1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát
triển nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động dịch vụ thương mại không chỉ
tập trung ở một số cửa hàng dịch vụ thương mại, chợ. Hoạt động dịch vụ
thương mại diễn ra ở rất nhiều điểm kinh doanh nhỏ lẻ, tại các hộ gia đình ở
dọc các tuyến phố, các tuyến đường giao thông. Ngoài ra trong lĩnh vực dịch
vụ thương mại còn xuất hiện nhiều loại hình kinh doanh, dịch vụ mới như
giao dịch điện tử, bán hàng lưu động, dịch vụ phục vụ tại nhà...
Mạng lưới dịch vụ, thương mại nêu trên có những ưu điểm vượt trội,
đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng đó là sự tiện lợi, khoảng cách tiếp
cận ngắn, có nhiều cơ hội lựa chọn, hàng hóa phong phú và giá cả có sự cạnh
tranh. Sự phát triển dịch vụ, thương mại trong những năm vừa qua góp phần
đáng kể vào phát triển kinh tế xã hội cả nước nói chung, của tỉnh Hải Dương
nói riêng.
Tuy nhiên bên cạnh những mặt tích cực như đã nêu trên; việc phát triển
các điểm dịch vụ thương mại tràn lan, mang tính tự phát đã gây ra nhiều mặt
tiêu cực như: khó quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; làm xấu cảnh quan, ô
nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông. Do không được quản lý tốt hoạt
động này nên chất lượng dịch vụ thấp, nề nếp kinh doanh còn lạc hậu, thất thu
cho ngân sách nhà nước...
Nguyên nhân của tình trạng hoạt động thương mại, dịch vụ phân tán
nêu trên xuất phát từ nhiều lý do; trong đó có những lý do cơ bản như sau:
Những năm vừa qua kinh tế phát triển, đời sống của người dân được
nâng cao. Nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng nhanh, lớn về số lượng, đa
dạng về chủng loại, thời gian dịch vụ cần nhiều hơn . Loại hình chợ họp theo
phiên, theo buổi không đáp ứng được nhu cầu. Ngoài ra đường giao thông
2
được cải thiện cùng với gia tăng phương tiện vận tải giúp cho việc lưu chuyển
hàng hóa thuận lợi, có thể phân phối đến tận ngõ xóm cho các hộ kinh doanh
có nhu cầu. Những hộ dân cạnh các đường giao thông tận dụng lợi thế để hoạt
động dịch vụ, thương mại. Kinh doanh hộ gia đình năng động, sắn có mối
quan hệ họ hàng, xóm láng với người mua và có thể phục vụ cả ngày lẫn đêm.
Một nguyên nhân nữa là những năm vừa qua chợ nông thôn chưa được quan
tâm, đầu tư đúng mức; nhiều chợ có vị trí không hợp lý; hàng hóa dịch vụ
chưa khác biệt, không tạo được ưu thế hơn các tụ điểm kinh doanh khác.
Mặc dù hiện nay tình hình hoạt động dịch vụ, thương mại; trong đó có
hoạt động thương mại, dịch vụ ở khu vực nông thôn đã trở lên bức xúc; tuy
vậy vẫn chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách nghiêm túc, thấu đáo về các
vấn đề kinh tế, xã hội liên quan đến quá trình biến đổi của hoạt động dịch vụ
thương mại nói chung, hoạt động chợ nông thôn nói riêng.
Nhận thức được tầm quan trọng của khu vực nông thôn trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị Trung ương VII Khóa X đã
ra nghị quyết về vấn đề “Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn”. Để triển khai
Chương trình xây dựng nông thôn mới thực hiện Nghị quyết của Đảng; Chính
phủ đã ban hành bộ Tiêu chí Quốc gia xây dựng nông thôn mới; trong đó có
tiêu chí về chợ nông thôn. Quy định mỗi xã phải quy hoạch một chợ tập trung.
Song thực tiễn đã cho thấy nhiều nơi đầu tư xây dựng chợ với kinh phí, quy
mô tương đối lớn nhưng hiệu quả họat động thấp, thậm chí không hoạt động
được. Tình trạng hoạt động chợ nêu trên, ở địa phương huyện Nam Sách tỉnh
Hải Dương cũng không phải là ngoại lệ.
Quy hoạch xây dựng chợ như thế nào để vẫn khai thác một cách hiệu
quả loại hình dịch vụ thương mại vốn đã tồn tại lâu dời, đồng thời đáp ứng
được yêu cầu của hoạt động thương mại hiện đại, phù hợp với cơ chế thị
trường và hài hòa trong hệ thống bán buôn, bán lẻ ở khu vực nông thôn đang
3
là một vấn đề cần giải quyết. Cần phải có những nghiên cứu một cách nghiêm
túc, khoa học cho việc quy hoạch, xây dựng hệ thống chợ tại các xã nông thôn
mới thì hoạt động của chợ mới đem lại hiệu quả cao và bền vững.
Với tình hình như trên, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp quy hoạch
mạng lưới chợ nông thôn huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương” giúp sáng tỏ
một số vấn đề về cơ sở lý luận cũng như thực tiễn của công tác Quy hoạch
mạng lưới chợ nông thôn. Nghiên cứu đề tài về quy hoạch chợ nông thôn là
vấn đề khó, liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế xã hội, truyền thống văn hóa
và cơ chế chính sách.
