Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Sự hoàn thiện của pháp luật la mã và ảnh hưởng của nó trong thời kỳ cận hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.58 KB, 30 trang )

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
MÔN LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT THẾ GIỚI
Mục lục:

Trang

Lời mở đầu
1. Lí luận chung...............................................................................2
1.1 Luật La mã thời kỳ cộng hòa sơ kỳ...........................................2
+ Nhà nước.
+Luật La Mã.
1.2 Luật La mã thời kỳ cộng hòa hậu kỳ………………………….4
1.2.1.Lịch sử hình thành luật la mã thời cộng hòa hậu kì…………4
1.2.2.Nguồn của luật La Mã thời cộng hòa hậu kì………………..4
1.2.3. Nội dung cơ bản của luật La Mã thời cộng hòa hậu kì……...5
2. Sự hoàn thiện của pháp luật la mã và ảnh hưởng của nó trong thời kỳ cận hiện
đại.
2.1. Sự hoàn thiện. ...........................................................................9
2.2. ảnh hưởng
2.2.1 Ảnh hưởng của luật La Mã với dòng họ pháp luật Common Law
2.2.1.1 Sơ lược về dòng họ pháp luật Common Law………………13
2.2.1.2 Hệ thống pháp luật Anh…………………………………….17

2.2.2. ảnh hưởng tới hệ thống civil law.............................................22
2.2.3. ảnh hưởng tới pháp luật Việt Nam..........................................24
KẾT LUẬN.......................................................................................29
Danh mục tài liệu tham khảo.............................................................29
1


LỜI MỞ ĐẦU


Luật La Mã là hệ thống luật cổ, được xây dựng cách đây khoảng hơn 2000 năm
(449 TCN), áp dụng cho thành Roma và sau đó là cả Đế quốc La Mã. Các nguồn
của Luật La Mã thời Cổ đại được sưu tập trong Corpus Iuris Civilis được tái khám
phá trong thời kỳ Trung cổ và mãi cho đến thế kỷ 19 vẫn được xem là nguồn luật
pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu.
1. Lí luận chung.
1.1 Luật La mã thời kỳ cộng hòa sơ kỳ.
+ Nhà nước
Vào khoảng năm 510 tr.c.n., chấm dứt thời kỳ vương chính trong lịch sử La Mã,
thời kỳ tan rã toàn diện của chế độ xã hội thị tộc. Cũng từ đó mở đầu một thời kỳ
mới, thời kỳ cộng hòa La Mã.
Lúc bấy giờ, "vua" đã bị phế truất, nhà nước La Mã mới ra đời. Ðại hội Xanturia,
mà thực chất là đại hội của toàn thể quân đội, họp để quyết định chung về mọi
vấn đề quân sự như tuyên chiến, đình chiến hoặc nghị hòa, bầu cử tướng lĩnh hàng
năm..., trở thành cơ quan quyền lực tối cao của nhà nước La Mã. Ðại hội Xanturia
họp là hình thức phôi thai của nền dân chủ nô La Mã.
Cơ quan quyền lực thứ hai của nhà nước cộng hòa La Mã được giao cho hai quan
chấp chính gọi là Consul, quyền hành ngang nhau, Thời chiến thì giữ chức tư lệnh
quân đội La Mã, thời bình thì nắm giữ quyền lập pháp, quyền hành chính lẫn
quyền tư pháp, quyền hạn rất lớn.
Tóm lại, nhà nước La Mã vừa ra đời, đã mang tính chất hai mặt. Một mặt, nó tập
hợp cả dân La Mã và Pơ-lep vào một nhà nước thống nhất, tổ chức theo hình thức
cộng hòa, trong đó quyền dân chủ của nhân dân La Mã được đảm bảo một mức độ
nhất định, tạo điều kiện cho La Mã phát triển mạnh mẽ chế độ chiếm hữu nô lệ; đó
là mặt tích cực của nó. Nhưng mặt khác, nhà nước đó thực chất là nhà nước cộng
hòa quí tộc, trong đó quyền hành tập trung vào tay giai cấp quí tộc La Mã; sự cách
biệt giữa Pa-tơ-ri-xi nà Pơ-lep vẫn còn.

