Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

GIÁO TRÌNH LỊCH sử tư TƯỞNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 52 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
===================

GIÁO TRÌNH HỌC PHẦN

LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

Giảng viên: Lê Trọng Đại

NĂM HỌC 2013-2014

1


GIÁO TRÌNH LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỊCH SỬ TƯ
TƯỞNG VIỆT NAM (2 TIẾT)
I. Nhập môn lịch sử tư tưởng Việt nam
I.1 Giới thiệu chương trình, nội dung học phần
a) Chương trình học phần: Gồm 30 tiết được chia làm 2 tín chỉ với 24 tiết lý thuyết
và 12 tiết thực hành (qui đổi tương đương với 06 tiết lý thuyết) do đó lớp sẽ phải đăng ký
thêm 2 buổi thực hành ngoài số tiết đã được bố trí theo thời khóa thời khóa biểu theo lịch
của nhà trường.
b) Nội dung học phần sẽ trang bị cho sinh viên những hiểu biết cơ bản về điều
kiện hình thành, nội dung cơ bản của tư tưởng Việt nam qua các thời kỳ, đặc điểm và quá
trình ra đời và phát triển của các hệ tư tưởng Việt Nam từ thời dựng nước đến nay. Học
phần còn trang bị cho người học thế giới quan và phương pháp luận Mácxít - Lênin nít về
việc nghiên cứu lịch sử tư tưởng
I.2 Phương pháp học tập, tài liệu và bài tập


a) Phương pháp học tập học phần: Đọc trước giáo trình, tài liệu tham khảo ở nhà
để làm cơ sở cho việt tiếp thu một cách chủ động bài giảng trên lớp, tham gia trao đổi,
thảo luận tích cực. Kết hợp 2 PP nghiên cứu lịch sử là pp Lịch sử và PP Lôgích: phương
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh đối chiếu, đành giá, phê phán để nắm chắc kiến thức cơ
bản của học phần. Chuẩn bị chu đáo các bài tập theo sự hướng dẫn của giảng viên tiến
hành trao đổi thảo luận ở nhóm để thực hiện các giờ thảo luận trên lớp có hiệu quả. Mỗi
sinh viên cần chú ý rèn luyện khả năng diễn đạt, phúc trình báo cáo qua các giờ Xêm na.
Ngoài việc nghe giảng, hoàn thành các bài tập sinh viên cần dành đủ thời gian tối thiểu là
60 giờ để đọc thêm tài liệu tham khảo tăng cường việc trao đổi kiến thức với nhau về
những nội dụng trong học phần ngoài thời gian lên lớp.
b) Tài liệu học tập và tham khảo:
+ Tài liệu học tập bắt buộc: Mỗi sinh viên phải có tối thiểu một cuốn giáo trình. Lớp
mượn ở thư viện cuốn Giáo trình đại cương lịch sử tư tưởng Việt Nam (cá nhân cũng có
thể tự mua ở các hiệu sách hay phô tô)
+ Tài liệu tham khảo:
1) Trần Hữu Duy, Giáo trình đại cương lịch sử tư tưởng Việt Nam, TTTừ xa
ĐHHuế, 1996.
2) Cao Xuân Huy, Tư tưởng văn hóa phương Đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu, NXB Văn học, 1995.
3) Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam (quyển I.II.III), NXB
Chính trị quốc gia HN, 1998.
4) Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tưởng Việt Nam (6 tập) NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992
5) Nguyễn Tài Thư, Lịch sử tưởng Việt Nam tập 1, 2, NXB KHXH, HN, 1993.
6) Nguyễn Vũ Anh Tuấn, Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại, NXB
Văn hóa thông tin, 2002.
7) Viện Triết học, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB KHXH, HN, 1991.
8) Lương Duy Thứ (cb), Lịch sử văn hóa phương Đông, NXB Giáo dục, 1997.

2



9) Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (dùng trong các
trường ĐH, CĐ), NXB Chính trị Quốc gia, 2008.
10) Toan Ánh, Nếp cũ - Tín ngưỡng Việt Nam, NXB Tp Hồ Chí Minh, 1992.
11) Võ Xuân Đàn, Tư tưởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb
Văn hóa - Thông tin,HN, 1996.
12) Nguyễn Thừa Hỷ, Lịch sử văn hóa Việt Nam truyền thống và giản yếu, Nxb
ĐHQG Hà Nội, 1999.
13) Nhiều tác giả, Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt Nam những guơng mặt tiêu
biểu, NXB Văn hóa - Thông tin, HN, 1998.
14) Đinh Xuân Lâm- Nguyễn Văn Hồng, Xu hướng đổi mới trong lịch sử Việt Nam
NXB Văn hóa - Thông tin, HN, 1998.
c) Bài tập: Sinh viên chuẩn bị nội dung cho 2 buổi Xêmina
+ Chủ đề 1: Tìm hiểu tư tưỏng Việt Nam buổi đầu dựng nước và thời Bắc thuộc
- Tổ 1: những Nội dung chính của tư tưởng người Việt cổ thời Văn Lang - Âu Lạc
. Từ đó lý giải một trong những nguyên nhân thất bại của chính sách Hán hóa Việt tộc mà
các triều đại phong kiến phương Bắc thi hành trên đất nước ta thời Bắc thuộc.
- Tổ 2: Những nội dung chính trong tư tưởng Nho giáo của nền văn minh Trung
Hoa cổ đại truyền vào Việt Nam thời Bắc thuộc, lý giải vì sao bọn phong kến phương bắc
lại khai thác các nội dung tư tưởng đó (thông qua chính sách đồng hóa Việt tộc). Ảnh
hưởng, tác động Nho Giáo của nó đối với tư tưởng người Việt thời Bắc thuộc ? Nguyên
nhân của những tác động ảnh hưởng đó ?
- Tổ 3: Những nội dung chính trong tư tưởng Phật giáo của nền văn minh Ấn Độ
cổ đại truyền vào Việt Nam thời Bắc thuộc; tác động của nó đối với tư tưởng của người
Việt và nguyên nhân của những tác động ảnh hưởng đó ? Vì sao tư tưởng Phật giáo được
nhân dân ta thời Bắc thuộc tiếp nhận một cách dễ dàng nhanh chóng và được phát triển
mạnh mẽ.
- Tổ 4: Những nội dung chính trong tư tưởng Đạo giáo của nền văn minh Trung
Hoa cổ đại truyền vào Việt Nam thời Bắc thuộc (thông qua chính sách đồng hóa Việt tộc),
ảnh hưởng, tác động của nó đối với tư tưởng người Việt và nguyên nhân của những tác

động ảnh hưởng đó ?
Tài liệu tham khảo:
1) Trần Hữu Duy, Giáo trình đại cương lịch sử tư tưởng Việt Nam, ĐHHuế xb 1996
2) Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử tưởng Việt Nam (6 tập) Nxb Khoa học xã hội, 1993
3) Nguyễn Vũ Anh Tuấn, Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại Nxb Văn
hóa -Thông tin, 2002.
4) Lương Ninh (cb) Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại, Nxb Giáo dục, 1997.
5) Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb TP HCM, 1992.
+ Chủ đề 2: Sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vảo Việt Nam
Tổ 1: Các con đường truyền bá của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào VN: Ảnh hưởng
của cách mạng tháng Mười Nga; Luật sư Phan Văn Trường và chủ nghĩa Mác; Phan Bội
Châu và chủ nghĩa Mác;
Tổ 2: Việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam
trong những năm 1920 đến 1930.
Tổ 3: Phân tích nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cơ bản
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên lên CNXH ở VN.

3


Tổ 4: Nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải phóng
dân tộc
Tài liệu tham khảo: Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh
(dùng trong các trường ĐH, CĐ), NXB Chính trị Quốc gia, 2008.

I.3 Dẫn nhập lịch sử tưởng Việt Nam
Mỗi một khoa học ra đời đều nhằm góp phần giải quyết những yêu cầu của xã hội
về lý luận hay thực tiễn đặt ra. Bộ môn Lịch sử tư tưởng Việt Nam ra đời cũng góp phần
vào việc nghiên cứu xem xét quá trình hình thành và phát triển các hệ tư tưởng của người
Việt Nam; tìm hiểu đặc điểm, đặc trưng, các qui luật chi phối sự hình thành của các hệ tư

tưởng, những ưu điểm và hạn chế của nó. Môn lịch sử tư tưởng Việt Nam lấy những tri
thức khái quát chung về thế giới tự nhiên, về xã hội, về con người và về phương pháp tư
duy của các thế hệ người Việt làm đối tượng nghiên cứu. Nghiên cứu lịch sử tư tưởng sẽ
giúp chúng ta trả lời được câu hỏi: Việt Nam có hay không hệ tư tưởng ? Trên cơ sở nắm
vững những kiến thức bộ môn người học có được hiểu biết sâu sắc hơn về những giá trị
đặc sắc của văn hóa, văn minh Việt Nam, phương pháp tư duy và quan điểm, quan niệm
về thế giới, con người Việt Nam qua các thế hệ. Đó là những tri thức rất cần thiết cho việc
học tập nghiên cứu các tinh hoa văn hóa tinh thần của dân tộc và nhân loại. Học phần sẽ
góp phần khai mở những con đường giúp người học đi vào khám phá chân trời tri thức vô
tận của các bậc tiền nhân. Từ những hiểu biết đó học phần sẽ góp phần củng cố ở sinh
viên lòng tự hào, ý thức trân trọng; góp phần vào việc gìn giữ và phát huy các giá trị văn
hóa, văn minh của dân tộc.
Trước đây đã từng có nhiều ý kiến cho rằng thời cổ đại người Việt chưa đủ khả
năng để sáng tạo ra những hệ tư tưởng mà một thời kỳ dài từ thời cổ đại đến phong kiến
người Việt chịu ảnh hưởng tư tưởng của người Trung Hoa và người Ấn Độ. Từ thế kỷ
XVI đến thế kỷ XIX Việt Nam chịu ảnh hưởng tư tưởng đạo Kitô và tư tưởng dân chủ tư
sản phương Tây. Từ đầu thế kỷ XX đến nay nước ta chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa MácLê nin.
Gần đây và hiện nay các học giả về cơ bản đã thừa nhận rằng Việt Nam đã từng có
một hệ tư tưởng riêng từ thời dựng nước và nó là một trong những nhân tố làm nên sức
mạnh tinh thần to lớn giúp dân tộc ta vượt qua những thử thách cam go, nghiệt ngã trong
lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Anh Tuấn trong công
trình nghiên cứu có tên Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại khẳng định:
"…Xã hội Văn Lang thời các vua Hùng có một nền văn minh đạt đến đỉnh cao của văn
minh nhân loại thời cổ đại…Cùng với nền văn minh đó là những giá trị tư tưởng của nền
văn hiến nhân bản đầy mơ ước của của nhân loại kể từ khi con người tự nhận thấy giá trị
của mình trong vũ trụ, đó là tình yêu con người. Chính những giái trị nhân bản và tình
yêu con người là nguyên nhân cho sự tồn tại gần 3000 năm của đất nước Văn Lang…"[6;
273]. Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cũng khẳng định: "Việt Nam đã từng là một nước phát
triển do đó đã từng có một hệ tư tưởng tư duy lý luận cao, có hệ tư tưởng riêng của mình".
Như vậy có thể kết luận là nước ta đã có lịch sử tư tưởng từ thời đại Hùng Vương cho

đến nay. Các chuyên khảo đồ sộ của các nhà nghiên cứu Việt Nam lần lượt ra đời đã
khẳng định luận điểm nói trên. Từ nửa sau thế kỷ XX đến nay, các nhà nghiên cứu đã cho
ra mắt hàng loạt tác phẩm về lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nguyễn Đăng Thục có bộ Lịch
sử tư tưởng Việt Nam gồm 6 tập được Bộ Quốc gia văn hóa Sài Gòn xuất bản năm 1967.
Trần Văn Giàu có bộ sách mang tên Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX

4


đến cách mạng tháng Tám, 3 tập được NXB KHXH ấn hành từ năm1973 và đã được tái
bản gần đây. Nhóm nghiên cứ do Nguyễn Tài Thư chủ biên đã công bố công trình đồ sộ
về lịch sử tư tưởng Việt Nam do nhà xuất bản KHXH ấn hành năm 1993…
Ngoài ra bộ môn lịch sử tư tưởng đã được đưa vào giảng dạy trong các trường đại
học Cao đẳng và nhiều giáo trình được biên soạn…
Nghiên cứu các hệ tư tưởng của người Việt Nam chúng ta thấy đặc điểm nổi bật trước
hết là cho đến nay "người Việt Nam ít có những trước tác về triết học, về tư tưởng qui mô
lớn, ít có người chuyên bàn về triết học, tư tưởng như một số nước khác. Tuy nhiên cộng
đồng người Việt Nam từ xưa đã sống, suy nghĩ, hành động theo những nguyên tắc tư
tưởng nhất quán căn bản phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu của lịch
sử. Điều đó chứng tỏ thế giới quan của người Việt đã hình thành và phát triển tương đối
cao. Người Việt có triết lý riêng của mình và sống theo triết lý đó".
Ngay từ xưa người Việt đã có suy nghĩ và hành động rất thống nhất trong quan niệm
về bổn phận và nghĩa vụ, về tổ quốc, về đạo lý làm người, về trời, đất, thần linh, tổ tiên…
về vận mệnh, các nguyên tắc ứng xử, đạo đức, đạo lý.
Đặc điểm thứ hai là tư tưởng triết học có vai trò lớn nhưng lại không được trình bày
một cách hệ thống, triết học ra đời chậm, môn lịch sử tư tưởng ít được quan tâm nghiên
cứu, biên soạn. Vì vậy các nhược điểm trong triết học và các môn học lý luận chậm được
khắc phục.
Hầu hết những nhà tư tưởng Việt Nam đồng thời cũng là những nhà hoạt động xã hội,
hoạt động thực tiễn, rất ít có những nhà triết học, tư tưởng chuyên nghiệp. Tư tưởng của