Quy hoạch chợ nông thôn là một trong những nội dung quan trọng của
quy hoạch xây dựng nông thôn mới, một vấn đề còn nhiều trăn trở mà tác giả
gặp phải trong thực tiễn công tác của mình. Nhân dịp này, Tác giả muốn đi
sâu, nghiên cứu hiện trạng, tìm ra nguyên nhân những bất cập của mạng lưới
chợ nông thôn huyện Nam Sách; mạnh dạn đề xuất một số giải pháp cơ bản,
hy vọng góp phần vào việc giải quyết những vấn đề lý luận, thực tiễn trong
quy hoạch mạng lưới chợ nông thôn huyện Nam Sách nói riêng, quy hoạch
mạng lưới chợ nông thôn nói chung.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm ra những yếu tố bất cập của hiện trạng mạng lưới chợ, xác định
những nguyên nhân; đồng thời xây dựng cơ sở khoa học và đề xuất những
giải pháp cơ bản cho việc Quy hoạch xây dựng mạng lưới chợ nông thôn.
- Kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung và hoàn chỉnh cơ chế chính sách với các
cơ quan nhà nước để năng cao hiệu quả hoạt động của chợ
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Quy hoạch, xây dựng mạng lưới chợ
nông thôn
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu giải pháp Quy hoạch mạng lưới chợ
4
nông thôn trên địa bàn huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
- Nội dung nghiên cứu: Khảo sát, phân tích hiện trạng chợ nông thôn
huyện Nam Sách, xác định nguyên nhân của những thành công, thất bại trong
việc quy hoạch, xây dựng chợ. Đề xuất những giải pháp cơ bản cho việc quy
hoạch xây dựng mạng lưới chợ nông thôn huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát nghiên cứu: Nh m thấy được về thực trạng
Mạng lưới chợ nông thôn tại huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương;
- Phương pháp sưu tầm tư liệu;
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Phân tích hiện trạng mạng lưới chợ
huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương;
- Phương pháp ý kiến chuyên gia và các tài liệu tham khảo
- Phương pháp đối chiếu so sánh: Đối chiếu hiện trạng mạng lưới chợ
với Phương án quy hoạch mạng lưới chợ của Sở Công thương Hải Dương và
những cơ sở khoa học của tác giả nghiên cứu.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Phát hiện những bất cập của cơ chế chính sách, của Chương trình phát
triển chợ, kiến nghị sửa đổi, bổ sung.
- Góp phần nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý Nhà nước, các
tổ chức, cá nhân trong việc quản lý, đầu tư và phát triển mạng lưới chợ trên
địa bàn huyện Nam Sách nói riêng và tỉnh Hải Dương nói chung.
- Vận dụng Khoa học chuyên ngành quy hoạch để đề xuất giải pháp cụ
thể trong công tác lập quy hoạch, xây dựng mạng lưới chợ tại các xã nông
thôn mới thuộc huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
- Gợi mở cho việc nghiên cứu sâu hơn về quy hoạch mạng lưới chợ
nông thôn và ứng dụng nghiên cứu này vào công tác quy hoạch phát triển
mạng lưới chợ hiện nay.
5
NỘI DUNG
6
Chƣơng I:
ng quan về thực trạng mạng ƣới chợ
n ng th n hu ện Nam ách tỉnh
iệt Nam và chợ
ải ƣơng.
1.1. Một số khái niệm chung vai trò của chợ
Khái niệm về chợ được bắt nguồn từ tiếng Latinh (mercatus): buôn bán
(theo nghĩa hẹp: địa điểm nới mà gặp gỡ giữa người mua và người bán)Hiện
có nhiều khái niệm về chợ. Tùy theo lịch sử, tính chất hoạt động, quy mô,
kiến trúc hoặc địa điểm của chợ mà người ta có thể có khái niệm về chợ khác
nhau.
- “Chợ là nơi tụ họp giữa người mua và người bán để trao đổi hàng
hóa, thực phẩm hàng ngày theo từng phiên nhất định (chợ phiên) ...” [31].
- “Chợ là một môi trường kiến trúc công cộng của một khu vực dân cư
được chính quyền quy định, cho phép hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ
thương nghiệp” [11].
- “Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát
triển mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm theo quy hoạch
đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và nhu cầu tiêu dùng của khu
vực dân cư” [14].
Từ những điểm hội tụ chung của nhiều định nghĩa ta có thể rút ra kết
luận: Chợ là loại hình kinh doanh thương mại được hình thành và phát triển
mang tính truyền thống, được tổ chức tại một địa điểm công cộng, tập trung
đông người mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ với nhau, được hình thành do
yêu cầu của sản xuất, lưu thông và đời sống tiêu dùng xã hội và hoạt động
theo các chu kỳ thời gian nhất định.
1.1.1. Một số thuật ngữ về chợ
Mạng lưới chợ: Là tập hợp tất cả các chợ trên một địa bàn cố định, các
chợ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có sự phát triển hay đi xuống
của bất cứ chợ nào trong mạng lưới chợ đều ảnh hưởng đến các chợ còn lại
7
trong hệ thống [10].
Chợ chuyên doanh: Là chợ kinh doanh chuyên biệt một hoặc một số
ngành hàng có đặc thù và tính chất riêng (chợ hoa, chợ vải, chợ đồ điện tử,
...). Loại chợ này thường có vai trò là chợ đầu mối [10].
Chợ đầu mối: Là chợ có vai trò chủ yếu thu hút, tập trung lượng hàng
hóa lớn từ các nguồn sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế hoặc của
ngành hàng để tiếp tục phân phối tới các chợ và các kênh lưu thông khác [10].
Chợ truyền thống văn hóa: Là loại chợ đã có lịch sử hoặc được xây
dựng phát triển để kinh doanh các mặt hàng mang đặc trưng của địa phương
đồng thời có các hoạt động văn hóa khác, có mục đích quảng bá các giá trị
văn hóa truyền thống và thu hút du lịch [10].