2



Cải cách của Tu-li-u-xơ căn bản chưa xóa bỏ được sự cách biệt giữa Pơ-lep và Patơ-ri-xi, vì thế cuộc đấu tranh còn tiếp tục diễn ra trong suốt 200 năm sau.
Năm 287 tr.c.n., có thể coi là năm kết thúc quá trình đấu tranh bền bỉ của người
bình dân chống phân biệt đối xử công dân tự do La Mã.
Tuy nhiên, chế độ cộng hòa La Mã dù có được dân chủ hóa, nhưng nhà nước đó
căn bản vẫn đảm bảo quyền lợi của bộ phận chủ nô giàu có trước hết, nên nó còn
mang nhiều tính chất hạn chế.
+Luật La Mã:
Năm 449TCN bộ luật 12 bảng ra đời, phản ánh sâu sắc quan hệ kinh tế và xã hội
giai đoạn đầu của nhà nước cộng hoà La Mã.
Bộ luật thừa nhận và bảo vệ quyền tư hữu tài sản. Kẻ nào xâm phạm tài sản của
người khác như đốt nhà, trộm cắp, phá hoại hoa màu sẽ bị xử tử. “Nếu như kẻ nào
đương đêm ăn trộm mà bị giết ngay tại chỗ, thì hành vi giết người ấy được coi là
hợp pháp” ( Bảng 8, điều 12). Luật 12 bảng quy định nhiều hình phạp dã man đối
với con nợ.
Điều kiện để đảm bảo thực hiện hợp đồng vay nợ là thịt, da, máu của người vay
nợ. Nếu con nợ trả không đúng hạn cho chủ nợ. thì toà án cho phép chủ nợ giam
giữ con nợ. Nếu quá 60 ngày không trả được nợ “ chủ nợ có thể mang thể mang
tùng xẻo than thể của con nợ. việc con nợ bị tùng xẻo nhiều hay ít,chủ nợ cũng
không chịu trách nhiệm về điều đó: ( bảng 3 điều 6). Sau đó nếu con nợ vẫn không
trả được nợ, thì bị kết án tử hình hoặc “ bán ra nước ngoài qua song Tigrơ”. Trường
hợp con nợ vay nợ của nhiều người, các chủ nợ có quyền băm con nợ của mình ra
thành nhiều mảnh ( bảng 3 điều 6). Điều đó, gây nên mối đe doạ khủng khiếp đối
với người lao động nghèo khổ ở La Mã.
Bộ luật còn phản ánh tình hình quan hệ xã hội rất phức tạp ở La Mã, khi nhà nước
chiếm hữu nô lệ đã được xác lập, nhưng những tàn dư của chế độ thị tộc vẫn tồn
tại. Luật La Mã còn thừa nhận hình thức trả thù ngang bằng: nếu đánh gãy tay
người tay người khác, thì thủ phạm cũng sẽ bị đánh gãy tay. Trong gia đình, quyền
lực của người đàn ông hầu như tuyệt đối. Tài sản gia đình do người chồng quản lý.
Con gái lấy chồng phụ thuộc vào chồng. Người cha có quyền bán con làm nô lệ.

Con cái không có quyền thừa kế tài sản.Người con chỉ được tự do trong điều kiện
nhất định. “Nếu như người cha đã bán con lần thứ 3,thì người con được thoát khỏi
sự thống trị của người cha” (bảng 5 điều 2). Chế định thừa kế tài sản qui định: Nếu
người chết không có người thân thích bên nội, thì tài sản người chết để lại sẽ thuộc
3


về thị tộc. Nhưng đồng thời còn thừa nhận quền thừa kế thao di chúc. Người chết
được tự do để lại tài sản của mình cho bất cứ người thừa kế nào. Để bảo vệ cho
quyền lợi của những người thừa kế thao di chúc thì hội nghị toàn dân có quyền
giám sát phân chia tài sản đó.
Trong bộ luật 12 bảng đã ghi nhận về những thủ tục chế định dân sự.Nhìn chung
thủ tục tố tụng dân sự còn quá máy móc, rườm rà nên gây ra rất nhiều phiền phức
trong quá trình tiến hành xét xử và không tạo điều kiện cho quan hệ hàng hoá phát
triển.
1.2 Luật La mã thời kỳ cộng hòa hậu kỳ.
1.2.1.Lịch sử hình thành luật la mã thời cộng hòa hậu kì .
Thời kì cuối không phải chỉ là thời cộng hòa hậu kì ( thế kỉ III TCN-thế kỉ I SCN )
mà đế quốc La Mã còn tồn tại thêm một thời gian nữa ( đến thế kỉ V SCN ) . Bởi
vậy luật La Mã thời kì cuối bao gồm thời cộng hòa hậu kì và cả thời hậu cộng hòa.
Thời kì từ hậu công hòa trở đi là thời kì thịnh vượng nhất của nền luật học La Mã .
Thời kì này luật dân sự đã đạt tới trình độ mang tính chất cổ điển , hoàn thiện cả về
phạm vi điều chỉnh và kĩ năng lập pháp . Chính vì vậy mà luật La Mã thời kì này
trở thành nguồn luật chủ yếu của nhiều nước sau này.
Ở giai đoạn cuối của thời cộng hòa hậu kì , mặc dù chính thể của cộng hòa chủ nô
được thay thế bằng chính thể quân chủ chủ nô ( từ cuois thế kỉ I SCN ) , quan hệ
nô lệ trở nên lỗi thời , đế quốc La Mã dần bước sang giai đoạn suy vong , nhưng
cũng chính giai đoạn này đé quốc La Mã được mở rộng nhất . Bởi vậy nền kinh tế
hàng hóa bắt đầu phát triển mạnh . Các nhà làm luật La Mã không những tiếp thu ,
tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua thời cộng hòa , mà còn tiếp thu được nhiều

thành tựu lập pháp của các nước đã bị La Mã chiếm đóng . Nền luật pháp La Mã
tiếp tục phát triển , cộng vào đó , việc cai trị một đế quốc lớn cũng cần một công cụ
pháp luật hỗ trợ.
1.2.2.Nguồn của luật La Mã thời cộng hòa hậu kì :
+ Những quyết định của các hoàng đế La Mã . Sở dĩ ngày nay còn biết được khá
nhiều về nguồn luật này vì vào đầu thế kỉ VI SCN ( đế quốc đông La Mã ) lập một
hội đồng tư vấn gồm các luật gia nổi tiếng , để hệ thống hóa các quyết định của các