các nhà hoạt động xã hội ảnh hưởng đến xã hội chủ yếu thông qua cuộc sống, đạo đức và
cuộc đời hoạt động của nhà tư tưởng và được thể hiện trong các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau của văn hóa tinh thần.
Hệ tư tưởng Việt Nam được qui thành các nhóm nguyên tắc có tính chuẫn mực,
nghiêm ngặt tượng trưng bằng các biểu tượng, hình mẫu. Chuẫn mực đạo đức được dư
luận bảo vệ, được đại đa số thành viên trong cộng đồng tiếp nhận và duy trì qua nhiều thế
hệ, trở thành truyền thống khá ổn định.
Lịch sử tư tưởng Việt nam là lịch sử của quá trình đấu tranh gay gắt để bảo vệ và phát
triển bản sắc dân tộc của văn hóa tư tưởng Việt Nam; đồng thời phải tiếp thu các học
thuyết của các nền văn hóa lớn khác làm phong phú thêm cho nền văn hóa tư tưởng dân
tộc; là quá trình đấu tranh chống đồng hóa của các thế lực ngoại bang xâm lược, đô hộ và
Việt hóa những nhân tố ngoại lai đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ lịch sử dân tộc. Đó
chính là quá trình nhào nặn, dung hòa, thâu hóa những yếu tố vốn xa lạ với nhau trong
những hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Qúa trình phát triển của lịch sử tư tưởng Việt Nam
diễn ra trong hoàn cảnh không được thuận lơi, tự nhiên mà trong những điều kiện vừa tự
nguyện vừa cưỡng bức. Tuy các hệ TTVN phát tiển chậm nhưng cuối cùng đã vươn lên
và đứng vững.
Hệ tư tưởng VN mang bản sắc dân tộc đậm đà sâu sắc, không thể lẫn với bất cứ hệ tư
tưởng của một dân tộc nào khác. Nó thấm nhuần những giá trị nhân bản cao cả, phản ánh
cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc VN hơn 2000 năm qua. Nó chứa đựng những
nhân tố tư tưởng mang ý giá trị phổ biến của toàn nhân loại vì nó biết chắt lọc tiếp thu
tinh hoa văn hóa tư tưởng phương Đông, phương Tây, và thấm nhuần tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin - một hệ tư tưởng tiên tiến và khá hoàn chỉnh của thời đại. Tuy nhiên
trong tư tưởng VN vẫn còn tồn tại không ít những hạn chế, lạc hậu của phong kiến tư bản

5


chủ nghĩa và những yếu tố lạc hậu phi khoa học của chính cư dân Việt Nam sống lâu đời
trong xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu.

Hệ tư tưởng Vn tương đối phong phú, có những tư tưởng đã bị mai một đi trong quá
trình lịch sử, có nhiều giá trị tư tưởng lớn được lưu truyền, kế thừa, phát triển trong suốt
chiều dài lịch sử dân tộc tạo nên những truyền thống văn hóa dân tộc ổn định của người
Việt. Đó là các tư tưởng nhân ái, đoàn kết, yêu nước, ý thức cộng đồng trọng đạo lý, đạo
đức, tinh thần thượng võ trọng nghĩa khinh tài, yêu quê hương, kính trọng thờ phụng tổ
tiên, thích cuộc sống quân bình, yêu thiên nhiên…Dĩ nhiên hệ tư tưởng Việt Nam cũng
tồn tại những quan điểm tư tưởng đối lập nhau đại diện cho quyền lợi, địa vị xã hội của
các giai cấp tầng lớp khác nhau, và cũng tồn tại sự khác biệt của vùng miền. Song nhìn
chung sự đấu tranh giữa các khunh hương tư tưởng để phủ định nhau thì không thường
xuyên, không có qui mô lớn không triệt để, không hình thành các trào lưu tư tưởng rõ rệt.
Thực tế đó làm cho tư tưởng VN trong thời gian dài phát triển chậm, ít có biến động lớn.
Các cuộc đấu tranh giai cấp, phe phái tôn giáo trong các tầng lớp luôn biết dừng lại trong
giới hạn có khả năng duy trì khối thống nhất dân tộc, nhất là những lúc đấy nước có ngoại
xâm. Xu hướng dung hòa của các tư tưởng là thường xuyên hơn xu hướng bài trừ lẫn
nhau. Ở VN cuộc đấu tranh giai cấp về mặt tư tưởng vẫn là một động lực thúc đẩy sự tiến
bộ tư tưởng xã hội nhưng cuộc đầu tranh tư tưởng chống ách nô dịch và đồng hóa của các
thế lực ngoại bang luôn ở vị trí hàng đầu. Bởi vì cuộc đấu tranh đó có quan hệ đến sự tồn
vong của dân tộc nên nó là động lực mạnh mẽ, thường xuyên cho sự hình thành và phát
triển của lịch sử tư tưởng VN. Qua cuộc đấu tranh đó bản sắc dân tộc của hệ tư tưởng
được xác lập.
Từ những cơ sở nêu trên chúng ta có thể khẳng định rằng dân tộc VN có hệ tư tưởng
của mình, trong đó có những giá trị quí báu cần được kế thừa và phát huy, đó là sản phẩm
tinh thần của quốc gia, của con người VN trong lịch sử. Hệ tư tưởng VN có đặc điểm
riêng, có ưu điểm và cả hạn chế. Tuy nhiên vì bộ môn lịch sử tư tưởng VN mới hình
thành trong vài chục năm trở lại đây nên vẫn còn nhiều vấn đề của lịch sử tư tưởng VN
vẫn chưa được nghiên cứu và giải quyết đầy đủ.

II. Điều kiện hình thành của tư tưởng Việt Nam
Có rất nhiều yếu tố tác động chi phối đến sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng
của người Việt Nam. Dưới đây là các điều kiện chủ yếu:

II.1 Điều kiện lịch sử
Lịch sử dân tộc ta phản ánh các đặc điểm nổi bật sau đây tác động đến sự hình thành
hệ tư tưởng VN:
1) Khối thống nhất dân tộc ra đời sớm và ngày càng được củng cố
Việt Nam được coi là một trong những chiếc nôi của nhân loại, nơi đây con người xuất
hiện sớm (gần nửa triệu năm cách ngày nay) con người ở mãnh đất này có quá trình phát
triển liên tục từ sơ kỳ đồ đá cũ đến đá mới, đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Trong quá trình tồn
tại và phát triển dưới chế độ công xã nguyên thủy do yêu cầu của các cuộc đấu tranh sinh
tồn nhằm thích nghi và chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt, đấu tranh tự vệ đã buộc
các cộng đồng cư dân trên những địa bàn lãnh thổ khá rộng lớn phải đoàn kết, hỗ trợ
tương thân tương ái, và cũng nhờ đó mà tư duy con người nhanh chóng phát triển. Chính
sự gắn bó mang tính lịch sử nói trên đã làm cho tư tưởng về khối thống nhất dân tộc của
người Việt cổ sớm ra đời. Tư tưởng đó đã hình thành từ thời lập nước Văn Lang, tiếp tục
được củng cố và phát triển dưới thời Âu Lạc. Quan niệm "nước VN là một, đân tộc VN là

6


một nhanh chóng trở thành chân lý thiêng liêng trong tâm khãm của mỗi người dân Lạc
Việt và Âu Việt Khối thống nhất đó được hình thành và củng cố do các nhu cầu khai phá
đất đai, chống thiên tai lũ lụt và chống giặc ngoại xâm. Khối thống nhất đó trải qua quá
trình lịch sử gần 3000 năm, có lúc thăng lúc trầm song đầy sức sống. Chính tư tưởng ý
thức về khối thống nhất dân tộc, về một tổ tiên giòng dõi riêng, về một lãnh thổ riêng, về
phong tục tập quán riêng của người phương Nam đã hình thành và định hình vững chắc
trong tâm trí người Việt là lý do để chúng ta giải thích việc dân tộc ta vượt qua được thử
thách nghiệt ngã mà không bị phong kiến Trung Hoa đồng hóa như trên một chục các
dân tộc Việt khác trong khoói Bách Việt sống ở phía nam sông Trường Giang. Nhìn cả
quá trình lịch sử dân tộc tuy cũng có vài lần đất nước bị chia cắt bởi tư tưởng cát cứ song
về cơ bản tư tưởng thống nhất đất nước giữ vị trí áp đảo. Ngày nay đân tộc VN là một
khối thống nhất vững bền trọn vẹn về lãnh thổ, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ và cả chế độ

chính trị. Khối thống nhất, đoàn kết dân tộc có vai rò lịch sử to lớn, góp phần tạo nên sức
manh vô địch của dân tộc ta trong các cuộc đấu tranh chống ngoại bang.
2) Lịch sử dân tộc ta là lịch sử của một dân tộc liên tục phải chiến đấu và chiến
thắng.
Ngay từ khi lập quốc cho đến nay, lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc là lịch sử
dựng nước gắn với giữ nước; nhân dân ta liên tục phải đương đầu với vô số kẻ thù xâm
lược Từ giắc Thục, giặc Man, giặc Hồ Tôn, giặc Ân, giặc Tần, đến Nam Việt thời Văn
Lang Âu Lạc. Từ giặc Hán, Ngô, Tấn, Lương, Trần, Tùy, Đường, Nam Hán, Tống,
Nguyên, Minh, Thanh ở phía Bắc, Chiêm Thành, chân Lạp, Xiêm ở phía Tây, Nam; đến
Pháp, Nhật, Mĩ,…thời cận - hiện đại đều là nhũng thế lực xâm lược hung bạo, sừng sõ.
Dù có lúc một số cuộc kháng chiến tạm thời thất bại song nhân dân ta không hề chịu
khuất phục quân xâm lược mà liên tục vùng lên đánh đuổi ngoại bang với một tinh thần
bất khuất "Không có gì quí hơn độc lập tự do" chân lý này đã được Hồ Chí Minh rút ra từ
lịch sử dân tộc. Mặc dù trong các cuộc chiến chống xâm lược của nhân dân ta phần lớn là
những cuộc chiến không cân sức (ưu thế thuộc về phía kẻ thù ) song nhân dân ta càng
đánh càng mạnh càng đánh càng thắng to. Tuy nhiên chiến tranh liên tục khiến đất nước
bị tàn phá nặng nề, nhân dân ít có thời gian hòa bình để xây dựng, phát triển kinh tế, văn
hóa điều đó đã làm cho VN phát triển chậm và có nguy cơ tụt hậu khá xa về kinh tế, văn
hóa so với các nước tiên tiến trên thế giới.
II.2 Điều kiện về địa lý tự nhiên
Vị trí địa lý cũng là điều kiện khá quan trọng cho sự ra đời và phát triển của các hệ tư
tưởng VN. Việt Nam nằm ở góc bán đảo Đông Nam Á ở vào thế "diện hải bối sơn" mặt
nhìn ra biển Đông và Thái Bình Dương với đường bờ biển dài 3200 km, lưng tựa vào dải
Trường Sơn. VN án ngữ các tuyến đường giao thưong quan trọng trên biển đó là con
đường từ Đông sang Tây từ châu Mỹ qua vùng biển châu Đại Dương và châu Á - Thái
Bình Dương đến Ấn Độ Dương đi Trung Đông, Địa Trung Hải và Đại Tây Dương. Từ
thời cận đại đến nay, đây là con đường buôn bán và vận chuyển hàng hóa, nhất là dầu mỏ
quan trọng nhất của thế giới. VN còn án ngữ con đường hàng hải Nam - Bắc từ Thái Bình
Dương lên biển Đông đi Trung Hoa, Nhật Bản và lục địa Á- Âu. Tuy nhiên VN lại ở đầu
mút tận cùng của của các tuyến giao thương quốc tế đường bộ từ Bắc xuống và từ Tây

qua, thường bị rào chắn bởi ranh giới tự nhiên. "Đặc điểm đó tạo cho VN một khả năng
kép trong vị thế văn hóa - xã hội. Khả năng mở nếu tận dụng được yếu tố biển; ngược lại
không sử dụng được biển mà chỉ xét về mặt giao lưu lục địa thì lại là một khả năng đóng"