Chợ dân sinh: Là chợ hạng 3 (do xã, phường quản lý) kinh doanh các
mặt hàng thông dụng và thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày người dân [10].
Điểm họp như chợ: Là điểm họp chợ có quy mô số điểm kinh doanh từ
50 đến 100; phạm vi phục vụ về dân số, bán kính đều nhỏ hơn tiêu chuẩn
thiết kế chợ [10].
Tụ điểm kinh doanh: Là điểm mua bán hình thành tự phát do nhu cầu
mua, bán có quy mô dưới 50 điểm kinh doanh [10].
Kinh doanh hộ gia đinh: Là kinh doanh, buôn bán tại nhà; không gian
hoạt động kinh doanh chung với không gian ở [10].
Chợ tạm: Là chợ n m trong quy hoạch nhưng chưa được xây dựng kiến
cố hoặc bán kiên cố [10].
Chợ nông thôn: Là công trình phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày, là
nơi diễn ra hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ ở nông thôn [10].
Ngoài ra còn một số định nghĩa mang tính dân gian về chợ theo các
khía cạnh khác nhau như: Chợ nổi (ở đồng b ng sông Cửu Long), chợ đêm,
chợ tình, chợ âm phủ, chợ phiên...
8
Phạm vi chợ: Là khu vực quy hoạch dành cho hoạt động chợ bao gồm
diện tích kinh doanh, dịch vụ (bãi để xe, kho hàng, khu ăn uống, vui chơi giải
trí và các dịch vụ khác), phụ trợ, sân vườn và đường nội bộ của chợ [10].
Điểm kinh doanh của chủ hàng: Là tên gọi chung cho cửa hàng, quầy
hàng, sạp hàng, ki-ốt của hộ kinh doanh được bố trí cố định trong phạm vi
chợ theo thiết kế xây dựng chợ [10].
Điểm kinh doanh đơn vị chuẩn: Là một đơn vị diện tích quy ước được
xác định là 3 m2, gọi tắt là điểm kinh doanh (ĐKD) [10].
Tổng diện tích các ĐKD: Là tổng diện tích số điểm kinh daonh đơn vị
chuẩn (tương ứng với tiêu chí quy mô số ĐKD của chợ) [10].
Hộ kinh doanh: Cá nhân hay đơn vị có đăng ký kinh doanh tại chỗ
[10].
Cụm bán hàng: Là tập hợp các điểm kinh doanh của chủ hàng được
giới hạn bởi các tuyến giao thông phụ [10].
Ki-ốt bán hàng: Tên gọi chung cho công trình kiến trúc nhỏ, còn gọi là
quán bán hàng, là điểm kinh doanh của chủ hàng, độc lập với nhà chợ chính
[10].
Diện tích giao thông mua hàng: Là diện tích đi lại, đứng xem, mua
hàng của khách trong diện tích kinh doanh (diện tích này không bao gồm diện
tích giao thông trong các cụm bán hàng của hộ kinh doanh) [10].
Diện tích kinh doanh: Là diện tích hoạt động mua bán hàng, bao gồm
cả diện tích kinh doanh trong nhà và diện tích kinh doanh ngoài trời [10].
Diện tích kinh doanh trong nhà: Là diện tích hoạt động mua bán hàng,
bao gồm diện tích các điểm kinh doanh của chủ hàng và diện tích giao thông
mua hàng cho khách, dành cho đối tượng kinh doanh thường xuyên[10].
9
Diện tích kinh doanh ngoài trời: Là diện tích mua bán tự do, bố trí
ngoài trời, trong sân chợ. Thường không phân chia cụ thể cho một chủ hàng
nào, dánh cho đối tượng kinh doanh không thường xuyên[10].
Khu bán hàng: Là tập hợp các cụm bán hàng được giới hạn bởi các
tuyến giao thông chính [10].
Không gian tín ngưỡng: Là khu vực công cộng trong phạm vi chợ, chủ
yếu phục vụ các chủ kinh doanh thờ cúng, cầu may, theo tín ngưỡng tôn giáo
[10].
Điểm tập kết rác tạm thời: Là điểm chứa rác tạm thời trong ngày của
chợ trước khi vận chuyển đến các bãi tập kết, hoặc xử lý rác[10].
Khu xử lý rác: Là khu thu gom rác có lắp thiết bị xử lý rác sơ bộ, để
giữ vệ sinh chung và vận chuyển được thuận tiện, nhanh chóng, hợp vệ sinh
[10].
1.1.2. Vai trò của chợ đối với phát triển kinh tế xã hội
a. Chợ có vai trò là "cầu nối" giữa người sản xuất và người tiêu dùng [23]:
Chợ được hình thành và phát triển trên cơ sở nhu cầu trao đổi mua bán
hàng hóa dịch vụ của người dân. Chợ kết nối giữa sản xuất và tiêu dùng nh m
giải quyết đầu ra cho người sản xuất, đảm bảo quá trình tái sản xuất diễn ra
liên tục không ngừng, nâng cao hiệu quả sản xuất, giúp sản xuất phát triển.
