khoa học như
triết học, tâm lý học, y học, dân tộc học, văn hóa học, văn học… đều
quan tâm đến vấn đề tâm linh trong mối quan hệ với đời sống con
người.
Về mặt khoa học, thuật ngữ tâm linh được hiểu rất khác nhau
và hiện tại người ta vẫn đang bàn luận, tranh cãi với nhiều câu hỏi
được đặt ra. Về cơ bản, người ta vẫn thừa nhận đó là một phương
diện trong đời sống tinh thần của con người.
Trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, yếu tố tâm linh là một
thực tế, một hiện tượng xuất hiện với mật độ khá đậm đặc, qua đó thể
hiện rất rõ tinh thần dân chủ, ý thức đổi mới tư duy nghệ thuật của
các nhà văn đương đại, đến mức trong nhiều tác phẩm, yếu tố tâm
linh là chủ đề chính chi phối tới cấu trúc tác phẩm.
Trong sự vận động và phát triển của nền Văn học Việt Nam từ
sau đổi mới 1986, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đã đạt được nhiều
thành tựu quan trọng, thể hiện qua sự mở rộng phạm vi miêu tả hiện
thực, sự quan tâm đến những vấn đề gắn với số phận con người cá
nhân và không ngừng thể nghiệm những bút pháp mới mẻ. Với ý thức
cách tân và khát vọng đổi mới mạnh mẽ, các nhà tiểu thuyết đã hướng
ngòi bút vào thế giới tâm linh với những biểu hiện phong phú, những
phương thức biểu đạt uyển chuyển, linh hoạt. Yếu tố tâm linh trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại không những được xem như một
1
“hiện thực”, mà đồng thời còn là một cách thức, một thủ pháp nghệ
thuật nhằm phản ánh hiện thực.
Xuất phát từ những lý do nói trên, chúng tôi đặt vấn đề nghiên
cứu yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại, chúng tôi mong muốn đạt tới mục đích sau: Thứ nhất để thấy rõ
hơn mối quan hệ giữa văn học và hiện thực đã được mở rộng trong
tiểu thuyết Việt Nam đương đại, thấy được bước đi của thể loại tiểu
thuyết nói riêng trong quá trình vận động và phát triển. Thứ hai, để
góp phần hiểu rõ hơn tư duy nghệ thuật của tiểu thuyết và hiểu sâu
hơn giá trị văn học giai đoạn này..
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại, luận án tập trung vào các nhiệm vụ sau: Thứ nhất, khái quát, xác
định rõ nội hàm khái niệm tâm linh và các phương diện của tâm linh
trong đời sống tinh thần để có cái nhìn hệ thống về yếu tố tâm linh
trong văn học. Thứ hai, khảo sát yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại để làm rõ sự trở lại mạnh mẽ của yếu tố tâm linh là
sản phẩm của thời đại dân chủ và cái nhìn đa chiều của văn học về
đời sống. Thứ ba, khái quát, phân tích những biểu hiện cụ thể của yếu
tố tâm linh và phương thức biểu đạt yếu tố tâm linh để làm nổi rõ sự đổi
mới cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
2
Đối tượng nghiên cứu của luận án là yếu tố tâm linh trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại, chúng tôi tập trung khảo sát những tiểu thuyết đặc sắc, mang đậm
yếu tố tâm linh của các tác giả tiêu biểu: Nguyễn Việt Hà, Võ Thị
Hảo, Trần Thu Hằng, Mạc Can, Thùy Dương, Châu Diên, Nguyễn
Xuân Khánh, Chu Lai, Nguyễn Một, Bảo Ninh, Dương Hướng, Trịnh
Thanh Phong, Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Phượng, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Đình Tú... Ngoài ra, chúng tôi
mở rộng phạm vi nghiên cứu tới một số tác phẩm văn học trước đổi
mới 1986 và văn học nước ngoài để có cái nhìn đối sánh nhằm làm rõ
hơn đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đây là phương pháp xuyên suốt của luận án vì tâm linh là một
lĩnh vực tinh thần của văn hóa. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng một số
phương pháp cơ bản sau: Phương pháp hệ thống, phương pháp so
sánh, phương pháp tiếp cận thi pháp học và tự sự học, phương pháp
liên ngành.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Khẳng định sự xuất hiện của yếu tố tâm linh trong tiểu
thuyết đương đại như là nhân tố làm thay đổi cấu trúc của thể loại
tiểu thuyết qua những phương diện cơ bản: quan niệm về hiện thực,
quan niệm về con người, phương thức trần thuật,...
5.2. Từ những phân tích cụ thể về phương diện biểu hiện và
phương thức biểu đạt yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam
3
đương đại, luận án cho thấy bước chuyển mạnh mẽ của thể loại tiểu
thuyết trong quá trình vận động và phát triển.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Luận án soi tỏ thêm một phương diện quan trọng về mối
quan hệ giữa văn học với đời sống và hiện thực
6.2. Là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy, học tập
nghiên cứu về văn học Việt Nam nói chung và về tiểu thuyết Việt
Nam đương đại nói riêng.
7. Cấu trúc luận án
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, danh mục Tài liệu tham
khảo, Phụ lục, nội dung luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về sự xuất hiện của vấn đề tâm linh và
yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại
Chương 3: Yếu tố tâm linh và sự thay đổi nhãn quan tư duy
tiểu thuyết
Chương 4: Phương thức thể hiện yếu tố tâm linh trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nghiên cứu về tâm linh và văn hóa tâm linh
Trên thế giới có nhiều hướng nghiên cứu tâm linh, trong đó có
ba hướng cơ bản: một là nghiên cứu tâm linh từ triết học và tôn giáo;
hai là nghiên cứu tâm linh từ phân tâm học và tâm thần học; ba là
nghiên cứu tâm linh từ văn hóa học.