7


[14 ] Trên thực tế, văn hóa (trong đó có tư tưởng) của Việt Nam đã dao động trên trên một
biên độ đóng - mở. Do đặc điểm địa lý này và thể chế chính trị quân chủ chuyên chế trung
ương tập quyền mà thời cổ trung đại nhìn chung xã hội Việt Nam nặng về mặt phong bế,
yếu tố khai phóng tiếp xúc với bên ngoài qua đường biển bị hạn chế nhiều. Có người cho
là xã hội VN truyền thống chưa có được yếu tố của một nền văn hóa biển, mà chỉ dừng ở
văn hóa cận duyên. Về địa hình VN chứa đựng sự tiếp nối của 3 vùng tạo nên văn hóa
mang đặc trưng của 3 vùng: miền núi, đồng bằng - biển. Xuôi theo các triền sông chảy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Các véc tơ văn hóa cũng phát triển theo phương đó tạo
nên xu thế vươn ra biển và tiến xuống phía Nam. Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa
lắm nắng mưa nhiều động thực vật phát triển phong phú; đã từng tồn tại một thảm thực
vật lớn thời tiền sử tạo điều kiện cho nền kinh tế nông nghiệp ra đời sớm và làm nên đặc
trưng văn minh lúa nước, văn hóa thảo mộc. Việt Nam lại có hệ thống sông ngòi đầm phá,
ao hồ dày đặc tạo nên nét đặc trưng của văn minh sông nước kênh rạch. Dấu ấn của 2 nền
văn minh ấy in đậm lên các mặt đời sống vật chất, xã hội cũng như tinh thần tư tưởng, nó
tạo nên tính dụi, mềm.linh hoạt trong ứng xử. Về sản xuất do nhu cầu của nông nghiệp lúa
nước mà 2 yếu tố là thủy lợi và ruộng đất công hữu trong nhiều thế kỷ chúng là điều kiện
cho sự phát triển nương tựa lẫn nhau mà cũng tương phản nhau của tính chuyên chế tập
quyền và tính cộng đồng. Trong xã hội do đó ý thức quốc gia, dân tộc sớm hình thành
được củng cố, quyền lợi của cộng đồng được đề cao, trong khi ý thức cá nhân phát triển
muộn và có phần mờ nhạt.
Mặt khác VN có ví trí núi liền núi sông liền sông, phía Nam Trung Hoa, Bắc Chăm
pa, phía Tây của biển Đông và phía Đông của dãy Trường Sơn. Trung Quốc là một đế
quốc phong kiến khổng lồ (đất rộng người đông, sớm thống nhất có nền văn minh lâu đời,

phát triển có hệ tư tưởng phong phú). Đặc biệt với tư tưởng Đại Hán, họ luôn có ý thức
bành trướng xuống phía nam. Do VN và Trung Hoa đã từng có mối quan hệ toàn diện,
phức tạp từ lâu đời. Mối quan hệ bang giao đó có tầm quan trọng lớn đối với Việt Nam
đến nổi nó lấn át, che lấp các mối quan hệ bang giao giữa ta với các nước khác, nó ảnh
hưởng đến sự tồn vong và phát triển của dân tộc. Trong suột thời phong kiến các triều đại
Trung Hoa đều có mưu đồ xâm lược VN và khi chiếm được nước ta họ đều thì tìm cách
đồng hóa nhân dân ta bằng tư tưởng, văn hóa của họ. Việc VN đã từng chịu ảnh hưởng tư
tưởng của họ và ngược lại tư tưởng của người Việt cũng có ảnh hưởng đến tư tưởng của
họ là một tất yếu. Trung Hoa luôn có nhu cầu bành trướng xuống phiá nam nên VN phải
tìm cách chống lại sự xâm lược đó. Việc VN có láng giềng nước lớn Trung Hoa là một
hằng số bất biến của điều kiện địa lý. Những yếu tố tự nhiên nói trên là thường hằng và
gần như bất biến đã có tác động như là những cấu trúc mã hóa xã hội Việt Nam ngay từ
những thời kỳ đầu tiên và tiếp tục có những tác động lâu dài đến tư tưởng của người Việt
trong quá trình lịch sử.
II.3 Điều kiện về kinh tế
Do làm nông nghiệp lúa nước nên người Việt Nam chủ yếu cư trú trên lưu vực các
con sông như sông Hồng, sông Thái Bình sông Mã, sông Lam, sông Đồng Nai, sông Cửu
Long…vì thế luôn phải đối mặt với lũ lụt, úng, hạn hán vì thế công tác thủy lợi, đắp sửa
đê điều là công việc thường xuyên, nó chi phối tư tưởng đời sống tinh thần của người
Việt. Điều kiện kinh tế này buộc con người phải cần cù, kiên nhẫn và có tập quán liên hệ
nương tựa chặt chẽ vào nhau để chinh phục tự nhiên và canh tác. Mặt khác do sống chủ
yếu bằng kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước lâu đời nên trong tâm lý tư tưởng người Việt

8


thường có biểu hiện bảo thủ, ưa cuộc sống quân bình, ổn định, ít thay đổi và tinh thần dân
chủ, tư tưởng cộng đồng trở nên phổ biến.
II.4 Điều kiện về xã hội
+ Dấu vết công xã nông thôn: Công xã nông thôn là một hình thức xã hội của thời

nguyên thủy song nó tồn tại phổ biến qua thời cổ đại đến trung đại thậm chí cả ở thời cận
đại ở phương Đông và cũng biểu hiện cụ thể ở VN (tồn tại đến năm 1945). Ở nhiều nơi
CXNT vẫn còn vết tích với những qui định, tục lệ và quyền lực mạnh mẽ của nó. Công xã
nông thôn hầu như tồn tại nằm bên ngoài chế độ phong kiến tập quyền nhưng nó được
nhà nước thừa nhận như những đơn vị tự trị nhỏ (phép vua thua lệ làng). Các triều đại
phong kiiến thừa nhận nó và dựa vào cx để cai trị thu thuế, tuyển mộ binh lính… Sức
mạnh pháp chế của Nhà nước phong kiến hầu như không có tác dụng đồng đều lên các địa
phương do sức kháng cự và chống đối lại của các tập tục làng xã. Thời nhà hậu Lê bằng
chính sách quân điền và quan liêu hóa bộ máy làng xã, Nhà nước có xu hướng biến làng
xã thành đơn vị hành chính - kinh tế cơ sở để cai trị và bóc lột. Tuy nhiên nhà nước vẫn
chấp nhận sự tự trị nhất định của công xã nông thôn. Lệ làng đóng vai trò là yếu tố tự điều
khiển, điều chỉnh tất cả các thành viên của làng mà triêù đình không thể chi phối hết
được; đôi khi lệ làng có mâu thuẫn với phép nước. Nền văn hóa dân gian với phong tục,
tín ngưỡng, hội hè, ca dao…được duy trì và phát triển trên mức độ tự trị tương đối này.
Triều đại, vua chúa, quan lại thay đổi, nhưng thường thì làng vẫn được giữ nguyên;
làng xã trở thành cộng đồng bền vững của người Việt.
+ Gia đình - tế bào của xã hội, Gia đình ngày nay cũng như xưa kia là đơn vị xã hội nhỏ
nhất, một loại cộng đồng bền vững trong xã hội Việt Nam thời phong kiến.Gia đình Việt
Nam được xây dựng dựa trên những mối quan hệ chặt chẽ ít biến đổi, được xã hội công
nhận, tồn tại lâu đời, các thế hệ sau chấp nhận như là những công lý hiển nhiên, mãi đến
thế kỷ XX mới có biến đổi ít nhiều. Gia đình Việt Nam từ thời dựng nước đến nay nhìn
chung đều được tổ chức theo chế độ gia trưởng. Người cha là chủ giai đình nhưng không
khắt khe lắm, giải quyết mọi việc trong gia đình thường theo quan niệm "thuận vợ thuận
chồng, tát bể Đông cũng cạn". Các thành viên của gia đình sống chung với nhau trong
một mái nhà, ít ngăn cách, tài sản là của chung. Người cha là gia trưởng nhưng không
phải toàn quyền chi phối mọi việc trong nhà, thường được bàn bạc thuận tình rồi mới thực
hiện. Trong gia đình có sự phân công lao động theo giới tính, theo khả năng của từng
người. Qui mô gia đình của người Việt thường lớn gồm 3 thế hệ, thậm chí 4 thế hệ cùng
chung sống gồm: cụ ông, cụ bà; ông, bà; cha, mẹ; con cái; ngoài ra còn có một số người
thân khác như con rễ, con dâu…Nhà nước phong kiến khuyến khích sự chung sống nhiều

thế hệ trong một gia đình (tam đại đồng đường, tứ đại đồng đường- đây là điểm khác với
gia đình phương Tây). Nhân dân ta thường chúc tụng nhau đông con nhiều cháu, sợ hiếm
muộn. Tư tưởng trọng nam khinh khinh nữ vẫn tồn tại trong xã hội cho đến ngày nay. Bên
cạnh gia đình, người Việt còn phải sống trong gia tộc (một dạng gia đình lớn hơn của một
dòng họ). Con cháu khi trưởng thành vẫn gắn với gia đình, gia tộc, quê hương. Qui tắc
ứng xử trong giai đình thường là nhường nhịn, bảo vệ lẫn nhau, tôn kính người già, người
gia trưởng. Pháp luật và tục lệ thời phong kiến thừa nhận và bảo vệ quyền thừa kế của
những người trong gia đình, ưu tiên con trai, dòng đích.
+ Chế độ quân chủ tồn tại gia dẳng; nếu chỉ tính thời phong kiến thì chế dộ phong
kiến ở nước ta đã tồn tại trên 1000 năm. Ngay từ thế kỷ XI, các vương triều Lý -Trần đã
thấy được sự phù hợp giữa tư tưởng Nho giáo với việc củng cố quyền thống trị của các

9


dòng họ nên đều có chủ trương tiếp thu và phổ biến rộng rãi Nho giáo làm công cụ trị
nước. nhà Lý đã cho dựng Văn miếu, đúc thượng Khổng tử và các học trò của ông để thờ,
tổ chức thi cử với nội dung chủ yếu lấy từ Nho giáo. Từ thời nhà Lê sơ (TK XV) đến thế
kỷ XIX, các triều đại phong kiến đều lấy Nho giáo làm hệ tưởng thống trị xã hội. Tuy
nhiên bên cạnh những ưu điểm thì Nho giáo cũng chứa đựng không ít hạn chế như nghi lễ
phiền phức, tôn sùng quyền uy của vua chúa đề cao tư tưởng trung quân (ngu trung), duy
trì sự bất bình đẳng giữa các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, trọng nam khinh nữ, coi
thường KHKT, coi thường tầng lớp thương nhân, thi hành chính sách "Bế quan tỏa
cảng", hạn chế tự do, tài năng sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động. Thực tế này
đã để lại trong lịch sử dân tộc Việt Nam nhiều hạn chế, ảnh hưởng sâu sắc đối với nhiều
nhà tư tưởng Việt Nam.
+ Những thời kỳ mất nước kéo dài, thời Bắc thuộc kéo dài hơn 1000 năm, làm cho tư
tưởng, văn hóa dân tộc phát triển không bình thường. Chấp nhận sự phát triển trong sự
đối kháng, trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa. Đồng thời dân tộc ta cũng biết tìm kiếm
và tiếp thu văn hóa ngoại nhập. Trên lĩnh vực tư tưởng cuộc đấu tranh đó mang những đặc

điểm riêng của nó, không có sự quyết liệt nhưng lại rất kiên trì nhẫn nại, vừa chống đối
vừa tiếp thu, vừa gạt bỏ vừa dung hòa. Qúa trình đấu tranh tư tưởng diễn ra liên tục suốt
2000 năm qua.
Xã hội VN chưa trải qua nhũng cuộc cách mạng triệt để về kinh tế- xã hội; khoa học
kỹ thuật chậm phát triển. Trong lịch sử VN, nhiều cuộc cải cách xã hội đã thất bại ví dụ
cải cách của Hồ Qúi Ly, Quang Trung, Nguyễn Trường Tộ….đều bị phản đối. Tư tưởng
bảo thủ mạnh hơn tư tưởng cách tân. Trí thức phong kiến được đào tạo với lý tưởng tu, tề,
trị, bình, nếu không được làm quan hoặc không muốn thì trở về làm thầy thuốc, thấy giáo,
thầy bói…hay sống ẩn dật. Trước đây, VN không có đội ngũ các nhà khoa học, nhất là
lực lượng nghiên cứu kỹ thuật. Nhà nước phong kiến chỉ chú trọng cái đức mà không chú
trọng phát triển tài năng sáng tạo khoa học, thậm chí còn ngờ vực, coi thường văn minh
phương Tây là văn minh vật chất tầm thường. Điều này, hạn chế nhiều mặt đối với lịch sử
tư tưởng Việt Nam.
+ Chủ nghĩa tư bản ra đời rất chậm, yếu ớt. Tư tưởng trọng nông ức thương vẫn
ngự trị cho đến nửa đầu thế kỷ XX, nền kinh tế Việt Nam cho đến đầu thế kỷ XX, vẫn là
nông nghiệp tự cấp, tự túc. Sau khi Pháp xâm lược và đô hộ thì kinh tế hàng hóa có phát
triển nhưng bị tư sản mại bản chèn ép nên kinh tế TBCN dân tộc phát triển chậm chạp,
yếu ớt, Giai cấp tư sản dân tộc không đủ sức đề xướng một hệ tư tưởng nào mới ở Việt
Nam. Điều kiện này làm cho lĩnh vực tư tưởng Việt Nam có sự phức tạp nhất định: Nội
dung không thuần nhất như trước. Giữa 3 kỳ ý thức tư tưởng có sự khác biệt nhất định.
Xuất hiện những mâu thuẫn giữa thị dân với nông dân, trí thức cũ, mới. Do CNTB ở VN
ra đời chậm nên chủ nghiã cá nhân không phát triển một cách cực đoan, tư tưởng dân chủ
kém phát triển.
+ Ngoài ra mặt tâm lý cũng có tác động ảnh hưởng tới sự hình thành các hệ tư tưởng
của người Việt.Tâm lý xã hội Việt Nam có những nét nổi bật sau đây:
(các giái trị truyền thống con người Việt Nam tổng kết lại gồm) nhân hậu, đoàn kết,
thủy chung, ý thức cộng đồng gắn bó, ý thức về bổn phận, nghĩa vụ; truyền thống yêu
nước sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, tinh thần dân chủ kiểu công xã nông thôn, cần cù
chịu khó, trọng nhân luân và đạo lý, thích cuộc sống quân bình hòa hợp với thiên
nhiên, độ lượng và lạc quan (dễ tiếp thu, cởi mở trong giao tiếp). Bên cạnh đó tâm lý


10


người Việt cũng có những hạn chế nhất định như tâm lý tự ty, ưa cuộc sống quân
bình, cào bằng, ganh tỵ…

CHƯƠNG 2. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM TỪ THỜI
ĐẦU DỰNG NƯỚC ĐẾN NĂM 905 (3 TIẾT)
I. Lịch sử tư tưởng Việt Nam thời kỳ đầu dựng nước
Thời đại dựng nước đầu tiên trong lịch sử dân tộc phù hợp với niên đại của nền
văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2800 đến năm 100 năm. Văn hóa Đông Sơn
đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển văn hóa của thời đại kim khí ở VN.
Tính thống nhất văn hóa được thể hiện rõ trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt -Trung
cho đến tận sông Gianh (Quảng Bình). Như vậy chúng ta có thể khẳng định sự hình thành
văn hóa Đông Sơn là trùng hợp với quá trình hòa hợp các bộ lạc hay nhóm bộ lạc để
thành quốc gia Văn Lang - Âu Lạc rộng lớn. Ở giai đoạn này người Đông Sơn đã có
những lò luyện sắt, chứng tỏ họ đã có tri thức khá cao về kỹ thuật luyện kim cả đồng và
sắt.
Nghiên cứu trống đồng Đông Sơn chúng ta thấy được phần nào trình độ văn minh của
người Việt cổ đặc biệt là trình độ kỹ thuật và tư duy ở thời kỳ đó. Trình độ điêu khắc của
cư dân Việt đã đạt tới đĩnh cao thể hiện qua việc chế tạo được khuôn đúc trồng vô cùng
tinh xảo, hoa văn phong phú sinh động làm cho trống đồng trở thành một bộ lịch sử bằng
hình ảnh. Hoa văn trên mặt trống phản ánh khá đấy đủ đời sống vật chất, tinh thần và tư
duy của người Việt cổ. Hoa văn trống đồng thể hiện quan niệm về thế giới, hiểu biết về
thiên văn học của cư dân Văn Lang- Âu Lạc. Hình ngôi sao 14 cánh nằm giữa mặt trống
tượng trương cho mặt trời được coi là trung tâm của thái dương hệ, mặt trống hình tròn
thể hiện cho quả đất quay quanh mặt trời. cách trang trí hoa văn trên mặt trống thể hiện
nguyên tắc đối xứng qua tâm là những kiến thức hình học, tỷ lệ hợp kim đồng thiếc để
đúc trống đồng cho thấy hiểu biết về hóa học, về sức bền vật liệu khácao của người Việt.