Cùng với sản xuất, chợ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đáp ứng kịp
thời và đầy đủ nhu cầu của người tiêu dùng, nâng cao mức sống của người
tiêu dùng. Mặt khác chợ còn kết nối giữa sản xuất với sản xuất, cung cấp các
tư liệu sản xuất từ các cơ sở sản xuất này đến các cơ sở sản xuất khác hoặc
đến người dân.
b. Giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lao động [23]:
Chợ có thể giải quyết được một số công ăn việc làm nhất định cho
người dân, cả người lao động trực tiếp và lao động gián tiếp. Lao động trực
10
tiếp là những người kinh doanh trực tiếp buôn bán và cung cấp dịch vụ trong
phạm vi chợ. Lao động gián tiếp là những người không trực tiếp làm việc tại
chợ; những hoạt động của họ là để phục vụ cho sự hoạt động của chơ như:
vận chuyển hàng hóa, sản xuát hàng hóa, cung ứng hàng hóa. Khi nền kinh tế
hàng hóa ngày càng phát triển, hệ thống chợ càng phát triển thì khối lượng
công ăn việc làm do hoạt động chợ tạo ra càng tăng lên, góp phần cải thiện
đời sông nhân dân.
c. Góp phần đảm bào lưu thông hàng hóa thông suốt [23]:
Do phục vụ nhu cầu trao đổi hàng hóa mà chợ hình thành, nên chức
năng lưu thông hàng hóa là một chức năng vốn có của chợ. Mạng lưới chợ là
hạ tầng quan trọng cho lưu chuyển hàng hóa trong cả nước, mạng lưới chợ tạo
nên mối quan hệ chặt chẽ giữa thị trường thành thị với thị trường nông thôn
và miền núi thông qua sự lưu chuyển hàng hóa từ vùng này đến vùng khác.
Hàng hóa từ thành thị về nông thôn chủ yếu là vật tư nông nghiệp và sản
phẩm công nghiệp, còn dòng hàng hóa từ nông thôn ra thành thị chủ yếu là
nông sản phẩm để phục vụ tiêu dùng của người dân thành phố. Như vậy nhờ
có mạng lưới chợ mà hàng hóa được lưu thông trên khắp thị trường cả nước,
thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
d. Đóng góp vào ngân sách nhà nước [23]:
Chợ đóng góp một khoản thu nhất định vào ngân sách nhà nước, đó là
các khoản thuế của các chủ thể kinh doanh buôn bán trong chợ và các khoản
thu từ các hoạt động dịch vụ do chợ tổ chức.
e. Có ý nghĩa về mặt văn hóa [23]:
Không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế. Chợ còn thể hiện vai trò của minh
trong lĩnh vực văn hóa. Chợ là nơi thể hiện một cách khá rõ nét những phong
tục tập quán và thói quen sinh hoạt của dân địa phương, thể hiện nét văn hóa
truyền thống của mỗi vùng, miền, mỗi dân tộc. Trong xu thế quốc tế hóa
11
mạnh mẽ như hiện nay, ngành du lịch ngày càng phát triển, chợ cũng ngày
càng là địa điểm thăm quan thú vị đối với nhiều du khách..
1.1.3. Làng, xã Việt Nam với chợ
“Làng vốn là một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị tín ngưỡng và
sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người Việt” [20]. Làng truyền thống Việt
Nam là điểm dân cư quần tụ, khép kín (là đơn vị hành chính nhỏ nhất thời
phong kiến) bao gồm cả khu vực ở và khu vực sản xuất. Làng truyền thống
Việt Nam gắn liền với nền sản xuất nông nghiệp tự cung tự cấp là chủ yếu.
Mỗi làng thường có một số nghề truyền thống với đặc trưng riêng; thí dụ như
làng nghề đan cói, dệt chiếu, làng nghề rèn, nghề mộc...
Việc trao đổi buôn bán cần có một địa điểm (với bán kính hợp lý để
người dân đi lại) dẫn đến việc hình thành chợ nông thôn. Thông thường một
chợ truyền thống đáp ứng nhu cầu mua bán cho người dân ở một số làng nhất
định (tương đương một Tổng trước đây hay một đến hai xã hiện nay).
Sau năm 1945, nhất là sau khi hòa bình lập lại, tổ chức hành chính nhỏ
nhất không phải là làng mà là xã (thông thường từ 3 đến 5 làng). Một xã lớn
có thể có 5 đến 7 làng (thôn) và b ng một đến hai xã nhỏ. Thời kỳ này hình
thành hệ thống hợp tác xã mua bán thuộc hệ thống thương nghiệp HTX. Mỗi
xã có một cửa hàng mua bán do nhà nước quản lý. Cửa hàng mua bán hợp tác
xã chỉ phục vụ được một số mặt hàng (chủ yếu công nghệ phẩm), còn hoạt
được thương mại chủ yếu vẫn diễn ra ở chợ. Mạng lưới chợ nông thôn thời kỳ
này không thay đổi nhiều. Một chợ có phạm vi phục vụ cho 1 đến 2 xã.
Hệ thống chợ nông thôn biến đổi mạnh nhất từ khi nước ta tiến hành
công cuộc đổi mới (Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VI - 1986), phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần.
Các đơn vị thuộc ngành thương nghiệp được cổ phần hóa hoặc giải thể. Ngoài
12
chợ, đã hình thành rất nhiều tụ điểm buôn bán nhỏ lẻ khác (ở trong các thôn
xóm) để phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người dân.
1.2. Tình hình hiện trạng mạng ƣới chợ và c ng tác qu hoạch mạng ƣới
chợ n ng th n ở iệt Nam hiện na
1.2.1. Khái quát chung
Theo báo cáo của Bộ Công thương Việt Nam đến cuối năm 2010 cả
nước có 8.528 chợ, tập chung nhiều ở các thành phố lớn và các tỉnh đồng
b ng: Hà Nội (411 chợ), Thanh Hóa (405 chợ), Nghệ An (380 chợ), An Giang
(278 chợ), thành phố Hồ Chí Minh (255 chợ), Thái Bình (233 chợ), ...[6].