1.1.1. Nghiên cứu tâm linh từ triết học và tôn giáo
4
Triết học và tôn giáo phương Đông và phương Tây đưa ra cách
nhìn nhận và lí giải các vấn đề tâm linh theo quan điểm khác nhau,
song đều thừa nhận sự tồn tại của vấn đề tâm linh trong đời sống tinh
thần của con người.
1.1.2. Nghiên cứu tâm linh từ phân tâm học và tâm thần học
Sigmund Freud, người sáng lập ra Học thuyết Phân tâm học đã
nêu ra kết cấu 3 tầng của hạt động tâm lí con người, đó là “ý thức”,
“tiềm thức”, “vô thức”, trong đó ý thức không phải là thực chất của
hoạt động tâm lí mà chỉ là thuộc tính không ổn định của hoạt động
tâm lí. K.Jung thì cho rằng không chỉ có vô thức cá nhân mà còn có
vô thức tập thể. Roberto Assagioli đã đề xướng một hướng nghiên
cứu thực nghiệm về tâm linh, coi con người là một thực thể sinh học tâm lí - tâm linh. Như vậy, từ vô thức, ý thức, tiềm thức đến siêu thức
là những bước phát triển của ý thức tâm linh trong quá trình hoàn
thiện cấu trúc tâm lý người từ S.Freud, K.Jung đến Assagioli.
1.1.3. Nghiên cứu tâm linh từ văn hóa học
Lucien Lévy - Bruh trong công trình nghiên cứu Kinh nghiệm
thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy, Lowie Lowie trong công
trình Không gian văn hóa nguyên thủy (Nhìn theo lý thuyết chức
năng), George Frazer trong tác phẩm Cành vàng đã nghiên cứu đời
sống của các cộng đồng người nguyên thủy. Các nghiên cứu này đã
khẳng định đời sống của người nguyên thủy luôn gắn với tôn giáo, tín
ngưỡng, ma thuật, tế lễ, chiêm mộng, khẳng định tâm linh là một hiện
tượng, một phạm trù văn hóa mang tính lịch sử, mang tính phổ biến
của xã hội loài người từ thời nguyên thủy.
1.2. Nghiên cứu về tâm linh và văn hóa tâm linh ở Việt Nam
1.2.1. Nghiên cứu về tâm linh ở Việt Nam trước 1986
5
Ở Việt Nam trước 1986, công trình Việt Nam phong tục (1915)
của Phan Kế Bính với. Việt Nam văn hóa sử cương (1938) của Đào
Duy Anh không phải là những công trình nghiên cứu chuyên biệt về
vấn đề tâm linh. Tuy nhiên, những vấn đề thuộc về tâm linh trong đời
sống người Việt đã được tìm hiểu với tư cách là một phương diện quan
trọng hình thành nên bản sắc văn hóa dân tộc. Trong đó tôn giáo, tín
ngưỡng, tục lệ, tế lễ... là những biểu hiện cụ thể của đời sống tâm linh
người Việt.
1.2.2. Nghiên cứu về tâm linh ở Việt Nam sau 1986
Từ sau 1986, nhiều công trình nghiên cứu văn hóa đã nghiên
cứu các biểu hiện của tâm linh trong đời sống cộng đồng người Việt
như Thần và Người đất Việt của Tạ Chí Đại Trường, Tâm linh Việt
Nam của Nguyễn Duy Hinh, Văn hóa tâm linh của Nguyễn Đăng
Duy, Văn hóa Việt Nam (Một số vấn đề văn hóa Việt Nam và văn hóa
Việt Nam hiện đại) của Trần Lê Bảo. Từ những công trình nghiên
cứu này, ta nhận thấy tâm linh là một phươnng diện tinh thần đã thấm
sâu vào tâm thức cộng đồng người Việt và được coi là một mặt quan
trọng tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc.
1.3. Nghiên cứu về tâm linh trong văn học Việt Nam
1.3.1. Nghiên cứu về tâm linh trong văn học Việt Nam trước 1986
Từ hướng tiếp cận văn hóa, chuyên luận Nghiên cứu văn học
dân gian từ mã văn hóa dân gian đã nhận diện, phân tích dấu vết tín
ngưỡng trong các thể loại dân gian. Trong văn học trung đại, các bài
viết và công trình nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu các biểu hiện
của yếu tố tâm linh trong thơ Thiền, trong Truyền kỳ mạn lục, Truyện
Kiều. Từ những nghiên cứu nói trên, chúng ta thấy rằng yếu tố tâm
linh với những biểu hiện phong phú thực sự là một nội dung quan
6
trọng, một phương diện thuộc về giá trị văn hóa truyền thống trong
sáng tác văn học dân gian và văn học trung đại.
1.3.2. Nghiên cứu về tâm linh trong văn học Việt Nam từ
1986 đến nay
Sau đổi mới 1986, hướng nghiên cứu về mối quan hệ văn học
và văn hóa tâm linh gần đây trở thành vấn đề được một số công trình
khoa học, chuyên luận, bài nghiên cứu, luận văn, luận án đề cập đến
và đều thống nhất coi yếu tố tâm linh là một trong những biểu hiện thể
hiện rõ sự đổi mới so với tiểu thuyết giai đoạn trước 1986. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đến
nay mới chỉ dừng lại ở các bài nghiên cứu riêng lẻ, chưa thực sự bao
quát hết được vấn đề.