Nghệ thuật Đông Sơn có đặc điểm là ít chú ý đến những chi tiết của đối tượng được mô
tả, mà chú ý đến những đặc điểm cơ bản, và thể hiện chúng bằng những đường nét ước lệ,
cách điệu nhưng sinh động tạo nên "thần thái Đông Sơn".
Từ vũ trụ luận, tín ngưỡng (nông nghiệp, phồn thực, vạn vật hữu linh) và nghệ thuật
của cư dân Đông Sơn, chúng ta có thể nhận ra một đặc điểm của tư duy thời kỳ ấy là
Lưỡng hợp (lưỡng phân). Tư duy lưỡng hợp là một phân loại chia đôi đã xuất hiện từ
thời đồ đá có mặt ở nhiều vùng trên thế giới. Chính tư duy lưỡng hợp này đã đưa tới sự ra
đời của hệ tư tưởng Âm - Dương về sau truyền sang Trung Hoa phát triển lên thành
thuyết âm - dương và cũng làm xuất hiện trường phái tư tưởng Âm - Dương gia. Tư duy
này được biểu hiện ra ở các biểu tượng đối lập (trời/đất, nước/lữa, đực/ cái, cha /mẹ, nóng
lạnh, cứng /mền …)
Người Việt cổ lúc bấy giờ chưa chịu ảnh hưởng của tư tưởng gia trưởng mà trong xã
hội của người Việt thì vai trò của phụ nữ vẫn được để cao, thể hiện qua việc phụ nữ được
tham gia lễ hội bình đẳng với nam giới, được ăn mặc và trang sức lộng lẫy hơn nam giới.
Quan niệm hôn nhân lúc đó là hôn nhân tự do tự nguyện qua các truyền thuyết: Sơn tinhThủy tinh, Thạch Sanh, Tiên Dung - Chữ Đồng Tử…
Thời kỳ Đông Sơn là thời kỳ hình thành nhà nước, thời kỳ các bộ lạc hợp nhất lại
thành liên minh bộ lạc - quốc gia do đó trong xã hội đã có sự đối lập đấu tranh giữa tư

11


tưởng phân tán với ý thức thống nhất quốc gia, thống nhất dân tộc; song tư tưởng
thống nhất quốc gia, thống nhất dân tộc ngày một được củng cố, tăng cường và giành
chiến thắng, trở thành tư tưởng thống trị trong xã hội lúc bấy giờ.
Ý thức cộng đồng của người Việt cũng được hình thành từ thời kỳ này vì làng chạ đã
hình thành ổn định có một bề dày thời gian đủ sức tạo nên những nhận thức chung của
từng làng - chạ. Bên cạnh quan hệ nhà làng nước còn có quan hệ huyết thống giai đình họ tộc. (Tìm hiểu thêm về tư tưởng của người Việt qua các truyền thuyết và huyền thoại,
tục ngữ về thời đại Hùng vương, An Dương Vương - tiến hành Xêmina).
- Quan điểm triết học: quan điểm về vũ trụ thể hiện qua Thuyết Âm Dương; Ngũ hành
của người Việt cổ sáng tao ra

- Tư tưởng chính trị là ý thức về sự thống nhất quốc gia về Nhà nước lãnh thổ về dân tộc,
bản sắc riêng, bản lĩnh văn hóa của người Việt là của người phương Nam phân biệ , khác
với phương Bắc
- Tư tưởng về xã hội: Tinh thần dân chủ, trọng cộng đồng, nhân ái tình nghĩa tối lữa tắt
đèn có nhau, vui buồn cùng chia xẽ.
- Yêu cái đẹp, cái thIện, thích ca múa, thích đồ trang sức, thích lễ hội.

II. Lịch sử tư tưởng Việt nam thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc
(Từ thế kỷ II Tr.CN đến 905)
Thời bắc thuộc lịch sử tư tưởng Việt Nam không thể phát triển bình thường, nhiều
mâu thuẫn mới xuất hiện. Sau khi thôn tính nước Âu Lạc các triều đại phong kiến phương
Bắc đều tìm cách thủ tiêu các giá trị văn hóa của người Việt để thi hành chính sách đồng
hóa (Hán hóa Việt tộc). Nhiều thành tựu văn hóa trong đó có các tác phẩm tư tưởng của
người Việt bị kẻ thù cướp đoạt hoặc thủ tiêu, chính vì thế mà ngày nay chúng ta chưa có
đủ cơ sở khoa học để khẳng định thời Văn Lang- Âu Lạc tổ tiên đã có chữ viết, luật pháp
thành văn ( có quan điểm cho rằng chữ của người Việt cổ là chữ Khoa đầu - Hình con
nòng nọc)…Dưới ách thống trị của nhà Triệu và nhà Tây Hán (từ 179 Tr .CN đến 8
S.CN), bọn phong kiến phương Bắc còn duy trì ách cai trị khá lỏng lẽo chỉ đặt quan cai trị
tới cấp quận còn từ cấp huyện trở xuống chúng vẫn để cho các quí tộc người Việt tiếp tục
cai quản như cũ hòng lợi dụng tầng lớp này thu cống nạp và quản lý dân chúng. Do chính
sách cai trị đó cho nên mâu thuẫn giữa người Việt với chính quyền đô hộ chưa gay gắt
chưa có các cuộc khởi nghĩa lớn. Mâu thuẫn giũa nhân dân ta với bọn thống trị phong
kiến phương Bắc chưa thật sâu sắc. Mặt khác do tình hình nội bộ Trung Quốc chưa ổn
định, khởi nghĩa nông dân, nội chiến phong kiến diễn ra luôn nên 2 triều đại Triệu và Tây
Hán chưa triển khai được chính sách Hán hóa Việt tộc do đó các mâu thuẫn chưa thật gay
gắt.
Từ thời Đông Hán, sau khi ổn định tình hình trong nước bọn phong kiến phương
Bắc bèn tăng cường ách thống trị của chúng ở các vùng đất mới được chinh phục và thi
hành chính sách đồng hóa nhân dân các vùng bị chinh phục bằng văn hóa Hán. Mâu thuẫn
giữa dân tộc ta với thế lực ngoại bang phát triển ngày càng gay gắt và một số mâu thuẫn

mới tiếp tục phát sinh (mâu thuẫn giữa thế lực xâm lược - nô dịch - đồng hóa với lực
lượng giải phóng dân tộc, chống nô dịch, chống đồng hóa).
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là trên mãnh đất Việt Nam cùng lúc diễn ra 2
quá trình vận động, 2 chiều hướng phát triển. Đó là chiều hướng Hán hóa và chiều
hướng chống Hán hóa, gìn giữ bản sắc của dân tộc. Cả 2 chiều hướng đó tác động trên
cùng một đối tượng là đất nước xã hội và con người Việt Nam.

12


Kẻ thù thi hành chính sách đồng hóa dân tộc trên tất cả các phương diện từ chính trị,
xã hội đến văn hóa tư tưởng. Về chính trị xã hội chúng di thực mô hình tổ chức chính trị
và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt, về văn hóa chúng truyền bá chữ Hán,
phong tục tập quán cách ăn mặc sinh hoạt của người Hán vào xã hội người Việt. Về tư
tưởng chúng du nhập tư tưởng Nho gia, Đạo gia, Pháp gia sang nước ta. Bằng nhiều biện
pháp như mở trường dạy chữ Hán, cưỡng bức nhân dân ta từ bỏ phong tục tập quán của
dân tộc để theo phong tục tập quán của Trung Quốc…
Nội dung Nho giáo lúc đầu không phù hợp với một xã hội vừa thoát thân từ thời
Văn Lang - Âu Lạc, với chế độ Lạc Hầu, Lạc Tướng như nước ta. Nhân dân ta lúc bầy giờ
chưa cần Nho giáo. Mặc dù bọn phong kiến phương Bắc từ thời nhà Hán đến thời Đường
đều đẩy mạnh việc truyền bá Nho giáo nhưng nó chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận cư dân
Việt ở các vùng trung tâm và ở tầng lớp trên của xã hội. Đó là những quí tộc Việt tham
gia vào bộ máy chính quyền đô hộ (và con em của họ) còn tuyệt đại đa số nhân dân ta ở
các làng xã đều khước từ việc tiếp thu văn hóa Hán và đặc biệt là Nho giáo, coi Nho giáo
là công cụ của ngoại bang. Nhân dân ta dựa vào các công xã nông thôn để đề kháng với
văn hóa Hán. Tuy nhiên về sau khi nền tảng kinh tế - xã hội có thay đổi thì việc tiếp thu
văn hóa Hán nói chung và Nho giáo nói riêng mới diễn ra. Hậu quả của sự Hán hóa có thể
thấy trên một số mặt: về sản xuất nhân dân ta có tiếp thu kĩ thuật của phương Bắc như sử
dụng phân bắc trong nông nghiệp, trong thủ công nghiệp; về phong tục tập quán về hôn
nhân, gia đình, về ngôn ngữ tiếng Việt qua tiếp xúc với tiếng Hán đã chuyển biến theo

hướng đơn âm tiết hóa và bổ sung thêm vốn từ vựng đặc biệt là các từ Hán -Việt. Về văn
học Việt Nam đã có thêm những thể loại mới như phú, thơ Đường. Về tư tưởng có tiếp
thu một phần tư tưởng Nho gia, Pháp gia và Đạo giáo. Văn hóa Hán du nhập được tiếp
thu nhưng được thâu hóa và cải biến cho phù hờp với truyền thống của phương Nam, của
người Việt. Như vậy chính sách Hán hóa của phong kiến phương Bắc tuy có tác động ảnh
hưởng tới văn hóa của người Việt nhưng với mục tiêu đồng hóa Việt tộc thì không thành
công vì nhân dân ta chỉ tiếp thu những giá trị tích cực và Việt hóa chúng làm cho nó mang
màu sắc lẫn nội dung mới phù hớp với bản sắc văn hóa tâm lý dân tộc. Do đó mà trong
quá trình tiếp thu cha ông ta đã chọn lọc những tinh hoa văn hóa ngoại lai để bổ sung và
làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Văn hóa, tư tưởng Việt Nam không bị đồng hóa mà
ngược lại được bổ sung phát triển thêm. Không vì Hán hóa mà xã hội Việt Nam biến
thành xã hội Hán, thực thể Việt vẫn khác thực thể Hán. Sự khác biệt không những chỉ trên
số lượng hay bề mặt, các yếu tố Hán đậm hay nhạt mà còn trên phương diện thực chất của
các sự kiện. Nhiều trường hợp hình thức thì giống nhưng nội dung lại khác, hiện tượng thì
giống bản chất lại khác. Ví dụ cha ông ta học tập kỹ thuật làm giấy bản của Trung Quốc
nhưng lại chế ra giầy trầm hương, tiếp thu Nho gia nhưng lại tích hợp truyền thống trọng
phụ nữ nên loại trừ bớt tư tưởng gia trưởng…
Thành tựu nói trên là kết quả của quá trình đấu tranh chống Hán hóa. Trong nền văn
hóa Việt Nam đã hòa lẫn nhiều yếu tố văn hóa Hán. Tuy nhiên văn hóa Việt Nam vẫn tồn
tại và phát triển, có khả năng chọn lọc và cải biến những yếu tố ngoại lai, sử dụng nó
phục vụ cho nhiệm vụ lịch sử dân tộc Ngoài ra để chống Hán hóa, bên cạnh sử dụng lưng
vốn văn hóa tư tưởng của dân tộc thì cha ông ta còn tiếp thu một cách tự nguyện hệ tư
tưởng khá phong phú và hoàn chỉnh của người Ấn Độ là Phật giáo làm đối trọng với văn
hóa Hán. Nhờ đó mà trong quá trình bị phong kiến phương Bắc đô hộ nhiều lần nhân dân
ta khởi nghĩa giành được thắng lợi khôi phục được nền độc lập trong những thời gian nhất

13


định như khởi nghĩa bà Trưng, Lý Bí, Mai thúc Loan, Phùng Hưng. Khởi nghĩa Lý Bí

thắng lợi nước Vạn Xuân thành lập Lý Nam Đế đã cho lập chùa Khai quốc điều đó khẳng
định vai trò của tư tưởng Phật giáo trong công cuộc phục hưng nền độc lập dân tộc.
Nét nổi bật trong tư tưởng người Việt ở thời Bắc thuộc là ý thức vế chủ quyền đất
nước. Tư tưởng chính trị trong xã hội của người Việt thời đó có 2 xu hướng:
- Xu hướng giành quyền tự trị và chịu sự lệ thuộc tương đối vào phương Bắc
(phùng Hưng, Dương Thanh)
- Xu hướng giành quyền độc lập độc lập và bình đẳng với phương Bắc (Lý Bí,
Mai Thúc Loan, Khúc Thừa Dụ).
Lịch sử đã chứng minh xu hướng tư tưởng đấu tranh giành độc lập và bình đẳng
với phương Bắc cuối cùng đã thành công.
Nhà tư tưởng Trung Hoa cũng có nhận định: "Rộng lòng, mềm mỏng để dạy,
không báo thù kẻ vô đạo, đấy là sức mạnh của phương Nam" khác với người phương Bắc
"mặc giáp, ngồi yên ngựa, chết không nản đấy là sức mạnh của phương Bắc"[3;14]