Cả nước hiện có 224 chợ loại 1 (chợ do tỉnh – thành phố trực tiếp quản
lý), 907 chợ loại 2 (chợ do quận – huyện quản lý) và 7.397 chợ loại 3 (chợ do
xã – phường quản lý). Trong số 8.528 chợ trên toàn quốc có 76% chợ nông
thôn. Trong đó chỉ có 11% chợ kiên cố, 31% chợ bán kiên cố, hơn 33% chợ
lều lán, gần 25 % chợ họp ngoài trời [6]. Số liệu cho thấy nhiều năm qua
những cố gắng đầu từ của Nhà nước và nhân dân chưa thực sự đáp ứng nhu
cầu về cơ sở vật chất của nơi họp chợ. Chất lượng hạ tầng kém ảnh hưởng đến
thời
gian họp chợ, chất lượng hàng hóa và vệ sinh an toàn thực phẩm ....
Hiện nay có khoảng 2 triệu hộ dân kinh doanh thường xuyên tại chợ,
chiếm 40% số người hoạt động thương mại dịch vụ trong cả nước, trong đó
51% người buôn bán cố định tại chợ. Doanh số bán lẻ của chợ ước đạt khoảng
40% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội. Số người thường
xuyên trao đổi tại chợ chiếm 80% người tiêu dùng [6].
1.2.2. Công tác quy hoạch chợ, cơ chế quản lý chợ
Sau khi có Nghị định số 02/2003/NĐ-CP, hầu hết các tỉnh đã phê duyệt
Quy hoạch phát triển mạng lưới thương mại, chợ, siêu thị. Đến nay số chợ
được quy hoạch chiếm trên 80%. Ngoài ra còn có các chợ tạm, các tu điểm
13
kinh doanh nhỏ lẻ họp vào giờ nhất định do xã, phường quản lý và thu thuế.
Doanh số các chợ, tụ điểm kinh doanh ước khoảng 10% tổng mức lưu chuyển
hàng hóa của hệ thống chợ.
Các quy hoạch chợ được nghiên cứu bài bản công phu, nhưng thường
là do một nhóm nghiên cứu theo phương pháp chuyên gia với những khái
niệm và phương pháp cơ bản. Phương pháp quy hoạch này chưa tích hợp
được các quy hoạch phát triển kinh tế xã hội cả nước, của địa phương, các
quy hoạch ngành và các yếu tố liên quan đến hoạt động chợ (do tác động của
cơ chế thị trường, hội nhập...). Khi triển khai các dự án phát triển chợ theo
quy hoạch thường gặp những vướng mắc về thủ tục đất đai, cơ chế đầu tư và
sự đồng thuận của cộng đồng dân cư. Có nơi có quy hoạch nhưng không xác
định được cơ chế, nguồn vốn dẫn đến quy hoạch treo. Có nơi đã triển khai
đầu tư xây dựng nhưng không thu hút được các hộ kinh doanh mà lại tự phát
hình thành các "chợ cóc", tụ điểm kinh doanh ngoài quy hoạch.
Trong số các chợ được quy hoạch thì chợ có bộ máy quản lý chiếm
55% (trong đó 60% cán bộ, nhân viên thuộc biên chế nhà nước) [6]. Số chợ
còn lại chính quyền cấp huyện, xã giao cho các Tổ quản lý (không thuộc biên
chế nhà nước). Sau khi phê duyệt quy hoạch nhiều địa phương chưa ban hành
cơ chế chính sách việc xử lý tài sản cũ. Chưa có hướng dẫn về tổ chức nhân
sự Ban quản lý hợ.
Khảo sát từ thực tế quy hoạch và quản lý hệ thống chợ huyện Nam
Sách cho thấy có nhiều lý do dẫn đến việc những năm gần đây hoạt động
thương mại hình thành ngoài mạng lưới chợ, phân tán ở các hộ gia đình, các
tụ điểm kinh doanh (ngoài chợ chính). Tại những khu vực này việc kinh
doanh tùy tiện, thiếu tính chuyên nghiệp và hiệu quả thấp. Ngoài ra việc hình
thành các tụ điểm kinh doanh tự phát còn gây khó khăn cho công tác quản lý
thuế, quản lý vệ sinh, an toàn thực phẩm, quản lý môi trường...
14
1.2.3. Những bất cập của quy hoạch xây dựng mạng lưới chợ nông thôn
những năm vừa qua.
a. Quy hoạch xây dựng mạng lưới chợ nông thôn còn thiếu đồng bộ
- Quy hoạch mạng lưới chợ còn bất hợp lý. Không thuận lợi về giao
thông, không chú ý đến thói quen mua bán; không đảm bảo bán kính phục vụ.
Tình trạng này làm hoạt động chợ có lợi nhuận không cao, hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư thấp.