1.3.3. Những vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu
Luận án của chúng tôi sẽ nghiên cứu yếu tố tâm linh trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại một cách hệ thống và toàn diện, nhằm
giải đáp các câu hỏi sau: Thứ nhất: Thế nào là văn hóa tâm linh? Yếu
tố tâm linh xuất hiện trong văn học có ý nghĩa như thế nào trong việc
đổi mới tư duy nghệ thuật của nhà văn? Thứ hai: Những điều kiện
nào cho phép sự trở lại dày đặc của yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết
Việt Nam đương đại? Yếu tố tâm linh góp phần làm thay đổi quan
niệm nghệ thuật, làm thay đổi cấu trúc hình tượng nghệ thuật như thế
nào trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại? Thứ ba: Sự xuất hiện của yếu
tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại gắn liền với phương
thức nghệ thuật nào và hiệu ứng thẩm mĩ của nó ra sao?
Trên cơ sở khảo sát yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết Việt Nam
đương đại, luận án sẽ phân tích, lí giải để đưa ra những kết luận, nhận
định khách quan, đánh giá đúng giá trị, hiệu quả của yếu tố tâm linh
7
trong sự đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, nhằm giải đáp
được một cách thỏa đáng các câu hỏi nói trên.
Tiểu kết: Việc tìm hiểu tâm linh trong phạm vi luận án của
chúng tôi nhằm khẳng định, mặc dù tâm linh là vấn đề chưa có kết
luận cuối cùng nhưng nó thực sự đã và đang là một vấn đề luôn tồn
tại cùng đời sống xã hội con người. Trong văn học, tâm linh là một
phương diện đời sống xuất hiện phổ biến trong các tác phẩm từ Văn
học dân gian, văn học trung đại đến văn học hiện đại. Có thể khẳng
định rằng, yếu tố tâm linh đã góp phần tạo nên sự phong phú về nội
dung cũng như nghệ thuật cho văn học mọi thời đại.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA
VẤN ĐỀ TÂM LINH VÀ YẾU TỐ TÂM LINH TRONG TIỂU
THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Giới thuyết về tâm linh và một số vấn đề hữu quan
2.1.1.Khái niệm tâm linh
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Duy cho rằng: “Tâm linh là cái
thiêng liêng, cao cả trong đời sống đời thường, là niềm tin thiêng
liêng trong cuộc sống tín ngưỡng, tôn giáo”. “Cái thiêng liêng cao cả,
niềm tin thiêng liêng ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh,
ý niệm”. Chúng tôi lựa chọn khái niệm này để xác định hướng giải
quyết một số vấn đề đặt ra trong luận án.
2.1.2. Văn hóa tâm linh
Tâm linh là sự biểu hiện của văn hóa. Theo Nguyễn Đăng Duy:
“Văn hóa tâm linh là văn hóa biểu hiện những giá trị thiêng liêng
trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng trong
cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”. Nhìn chung, văn hóa tâm linh là một
8
phạm trù rộng lớn có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của
con người và chỉ có con người mới có văn hóa tâm linh.
2.1.3. Yếu tố tâm linh
Các yếu tố thuộc về văn hóa tâm linh hết sức phong phú: Yếu
tố tâm linh vô hình gồm lực lượng siêu nhiên như trời, Mẫu, Phật,
Chúa; linh cảm, điềm báo, giấc mơ... Yếu tố tâm linh hữu hình như
đình, đền, chùa, miếu, các biểu tượng mang ý nghĩa tâm linh như cây
đa, giếng nước, dòng sông... Yếu tố tâm linh còn thể hiện qua những
thực hành nghi lễ cụ thể như cầu cúng, khấn vái, bói toán, thực thi các
nghi lễ tín ngưỡng tôn giáo. Luận án đi vào nghiên cứu một số yếu tố
tâm linh tiêu biểu, đó là những yếu tố thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của
tác phẩm, chuyển tải được những thông điệp sâu sắc mà nhà văn
muốn gửi đến bạn đọc.
2.2. Vấn đề tâm linh trong triết học và tôn giáo
2.2.1. Tâm linh trong triết học phương Tây
Trong lịch sử tư tưởng triết học Hy - La, vấn đề “linh hồn” được
đề cập đến trên nền tảng thần thoại và tôn giáo. Nhìn chung, triết học Hy
Lạp cổ đại đã tập trung nghiên cứu con người một cách khá toàn diện,
chú ý đến những phẩm chất tự nhiên và tự do của con người với các đại
diện tiêu biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Platon.
2.2.2. Tâm linh trong triết học và tôn giáo phương Đông
Vấn đề linh hồn con người trong lịch sử tư tưởng phương Đông
đã có một bề dày lịch sử lâu dài. Về căn bản, triết học phương Đông
nhìn nhận con người như một thực thể đa chiều trong sự tổng hòa
giữa cái hữu hình và vô hình. Ngày nay, dưới ánh sáng mới của khoa
học và triết học, con người được nhìn nhận một cách toàn diện. Đó là
một thực thể đa chiều: sinh học - xã hội - tâm lí - tâm linh. Freud, Jung,
9
R.Assagioli, Erich Fromm, Mircea Eliade đã mở rộng chân trời tới
những miền xa lạ của tâm linh trong đời sống con người.
2.3. Tín ngưỡng tôn giáo và đức tin trong đời sống văn hóa
Việt Nam
2.3.1. Đời sống tâm linh trong tôn giáo và tín ngưỡng bản địa
2.3.1.1. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên
Sùng bái tự nhiên, gắn bó với tự nhiên là một tất yếu trong quá
trình phát triển của cộng đồng cư dân nông nghiệp. Người xưa quan
niệm rằng mỗi hiện tượng thiên nhiên đều có một vị thần chi phối và
họ tôn sùng tất cả. Trời, mưa, nắng, sấm, sét... đều trở thành các vị
thần có khả năng ban phúc hoặc gây họa cho con người, đặc biệt là
ông Trời. Cũng xuất phát từ một dân tộc sinh ra và phát triển trong
nền văn minh lúa nước, Đạo Mẫu được hình thành trong đời sống tâm
linh người Việt và đã trở thành tín ngưỡng bản địa của dân tộc
2.3.1.2. Tín ngưỡng sùng bái con người
Trong tư duy và tâm linh người Việt từ xưa đến nay, chết
không phải là hết mà chết là về với ông bà tổ tiên ở một thế giới khác.