CHƯƠNG 3. LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM TỪ THỜI KỲ
PHONG KIẾN ĐỘC LẬP TỪ 905 ĐẾN 1884 (7 TIẾT)
I. Lịch sử tư tưởng Việt nam thời kỳ phục hồi và xây dưng quốc gia phong
kiến từ thế kỷ x đến đầu thế kỷ XV
1) Tư tưởng VN thời kỳ phục hồi, xây dựng quốc gia độc lập và chế độ quân chủ
quí tộc (thế kỷ X đến thế kỷ XIV)
Sau khi giành lại được quyền tự chủ, với ý thức dân tộc mạnh mẽ tiếp tục sự
nghiệp phục hưng quốc gia mà cha bỏ dở năm 905, Khúc Hạo đã tiến hành cuộc cải
cách đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Cuộc cải cách của Khúc Hạo được tiến hành trên
các lĩnh vực chính trị kinh tế và xã hội đã thể hiện tư tưởng độc lập tự cường dân tộc.
Sau khi nền độc lập tự chủ được khôi phục giai đoạn thế kỷ X đến thế kỷ XIV, lịch
sử tư tưởng Việt Nam phát triển một cách sôi động đầy sinh lực và tạo nên hào khí dân
tộc. Nhu cầu của công cuộc dựng nước và giữ nước đã qui định nội dung và xu thế
phát triển của lịch sử tư tưởng VN đương thời.
Trong thế kỷ X, Nho giáo chưa phát triển lắm, giới Nho sĩ còn rất ít ỏi; song do nhu
cầu xây dựng quốc gia phong kiến độc lập vững mạnh từ nửa sau thế kỷ XI về sau Nho

giáo bắt đầu được các triều đại Lý Trần từng bước đề cao. Đến giữa thế kỷ XIV, Nho
giáo đã chiếm được vị trí nhất định trong chính trị, văn hóa giáo dục, khoa cử và tư
tưởng. Năm 1070, Nhà Lý lập Văn miếu đúc tượng Khổng Tử và Chu công để thờ, mở
Quốc tử giám làm nơi dạy học cho các Hoàng tử thân vương và con em quí tộc quan
lại. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi Thái học sinh để chọn nhân tài. Nho giáo dần
trở thành trở thành nội dung chính của giáo dục và khoa cử phong kiến VN.
Đạo giáo cũng vẫn tồn tại trong xã hội nhưng chủ yếu kết hợp với tín ngưỡng bản
địa trong nhân dân mà ít có ảnh hưởng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị của triều đình.
Trong giai đoạn này Phật giáo chiếm địa vị quan trọng nhất trong xã hội được các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đều tôn sùng nên Phật giáo coi là quốc giáo nên phát triển
mạnh mẽ. Theo nhà sử học Lê Văn Hưu thì đến thế kỷ XIII "trong nước quá nửa là sư
sãi..." Tuy nhiên càng về sau Phật giáo càng giảm sút địa vị trên vũ đài chình trị, và
Nho giáo dần vươn lên ngày càng mạnh mẽ. Ở các thế kỷ X đến XIII, nhà chùa trở
thành một trung tâm giáo dục quan trọng của xã hội. Đây là nơi đào tạo ra đội ngũ tăng

14


quan và nhiều trí thức lớn lẫn một số chính trị gia lãnh đạo quốc gia như Khuông Việt
Đại sư Ngô Chân Lưu., sư Pháp Thuận, sư Lý Khánh Văn, sư Vạn Hạnh, sư Viên
Thông, Viên Chiếu, Tuệ Trung Thượng Sỹ…số đông các nhà sư đó đều tham gia
chính sự, nhiều người làm Tăng quan giúp vua về đối nội, đối ngoại. Các chính trị gia
tầm cỡ cũng từng lớn lên và được nhà chùa nuôi dạy như Lý Thái Tổ, Lý Thường
Kiệt... Nhiều vị vua, quí tộc Lý Trần đã xuất gia đầu Phật như Lý Thái Tông, Lý Huệ
Tông, Trần Thái Tông. Vua Trần Nhân Tông là người sáng lập Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử, viết nhiều tác phẩm kinh sách và lịch sử Phật giáo VN.
Ở buổi đầu độc lập tự chủ Phật giáo phái Thiền tông chiếm ưu thế về tín ngưỡng
trong xã hội VN. Thiền tông kết hợp với tín ngưỡng nguyên thủy bản địa, với Đạo
giáo và những yêu cầu thực tế của nhân dân, mang nhiều yếu tố của Mật tông. Đồng
thời còn kết hợp với sự tiên tri, sấm vĩ, lý số có tính chất dịch học

Thời Trần, triết lý nhập thế của Phật giáo càng được tăng cường. Ngay thời Lý đã
xuất hiện quan niệm về con người mộ đạo không thoát ly cuộc đời trần thế. Nhưng
phải đến thời Trần với các đại biểu cự phách như Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,
Tuệ Trung Thượng Sỹ, Huyền Quang…thì triết lý nhập thế mới được phát biểu rộng
rãi và trở thành phương châm ứng xử của nhiều nhà sư. Đối với họ bên cạnh triết lý
giải thoát của Thiền tông là những vấn đề có tính chất nhập thế và có liên quan đến đời
sống hiện thực. Một số vị vua Trần sau khi nhường ngôi cho con đi tu mà vẫn tham gia
chính sự như Trần Nhân Tông sau khi đã lên trụ trì ở Yên tử, quay về kinh thành thấy
vua Trần Anh Tông lơ là triều chính đã trách phạt và còn định truất ngôi của Anh
Tông. Năm 1303, Trần Nhân Tông còn tiến hành hoạt động ngoại giao, sang thăm
Chămpa và hứa gả con gái là công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Chế Mân. Kết
quả là sau khi Huyền trân sang làm dâu Chămpa Chế Mân phải cắt 2 châu: Ô và Lý
cho Đại Việt.
 Sự phát triển của tư tưởng chính trị - xã hội thời Lý - Trần:
Thế kỷ XI, lịch sử dân tộc được đánh dấu bằng sự xác lập của vương triều Lý, nhà
Lý đẩy mạnh việc xây dựng chế độ phong kiến là điều kiện quan trọng cho tư tưởng chính
trị xã hội phát triển mạnh mẽ và có vị trí quan trọng trong sinh hoạt tư tưởng. Các tác
phẩm như Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, bài Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt. Tư
tưởng thân dân lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn là quan điểm tiến bộ và tiêu biểu
nhất. Tư tưởng chính trị tiêu biểu thời Trần thể hiện qua ngôn từ của Hưng Đạo Đại
vương trả lời vua Trần về kế sách giữ nước "Hãy khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền
gốc…lòng dân không chia,…vua tôi đồng lòng, anh em hòa mục, cả nước gắng sức…"
Trần Quốc Tuấn đã thấy rõ sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc và vai trò của triều đình
là phải kiến tạo được khối đoàn kết đó bằng cách chăm lo đến đời sống của nhân dân, lấy
đó làm gốc rễ của kế sách trị nước.
Mặc dù coi trọng Phật giáo nhưng với nhu cầu xây dựng quốc gia phong kiến qui
cũ thì các triều đại này thấy cần phải dựa vào Nho giáo và còn kết hớp cả tư tường Pháp
gia để xây dựng nhà nước pháp trị. Năm 1042, nhà Lý cho ban hành bộ Hình thư để quản
lý xã hội. Luật của nhà Lý theo nhà sử học Phan Huy Chú đánh giá là rất nghiêm khắc
hình pháp quá nặng. Năm 1097, nhà Lý ban hành Hội Điển qui điịnh các phép tắc chính

trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, qui chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập
một bước. Sang thời Trần tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương được hoàn thiện một
bước. Nhà Trần đặt ra chế độ Thái Thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai

15


trưởng (Thái tử) nhưng vẫn cùng với vua con trông coi chính sự, vua cha xưng là Thái
Thượng hoàng. Chế độ này có tác dụng ngăn chặn tình trạng các đại thần cướp ngôi khi
vua còn ít tuổi. Trong triều đứng đầu các quan vẫn là 3 chức Thái (Thái sư, Thái phó,
Thái bảo) song nhà Trần đặt thêm hàm Thống quốc, Tá thanh Phụ quốc để gia phong
thêm.. Chức Thái úy (Tướng quốc) đổi thành Tả, Hữu Tướng quốc bình chương sự. Giúp
việc cho Tể tướng có thêm chức Hành khiển. Năm 1230, nhà Trần cho biên soạn Quốc
triều hình luật. Năm 1342, Trần Dụ Tông sai Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu
soạn Hình thư về căn bản đây là luật về hình sự. Nhìn chung luật của nhà Trần được đánh
giá là khoan nhẹ song về bản chất nó vẫn nhằm bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp
phong kiến quí tộc.
 Tư tưởng quân sự thời Lý - Trần
Các tư tưởng đặc sắc gồm: Chủ động tiến công địch, 'tiên phát chế nhân" "Toàn
quân vi thượng". Là một nước nhỏ nằm kề cận nước lớn lại luôn luôn có tham vọng bành
trướng nên cha ông ta đã khôn khéo đề ra chính sách "ngụ binh ư nông" để khi hòa bình
thì vẫn có đủ lực lượng lao động sản xuất nông nghiệp, khi chiến tranh nổ ra thì "toàn dân
vi binh". Khi biết kẻ thù đang tập trung lực lượng ở gần biên giới để chuẩn bị xâm lược
nước ta nhà Lý đã không ngồi yên đợi giặc mà mạnh dạn đưa quân tiến công địch trước
để tự vệ đó là kế sách phòng vệ tích cực.
Thời nhà Trần dân tộc ta phải 3 lần đương đầu với quân xâm lược Mông Nguyên
khét tiếng hung bạo, chúng đã chinh phục được phần lãnh thổ rộng lớn của châu Á, một
phần châu Âu. Chính qua ba lần đánh bại kẻ thù mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, tổ tiên ta
đã bổ sung và làm phong phú thêm kho tàng lý luận quân sự của dân tộc nói riêng và nhân
loại nói chung. Trần Quốc Tuấn đã viết 2 tác phẩm lý luận quân sự là "Binh thư yếu lược"

và "Vạn Kiếp tông bí truyền thư". Đáng tiếc cả 2 tác phẩm đó ngày nay không còn để
chúng ta có thể nghiên cứu thật thấu đáo. Tuy nhiên qua những tài liệu khác chúng ta
cũng thấy được những luận điểm nổi bật của tư tưởng quân sự thời Trần được lưu truyền
đến ngày nay. Đó là các quan điểm "toàn dân đánh giặc" là kế sách "vườn không nhà
trống" tại những nơi giặc chiếm. Trần Quốc Tuấn còn chủ trương "có thu phục được quân
lính một lòng như cha con thì mới dùng được". Ông còn đề xuất phương châm "dĩ đoãn
chế trường" cho các cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên. Người Việt thời Lý Trần,
tỏ ra tin tưởng vào khả năng bảo vệ nền độc lập dân tộc. Khí phách hào hùng dựng nước,
giữ nước của nhân dân Đại Việt phấn chấn đầy tự tin, thường được gọi là "hào khí Đông
A".
Một trong những người có tư tưởng chính trị tiến bộ nhất lúc bấy giờ là Trần Quốc
Tuấn. Tư tưởng của ông thể hiện rõ qua câu trả lời vua Trần khi được hỏi về kế sách giữ
nước:"Trên dưới đồng lòng, lòng dân không chia, vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận,
cả nước ra sức, binh sĩ một dạ cha con, khoan thư sức dân làm kế sau rễ bền gốc".
 Tư tưởng sử học
Các nhà sử học thời trần đánh giá cao các anh hùng dân tộc các lãnh tụ như Trưng
Trắc Trưng Nhị, Ngô Quyền...Với quan điểm "viết sử là để khen chê", nêu gương cho đời
sau, Lê Văn Hưu đã phê phán một số vua quan nhà Lý ích kỷ, sa đọa bắt quá nhiều con
gái trong dân gian làm cung nữ.