4


hoàng đế La Mã từ thế kỉ III TCN đến thế kỉ VI SCN và trình lên hoàng đế lựa
chọn để áp dụng cho thời ông ta.
+ Các quyết định của cơ quan quyền lực cao nhất : viện nguyên lão.
+ Các quyết định của tòa án . Khi xét xử các vụ án của tranh chấp dân sự mà tranh
chấp đó không có các qui phạm pháp luật điều chỉnh , thì quan tòa có quyền phán
quyết , nhưng phải phù hợp với các tập quán của địa phương . Phán quyết đó có ý
nghĩa như một nguồn luật.
+ Các quyết định của các quan thái thú cấp tỉnh trong trường hợp không có luật
điều chỉnh , mà cần giải quyết một vấn đề cấp bách nào đó có lợi cho hoàng đế La
Mã , thì quan thái thú được phép ra quyết định buộc những người trong địa hạt của
mình phải tuân thủ.
+ Tập quán pháp . Đó là tập quán của các tộc người hoặc các địa phương được
pháp luật thừa nhận , thường được ghi lại thành văn bảng và được ban hành.
+ Hệ thống hóa luật pháp , các công trình của luật gia La Mã . Các luật gia La Mã
thường hệ thống hóa luật pháp thành các bộ , quyển , chương , mục để tiện cho
việc nghiên cứu luật pháp và để tiện cho việc áp dụng chúng trong xét xử . Ngoài
ra các công trình nghiên cứu của các luật gia La Mã nổi tiếng cũng được coi là các
văn bản pháp luật.



Nguồn của luật La Mã thời cộng hòa hậu kì rất đa dạng và phong phú , nó
góp phần làm cho bộ luật La Mã thời kì này trở nên hoàn thiện hơn.

1.2.3. Nội dung cơ bản của luật La Mã thời cộng hòa hậu kì :
+ Các chế định của luật dân sự :
Trong luật La Mã , luật dân sự là luật phát triển nhất về phạm vi điều chỉnh và nhất
là về kĩ năng lập pháp . Các chế định của luật dân sự rất phong phú và bao quát hầu
hết các quan hệ dân sự . Đó là các chế định về quyền sở hữu , hôn nhân và trái vụ ,
hôn nhân và gia đình , thừa kế . Nội dung của từng chế định cũng rất phong phú và
chi tiết .


Quyền sở hữu :

5


Khái niệm quyền sở hữu trong luật La Mã được hiểu là quyền chiếm hữu, quyền
sử dụng, quyền định đoạt tuyệt đối tài sản đó. Nhưng chủ sở hữu vẫn bị một số hạn
chế do luật quy định khi sử dụng vật sở hữu của mình. Ví dụ, luật la mã quy định:
do yêu cầu của việc canh tác ở nông thôn và việc sử dụng nước ở thành phố có thể
dẫn nước qua ruộng người khác, hoặc đặt ống dẫn nước qua sân người hàng xóm.
Quyền chiếm hữu:
Trong luật la mã, quyền chiếm hữu được định nghĩa là quyền sử dụng và ý muốn
thực hiện quyền đó đối với tài sản của người khác để phục vụ cho chính bản thân
mình.


Hình thức chiếm hữu phổ biến nhất là chiếm hữu ruộng đất. người được quyền

chiếm hữu có thể sử dụng toàn bộ số hoa lợi mà mảnh đất đó đem lại và phải có
nghĩa vụ nộp một khoản tiền thuê mảnh đất cho người sở hữu tối cao là nhà nước.
Chế định hợp đồng và trái vụ:
Luật quy định điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là: hợp đồng phải do sự thỏa
thuận của 2 bên, không được lừa dối, không được dùng vũ lực đe dọa.


Hợp đồng phải phù hợp với quy định của luật. điều kiện hợp đồng ở đây được nâng
lên mang tính khái quát trừu tượng và chặt chẽ.
Trong thực tiễn xét xử các luật gia la mã đã phân chia ra làm 2 loại hợp đồng: một
là, hợp đồng thực tại: nghĩa vụ thực hiện và trách nhiệm bát đầu nãy sinh từ thời
điểm trao vật. trong hợp đồng thực tại có 2 kiểu hợp đồng khác nhau là hợp đồng
bảo quản và hợp đồng cho vay, cho mượn. đối với kiểu hợp đồng bảo quản thì thời
điểm phát sinh trách nhiệm của người bảo quản chỉ từ khi nhận được vật trở đi.
Còn hợp đồng cho vay là người chỉ phải trả lại vật tương tự. hợp đồng cho mượn là
khi phải trả lại chính hợp đồng cho mượn.
Việc phân chia những hợp đồng thực tại có ya nghĩa quan trọng trong thực tiễn xét
xử.
Hai là hợp đồng thỏa thuận: loại hợp đồng này bao gồm nhiều hình thức quan hệ
pháp lý như mua bán, thuê mướn sức lao động, thuê súc vật, nhà ở, lĩnh canh ruộng
đất…thời điểm phát sinh trách nhiệm của loại hợp đồng này bắt đầu sau khi kí hợp
đồng, chứ không phải từ khi trao vật. nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi
hàng hóa.
6