- Tổ chức thực hiện quy hoạch chưa tốt. Nhiều quy hoạch được duyệt,
thậm chí đã chuẩn bị thực hiện thì địa phương vì nhiều lý do lại thay đổi về
địa điểm, quy mô... dẫn tới bị động, thiếu cơ sở khoa học.
b. Hiệu quả hoạt động của những chợ mới xây dựng thấp
Quy hoạch vị trí chưa hợp lý, chưa tạo được động lực cho hoạt động
chợ. Nhiều chợ khi đưa vào sử dụng không thu hút được người mua, các chủ
kinh doanh phải chuyển ra ngoài chợ dẫn đến tình trạng chợ bỏ không, gây
lãng phí.
c. Thu hút vốn đầu tư xây dựng chợ chưa cao
Cơ chế huy động vốn còn nhiều bất cập; một số chợ thu hút được vốn
đầu tư để xây dựng, nhưng trong quá trình sử dụng, hiệu quả kinh tế các chợ
này rất thấp; vì vậy nhiều nhà đầu tư e ngại, không hào hứng với các dự án
chợ.
d. Cơ chế quản lý chợ của nhà nước còn nhiều bất cập
- Hình thức hạch toán: Theo quy định đối với đơn vị sự nghiệp có thu,
các khoản thu được chi định mức, hạn mức trong năm theo quy mô chợ dẫn
đến không chủ động trong cải tạo chỉnh trang chợ, không khuyến khích sự
năng động.
- Quản lý nhân sự và thu nhập của người lao động bị hành chính hóa.
15
- Đầu tư xây dựng: Ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần, còn lại tự
huy động thông qua thương nhân; tuy nhiên quy trình đầu tư còn rườm rà và
chậm.
e. Vấn đề môi trường trong và xung quanh chợ nông thôn
Vệ sinh môi trường chợ nông thôn cũng đang là vấn đề bức xúc cần
phải giải quyết. Do việc đầu tư xây dựng không đồng bộ, không có điểm tập
kết rác; ngoài ra nhiều nơi không tổ chức được đơn vị thu gom rác ảnh hưởng
rất lớn đến môi trường, sức khỏe của nhân dân
1.3. Tình hình hiện trạng qu hoạch và quản ý hoạt động của mạng ƣới
chợ n ng th n tỉnh
ải ƣơng
Hải Dương là một tỉnh thuộc đồng b ng Bắc bộ; là một trong những
tỉnh có mạng lưới chợ nông thôn được hình thành từ rất sớm. Mạng lưới chợ
hình thành khá dày so với bình quân chung của cả nước. Chợ nông thôn
truyền thống ở tỉnh Hải Dương thường họp theo phiên; có phiên chính, phiên
phụ. Các chợ trong vùng thường họp luân phiên. Đến phiên họp chợ không
chỉ có người lớn đi chợ mua hàng, mà còn cả trẻ em được cha mẹ cho đi chơi
chợ. Hàng hóa chợ nông thôn tương đối phong phú. Ngoài hàng hóa do
16
thương nhân quanh vùng mang đến, còn hàng hóa riêng là đặc sản của địa
phương do người dân tự sản xuất mang ra chợ bán. Hàng hóa đủ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng cơ bản, hàng ngày của người dân như: lương thực (gạo, ngô,
khoai,...), thực phẩm (thịt, cá, rau, củ, quả, ...); vải vóc quần áo, giày dép, đồ
gia dụng. Chợ nông thôn còn bán các loại đồ ẩm thực như: bún, bánh đa, bánh
đúc, cơm, phở, ...và cả đồ chơi, tranh vẽ cho trẻ em. Các hoạt động văn hóa,
diễn trò đôi khi cũng diễn ra ở chợ vì vậy đi chợ nông thôn không chỉ phục vụ
nhu cầu mua sắm mà còn để giao lưu, hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí đáp
ứng nhu cầu tinh thần của nhân dân. Các phiên chợ R m, những ngày Lễ, Tết
đều thể hiện nét văn hóa đậm bản sắc địa phương. Phiên chợ Tết Nguyên Đán
để lại dấu ấn không thể nào quên đối với mỗi người dân khi xa quê.
Những năm gần đây, khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển
nền kinh tế thị trường, mạng lưới chợ nông thôn tỉnh Hải Dương có nhiều
biến động tương tự như tình hình chung của mạng lưới chợ nông thôn cả
nước.
Sau khi quy hoạch mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh được phê duyệt
(tháng 8/2006), mạng lưới chợ trong tỉnh đã dần được củng cố, đầu tư, cải ạo,
nâng cấp với nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Tuy nhiên tiến độ đầu
tư xây dựng, cải tạo nâng cấp các chợ còn chậm, chưa được chú trọng; có
nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu do thiếu vốn, công tác quản lý, giải phóng
mặt b ng ...
Tỉnh Hải Dương (tính đến thời điểm cuối năm 2011) có 179 chợ, trong
đó có 1 chợ loại một, 3 chợ loại hai, 146 chợ loại 3 và 29 chợ chưa đạt tiêu
chuẩn (về quy mô dân số, bán kinh phục vụ) [27].
17
2
Sở Tà
yê và M
, 20 ]
18
1.3.1. Hiện trang mạng lưới chợ tỉnh Hải Dương
a. Hiện trạng mạng lưới chợ theo lịch sử hình thành
à
và
Sở
6
, 20
Có trước năm 1986
Có sau năm 1986
Tổng cộng
Số lượng chợ
146
33
179
Tỷ lệ %
81.2
18.8
100
Nhận xét: Chợ của tỉnh Hải Dương hầu hết có trước năm 1986 (được
hình thành trong suốt quá trình lịch sử cho đến trước thời kỳ đổi mới).
b. Hiện trạng mạng lưới chợ theo quy mô
à
2
y
Sở
Loại1
Loại 2
Loại 3
Điểm họp như chợ
Tổng cộng
1
3
146
29
179
0.55
1.65
81.6
16.2
100
Số lượng chợ
Tỷ lệ %
, 20
Nhận xét: Chợ của tỉnh Hải Dương hầu hết là chợ có quy mô loại 3 và
những điểm họp như chợ.
c. Hiện trạng mạng lưới chợ theo hình thức kinh doanh
à
Sở
, 20
Bán buôn
Vừa bán buôn vừa bán lẻ
Bán lẻ
Tổng cộng
1
45
133
179
0.55
25.1
74.35
100
Số lượng chợ
Tỷ lệ %
Nhận xét: Chợ của tỉnh Hải Dương chủ yếu là bán lẻ phục vụ trực tiếp
nhu cầu tiêu dùng.