Quan niệm này dẫn tới hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của
người Việt. Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua
nghi lễ thờ cúng xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người
chết, giữa người ở thế giới hiện tại và thế giới bên kia. Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên còn được biểu hiện qua các lễ hội. Lễ hội thuộc về
phạm trù cái thiêng liêng trong đời sống tâm linh người Việt, tạo nên
sự cố kết cộng đồng.
2.3.2. Đời sống tân linh qua giao lưu văn hóa và tiếp nhận
văn hóa
10
Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, đời sống tâm linh người Việt
luôn có sự hòa đồng - hỗn dung giữa các tôn giáo, tín ngưỡng. Nho
giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên Chúa giáo khi du nhập vào Việt
Nam đều có vị trí đáng kể trong đời sống tâm linh người Việt. Bản
tính của người Việt là cởi mở, bao dung, không hẹp hòi, kì thị, khép
kín nên họ sẵn sàng dung nạp những mặt tích cực của các tôn giáo.
2.4. Yếu tố tâm linh trong văn học Việt Nam nhìn từ lịch sử
2.4.1. Yếu tố tâm linh trong văn học dân gian
Với văn học dân gian Việt Nam, yếu tố tâm linh tồn tại xuất
phát từ quan niệm “vạn vật hữu linh”, “ma dựa bóng cây”, “thần cây
đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”… Ở văn học dân gian, thể loại nào
cũng có dấu vết của tín ngưỡng dân gian và văn hóa dân gian.
2.4.2. Yếu tố tâm linh trong văn học trung đại
Đối với văn học trung đại Việt Nam, yếu tố tâm linh mang giá
trị tự thân. Niềm tin vào các yếu tố thần bí, sự xác tín vào sự tồn tại
của lực lượng siêu nhiên đã tác động và chi phối đến đời sống của
con người trung đại bằng quyền năng tối thượng, chi phối đến lực
lượng sáng tác văn học thời kì này. Sự xuất hiện của yếu tố tâm linh
đã đem lại giá trị hiện thực, giá trị thẩm mĩ, giá trị văn hóa cho cho
văn chương trung đại.
2.4.3. Yếu tố tâm linh trong văn học hiện đại
2.4.3.1. Trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX
Kế thừa yếu tố tâm linh trong văn học trung đại, tiểu thuyết
lãng mạn của Tự lực văn đoàn nửa đầu thế kỷ XX bắt đầu coi yếu tố
tâm linh là một phương tiện để phản ánh hiện thực cuộc sống. Điều
này chứng tỏ đây là một nguồn mạch bất tận, không ngừng bồi đắp
11
cho dòng chảy của văn học Việt Nam từ văn học dân gian cho đến
văn học hiện đại.
2.4.3.2. Trong văn học Việt Nam từ 1945 - 1985
Trong văn học thời kỳ 1945 - 1975, do văn học phải thực hiện
nhiệm vụ chính trị, vì vậy con người trong tiểu thuyết được tập trung
thể hiện ở góc độ con người giai cấp, con người với nghĩa vụ công
dân cao cả, con người lí tưởng gắn với cái chung, cái riêng bị che
khuất. Chiều sâu vô thức, tiềm thức của con người hoàn toàn vắng
bóng trong tiểu thuyết thời kỳ này. Hiện thực tâm linh ít được văn
học đề cập đến, thậm chí bị né tránh, bị gán cho là duy tâm thần bí,
mê tín dị đoan. Vì vậy, tiểu thuyết thời kì này hầu như không có sự
xuất hiện của yếu tố tâm linh.
Trong văn học đô thị miền Nam Việt Nam từ 1954 - 1975
Hình thành và phát triển trong bối cảnh chính trị, xã hội đặc biệt,
văn học đô thị miền Nam nói chung và tiểu thuyết đô thị miền Nam
1954 - 1975 nói riêng không chịu sự chi phối bởi nhiệm vụ chính trị
của Đảng. Chịu ảnh hưởng của các trào lưu triết học và văn học
phương Tây, tiểu thuyết đô thị miền Nam đã quan tâm đến vấn đề bản
thể con người. Các nhà văn đi sâu vào trực giác, vào thế giới nội tâm
sâu kín của con người, trong đó đáng chú ý là con người tâm linh với
sự ám ảnh về cái chết, về thân phận cô đơn giữa cuộc đời.
2.4.3.4. Trong văn học Việt Nam từ 1986 đến nay
Sau Đường lối đổi mới 1986, văn học được “cởi trói” đã tạo
điều kiện cho các nhà văn đào sâu vào hiện thực, hướng đến “hiện
thực mới”, hiện thực đó bao gồm cả cái cái có thực và cái siêu thực,
góp phần tạo nên một cuộc cách tân táo bạo trong văn xuôi đương
đại. Yếu tố tâm linh vừa là chất liệu hiện thực vừa được xem như một
12
thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu, hướng đến sự lí giải cho những khuyết
thiếu của tư duy lí tính trước các hiện tượng đời sống đến nay vẫn
còn là ẩn số với khoa học.
Tiểu kết: Trong chương này, chúng tôi tìm hiểu về tâm linh
nhằm khẳng định hai vấn đề sau: Thứ nhất dù có hay không có thế
giới tâm linh với những điều huyền bí về linh hồn, về lực lượng siêu
nhiên, về khả năng đặc biệt... thì tâm linh đã và vẫn luôn tồn tại trong
đời sống tinh thần của con người từ xưa đến nay. Thứ hai, tâm linh là
một hiện tượng đời sống xuất hiện phổ biến trong văn học từ Văn học
dân gian, Văn học trung đại đến Văn học hiện đại với sự biểu hiện đa
dạng và phong phú đã khẳng định tâm linh là một hiện thực văn học
đồng thời cũng là một cách phản ánh hiện thực.