Nhưng nếu phía bên kia không trao đúng vật, đúng thủ tục và thời gian quy định
thì xuất hiện sự vi phạm trái vụ, nhưng hợp đồng vẫn còn hiệu lực. vậy tráo vụ là
gì? Luật gia pa-van định nghĩa về trái vụ: “bản chất của trái vụ là bắt buộc người
đó phải có nghĩa vụ với chúng ta bắt người đó phải trao cho, làm cho một cái gì

đó”. Như vậy, trái vụ là nghĩa vụ dân sự được pháp luật quy định, căn cứ vào đó
một hoặc nhiều người phải làm một việc hoặc không được làm một việc (gọi là
người có nghĩa vụ) cho một hoặc nhiều người khác (người có quyền). đó là sự ràng
buộc pháp luật giữa các bên tham gia hợp đồng dân sự.
Biện pháp để bảo đảm trái vụ được pháp luật quy định bằng hình thức cấm cố. luật
quy định, nếu người khác mắc nợ không chịu trả nợ thì vật cầm cố sẽ đem bán, số
tiền bán vật cầm cố nếu nhiều hơn tiền nợ thì số dư ra người mắc nợ được lấy lại.
tất cả các đồ vật đều có thể được coi là vật cầm cố. một biện pháp khác nữa để bảo
đảm trái vụ là sự bảo lãnh của người trung gian.
Đồng thời, luật còn quy định những điều kiện đình chỉ hợp đồng.
Theo quy tắc chung, các hợp đồng đã được kí kết vẫn giữ nguyên hoặc đình chỉ khi
có sự nhất trí của 2 bên. Nhưng trên thực tế trong những điều kiện cụ thể, trái vụ có
thể được đình chỉ nếu: hai bên thỏa thuận chuyển khoản nợ cũ sang trái vụ mới;
người chủ nợ từ chối quyền đòi hỏi của mình, hết thời hiệu đơn kiện (quy định của
tòa án, thời hiệu đó là một năm). Ngoài ra trong những điều kiện đặc biệt người
mắc nợ gặp phải những thiên tai dịch họa không thể cưỡng lại được thì có quyền
hũy bỏ hợp đồng.
Chế định hôn nhân và gia đình:
Hôn nhân theo quy định của pháp luật là một vợ một chồng và phải do sự tự
nguyện đồng ý của 2 người. tài sản của vợ, của chồng là riêng biệt. mọi chi phí
trong thời gian 2 vợ chồng chung sống là do người chồng gánh vác. Người chồng
có quyền định đoạt hoa lợi do của hồi môn của vợ đem lại. nếu người vợ li hôn
chính đáng được tòa án thừa nhận có quyền nhận lại của hồi môn. So với thời kì
cộng hòa sơ kỳ, pháp luật thời kì này đã hạn chế bớt quyền lực của người cha. Giết
trẻ em là tội phạm và người cha không có quyền bán con mình.


Chế định thừa kế:
Có nhiều thay đổi và được quy định chi tiết. theo pháp luật la mã thì thừa kế có 2
hình thức: thừa kế theo di chúc và thừa kế theo luật. luật la mã quy định diện và



7


hàng thừa kế theo quan hệ huyết thống trong 6 đời của người để lại di sản. diện ở
đây là người có khả năng thừa kế. hàng ở đây là ưu tiên thừa kế.
+chế định hình sự:
Trong nền pháp luật la mã, nếu như những quy phạm pháp luật dân sự mang tính
tiến bộ bao nhiêu, thì những chế định hình sự mang tính trì trệ bảo thủ bấy nhiêu.
Phần lớn các đạo luật hình sự nhằm điều chỉnh các quan hệ chính trị. Hình pháp
mang tính độc đoán tàn bạo và cách xét xử mang nặng yếu tố chủ quan của thẩm
phán. Hình phạt phổ biến là cực hình và nhục hình. Nhưng tùy thuộc vào từng giai
cấp, thì hình phạt được áp dụng theo cách khác nhau. Ví dụ, trong việc thi hành án
tử hình, quý tộc và binh lính bị chém bằng gương, dân tự do bị thiêu hoặc do ngựa
xé, còn nô lệ bị giết chết từ từ rất khủng khiếp.
Như trong thời kì độc taì xila, những người bị ghi vào dân sách là kẻ thù của nhân
dân, thì bất cứ người dân la mã nào cũng có quyền giết hoặc bắt đi đày được. tài
sản của tội phạm bị xung công và một phần bị chia cho kẻ tố giác. Nếu ai đó chỉ
cần có một hành vi nhỏ làm trái ý kẻ độc tài thì bị coi là tội phạm và bị trừng trị
+những chế định tố tụng:
Tổ chức tòa án và tố tụng tư pháp có sự thay đổi cơ bản so với thời kì cộng hòa sơ
kì.
Do sự khủng hoảng của nhà nước cộng hòa mà giai cấp chủ nô đã gạt hội nghị
nhân dân ra khỏi việc xét xử những vụ án hình sự ở cấp cao nhất. việc giải quyết
những vụ án hình sự thuộc thẩm quyền của hội đồng tòa án đặc biệt từ 30 đến 40
thẩm phán. Tùy theo từng vụ án mà bổ nhiệm số lượng thẩm phán trong hội đồng
này theo cách rút thăm. Trong khi giải quyết, để đi đến các quyết định vấn đề trong
vụ án người ta dựa vào sự bỏ phiếu.
Tính giai cấp của các tòa án la mã thời kì này thể hiện rất rõ ở thành phần hội đồng