19
d. Hiện trạng mạng lưới chợ theo phạm vi ảnh hưởng
à
:
v
Sở
Có ảnh
hưởng
đến thôn
bên cạnh
Số lượng chợ
Tỷ lệ %
ở
, 20
Có ảnh
hưởng đến
các xã,
phường bên
cạnh
Có ảnh
hưởng trong
phạm vi
huyện
Có ảnh
hưởng
đến các
huyện bên
cạnh
Có phạm
vi ảnh
hưởng
toàn tỉnh
trở lên
Tổng
cộng
29
98
33
16
3
179
16.2
54.7
18.4
8.9
1.8
100
Nhận xét: Đa số các chợ của tỉnh Hải Dương có phạm vi ảnh hưởng
đến một số xã xung quanh. Chợ có phạm vi ảnh hưởng toàn tỉnh hoặc ra ngoài
tỉnh có số lượng rất ít.
:
e. Hiện trạng mạng lưới chợ theo lịch họp
à
5
Sở
, 20
]
Họp cả ngày
Họp nửa ngày
Họp theo phiên
Tổng cộng
Số lượng chợ
15
129
35
179
Tỷ lệ %
8.4
72
19.6
100
Nhận xét: Hầu hết các chợ chỉ họp nửa ngày (sáng hoặc chiều) và họp
theo phiên. Tuy nhiên một số chợ ngoài lịch họp, vẫn bán một số mặt hàng
thiết yếu trong ngày: lương thực, thực phẩm, ...
f. Hiện trạng mạng lưới chợ theo mật độ
à
Sở
Dân số
(người)
Số lượng
1.711.522
, 20
]
Diện tích
(km2)
Số chợ
Số chợ/xã, Số
Bán kính PV
phường
người/chợ (km/chợ)
1.651,8
179
0.71
10.262
1.998
20
Nhận xét: Số người bình quân / 1chợ thấp hơn TCTK chợ, nhưng bán
kính phục vụ bình quân / 1chợ lớn hơn so với TCTK chợ.
g. Hiện trạng mạng lưới chợ theo vị trí
à
7:
Sở
Gần các điểm dân cư
v
, 20
]
Gần đường giao thông Gần bến xe
Số lượng chợ
167
85
6
Tỷ lệ %
93.3
47.5
3.4
Tổng cộng
179
Nhận xét: Hầu hết các chợ trên địa bàn tỉnh đều gần các điểm dân cư,
gần đường giao thông.
1.3.2. Hiện trạng cơ sở vật chất chợ
a. Hiện trạng chợ theo quy mô diện tích
(m2)
à
Sở
, 20
]
Diện tích chợ
Số chợ
Diện tích lớn
nhất/chợ
Diện tích nhỏ
nhất/chợ
223.750
179
12.500
350
Số lượng
Diện tích /chợ
1250
Nhận xét: Diện tích các chợ chênh lệch nhau lớn (kể cả chợ cùng loại);
Nhiều chợ có diện tích chưa đạt tiêu chuẩn, thiếu các diện tích cho bãi đỗ xe,
cây xanh, nơi tập kết rác, ...
b. Hiện trạng chợ theo điều kiện cơ sở vật chất
à
Sở
Số lượng chợ
Tỷ lệ %
ề
ởv
, 20
ấ
]
Kiên cố
Bán kiên cố
Chợ tạm
Tổng cộng
5
135
39
179
2.8
75.4
21.8
100
21
Nhận xét: Hầu hết các chợ trên địa bàn tỉnh đều là chợ bán kiên cố, xây
dựng chưa hiện đại, thiết kế chưa đảm bảo tiêu chuẩn theo quy định.
1.3.3. Hiện trạng quản lý và hoạt động kinh doanh chợ nông thôn tỉnh Hải
Dương (không tính chợ tạm)
a. Bộ máy quản lý chợ
0
y
à
Sở
Toàn tỉnh
, 20
]
1 người QL
Ban QL
Tổ QL
Tổng
số
Tỷ
lệ
Tổng Tỷ
số
lệ
Tổng Tỷ
số
lệ
Tổng
số
Tỷ
lệ
Tổng Tỷ
lệ
số
15
10.1
42
91
2
1.35
150
28.4
Không có
người QL
60.1
Tổng số
100
Nhận xét: Hầu hết chợ của tỉnh Hải Dương đã được quản lý, đa số bộ
máy quản lý với hình thức tổ quản lý.
b. Hoạt động kinh doanh chợ
ế
Sở
ê
, 20
à
]
Tổng số chợ Bình quân số lượt người Số lượt người đến chợ vào
đến chợ/ ngày
thời điểm cao nhất
Số lượng
150
Toàn tỉnh
1 chợ
Toàn tỉnh
1 chợ
88.345
589
146.830
979
Nhận xét: Số lượt người đến chợ trên địa bàn tỉnh tương đương với một
số tỉnh đồng b ng sông Hồng như: Thái Bình, Hưng ên, Bắc Ninh, ....
22
2
à
ầ
,
Sở
Số lượng
, 20
]
Thương nghiệp HTX
Thương nghiệp tư nhân
Người sản xuất trực tiếp
T. số
Tỷ lệ %
T. số
Tỷ lệ %
T. số
Tỷ lệ %
9/150
6
132/150
88
137/150
92.6
Nhận xét: Thương nghiệp tư nhân tham gia kinh doanh là chủ yếu,
thương nghiệp HTX tham gia không đáng kể.