CHƯƠNG 3: YẾU TỐ TÂM LINH VÀ SỰ THAY ĐỔI NHÃN
QUAN TƯ DUY TIỂU THUYẾT
3.1. Yếu tố tâm linh với sự mở rộng biên độ hiện thực trên
phương diện đề tài
Trước đổi mới, tiểu thuyết hướng vào hai đề tài trung tâm là đề
tài chiến tranh và xây dựng CNXH. Sau 1986, đề tài, chủ đề lớn lao
về đất nước, về lịch sử, về cách mạng vẫn được tiếp nối nhưng được
các nhà văn nhìn nhận, tiếp cận dưới góc nhìn mới. Bắt nhịp với hơi
thở cuộc sống đương đại, tiểu thuyết sau 1986 dịch chuyển sang đề
tài thế sự, đời tư, hướng tới hiện thực bề sâu của tâm linh, vô thức,
tiềm thức với những trăn trở, suy tư diễn ra quyết liệt trong tâm hồn
con người, những diễn biến tâm lí khó nắm bắt, những hiện tượng
con người không tự lí giải được bằng tư duy duy lí.
3.2. Yếu tố tâm linh với sự thay đổi trong tổ chức cấu trúc
hình tượng nhân vật
13
3.2.1. Từ thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người
Sau 1986, trong không khí dân chủ hóa của văn học, tiểu
thuyết đã miêu tả, khám phá con người một cách toàn diện. Các nhà
văn đã đặt con người “trong mọi mối quan hệ phong phú và phức tạp:
quan hệ xã hội, quan hệ cá nhân, quan hệ lịch sử, quan hệ đời tư, đời
thường, quan hệ với thiên nhiên, vũ trụ, quan hệ với chính mình.(...).
Con người lúc này không chỉ có tính giai cấp mà còn có tính nhân
loại, vừa là con người cộng đồng nhưng vẫn là những cá nhân, con
người không chỉ có đời sống ý thức mà còn có đời sống tâm linh,
không chỉ có mặt xã hội, mặt tinh thần mà còn có mặt tự nhiên, mặt
thân xác, mặt bản năng. Sự thay đổi này dẫn đến cấu trúc hình tượng
nhân vật trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại có sự thay đổi và
chuyển biến sâu sắc.
3.2.2. Đến nguyên tắc tổ chức nhân vật trong tiểu thuyết
sau 1986
3.2.2.1. Nhân vật mang tính lưỡng diện, đa trị
Khi tiểu thuyết đi sâu khám phá con người thế sự, đời tư, nhà
văn không chú ý đến việc “điển hình hóa” nhân vật, không quan tâm
nhiều đến hành động của nhân vật mà thế giới tâm hồn con người với
đủ mọi sắc thái, mọi cung bậc cảm xúc mới là điều nhà văn quan tâm.
Lúc này, nhân vật được đặt trong nhiều mối quan hệ phức tạp của đời
sống, được soi chiếu dưới nhiều góc độ và điểm nhìn khác nhau, có
xấu - tốt, thiên thần - ác quỷ, khát khao lý tưởng - dục vọng bản năng,
ý thức - vô thức. Từ đó, nhân vật hiện lên sinh động, chân thực đúng
như bản chất vốn có trong đời sống.
3.2.2.2. Nhân vật như một thực thể đang vận động trong
thực tại chưa hoàn kết
14
Diễn ngôn về nhân vật trong tiểu thuyết đương đại không phải
là diễn ngôn về những nhân vật điển hình, những nhân vật lí tưởng
mà là diễn ngôn về những nghịch lí, những góc khuất, những bí ẩn,
khơi sâu vào thế giới bên trong sâu thẳm của con người. Họ hiện lên
như là những mảnh vỡ cuộc sống, họ cô đơn, nhỏ bé, họ khắc khoải
kiếm tìm, họ dằn vặt, trăn trở trước hiện tại ngổn ngang không thể
biết trước, không thể biết hết.
3.2.2.3.Nhân vật như những trạng thái tư tưởng và sự kiếm
tìm bản thể
Trong tiểu thuyết đương đại, ta thấy hầu như không có nhân
vật lí tưởng, chỉ có những con người luôn khao khát, kiếm tìm sự
hoàn hảo, kiếm tìm giá trị, ý nghĩa cuộc sống. Nhân vật hiện lên với
sự tự ý thức về thân phận mình, số phận mình. Bằng trải nghiệm cá
nhân, mỗi người tự đi tìm giải riêng cho những câu hỏi về chính cuộc
đời mình. Đó là những cuộc kiếm tìm bản thể mang đậm dấu ấn cá
nhân, thể hiện sâu sắc ý thức về sự tồn tại của đời người.
3.3. Một số biểu hiện cơ bản của yếu tố tâm linh trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại
3.3.1. Biểu hiện của cái thiêng và đức tin trong tiểu thuyết
3.3.1.1. Linh hồn
Linh hồn, ma trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại được thể
hiện trong tác phẩm với tư cách là một hình tượng có giá trị nghệ
thuật độc đáo, để thể hiện những quan niệm mới mẻ về cách nhìn
cuộc đời và con người. Miêu tả ma, linh hồn là cách thức để thám
hiểm chiều sâu nội tâm của con người, để làm mới hiện thực văn học
một cách toàn diện, đồng thời còn khẳng định những giá trị văn hóa
tâm linh bền vững của người Việt qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
15
3.3.1.2. Trời, Phật
Trời trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại được các nhà văn
nhìn nhận không chỉ với ý nghĩa là một vị thần linh tối thượng mà
còn được nhìn nhận trong sự đối sánh với cõi đời để nhân vật trải
lòng về những trớ trêu, bất hạnh, nghiệt ngã. Ý niệm về trời với các
nhân vật là cảm thức về thân phận, là trải nghiệm đau đớn trong hành
trình sống, giúp họ nhận ra giới hạn của chính mình trước cuộc đời
rộng lớn. Cùng với Ông Trời, trong tiểu thuyết đương đại, các nhà văn
đã mượn thế giới quan, nhân sinh quan nhà Phật để thể hiện cái nhìn
về cuộc đời và con người theo quan điểm cá nhân, nhằm hướng con
người tới những giá trị tốt đẹp, vĩnh hằng, khơi dậy lý tưởng thẩm mĩ,
khơi dậy tinh thần nhân văn.