thẩm phán ở quyền hạn và nhiệm vụ của các hệ thống xét xử. trên thực tế, các quan
chức hành chính cũng được trao quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự. thẩm phán
vừa làm công việc điều tra, xét hỏi, vừa kết tội và tuyên bố hình phạt. thông thường
biện pháp tra tấn được sử dụng để tiến hành điều tra, xét hỏi, người bị xem là phạm
tội.

8


Như vậy, tòa án và trình tự tố tụng trong thời kì này thực sự là công cụ sắc bén
trong tay giai cấp chủ nô để đàn áp các giai cấp nghèo khổ
2. Sự hoàn thiện của pháp luật la mã và ảnh hưởng của nó trong thời kỳ cận hiện
đại.
2.1. Sự hoàn thiện của luật La Mã.
Khi nghiên cứu về trình độ phát triển của luật La Mã, Các Mác đã đánh giá rất cao
nền pháp luật này nhất là từ thời lì cộng hòa hậu ký trở đi. Theo ông những người
La Mã là những người đầu tiên khởi xướng ra luật tư hữu,luật trừu tượng,tư pháp
và luật dân sự của nó đạt đển trình độ mang tính chất cổ điển.
Luật La Mã phát triển rực rỡ ở nhiều phương diện:
-

-

Phạm vi điều chỉnh của luật La Mã: rất rộng và sâu. Hầu hết các quan hệ xã
hội lúc bấy giờ đã được luật hóa. Không những nó bao gồm những quy
phạm liên quan đến tổ chức và hoạt động của nhà nước (công pháp) mà còn
cả những quy phạm liên quan đến cá nhân như về sở hữu,hôn nhân và gia
đình,hợp đồng, thừa kế(tư pháp) ,ví dụ nhưu các quy định về quốc tịch La
Mã,danh dự,uy tín,xác định quyền công dân cho đứa trẻ khi sinh ra,… Các
quan hệ xã hội đó được pháp luật điều chỉnh một cách tỉ mỉ và cụ thể. Trong

khi đó ở các bộ luật cổ đại khác như Hammurabi hầu nhưu các quy định chỉ
liên quan đến tài sản,các quan hệ nhân thân hầu như không có,chỉ có một số
ít trong chế định hôn nhân và gia đình :
Chủ thể của Luật La Mã: Chủ thể của luật dân sự La Mã không đơn thuần
chỉ có cá nhân mà còn có các tổ chức mang dấu hiệu pháp nhân . Ngay từ
đầu, luật La Mã đã công nhận quyền cho một nhóm người(corporation) đối
với một tài sản (quỹ,..). như huyện,thuộc địa (từ thời Cộng hòa),các hiệp hội
kinh tế (soladitates) (thời principat),các nhà thờ (accedesiae) (vào thwoif
công giáo) và các tổ chứcc thông qua hành vi của người đại diện Luật La Mã
quy định rõ rằng quyền gắn với tài sản không thuộc về các thành viên mà
thuộc về chính tổ chức đó. Mặc dù thời đó luật La Mã chưa định nghĩa khái
niệm pháp nhân song kinh nghiệm về tổ chức hình thái trên đã làm nền tảng
cho lý thuyết về pháp nhân sau này của luật học hiện đại. Về chủ thể là cá
nhân ở luật La Mã đã có sự quy định về độ tuổi có năng lực hành vi toàn
phần,được phép tham gia vào các giao dịch dân sự (nam trên 14 tuổi,nữ trên
9


-

12 tuổi),đây là điểm .khá tiến bộ thể hiện trình độ làm luật khá cao của
người La Mã so với người cổ đại đương thời.
Sự hoàn thiện của luật La Mã còn được thể hiện rõ nét trong từng chế định
luật:

Trước tiên trong chế định về quyền sở hữu: đây là chế định rất tiến bộ ,giống
với pháp luật ngày nay.Bộ luật Manu của Ấn Độ cũng đã đưa ra chế định về
quyền sở hữu tuy nhiên chưa đưa ra khái niệm pháp lí cụ thể thế nào là quyền
sở hữu.Trong khi đó pháp luật La Mã đã đưa ra khái niệm khá chính xác về
quyền sở hữu,theo đó quyền sở hữu bao gồm cả quyền chiếm hữu,sử dụng,định