16


2) Tư tưởng Việt Nam thời kỳ phát triển ổn định và thịnh vượng của chế dộ phong
kiến quân chủ quan liêu (thế kỷ XV)
Đến nửa sau thế kỷ XIV, thể chế quân chủ quí tộc Trần đi vào khủng hoảng. Nhà
Trần không quan tâm đến đê diều thủy lợi khiến mất mùa lụt lội, vỡ đê liên tiếp diễn ra.
Chế độ điền trang, thái ấp lỗi thời phát triển mạnh làm cho nông dân bị nông nô hóa ngày
càng nhiều. Sức sản xuất xã hội bị kìm hãm, giai cấp thống trị ăn chơi sa đọa, tăng cường
bóc lột vơ vét tiền của thóc gạo của nhân dân; mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt làm bùng

nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, nô tỳ khắp nơi tiêu biểu là khởi nghĩa của Phạm Sư
Ôn ở Hà Tây, khởi nghĩa của Ngô Bệ ở Hải Dương, khởi nghĩa của Tề ở Bắc Giang. Khởi
nghĩa Nguyễn Thanh ở Thanh Hóa; khởi nghĩa của Nguyễn Nhữ Cái ở Sơn Tây…Phong
trào nông dân và nô tỳ lúc này là biểu hiện cụ thể nhất của sức sản xuất xã hội bị kìm hãm,
phá hoại nghiêm trọng.
Sự suy yếu của nhà Trần còn biểu hiện ở sự bất lực của Nhà nước trước các cuộc
xâm lược của Chăm pa (3 lần Chămpa tấn công vào tận Thăng Long, đốt phá cung điện,
cướp bóc của cải) nhưng nhà Trần đành bó tay. Trong lúc đó nguy cơ xâm lược của nhà
Minh đang đến gần. Như vậy cuối thế kỷ XIV, đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế xã
hội, xu hướng phân tán và ly tâm ngày càng phát triển, Nhà Trần đã không còn đủ khả
năng điều hành đất nước. Vì vậy một yêu cầu bức thiết đặt ra là phải có một nhà nước
trung ương tập quyền vững mạnh, đủ khả năng thực hiện một cuộc cải cách sâu rộng, lãnh
đạo nhân dân đánh thắng ngoại xâm. Nhận thức được yêu cầu của lịch sử Hồ Qúi Ly đã
từng bước gạt bỏ nhà Trần lên nắm quyền và tiến hành cuộc cải cách khá táo bạo và sâu
rộng. Nhằm chuyển nhà nước từ mô hình Quân chủ Quí tộc sang mô hình Quân chủ Quan
liêu khiểu Đông Á. Tuy nhiên cải cách Hồ Qúi Ly cũng còn những hạn chế nhất định, vấp
phải sự chống đối quyết liệt của tầng lớp quí tộc và cũng không được lòng dân. Cuộc cải
cách dang dở vì nhà Minh sang xâm lược, cuộc kháng chiến của nhà Hồ thất bại, nước ta
rơi vào giai đoạn Minh thuộc 20 năm (1407-1427). Nhà Minh thiết lập ách đô hộ, bóc lột
và đồng hóa nhân dân ta hòng thủ tiêu nền văn minh Đại Việt. Chính quyền đô hộ nhà
Minh đã vơ vét, cuớp bóc và thiêu hủy nhiều công trình văn hóa, tài liệu, thư tịch của
nhân dân ta, hòng thủ tiêu cả truyền thống, ý thức dân tộc của người Việt... Trong hoàn
cảnh đó nhân dân ta đã liên tục vùng lên khởi nghĩa mà tiêu biểu và đi tới thắng lợi là
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ 1418 đến 1427, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và
Nguyễn Trãi đã phát huy cao độ các truyền thống dân tộc; đó là tư tưởng đoàn kết dân
tộc, tư tưởng quân sự Việt Nam: tòan dân đánh giặc, cứu nước; lấy ít địch nhiều lấy yếu
chống mạnh. Nhờ đó nhân dân ta đã chiến thắng được đội quân rất hùng mạnh lúc bấy giờ
giải phóng đất nước giành lại độc lập dân tộc đưa nước Đại Việt phục hưng và phát triển
lên một tầm cao mới.
Nhà Hậu Lê thành lập đã tiếp tục kế thừa và phát triển cuộc cải cách mà nhà Hồ bỏ

dở. Về chính trị nhà Hậu Lê đã thiết lập bộ máy nhà nước theo mô hình mới là nhà nước
Quân chủ Quan liêu. Về kinh tế hạn chế và xóa bỏ chế độ điền trang thái ấp thi hành
chính sách Quân điền. Chính sách quân điền đã góp phần tích cực ổn định và phát triển
kinh tế tiểu nông, hạn chế sự phân hóa xã hội. Về tư tưởng, nhà Lê nâng hệ tư tưởng Nho
gia lên thành hệ tư tưởng thống trị xã hội. Bởi vì với nhu cầu xây dựng nhà nước phong
kiến vững mạnh lúc đó thì mô hình nhà nước quân chủ quan liêu Trung Hoa là mô hình lý
tưởng. Tư tưởng Nho gia có nhiều phạm trù đáp ứng được yêu cầu bảo vệ và củng cố
quyền thống trị của giai cấp phong kiến địa chủ. Nho giáo thời Lê phát triển thịnh đạt

17


không chỉ trở thành tư tưởng thống trị xã hội mà còn trở thành nội dung chủ yếu của văn
hóa, giáo dục khoa cử. Nhà Hậu Lê tiến hành tuyển lựa quan lại cho bộ máy chính quyền
từ trung ương đến địa phương đều thông qua con đường khoa cử. Các nhà Nho đỗ dạt đều
được Nhà nước bổ dụng làm quan. Tầng lớp Nho sỹ trở thành tầng lớp ưu tú trong xã hội.
Tuy nhiên hệ tư tuởng Nho giáo được dân tộc ta tiếp thu một cách có chọn lọc và tích hợp
với một số quan niệm đạo đức và truyền thống dân tộc nên đã hạn chế bớt tính gia trưởng,
khắc phục sự ngu trung. Nho giáo Đại Việt đã có sự tích hợp với một số truyền thống dân
tộc như dân chủ, nhân nghĩa, tôn trọng phụ nữ. Những biểu hiện tích cực này thể hiện rõ
trong quan điểm của nhà tư tưởng lớn - Nguyễn Trãi, thể hiện qua tư tưởng của Lê Thánh
Tông, phản ánh trong nội dung của bộ luật Hồng Đức. Nho giáo lúc này phản ánh lập
trường của giai cấp thống trị, nhấn mạnh tôn ty, trong Ngũ luân (trừ luân thứ 5 Bằng Hữu: bình đẳng) còn 4 luân khác đều bênh vực bề trên áp chế kẻ dưới, trọng nam khinh
nữ.
Đặc điểm của Nho giáo Việt Nam lúc này chữ "nhân" của Nho giáo đã được kết hợp
với tư tưởng từ bi hỷ xã của Phật giáo và truyền thống nhân hậu của người Việt đã tạo nên
giá trị đặc sắc trong tư tưởng Việt Nam đó là tư tưởn nhân hậu, đoàn kết, thương yêu
nhau.
Mặt khác bên cạnh Nho giáo nhà Hậu Lê cùng chú trọng xây dựng luâp pháp để quản
lý xã hội bằng một nhà nước pháp trị Năm 1483 Vua Lê Thánh Tông cho ban hành bộ

luật Hồng Đức.
Trong khi văn hóa chính thống (cung đình) chuyển sang Nho giáo thì văn hóa dân
gian vẫn tiếp tục phát triển ở các làng quê ảnh hưởng lên văn hóa chính thống khá rõ. Phật
giáo bị hạn chế từ thời nhà Hồ và sự phát triển của Nho giáo, đến đầu thế kỷ XV thì bị gạt
khỏi vũ đài chính trị. Tuy nhiên Phật giáo vẫn tiếp tục được duy trì ở nông thôn.
Đạo giáo ở thế kỷ này cũng bị chính quyền đã kích, hạn chế (cuối năm 1429 các
đạo sỹ phải đến sảnh đường khảo thí, người nào không đạt phải giải nghệ về quê sinh
sống). Tuy nhiên Đạo giáo vẫn có ảnh hưởng trong nhân dân, ở nông thôn nhân dân vẫn
tin vào phương thuật của các đạo sỹ.
* Tư tưởng Nguyễn Trãi (1382 -1442)
+ Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi
Ông quê ở xã Chi Ngại, huyện Phương Sơn, trấn Kinh Bắc nay là huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Hưng. Đến thời Trần họ này chuyển đến sinh sống ở làng Nhị khê, huyện
Thường Tín tỉnh Hà Tây.
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong gia đình trí thức tầm cỡ (ông ngoại là Tể
tướng nhà Trần, cha là Tiến sỹ làm quan cho vương triều Hồ). Bản thân Nguyễn Trãi là
người thông minh học rộng cũng từng đỗ Thái học sinh thời nhà Hồ (1400). Sáu mươi
năm cuộc đời Nguyễn Trãi gắn với nhiều biến cố của đất nước, gia đình. Năm 20 tuổi ông
đã đỗ đạt ra làm quan cho nhà Hồ với chức Chánh chưởng trong Ngự sử đài. Năm 1407,
ông dự định đi theo hầu hạ cha già bị nhà Minh bắt đưa về Trung Quốc. Khi lên đến ải
Nam Quan, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi phải quay về tổ quốc để "rữa
nhục cho nước và trả thù cho cha". Vâng lời cha ông quay về, tướng giặc là Trương Phụ
biết ông là người có tài, định lợi dụng ông ra làm quan lại tay sai cho chúng nhưng ông
kiên quyết khước từ; Trương Phụ đành giam lỏng Nguyễn Trãi ở Đông Quan. Năm 1423,
nhân khi kẻ thù lơi lỏng ông đã cùng Trần Nguyên Hãn trốn vào Thanh Hóa tham gia
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nguyễn Trãi sau hơn 10 năm ẩn dật đã lao tâm khổ trí vạch ra

18



"kế sách bình Ngô" khi gặp mặt Lê Lợi ông dã dâng lên Lê Lợi kế sách đặc biệt của mình
ông được Lê Lợi tin dùng và tạo điều kiện thực hành đường lối cứu nước đó và Nguyễn
Trãi đã thực hiện rất thành công kế sách "mưu phạt tâm công" đánh vào lòng người, lấy
chí nhân để thay cường bạo. Riêng bộ sách Quân trung từ mệnh có thể sánh ngang sức
mạnh của 10 vạn quân.
Cuộc khời nghĩa Lam Sơn thắng lợi, với đóng góp to lớn, Nguyễn Trãi được nhà
Lê xếp vào hàng khai quốc công thần được phong chức Đại Hành khiển đứng đầu ban văn
và ban quốc tính (đổi sang họ Lê). Nguyễn Trãi tiếp tục đem hết tài năng, sức lực, trí tuệ
giúp 2 đời vua Thái Tổ và Thái Tông. Với tấm lòng trung nghĩa yêu nước thương dân sâu
sắc mặc dù bị bọn nịnh thần ghanh ghét hãm hại, nhiều lần giáng chức, lui về vở ẩn song
ông vẫn không hề thoái chí, vẫn sẵn sàng giúp vua, giúp nước mỗi khi vua cần. Song
trong chốn quan trường hiểm ác việc nguyễn Trãi luôn vì nghĩa đứng về công lý, vì nhân
dân ngăn chặn bọn tham quan lộng quyền đã làm chúng thù ghét và lợi dụng vụ án "Lệ
chi viên" để hãm hại một cách tàn ác phải tru di cữu tộc (chín đời). Tuy nhiên cuộc đời
cao đẹp trong sáng của ông cuối cùng cũng được minh oan và hậu thế ghi nhận. Chính
vua Lê Thánh Tông đã làm lễ giải oan và khẳng định "Ức Trai tâm tự sao Khuê".
Là người văn võ kiêm toàn, Nguyễn Trãi đã có những đóng góp quan trọng trên
nhiều lĩnh vực tư tưởng chính trị, quân sự, ngoại giao, binh vận, văn học, lịch sử, địa lý,
giáo dục v.vv..Tư tưởng Nguyễn Trãi hình thành từ 3 cơ sở chủ yếu sau: Từ chủ nghĩa
yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực
trong các học thuyết Nho, Phật, Lão và từ chính thiên tài trí tuệ của ông. Ngoài ra TT
Nguyễn Trải còn bắt nguồn từ thực tiễn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ
XV với nhiều biến độngphức tạp. Tư tưởng Nguyễn Trãi hình thành và phát triển qua 4
giai đoạn: từ 1380 đến 1400, qua con đường học vấn, từ sự giáo dục của ông ngoại, của
cha và truyền thống gia đình quê huơng chủ yếu là tiếp thu cốt lõi Nho giáo, có tích hợp
các yếu tố tích cực của Phật và Lão. Từ 1400-1407, giai đoạn này tư tưởng Nguyễn Trãi
có bước phát triễn nhất định từ lý luận bắt đầu có sự tham chiếu thực tiễn. ông không
hành xữ theo lý tưởng của Tống nho không ngu trung mà suy xét thực tiễn để thể hiện
thái độ và hành động cho phù hợp với yêu cầu của lịch sử dân tộc. Từ 1407 dến 1423, là
giai đoạn đi từ tư tưởng yêu nước đến tìm đường lối cứu nước và đặc biệt là tư tưởng

quân sự với Bình Ngô sách. Từ 1423 đến 1442, là giai đoạn thể hiện sự hoàn chỉnh bằng
tư duy lý luận đó là một hệ thống rộnng lớn bao gồm nhiều lĩnh vực: Tư tưởng chính trị,
quân sự, đạo đức, giáo dục, mĩ học âm nhạc.
Nguyễn Trãi không có các chuyên luận bàn về tư tưởng, không có học thuyết tư
tưởng mà thông qua hoạt động thực tiễn của bản thân, cộng đồng để từ đó đề ra những
quan niệm, quan điểm lý luận để đưa chúng trở lại phục vụ trực tiếp cho thực tiễn nâng tư
duy của cộng đồng dân tộc lên một bước mới. Tư tưởng của ông không chỉ có giá trị lúc
bấy giờ mà còn có tác dụng đến nhiều thế kỷ tiếp theo của chế độ phong kiến Việt Nam.
Thậm chí có những mặt vượt tầm thời đại có ảnh hưởng đến tư tưởng Việt Nam thời cận
hiện đại.
+ Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Nguyễn Trãi
1) Tư tưởng chính trị là bộ phận quan trọng và là đỉnh cao trong thời đại phong
kiến. Những tư tưởng chính trị đúng đắn tiến bộ này đã chi phối một cách sáng suốt từ
chủ trương đến hành động của dân tộc thời phong kiến. Tư tưởng chính trị của ông thể
hiện tập trung vào những vấn đề lớn sau đây:

19


a) Yêu nước thiết tha, tự hào dân tộc sâu sắc được thể hiện trong ý thức trách
nhiệm của ông đối với dân tộc, với cộng đồng sẵn sàng xã thân vị nghĩa lớn, vì công cuộc
cứu dân cứu nước.Yêu nước, tự hào dân tộc ở Nguyễn Trãi mang nội dung cụ thể "yêu
nước là phải "cứu nước, cứu dân". Tự hào dân tộc được thể hiện là sự tự hào về lịch sử, về
nền văn hiến của dân tộc, về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc (dẫn trích đoạn
Bình Ngô đại cáo "Như nước Đại Việt ta…"), Yêu nước theo quan điểm của ông thể hiện
ở lòng căm thù quân giặc sâu sắc (lên án đanh thép tội ác của quân xâm lược: "nướng dân
đen trên ngọn lữa hung tàn vùi con đỏ dưới hầm tai vạ….chặt hết trúc Nam sơn khó ghi
đầy tội ác, tát cạn nước Đông hải khó rữa sạch hết nhơ thần người đều căm giận, trời đất
chẳng dung tha"…)
b) Nhân nghĩa từ chỗ tiếp thu nhân nghĩa của Nho giáo Nguyễn Trãi mở rộng và

nâng cao lên một bước so với học thuyết Khổng Mạnh Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn
Trãi là tư tưởng hành động phục vụ tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Yêu nước thương dân là nội dung cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa của nguyễn Trãi.
"Vượt lên các trí thức nho học đương thời, Nguyễn Trãi có cái nhìn mới về dân. Tư tưởng
thân dân của ông trở thành tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam" [13; 59]. Đối với
Nguyễn Trãi nhân dân là lực lượng to lớn, có sức mạnh vĩ đại:
"Lật thuyền mới rõ dân như nước" và nhân dân có vai trò quyết định đối với lịch
sử: 'Mến người có nghĩa là dân, mà chở thuyền và làm lật thuyền cũng dân". Trong giai
đoạn xây dựng đất nước khi tham gia chính quyền ông lấy tư tưởng thân dân làm kế sách
chỉ đạo hoạt động và coi nó là tiêu chuẫn đạo đức, một yêu cầu quan trọng đối với vua
quan lấy đó làm nội dung để dạy vua và khuyên can nhà vua trong hành xử; lấy đó làm cơ
sở để đấu tranh trực điện với các quyền thần trong triều Lê để thực hiện đường lối "giản
chính khoa dân". Ông đề ra yêu cầu đối với nhà cầm quyền "phàm người có chức vụ coi
quốc trị dân đều phải theo phép công bằng, làm việc cần mẫn, thờ vua hết trung, đối với
dân hết hòa, đổi bỏ thói tham ô, trừ tệ lười biếng. Bè đảng riêng tây phải đứt, thái độ cố
phạm phải chừa. Coi công việc của mình, lấy điều lo cho dân sinh làm điều thiết kỷ".
trong trị nước cứu nước ông đề xuất việc cầu hiền tài. Tư tưởng nhân nghĩa còn thể hiện
trong việc hành xử với kẻ thù Nghĩ kế lâu dài của nhà nước tha kẻ hàng mười vạn sỹ binh,
sửa hòa hiếu cho hai nước, tắt muôn đới chiến tranh.
c) Yêu hòa bình và nhân đạo
Qua các tác phẩm của mình Nguyễn Trãi trên 50 lần đề cập đến hòa bình. Ông lên
án mạnh mẽ chiến tranh phi nghĩa "thần châu từ thuở nổi can qua
Muôn dân rên xiết biết làm sao được
Ông mong muốn "Mọi sự đã chẳng còn ước nữa
Nguyện xin một thấy thuở thăng bình"
Với tâm nguyện xây dựng một xã hội thái bình thịnh trị, ông mong nhà vua
phải thương dân chăm lo cho dân, làm cho xã hội thái bình, trong thôn cùng xóm vắng
không còn ai hờn giận oán sầu. Ông thông cảm sâu sắc với cuộc sống bần hàn của nd.
2) Tư tưởng quân sự
Qua Bình Ngô sách, Quân trung tư mệnh, Bình Ngô đại cáo, Phú Chí Linh; tư tưởng

quân sự được thể hiện rất rộng lớn phong phú, sâu sắc và có những điểm vựợt qua thời đại
mình tiếp cận với khoa học. Nó không chỉ làm kim chỉ nam cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
mà còn có giá trị to lớn đói với thực tiễn chống ngoại xâm của dân tộc ở những thế kỷ sau
làm phong phú thêm kho tàng khoa học về tư tưởng quân sự Việt Nam và nhân loại. Ông

20


là người đầu tiên trong lịch sử thể hiện khá hoàn chỉnh và có hệ thống tư tưởng quân sự
VN độc dáo và sáng tạo với những nội dung cơ bản sau:
a) Tư tưởng dựa vào lòng dân để xây dựng lực lượng và phát động cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc
b) Chiến lược tâm công được đề ra trong Bình ngô sách và được thực thi trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn.
c) Đánh lâu dài, kết hợp các hình thức quân sự, chính trị, binh vận và ngoại giao được
vận dụng khéo léo tạo nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
3) Tư tưởng đạo đức, giáo dục, mĩ học
a) Tư tưởng đạo đức: nền tảng tư tưởng này của ông bắt nguồn từ truyền thồng dân
tộc đã được hình thành trong quá trình lịch sử kết hợp với việc tiếp thu có chọn lọc những
tư tưởng đạo đức Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo. Ông chú trọng phẩm chất đạo đức yêu
nước thương dân, thanh liêm chính trực, giữ cuộc sống thanh đạm.đối với danh lợi không
màng ông quan niệm "phú quí lòng hơn phú quí danh".
b) Tư tưởng giáo dục:
Tư tưởng này thể hiện qua chủ trương đào tạo thế hệ trẻ thành người có ích cho dân,
cho nước, tự hào vì tổ quốc để chiến đấu bảo vệ tổ quốc và xây dựng quốc gia. Giáo dục
người cầm quyền để họ vì dân, vì nước mà hành động, cả việc cải tạo kẻ địch để họ nhận
thức con đường chính nghĩa từ bỏ những hành động tội lỗi.
Nguyễn Trãi quan niệm học tập có mục đích rõ ràng là học không phải để làm quan
mà để mở mang dân trí, trở thành người lao động có kiến thức. Trong giáo dục phải coi
trọng giáo dục đạo đức: "tài kém đức một hai phần", "tích đức cho con hơn tích của",

Nguyễn Trãi nhấn mạnh đức nhân hậu coi đó là tiêu chuẩn đạo đức quan trọng để giáo
dục. Ông còn tiếp thu tư tưởng giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc đó là lòng nhân ái,
đạo lí làm người. Tư tưởng giáo dục của ông để lại cho chúng ta nhiều bài học quí.
c) Tư tưởng mỹ học:
Tư tưởng mĩ học Nguyễn Trãi thể hiện chiều sâu cái đẹp, cái cao thượng. Cái đep
trở thành phạm trù trung tâm trong tư tưởng mĩ học Nguyễn Trãi. Được nhà vua giao
cùng với Lương Đăng soạn nhã nhạc cho quốc gia ông đã phát biểu quan điểm của mình
về âm nhạc để giải thích việc không thể thống nhất được với Lương Đăng. Nguyễn Trãi
quan niệm: "dân là gốc của nhạc, để cho nhã nhạc phát triển thì vua phải chăm lo thưong
yêu cho dân".
+ Tư tưởng Lê Thánh Tông
Vài nét về tiểu sử: Lê Thánh Tông tên thật là Lê Tự Thành sinh năm 1442, mất
năm 1497. Ông là vị minh quân có nhiều đóng góp quan trọng cho lịch sử VN. Là con trai
vua Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao. Lúc nhỏ mẹ ông bị Hoàng hậu tìm cách hãm
hại nhưng được Nguyễn Trãi che chở. Năm 1460, sau sự kiện các quan đại thần làm chính
biến phế truất vua Nghi Dân, Lê Tự Thành được đưa lên ngôi với tên hiệu là Lê Thánh
Tông. Là người đức độ, học vấn uyên bác và có khả năng nhiều mặt. Dưới thời Lê Thánh
Tông trị vì đất nước thịnh trị, chế độ phong kiến được củng cố vững chắc. Ông đã tiến
hành cuộc cải cách hành chính chia đặt lại đơn vị hành chính, cải tổ bộ máy nhà nước tập
trung quyền hành vào tay vua bãi bỏ các chức đại thần tể tướng; vua trực tiếp làm việc với
các bộ, ban hành bộ luật thành văn khá hoàn chỉnh và tiến bộ mang tên luật Hồng Đức.
Ông cũng đã cho vẽ bản đồ làm cơ sở cho việc quản lý đất nước. Cương giới phía băc
được củng cố, cương giới phía Nam và phía Tây được mở rộng. Nạn xâm lấn bờ cõi của

21


Chiêm Thành bị loại bỏ. Lê Thánh Tông đã tự làm tướng đưa quân tấn công Chiêm Thành
mở rộng biên giới phía Nam đến đèo Cù Mông. Phần còn lại của Chiêm Thành bị ông
chia làm 3 quốc gia (Chiêm Thành, Nam Bàn và Hoa Anh). Từ đây Chiêm Thành suy yếu

hẵn không còn đủ sức cướp phá Đại Việt như trước nữa. Lê Thành Tông cũng là người đề
ra chính sách Quân điền khẳng định quyền quản lý ruộng đất công của Nhà nước, thực thi
chính sách trọng nông với nhiều biện pháp trong đó có chủ trương khuyến khích khai
hoang lập làng do đó nhiều làng Việt từ Quảng Bình đến Quảng Nam được thành lập vào
thời gian ông trị vì. Là người học rộng tài cao ông nhiều lần trực tiếp ra đề thi đình để
chọn nhân tài. Ông cũng là nhà thơ lớn là người sáng lập ra hội Tao Đàn. Tác phẩm của
ông được tập hợp trong Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức Quốc âm thi tập. Ông cũng là
người đã lập đàn giải oan cho Nguyễn Trãi.
- Tư tưởng Lê Thánh Tông
Về thế giới quan ông tin theo thuyết Thiên mệnh, giải thích sự hưng vong của các
triều đại là do trời, ông tin có lực lượng siêu nhiên chi phối con người và xã hội loài
người.
Về tư tưởng chính trị, ông xem triều đại Nghiêu, Thuấn là mục tiêu phấn đấu của
triều đại mình. Và cho rằng mục tiêu đó có thể đạt được "sớm biét rằng người ta đều thể
giống như vua Thuấn, đừng cho rằng ngày nay không được như ngày xưa", và có lúc ông
đã tự nhận triều đại mình là triều đại Nghiêu Thuấn.
Tư tưởng chính trị của ông lấy Nho giáo làm hạt nhân cơ bản. Tuy nhiên cũng
như các nhà yêu nước khác, ông đứng trên lập trường dân tộc để tiếp thu Nho giáo. Lê
Thánh Tông, chủ yếu chỉ tiếp thu những mặt tích cực những cái có lợi cho sinh hoạt dân
tộc. Tư tưởng nho giáo của Lê Thánh Tông có nhiều nét thể hiện được tinh thần dân tộc
và khí thế đang lên của quốc gia. Bên cạnh đó tư tưởng của ông vẫn bộc lộ những hạn chế
nhất định như chuyên chế, khắc nghiệt, danh phận ngặt nghèo, nặng thần quyền. Đường
lối chính trị và lý tưởng xã hội của ông là muốn tạo lập một xã hội thái bình thịnh trị với 4
đặc trưng: đất nước hòa bình dân ấm no, lễ giáo phát triển và quyền thống trị thuộc về nhà
Lê. Đóng góp của ông là xây dựng một đường lối trị nước kiểu văn trị, lễ trị, đức trị. Ông
chủ trương lấy lễ nghĩa để ràng buộc con người. Song lễ nghĩa phải xây dựng trên cơ sở
đời sống ấm no của dân, ông đã kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện
qua việc xây dựng bộ luật Hồng Đức có nhiều điểm tiến bộ như cho phép phụ nữ được
quyền từ hôn nếu phát hiện chồng chưa cưới bị ác tật,.. luật Hồng Đức còn cho phép
những nhà không có con trai thì con gái trưởng được quyền thừa kế hương hỏa của cha

ông...
Nhìn chung tư tưởng Lê Thánh Tông về cốt lõi là tư tưởng Nho giáo, nhằm tăng
cường chế độ chuyên chế, song nó đáp ứng được một số yêu cầu dân sinh dân chủ. tạo ra
một số tiền đề cho đất nước phát triển, cho ý thức tự cường dân tộc được nâng cao. Bên
cạnh đó tư tương Lê Thánh Tông cũng bộ lộ những hạn chế nhất định: Chủ nghĩa chủ
quan biểu hiện rõ trong việc tự đánh giá và đánh gia triều đại mình, ý thức bản ngã lớn,
ông tự coi mình là trung tâm của xã hội, trung tâm chi phối xã hội.
II. Lịch sử tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII
Bước sang đầu thế kỷ XVI, nhà Lê nhanh chóng suy yếu. Các vua Lê Uy Mục, Lê
Tương Dực, Lê Chiêu Tông đều ăn chơi sa đọa, bất tài không còn chăm lo triều chính để
cho các thế lực quân phiệt tranh giành quyền lực chém giết lẫn nhau. Dưới địa phương
bọn quan lại, cường hào, địa chủ hoành hành ức hiếp dân lành. Chính sách quân điền phá