3.3.1.4. Chúa
Có thể thấy rằng tâm linh tôn giáo, tín ngưỡng trong tiểu thuyết
đương đại là một bức tranh đa sắc màu. Cách trở âm dương, Cơ hội của
Chúa, Khải huyền muộn, Ngược mặt trời; Dòng sông mía… là những tác
phẩm thể hiện sâu sắc cảm quan tâm linh về Thiên Chúa. Chúa là “đấng
tạo ra trời đất, làm chủ muôn loài theo Công giáo” (Thiên Chúa giáo).
Giáo lý của Thiên Chúa giáo cũng như những tôn giáo khác hướng con
người đến cái đẹp, cái thiện.
3.3.1.5. Mẫu
Sau 1986, văn xuôi Việt Nam có nhiều tác phẩm viết về Mẫu với
tư cách là một biểu tượng cho những giá trị thiêng liêng, cho sự hi sinh
cao cả và cho cái đẹp. Trong truyện ngắn, Mẫu đã trở thành một kết tinh
giá trị mang ý nghĩa văn hóa. Trong tiểu thuyết đương đại, Kín của
Nguyễn Đình Tú và Mẫu Thượng Ngàn Nguyễn Xuân Khánh là hai tác
16
phẩm tiêu biểu thể hiện đạo Mẫu như một phương diện văn hóa dân tộc,
khơi gợi cho con người những ước vọng sống thánh thiện, lành mạnh.
3.3.2. Linh cảm, điềm báo, giấc mơ
3.3.2.1. Linh cảm, điềm báo
Linh cảm, điềm báo là yếu tố thường xuyên xuất hiện trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại. Các nhà văn đã coi đây là một cách thức
khai thác những khía cạnh bí ẩn tâm linh trong thế giới tinh thần của con
người, coi đó là phương tiện nghệ thuật biểu hiện số phận con người.
Linh cảm, điềm báo là phương tiện nghệ thuật giúp nhà văn thấu, hiểu,
cảm tất cả những bề bộn, trăn trở của con người trước thực tại cuộc sống
mà con người không thể biết trước, không thể biết hết.
3.3.2.2. Giấc mơ
Giấc mơ là lĩnh vực không có sự can dự của ý thức, nó thuộc
về cõi vô thức. Theo Freud, vô thức là trạng thái tư duy của con
người để dẫn tới lời nói và hành động nhưng lại không biết mình
đang nói gì và hành động gì, đó là trạng thái tư duy theo bản năng.
Trong hành trình “thăm dò cuộc sống”, giấc mơ xuất hiện một cách
có ý thức trong sáng tác của các nhà văn đương đại nhằm khám phá
tới tầng sâu thẳm nhất, bí ẩn nhất thế giới nội tâm của con người, con
người được nhìn nhận, khám phá không chỉ trong mối quan hệ với tự
nhiên, với xã hội mà còn trong cả mối quan hệ với chính mình.
Tiểu kết: Sau đổi mới 1986, sự thay đổi trong quan niệm về hiện
thực, quan niệm về con người đã giúp cho các nhà văn phản ánh cuộc
sống và con người một cách toàn diện hơn, chân thực hơn. Những hiện
tượng tâm linh mơ hồ, khó nắm bắt như linh cảm, điềm báo, mộng mị,
bắt gặp niềm tin vào lực lượng vô hình như linh hồn, ma, Trời, Mẫu,
Phật, Chúa là sự xác tín cho một hiện thực tâm linh phong phú, bí ẩn,
17
huyền diệu tồn tại trong tâm thức con người, xác lập những giá trị tâm
linh vĩnh hằng trong nền văn học và văn hóa dân tộc. Đồng thời nó
chứng tỏ sự chuyển biến mạnh mẽ của tiểu thuyết đương đại để có bắt
nhịp được với những vấn đề mang tính thời sự của đời sống.
CHƯƠNG 4: PHƯƠNNG THỨC THỂ HIỆNYẾU TỐ TÂM
LINH TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
4.1. Các biểu tượng mang tính tâm linh
4.1.1. Khái niệm biểu tượng và nguyên tắc xây dựng biểu
tượng
Có nhiều định nghĩa khác nhau về biểu tượng song các định
nghĩa đều thống nhất ở chỗ, biểu tượng là hình ảnh của những sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan được hình thành bằng tri giác,
cảm giác của con người. Theo đó, biểu tượng có thể là những hình
tượng vô hình hoặc hữu hình đem đến cho con người nhận biết về
một nội dung, một ý nghĩa nào đó. Để biểu đạt hiện thực tâm linh, các
biểu tượng tâm linh phải đảm bảo được xây dựng dựa trên các
nguyên tắc sau: Thứ nhất, biểu tượng mang ý nghĩa văn hóa. Thứ hai,
biểu tượng có yếu tố tâm linh mang tính nhòe mờ về không gian, thời
gian và găn với bút pháp tượng trưng. Một hình ảnh biểu tượng bao
giờ cũng có tính đa nghĩa. Trong phạm vi luận án này, chúng tôi chỉ tập
trung vào một số biểu tượng tâm linh tiêu biểu, có ý nghĩa quan trọng
trong cấu trúc tác phẩm.