đoạt tuyệt đối tài sản đó. Như vậy quyền sở hữu dưới thời La Mã được mô tả
như một quyền đầy đủ nhất về vật. Tuy nhiên chủ sở hữu cũng bị giới hạn các
quyền của mình do nhiều nguyên nhân khác nhau như tập quán pháp (chủ vật
có thể bị phạt tiền nếu không chăm lo cho vật tử tế hoặc phung phí tài
sản),quyền của các chủ sở hữu liền kề và công pháp ( thí dụ như các đạo luật
về xây dựng,vệ sinh công cộng,giao thông công chánh,thuế…) . Cùng với thời
gian người ta còn công nhận các giới hạn quyền sở hữu bới chính chủ sở hữu
trên cơ sở là các giao dịch dân sự. Như vậy quyền sở hữu là một quyền khá
mềm dẻo,những qui định về quyền sở hữu vẫn được các nhà làm luật hiện nay
kế thừa và phát triển.
Ở chế định hợp đồng và trái vụ : Như đã trình bày ở phần 1.1.2.2,theo tinh
thần của bộ luật La Mã , để hợp đồng có hiệu lực phải có 2 điều kiện : hợp đồng
phải có do sự thỏa thuận của 2 bên , không được lừa đối , không được dùng vũ
lực và hợp đồng phải phù hợp với qui định của luật pháp . Chính sự hoàn thiện
này mà bộ luật dân sự 2005 của nước ta đã tiếp thu và đưa vào nguyên tắc
chung của bộ luật dân sự ,đặc biệt nguyên tắc tự do , tự nguyện cam kết là
nguyên tắc chủ đạo cũng từ bộ luật La Mã mà ra.Bên cạnh đó thì thời kì này
còn chia ra các loại hợp đồng : hợp đồng thực tại và hợp đồng ưng thuận ; qui
định thời điểm phát sinh và nghĩa vụ của các loại đồng mà các bộ luật trước đó
không có, cách phân chia như vậy rất rõ ràng , chi tiết mà nhiều nước đã học
hỏi , đặc biệt là hợp đồng ưng thuận và hợp đồng vay-mượn.
Khi hợp đồng ra đời thì sẽ có sự vi phạm hợp đồng, trái vụ xuất hiện. Các biện
pháp để đảm bảo trái vụ là cầm cố - xuất hiện hợp đồng cầm cố ,sự bảo lãnh của
người trung gian. Ngoài biện pháp luật La Mã còn qui định điều kiện để trái vụ bị
đình chỉ , trong đó có điều kiện : hết thời hiệu đưa đưa đơn kiện , người mắc nợ
10


gặp phải thiên tai dịch họa không thể cưỡng lại được. Đây là những điểm rất tiến
bộ , từ thời này đã xuất hiện thời hạn , thời hiệu và chấp nhận yếu tố khách quan

tác động vào hợp đồng , hiện nay phần thời hạn , thời hiệu trong luật dân sự Việt
Nam và nhiều nước dường như chỉ bổ sung thêm chứ chưa có sự tiến bộ nào vượt
bậc , điều này càng chứng tỏ trình độ lập pháp của các nhà là luât thời bấy giờ khá
cao.
Chế định về thừa kế: Trong luật La Mã , đã có sự phân chia về hình thức thừa kế
: thừa kế theo luật và thừa thừa kế theo di chúc. Trong chế định này , các nhà làm
luật đã nêu định nghĩa pháp lý về sự thừa kế theo luật và theo di chúc , bên cạnh đó
còn phân định rõ : khi nào được thừa kế theo luật , khi nào được quyền khiếu kiện
về vấn đề thừa kế.Chính có sự phân chia này mà quyền phân chia tài sản của người
lập di chúc bị hạn chế. Luật La Mã còn qui định diện và hàng thừa kế tài sản theo
quan hệ huyết thống trong sáu đời của người để lại di sản . Hai điểm vừa nêu lên là
hai điểm khá mới và rất tến bộ, trong chế định thừa kế có nhiều sự thay đổi và
được qui định khá chi tiết so với những bộ luật trước đó . Chính trong chế định
thừa kế , sự hoàn thiện của bộ luật càng được thể hiện rõ nét.
Chế định về hôn nhân và gia đình: Luật La Mã coi hôn nhân và gia đình như một
khái niệm xã hội,tập quán hơn là khái niệm pháp luật. Theo luật La Mã :”Hôn nhân
là sự liên minh suốt đời giữa người đàn ông và người đàn bà cùng chung những
quyền của con người và thượng đế”. Luật La Mã đã quy định chế độ hôn nhân một
vợ một chồng,cơ sở là sự tự nguyện đồng ý của hai người; về hình thức kết hôn và
ly hôn,người la Mã đã cho phép người phụ nữ được quyền xin ly hôn và được nhận
lại hồi môn nếu được tòa án thừa nhận. Những quy định này rất tiến bộ và mang
tính nhân văn sâu sắc,bước đầu tạo sự bình đẳng,tự nguyện trong hôn nhân,bảo vệ
quyềm lợi của người phụ nữ. Trong chế định hôn nhân và gia đình này luật La mã
cũng quy định khá đầy đủ,chi tiết về điều kiện kết hôn (là công dân La Mã,được
sự đồng ý của hai bên gia đình,đúng độ tuổi quy đinh,hôn nhân tự nguyện) ; về
quan hệ nhân thân (vợ chồng phải có nhĩa vụ kính trọng nhau,tội ngoại tình có thể
bị xử tù..);về quan hệ tài sản ( tài sản vợ và của chồng là riêng biệt,mọi chi phí
trong thời gian sống chung do chồng gánh vác,…),quy định cụ thể về quyền và
nghĩa vụ của người gia trưởng và của cả những người phụ thuộc, quan hệ cha mẹ
con cái,vấn đề con nuôi,. . Đến thời kì cộng hòa pháp luật cũng đã hạn chế bớt

quyền lực của người cha,người chồng,người cha không có quyền bán con,giết trẻ
em là một tội nặng.
11