22


sản do nạn chấp chiếm ruộng đất của bọn địa chủ. Đời sống nhân dân cực khổ mâu thuẫn
xã hội trở nên sâu sắc, khởi nghĩa nông dân bùng nổ. Trước tình hình đó Mạc Đăng Dung
đã phế truất nhà Lê lập ra nhà Mạc. Nhà Mạc mới lên không có những cải cách phù hợp
với yêu cầu của lịch sử do đó các mâu thuẫn xã hội vẫn không được giải quyết. Mặt khác
nhà Mạc lại thần phục quá mưc đối với nhà Minh, cắt một bộ phận lãnh thổ ở biên giới
cho Trung Quốc. Việc làm sai trái đó của nhà Mạc đã là cho triều Mạc trở nên cô lập. Các
cựu thần của nhà Lê đã nổi lên chống Mạc ở nhiều nơi. Lực lượng mạnh nhất trong các
cựu thần của nhà Lê là thế lực Nguyễn Kim. Sau khi chiếm được Thanh Hóa, thế lực họ
Nguyễn nhanh chóng phát triển. Năm 1545, Nguyễn Kim bị một hàng tướng nhà Mạc đầu
độc chết, con rễ Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm trở thành người đứng đầu lực lượng phò Lê
chống Mạc. Cuộc nội chiến phát triển lên mức độ ác liệt với qui mô ngày càng lớn hơn.
Sau gần nửa thế kỷ giằng co cuối cùng họ Trịnh đánh bại nhà Mạc đưa vua Lê (chỉ là vua
bù nhìn) ra Thăng Long. Cuộc nội chiến Trịnh - Mạc cơ bản chấm dứt. Đến cuối thập niên
20 của thế kỷ XVII, cuộc nội chiến thứ hai (nội chiến Trịnh - Nguyễn) lại bùng lên và

cuối cùng đẩy đất nước vào tình trạng chia cắt kéo dài hàng trăm năm. Nét nổi bật trong
bức tranh lịch sử nước ta từ thế kỷ XVI - XVIII, là sự phát triển của kinh tế hàng hóa,
lãnh thổ được mở rộng về phương nam, diện tích canh tác được mở rộng, sự giao lưu kinh
tế trở nên mạnh mẽ với sự có mặt của các thương gia phương Tây. Một số đô thị mới ra
đời, các đô thị cũ hưng khởi. Ki tô giáo và văn hóa phương Tây theo chân các cố đạo và
nhà buôn cũng bắt dầu thâm nhập vào nước ta.
Tư tưởng chính trị xã hội vẫn là nội dung tư tưởng lớn của lịch sử tư tưởng thời kỳ
trước đó, đến đây phát triển theo hướng lấy Nho giáo khái quát thành đường lối trị nước
thành ra bá đạo và vương đạo tuy nhiên quan niệm đã có nhiều khác trước.
Tư tưởng nhân nghĩa thời kỳ này có nội dung nhân văn và thực tế nhất không phải là
của các Nho sĩ tại chức mà là của các Nho sĩ ẩn dật lánh đời. Ở ẩn nhưng họ vẫn nung nấu
các vấn đề xã hội. Các danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giác hải, Phùng khắc Khoan,
Nguyễn Dữ, Phạm công Trứ… Trong số đó tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh khiêm. Do xã
hội nhiễu nhương loạn lạc nên khuynh hướng phát triển của tư tưởng lúc này là kết hợp
Nho giáo với tư tưởng Lão Trang (Nguyễn Bỉnh Khiêm), kết hợp Nho với Đạo giáo
(Nguyễn Dữ). Một chủ trương khác là kết hợp Nho Phật Lão thành một khối (tam giáo
đồng nguyên). Người ta thấy mỗi tư tưởng chỉ giữ một chức năng hạn chế, không thể tách
riêng ra và chọn lấy một để làm công cụ duy nhất đối phó với một hoàn cảnh đa dạng và
phức tạp.
Từ thế kỷ XIV, Tống Nho đã vào Việt Nam, nhưng phải đến thế kỷ XVI nó mới
được tiếp thu một cách có hệ thống và được thể hiện qua nhà trí thức Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Ở các thế kỷ trước đã xuất hiện nhiều nhà tư tưởng Nho gia nhưng tư tưởng của
họ phần lớn chỉ dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng chính trị - xã hội mà phần triết học còn mờ
nhạt. Từ thế kỷ XVI trở đi, tính chất triết học trong tư duy ngày một thể hiện rõ. Người ta
đã bàn tới các cặp phạm trù của triết học như "nhân dục và thiên lý", "mệnh trời", sức
người, âm và dương, bỉ và thái, trị và loạn…Các học giả bàn tới vấn đề có tính chất qui
luật phát triển là Đạo trời. Lập trường giải quyết về cơ bản vẫn là duy tâm, tiêu cực, song
tư duy đã thực sự đi vào triết học.
Vấn đề quan niệm sống của các nhà tư tưởng trong 2 thế kỷ XVI và XVII đã được
đặt ra. Tuy nhiên tình hình đã khác trước. Ở các thế kỷ trước quan niệm sống còn giới hạn

ở đạo Nho. Nhưng 2 thế kỷ này quan niệm đã tỏ ra có tính đa nguyên, đa dạng. Người thì

23


chủ trương "xuất"(ra làm quan), người thì lại chủ trương "xuất" rồi lại "xử"…Tính chất
xuất và xử lúc này cũng không có nét riêng.
Tuy Nho giáo vẫn được đề cao nhưng nó không tách rời Phật giáo và Lão giáo.
Hiện tượng Tam giáo đồng nguyên trên cơ sở của Nho giáo ngày càng trở thành xu hướng
lớn lúc bấy giờ. Nhưng chủ trương này cũng vấp phải sự phản đối của nhiều nhà Nho
(Bùi Dương Lịch, Bùi Huy bích…)
+ Tư tưởng Phật giáo ở các thế kỷ XVI - XVIII
Nếu bị đã kích nặng nề ở thế kỷ XV thì sang các thế kỷ XVI-XVIII, Phật giáo có
sự phục hồi và phát triển với sự tin theo ngày càng đông đảo hơn của nhân dân và các trí
thức. Từ thế kỷ XVI trở đi chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân khốn khổ, chính
quyền trung ương suy yếu nên Phật giáo hưng khởi, nhân dân đi tu theo Phật có xu hướng
ngày một tăng, xuất hiện những nhà sư nổi tiếng như Chân nguyên, Hương Hải; Chùa
chiền bắt đầu được xây thêm hoặc được trùng tu.
Ở Đàng Trong, năm 1601, Nguyễn Hoàng đã cho xây chùa Thiên Mụ ở Hương Trà.
Vào cuối thế kỷ XVII, có thiền phái Tào Động du nhập vào nước ta. Ở Đàng ngoài
có sư Thủy Nguyệt người Thái Bình đi học ở Quảng Đông trở về. Ở Đàng Trong có các
sư Hương Liên và Thạch Liêm là các cao tăng nổi tiếng.
Đến những năm 60, 70 của thế kỷ XVIII, các nhà sư Quảng Đông nhập cư và nước
ta có vai trò quan trọng trong việc mở rộng Phật giáo tiêu biểu là sư Nguyên Thiều.
Tư tưởng Thiền của Thạch Lâm tuyên truyền ở Đàng Trong có những nội dung cơ
bản như sau: Kết hợp Thiền Tông và Tịnh độ tông- kết hợp Nho với Phật. Phật giáo Đàng
Trong được chúa Nguyễn khuyến khích nên phát triển nhanh chóng. Chúa Nguyễn Phúc
Nguyên xưng là chúa Sãi. Tuy thế Phật giáo lúc này cũng không thể vươn lên thành một
hệ tư tưởng chính trị dùng vào việc tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội. Sở dĩ như vậy vì
Nho giáo lúc này vẫn ở vị trí thống trị chi phối rộng rãi trong xã hội đến tận các xóm làng.

Nhà nho Nguyễn Cư Trinh là người lớn tiếng phê phán Phật giáo qua tác phẩm về Sãi
Vãi.
Đến thế kỷ XVIII, Phật và Đạo tuy vẫn được coi trọng, nhân dân tin theo nhưng đã
tụt xuống bình diện tâm lý và tín ngưỡng. vai trò của chúng trên trường lý luận không rõ.
Bên cạnh Phật giáo thì Đạo giáo cũng phát triển mạnh ở Đàng ngoài giai đoạn này. Tại
Thăng Long, Huế, Lạng Sơn nhiều Đạo quán được xây dựng. Một số Nho sỹ có tên tuổi
cũng đi theo Đạo giáo như Lê Qúi Đôn, Ngô Thì Sỹ, Phan Huy Ích...
Bên cạnh các học thuyết tư tưởng và tôn giáo truyền thống, Thiên Chúa giáo bắt đầu
du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVI đến các thế kỷ XVII, XVIII đã có điều kiện mở rộng
và phát triển. Các giáo sỹ Italia, Bồ Đào nha, Tây Ban nha, Pháp hoạt động ngày càng ráo
riết. Một bộ phận nhân dân do bất mãn với chính quyền và hệ tư tưởng thống trị nên đã đi
theo Thiên Chúa giáo. Vì Thiên Chúa giáo có tư tưởng cực đoan đoạn tuyệt với các tư
tưởng tôn giáo truyền thống nhất là với Nho giáo nên đã gặp phải sự phản ứng không nhỏ.
Ngoài ra một số giáo sỹ phương Tây bên cạnh hoạt động tôn giáo lại còn hoạt động chính
trị, làm gián điệp cho bọn thực dân đã gây nên sự bất bình trong xã hội. Do đó chính
quyền cả Đàng Trong và Đàng ngoài đều có chủ trương cấm đạo và trục xuất giáo sỹ. Tồn
tại song song với các tôn giáo từ ngoài truyền vào còn có các tín ngưỡng bản địa. Cũng
như các thế kỷ trước, tín ngưỡng này ở thế kỷ XVIII, thật đa dạng. Vùng nông thôn làng
xã người ta thờ cúng nhiều loại thần. Các thần tự nhiên như thần mây, mưa, sấm chớp,

24


sông núi cây đa, cây đề…có nhân thần như Thần tổ tiên, thần các anh hùng cứu nước,
thần Khai canh lập ấp, thần Thành hoàng…bản thân mỗi người cũng có thần bản mệnh.
Đến thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam đều khủng hoảng trầm trọng. Suốt
những năm 40 - 60 phong trào nông dân Đàng Ngoài dấy nên mạnh mẽ mà tiêu biểu là
khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu ở đồng bằng, khởi nghĩa Nguyễn Danh Phương ở
trung du, khởi nghĩa Lê Duy Mật ở miền núi…
Ở Đàng Trong bước sang nửa sau thế kỷ XVIII, phong trào nông dân cũng diễn ra ở

nhiều nơi như khởi nghĩa của Chàng Lía, khởi nghĩa Tây Sơn. Khởi nghĩa Tây Sơn đã thu
được những thành tích cơ bản chứng tỏ bản chất tiến bộ của nó như:
- Lật đổ các thế lực phong kiến phản động Nguyễn, Trịnh và Lê
- Đập tan 2 cuộc chiến tranh xâm lược của phong kiến Xiêm và Mãn Thanh bảo vệ
vững chắc nền độc lập dân tộc.
- Khôi phục kinh tế đặc biệt là nông nghiệp, giảm nhẹ thuế khóa, bảo trợ cho công
thương, cho phép thương nhân, thợ thủ công mở rộng buôn bán, mở cửa thông thương ở
biên giới với Trung Quốc và một số cửa biển; cho thương nhân phương Tây đến buôn bán
- Nhà nước chăm lo xây dựng văn hóa đề cao ý thức dân tộc. Tiếng nói dân tộc và
chữ Nôm được chú trọng.
Vua Quang Trung và Ngô Thì Nhậm đã có những đóng góp lớn đối với xã hội Việt
Nam cuối thế kỷ XVIII, mở ra khả năng mới cho sự phát triển của xã hội. Triều Tây Sơn
có nhiều đóng góp nhưng cũng phạm không ít sai lầm nên sau khi Quang Trung mất
Vương triều này đã bị Nguyễn Ánh lật đổ nhanh chóng.
 Nguyễn Bỉnh Khiêm - nhà tư tưởng tiêu biểu của thế kỷ XVI
Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XVI, tư tưởng của ông được
phản ánh trong các tác phẩm như Bạch Vân thi tập, Bạch Vân Quốc âm thi tập, một số
sấm ký. Qua thơ văn và cuộc đời ông đã tỏ rõ được cái ý chí, quan niệm nhân sinh và
nhận thức của mình. Ông thể hiện quan điểm của mình về các vấn đề những điều như quy
luật vận đoọng của vũ trụ, của lịch sử, của con người; về thế giới quan. Tư tưởng Nguyễn
Bỉnh Khiêm có không chỉ có vị trí nổi bật trong đương thời mà còn có ảnh hưởng quan
trọng trong các giai đoạn lịch sử tiếp theo.
- Thế giới quan triết học của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Ông bàn nhiều đến các quan niệm
về thế giới về nhân sinh, điều đó có nguyên nhân của nó là do thời cuộc. Từ những vấn đề
nhân sinh của xã hội ông tìm đến với những vấn đề của tự nhiên, rồi từ nhận thức về tự
nhiên ông trở lại suy nghĩ về nhân sinh xã hội. Ông có nhận thức đúng đắn rằng: con
người là một bộ phận của tự nhiên, giữa người và Trời có sự thống nhất với nhau "thiên
nhân tương dữ, hựu tương phù" (trời và người cùng quan hệ với nhau lại cùng phù hợp
với nhau). Tư tưởng của ông về trời và người không có tính chất thần bí như Đổng Trọng
Thư. Ông quan niệm đúng đắn rằng: con nguời ta cũng như vạn vật đều sinh ra một cách

tự nhiên…Tư tưởng của ông gần với triết lý của Lão Tử; ông nói: sinh ý vô tư vạn vật
đồng" (cái ý sinh thành của trời không có thiên tư, muôn loài đều như nhau cả). Những
hạn chế của ông là không thấy được đặc điểm của con người và xã hội loài người, đã đánh
đồng qui luật xã hội với qui luật tự nhiên, do đó dẫn tới quan điểm duy tâm số mệnh.
Nguyễn Bỉnh Khiêm gọi sự phát triển của tự nhiên là đạo trời, ông nói "tuần hoàn
vãng phục lý chi thường" (lẻ tuần hoàn đi rồi lại lại, đó là lẻ thường của lý). Sự chuyển
hóa giữa các mặt đối lập là qui luật phổ biến của tự nhiên và xã hội. Điểm hạn chế của
Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông không thấy được điều kiện của sự chuyển hóa. Ông chỉ thấy

25


×