4.1.2. Một số biểu tượng tiêu biểu
4.1.2.1. Đình, đền, chùa
Xây dựng biểu tượng đình, đền, chùa, các nhà văn đương đại
đưa người đọc đến với thế giới linh thiêng, hướng con người đến
không gian hướng thượng, đối lập với cõi phàm trần, thế tục để vươn
18
tới cái cao cả, vĩnh hằng. Những không gian thiêng này là không gian
sinh hoạt văn hóa tâm linh, tạo nên sự gắn kết cộng đồng.
4.1.2.2. Bến nước, dòng sông
Trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, bến nước, dòng sông là
biểu tượng có sức gợi lớn với những ý nghĩa biểu trưng sâu sắc.
Trong sự hiện tồn các ý nghĩa vĩnh hằng và sự bồi đắp những nét
nghĩa mới mẻ, bến nước, dòng sông đã trở thành biểu tượng đa nghĩa
được các nhà văn dùng để khắc họa đời sống tinh thần con người, thể
hiện những góc khuất, những bí ẩn tâm linh, những nỗi niềm trăn trở,
suy tư, trong sâu thẳm tâm hồn con người.
4.1.2.3. Lửa
Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier
và Alain Gheerbrant, biểu tượng Lửa được giải thích với những ý
nghĩa chính như sau: Lửa - bản thể; Lửa - thần thánh; Lửa - tẩy uế và
tái sinh; Lửa - hủy diệt; Lửa- giác ngộ; Lửa - phương tiện vận
chuyển; Lửa - giới tính. Như vậy, lửa là biểu tượng đa nghĩa. Trong
Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh,
Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái lửa là biểu tượng trở
đi trở lại trong tác phẩm với dụng ý chuyển tải những thông điệp sâu
sắc của nhà văn và được quy về chủ yếu với các ý nghĩa: Lửa - thiêu
đốt, hủy diệt; Lửa - tham vọng, ý chí; Lửa - tình yêu, niềm tin.
4.2. Phương thức huyền thoại hóa
4.2.1. Khái niệm huyền thoại và sự thay đổi bút pháp
Huyền thoại theo Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê là “câu
chuyện huyền hoặc, kì lạ, hoàn toàn do tưởng tượng”. Theo giáo sư
Đỗ Đức Hiểu trong Từ điển Văn học, hiểu theo nghĩa hẹp, “huyền
thoại là khái niệm chỉ một hình thức tư duy đặc thù của con người
19
thời nguyên thủy, trong đó cái kì ảo che giấu những sự thật, được bảo
lưu dưới nhiều dạng thức của đời sống tinh thần nhiều nhóm cư dân
trên thế giới và đi vào văn học nghệ thuật”. Hiện nay, huyền thoại
được hiểu theo nghĩa rộng, “là huyền thoại những chuyện có ý nghĩa
sâu thẳm, vĩnh cửu và toàn nhân loại, thường dưới dạng biểu tượng
và có chức năng biểu đạt thân phận con người”.
Chúng tôi hiểu khái niệm huyền thoại theo nghĩa rộng, tức nó bao
hàm tất cả những yếu tố phi thực, có khi là những yếu tố thực nhưng được
xếp với nhau một cách khác lạ, không tuân theo trật tự thông thường hoặc
được “ảo hóa”, nhằm tạo ra một sự bất tín về thế giới, được các nhà văn
đương đại sử dụng như một cách mở rộng bút pháp để phản ánh những
góc khuất bí ẩn của hiện thực tâm linh và tâm hồn con người.
4.2.2. Các phương thức huyền thoại
4.2.2.1. Huyền thoại hóa nhân vật
Trong tiểu thuyết đương đại, huyền thoại nhân vật trở thành
một “kĩ thuật”, một phương tiện phản ánh những góc khuất bí ẩn của
tâm linh và tâm hồn con người. Các nhân vật được bao quanh bởi
những câu chuyện vừa hư vừa thực, nhân vật là những hình tượng
nghệ thuật đa nghĩa, cuộc sống con người hiện lên với muôn nghìn
dáng vẻ thông qua những hình tượng ẩn dụ. Qua đó, nhà văn lí giải
đời sống tâm linh bí ẩn, phong phú, kì diệu của con người, khám phá
hiện thực đa tầng và nhìn sâu hơn vào thế giới hiện thực.
4.2.2.2. Huyền thoại hóa không gian
Với bút pháp huyền thoại, tiểu thuyết đương đại mở ra nhiều không
gian mới, bên cạnh không gian cõi đời còn có không gian cõi “ma”, không
gian đan xen thực - ảo, không gian tâm lí… Kiểu không gian này giúp nhà
văn cắt nghĩa, lí giải về hiện thực cuộc sống và con người tâm linh một
20
cách thấu đáo, khám phá, khai mở được cả những miền xa xăm nhất, bí ẩn
và sâu thẳm trong tâm hồn con người.
4.2.2.3. Huyền thoại hóa thời gian
Huyền thoại hóa thời gian là thời gian không tuân theo quy luật
của thời gian vật lí, mà thay vào đó là kiểu thời gian phi tuyến tính,
phi thực tại với sự có mặt của kĩ thuật lắp ghép, kĩ thuật dòng ý
thức… Huyền thoại được các nhà văn đương đại xem như một biện
pháp nghệ thuật, mà ở đó nhà văn không nhìn thế giới một chiều theo
trật tự tuyến tính mà nhìn hiện thực trong sự phong phú, đa dạng với
nhãn quan mới.