,
à
Sở
Số lượng
, 20
Hộ kinh doanh cố định
Hộ buôn chuyến
Số hộ KD cố
định
Số hộ buôn
chuyến
Số lao động
]
Số lao động
Người
bán
hàng rong
Tổng
số
Trung Tổng
bình
số
Trung Tổng
bình
số
Trung Tổng
bình
số
Trung Tổng
bình
số
Trung
bình
11.270
75
84
7
9
20
12.659
1.015
1.356
2.950
Nhận xét: Số hộ kinh doanh cố định trong chợ là chủ yếu (gấp 11 lần số
hộ buôn chuyến và gấp 3.8 lần số người bán hàng rong). Số lao động liên
quan lớn hơn số hộ kinh doanh chính.
1.3.4. Đánh giá chung:
a. Hiện trạng quy hoạch mạng lưới chợ
- Hầu hết các chợ nông thôn được hình thành từ lâu. Từ các điều kiện
tự nhiên, xã hội, chợ được hình thành dần một cách tự nhiên với quy mô tăng
dần từ nhỏ đến lớn.
- Hiện trạng chợ nông thôn phân loại theo tiêu chuẩn thì chủ yếu là chợ
loại 3. Ngoài ra còn có nhiều điểm họp như chợ nhưng chưa đủ điều kiện để
phân loại.
- Các chợ nông thôn trên địa bàn tỉnh có quy mô khác nhau. Số chợ có
23
quy mô ảnh hưởng cấp huyện có số lượng nhất định. Chợ có quy mô ảnh
hưởng cấp xã, thôn có số lượng nhiều nhất. Gần đây xuất hiện nhiều điểm họp
như chợ, các tụ điểm kinh doanh nhỏ lẻ ở trong các thôn, xóm với quy mô từ
một chục đến vài chục điểm kinh doanh.
- Chợ nông thôn chủ yếu là bán lẻ. Một số ít chợ vừa bán lẻ vừa bán
buôn.
- Chợ nông thôn chủ yếu bán nửa ngày. Số chợ bán cả ngày rất ít (có
bán cả ngày cũng chỉ là một số mặt hàng thiết yếu hoặc bình dân). Chợ họp
theo phiên phổ biến trước kia, nay đang giảm dần.
- Hầu hết các chợ đều có vị trí gắn với khu dân cư,gần đường quốc lộ,
tỉnh lộ, huyện lộ hoặc đường liên xã.
- Một chợ có phạm vi phục vụ trung bình cho khoảng hơn 10.000 người
(nhỏ hơn tiêu chuẩn: 12.000 đến 15.000 người); phạm vi diện tích hơn 12km2
hoặc bán kính 1,998km (lớn hơn tiêu chuẩn: 1,2 km)
b. Hiện trạng cơ sở vật chất chợ nông thôn
- Kiến trúc các chợ nông thôn chủ yếu là bán kiên cố. Chợ kiên cố hiện
có rất ít. Ngoài ra còn nhiều chợ tạm với vật liệu xây dựng thô sơ.
- Diện tích chợ trung bình 1250 m2/chợ, nhỏ so với tiêu chuẩn. Thường
thiếu diện tích bãi dỗ xe, diện tích cây xanh và khu chứa rác tạm...
ê
20 2]
24
c. Quản lý chợ nông thôn
- Bộ máy quản lý: Hầu hết các chợ nông thôn tỉnh Hải Dương đều đã
có bộ máy quản lý
- Số người đến chợ ngày thường trung bình khoảng gần 600 người,
nhưng số người đến chợ vào thời điểm cao nhất b ng 1,65 lần ngày thường.
- Hoạt động thương mại ở chợ chủ yếu là do thương nghiệp tư nhân và
những người trực tiếp làm việc ở chợ
- Số hộ buôn chuyến trung bình một chợ b ng hoảng 9% hộ kinh doanh
cố định. Số người bán hàng không cố định b ng khoảng 26% so với hộ kinh
doanh cố định.
1.3.5. Những vấn đề đang tồn tại đối với hiện trạng mạng lưới chợ nông
thôn tỉnh Hải Dương
- Hầu hết các chợ được hình thành từ lâu, diện tích nhỏ không còn phù
hợp với quy mô hoạt động của chợ hiện nay: không đủ diện tích cho bãi đỗ
xe, không có nơi chứa rác tạm thời, lối vào nhỏ...
- Các hộ kinh doanh trong chợ phần lớn vẫn tập trung chủ yếu vào các
mặt hàng tươi sống, may mặc, tạp hóa, ...Các ngành kinh doanh khác như
hàng điện tử, thực phẩm công nghệ....chiếm tỷ lệ rất thấp.
- Bố trí mặt b ng chợ chưa phù hợp với hoạt động kinh doanh, chưa
chú ý đến khả năng sinh lời của việc quy hoạch không gian điểm kinh doanh
trong chợ
- Phần lớn các chợ do UBND xã, phường trực tiếp quản lý; tuy nhiên
một số địa phương việc quản lý theo hướng hành chính hóa cản trở sự năng
động của hoạt động kinh doanh chợ.
25
1.4. Tình hình hiện trạng mạng ƣới chợ n ng th n hu ện Nam ách tỉnh
ải ƣơng
Trên phạm vi huyện Nam Sách hiện có 7 chợ và 4 điểm họp như chợ
(tính đến thời điểm 2011) [25].
y
4
Sở Tà
yê và M
S
, 20 ]