Luật La Mã cũng đưa ra những chế định về luật hình,tuy nhiên những đạo luật
này chủ yếu điều chỉnh những quan hệ chính tri,hình phạt mang tính chất độc
đoán,cách xét xử mang yếu tố chủ quan của thẩm phán.
Về tòa án và trình tự tố tụng :Trong chế định tố tụng có sự qui định về chức năng
của quan tòa , tài phán và điều kiện để được làm quan tòa , tài phán. Tùy theo từng
vụ án mà bổ nhiệm số lượng thẩm phán theo cách rút thăm,đi đến quyết định các
vấn đề trong vụ án bằng bỏ phiếu. Đây là hình thức hết sức tiến bộ và công bằng
Theo luật 12 bảng có một qui định mới trong trình tự xét xử: những người già cả,
ốm yếu không đi lai được bằng các phương tiện thì không phải xuất hiện trước tòa,
thể hiện tính nhân văn trong bộ luật , trong xét xử quan tòa không xét xử tùy tiện
mà dựa vào nhân chứng và chứng cứ , xem chứng cứ là chân lý để xem xét.
-Về mặt kỹ thuật lập pháp:lời văn trong các văn bản rõ ràng,chuẩn xác,trong sáng.
Đặt biệt các nhà làm luật La Mã rất chú trọng đến nêu các định nghĩa khái niêm
pháp lí và nêu ra một cách khá chuẩn xác,đưa ra đầy đủ các yếu tố của quy phạm
pháp luật…




Các luật gia La Mã coi luật như một khái niệm rất rộng,bao gồm luật
thực định(iusfas),nguyên tắc công lý(iustitia) hay công bằng
(aequitas). Luật La Mã đã đưa ra định nghĩa về luật :” luật là nghệ
thuật áp dụng những điều gì đúng và hợp lý” (D1.1.1 preius est ars
boni acqui) ,và cả định nghĩa về khoa học về luật pháp,đó là “ sự tìm
hiểu về những vấn đề của con người và thượng đế là kiến thức về

những gì đúng và hợp lí (D.1.1.10.2 iuris prudential ét divinarum
atque humana rum rerumm notitia,iusti atque inusti scentia).
Luật La Mã đã có sự phân loại theo công pháp (ius publicum) và tư
pháp(ius privatum) ngay từ đầu thời cộng hòa,. Theo đó luật công là
những qui phạm điều chỉnh cơ cấu tổ chức và hoạt động nhà nước La
Mã,còn luật tư là luật quan hệ đến lợi ích của từng cá nhân ,gia đình
và tài sản. Việc phân chia này cho thấy trình độ lập pháp của các nhà
làm luật La Mã rất cao:về lý luận, việc phân chia này sẽ giúp xây
dựng và đảm bảo sự thống nhất, chặt chẽ của cả hệ thống pháp luật.
Về thực tế, việc xác định ranh giới giữa luật công và luật tư đem lại
hiệu quả thiết thực đối với cả ba hoạt động xây dựng pháp luật, áp
dụng pháp luật và hoạt động xét xử. Đối với hoạt động xây dựng
12




pháp luật, việc phân chia ranh giới giữa luật công và luật tư sẽ giúp
các nhà làm luật xác định được vấn đề nào cần phải điều chỉnh, điều
chỉnh bằng phương pháp gì, mức độ điều chỉnh ra sao thì phù hợp.
Đối với hoạt động áp dụng pháp luật, khi đã xác định được vấn đề
nào thuộc luật công, vấn đề nào thuộc luật tư, việc vận dụng qui
phạm pháp luật để giải quyết cho phù hợp cho từng trường hợp cũng
như việc xác định hậu quả pháp lý sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn.
Chủ thể áp dụng pháp luật có thể xác định được nguyên tắc, biện
pháp hay công cụ nào được sử dụng. Điều này đã được các nhà lập
pháp thời kì sau học hỏi tiếp thu hiệu quả.
Bộ luật La Mã cũng đưa ra những khái niệm pháp lí cụ thể cho từng
chế định như: theo luật La Mã quyền sở hữu là quyền chiếm hữu,sử
dụng,định đoạt tuyệt đối với tài sản đó (giáo trình “ Lịch sử nhà nước

và pháp luật thế giới-ths Phan Trọng Hòa),khái niệm này khá giống
với hiện nay ‘ Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu,quyền sửu
dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của
pháp luật” (BLDS Việt Nam năm 2005). Các nhà làm luật cũng đưa
ra hàng loạt khái niệm pháp lí khác như:khái niệm chiếm hữu, di
sản,hợp đồng,trái vụ,tài sản,động sản,bất động sản,hoa lợi,lợi tức,…