4.3. Ngôn ngữ
4.3.1. Ngôn ngữ giấc mơ
Ngôn ngữ của giấc mơ là ngôn ngữ “phi logic”, nó không tuân
thủ bất cứ một quy tắc hay trật tự nào về không gian, thời gian. Với
ưu thế “là sự vô định bao la”, ngôn ngữ giấc mơ được các nhà văn
coi là một phương thức trần thuật, một phương tiện đi vào thế giới
tâm linh một cách có hiệu quả, thể hiện cách viết mới mẻ tạo nên sự
phong phú cho ngôn ngữ tiểu thuyết.
4.3.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Sau 1975, nhất là từ sau thời kỳ đổi mới 1986, văn học quan
tâm đến việc thể hiện con người cá nhân với những diễn biến phức
tạp bên trong, độc thoại nội tâm phương tiện, là kĩ thuật tự sự có ưu
thế giúp nhà văn phân tích, khám phá tâm lí, tâm linh của nhân vật.
Độc thoại nội tâm là sự tự bộc lộ chân thực nhất những trăn trở, suy
tư, chiêm nghiệm của nhân vật. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm đã thể hiện
ý thức đổi mới trong việc khám phá và thể hiện con người tâm lí, con
người tâm linh của các nhà văn đương đại.
21
4.3.3. Vô thức tập thể “như một ngôn ngữ”
Trong tiểu thuyết đương đại, ngôn ngữ vô thức tập thể xuất
hiện phổ biến dưới dạng lời đồn thổi. Những điều đồn thổi không bắt
buộc con người tin là nó có thật cũng không đòi hỏi con người phải
xác tín là thật nhưng sự tác động của những lời đồn này lên đời sống
con người tạo thành tâm thức cộng đồng, thành vô thức tập thể là
hoàn toàn có thật. Với ý thức thể hiện hiện thực đa chiều và khám phá
chiều sâu bí ẩn của con người, các nhà văn đương đại đã cách tân, đổi
mới ngôn ngữ tạo cho ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại hiệu
ứng thẩm mĩ mới mẻ.
Tiểu kết: Sau 1986, sự thay đổi quan niệm về hiện thực kéo
theo sự thay đổi phương thức phản ánh hiện thực, các nhà văn đã tìm
kiếm những phương thức mới mẻ bằng cách mở rộng nghĩa của các
biểu tượng, đan xen thực - ảo bằng biểu tượng, bằng bút pháp huyền
thoại hóa nhân vật, huyền thoại hóa không gian, thời gian, sử dụng
ngôn ngữ có khả năng diễn đạt hiện thực tâm linh. Điều này cho thấy
nhà văn đương đại đã “khước từ” lối tư duy nghệ thuật của văn học trước
đổi mới, phá vỡ mô hình tự sự, phương thức tự sự quen thuộc trước đó
để tạo nên một thế giới nghệ thuật vô cùng phong phú, hấp dẫn trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại.
KẾT LUẬN
1. Yếu tố tâm linh trong tiểu thuyết đương đại không đơn giản
chỉ là niềm tin của con người vào lực lượng siêu nhiên mà còn là hiện
tượng văn hóa, là lịch sử, tư tưởng, là bản sắc dân tộc. Hướng tiếp
cận văn học dưới góc độ văn hóa nói chung và văn hóa tâm linh nói
riêng đã góp phần khẳng định giá trị vĩnh hằng của văn hóa dân tộc,
khẳng định mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa văn hóa và văn học,
22
giữa văn học và triết học. Tâm linh là tâm thức dân tộc, nó tồn tại
trong cộng đồng và tồn tại trong mỗi cá nhân và đã được thể hiện
trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại như một vẻ đẹp của văn hóa. Nó
cũng là một phươnng diện quan trọng tạo nên sức hấp dẫn của văn học
với tư cách là bộ phận nhạy cảm nhất của văn hóa.
2. Sau đổi mới 1986, hiện thực văn học ngày càng được mở
rộng, tiểu thuyết Việt Nam đương đại tiếp tục thể hiện đề tài chiến
tranh dưới góc nhìn mới, đồng thời mở rộng hiện thực phản ánh văn
học tới đề tài thế sự, đời tư. Quan niệm nghệ thuật về con người thay
đổi dẫn tới thay đổi cấu trúc hình tượng nhân vật. Con người trong
tiểu thuyết đương đại không chỉ quan tâm đến con người xã hội mà
còn quan tâm đến con người tự nhiên, con người tâm linh. Từ thay
đổi này dẫn đến nhân vật tiểu thuyết đương đại luôn mang tính lưỡng
diện, đa trị, nhân vật như một thực thể đang vận động trong thực tại
chưa hoàn kết, nhân vật như những trạng thái tư tưởng và sự kiếm tìm
bản thể. Sự mở rộng biên độ phản ánh hiện thực đã cho phép nhà văn
hướng ngòi bút tới sự thể hiện hiện thực tâm linh với những biểu hiện
cụ thể như cái thiêng và đức tin, linh cảm, điềm báo, giấc mơ.
3. Dưới hình thức của cái siêu nhiên, huyền ảo, yếu tố tâm linh
đã tạo cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại một thế giới nghệ thuật
phong phú, mà ở đó có sự đan xen giữa thực - ảo, hữu hình - vô hình,
bình thường - bất thường, trần tục - thiêng liêng, hữu thức - vô thức.
Bằng biểu tượng mang tâm thức cộng đồng, bằng tư duy huyền thoại,
bằng việc gợi mở những miền không gian và những chiều thời gian
phi thực, bằng ngôn ngữ huyền ảo, đậm màu sắc tâm linh, các nhà văn
đương đại đã khẳng định sự cách tân, đổi mới phương thức phản ánh
trong tiểu thuyết thuyết Việt Nam đương đại so với tiểu thuyết sử thi thời
kì chiến tranh cách mạng.
23