2.2. ảnh hưởng
2.2.1 Ảnh hưởng của luật La Mã với dòng họ pháp luật Common Law
2.2.1.1 Sơ lược về dòng họ pháp luật Common Law
Dòng họ Common Law hay còn gọi là dòng họ pháp luật Anh - Mỹ là pháp luật ra
đời ở Anh, sau này phát triển ở Mĩ và những nước là thuộc địa của Anh, Mĩ trước
đây. Đây là hệ thống pháp luật phát triển từ những tập quán (custom), hay còn
được gọi là hệ thống pháp luật tập quán, hay hệ thống pháp luật coi trọng tiền lệ
(precedents/ judge made law).
Common Law hiện nay cần phải được hiểu theo 3 nghĩa khác nhau:
- Thứ nhất, đó là một hệ thống pháp luật lớn trên thế giới dựa trên truyền
thống hệ thống pháp luật của Anh;
13


- Thứ hai, trên phương diện nguồn luật, án lệ (Case law) của Common Law
được tạo ra bởi tòa án, phân biệt với đạo luật của Nghị viên;
- Thứ ba, trên phương diện hệ thống Tòa án, Tòa án và các án lệ của Common
Law cũng khác biệt với Tòa án và các án lệ của Equity Law.


Về lịch sử hình thành

Nguồn gốc của hệ thống luật này bắt đầu từ năm 1066 khi người Normans

xâm chiếm Anh quốc và Hoàng Đế William bắt đầu tập trung quyền lực vào tay
triều đình mới. Thuật ngữ luật chung (Common Law) xuất phát từ quan điểm cho
rằng các tòa án do nhà vua lập ra, áp dụng các tập quán chung (Common Custom)
của vương quốc, trái ngược với những tập tục luật pháp địa phương áp dụng ở các
miền hay ở các tòa án của điền trang, thái ấp phong kiến.
Các nguyên tắc bền vững của luật chung đã được tạo ra bởi ba tòa án được
vua Henry II (1133 - 1189) thành lập là Tòa án Tài chính (Court of Exchequer) để
xét xử các tranh chấp về thuế; Tòa án thỉnh cầu phổ thông (Court of Common
Pleas) đối với những vấn đề không liên quan trực tiếp đến quyền lợi của nhà vua;
và Tòa án Hoàng Đế (Court of the King’s Bench) để giải quyết những vụ việc liên
quan trực tiếp đến quyền lợi của Hoàng gia.
Thực chất, trước đó dưới thời của Hoàng đế William, những tập quán của Anh
ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Đức ở Châu Âu lục địa. Tòa án lúc đó là
những người dân được triệu tập để cùng giải quyết tranh chấp và nếu không xử
được người ta dùng phương pháp thử tội (ordeal) bằng việc bắt bị cáo cầm vào một
miếng sắt nung đỏ, hoặc cầm một viên đá đã được ngâm trong nước sôi, hoặc hình
thức thề độc. Nếu vết thương đó lành sau một thời gian xác định, anh ta sẽ bị tuyên
là vô tội và ngược lại.
Năm 1154, Vua Henry II đã tạo ra một hệ thống luật chung và sáng tạo ra
một hệ thống tòa án thống nhất đầy quyền năng, ông đưa các thẩm phán từ tòa án
14


Hoàng gia đi khắp nơi trong nước và sưu tầm, chọn lọc cách thức giải quyết các
tranh chấp. Sau đó những thẩm phán này sẽ trở về thành Luân đôn và thảo luận về
những vụ tranh chấp đó với các thẩm phán khác. Những phán quyết này sẽ được
ghi lại và dần trở thành án lệ (precedent), hay theo Tiếng Latin là stare decisis.
Theo đó, khi xét xử thẩm phán sẽ chịu sự ràng buộc bởi những phán quyết đã có từ
trước đó. Thuật ngữ “Common Law” bắt đầu xuất hiện từ thời điểm đó. Như vậy
trước khi Nghị viện ra đời trong lịch sử pháp luật của Anh, Common Law đã được

áp dụng trên toàn bộ vương quốc trong vài thế kỉ.
Đến thế kỷ thứ 15, khi đó xuất hiện một thực tiễn pháp lý là khi luật
“Common Law” không đủ sức để giải quyết một vụ việc, và người đi kiện cho rằng
cách giải quyết của Common Law là chưa thỏa đáng. Thí dụ, trong một vụ kiện về
đất đai, người đi kiện cho rằng khoản tiền bồi thường mà theo cách giải quyết của
Common law là không đủ bồi thường cho hành vi mà người xâm phạm đã cướp
không của họ, họ yêu cầu rằng người vi phạm này còn phải bị đuổi và phải trả lại
phần đất lấn chiếm đó. Chính điều này là cơ sở để xuất hiện hệ thống mới là hệ
thống pháp luật công bình (system of equity), đồng thời xuất hiện thiết chế Tòa
công bình, do viên Tổng chưởng lý (Lord Chancellor) đứng đầu. Về bản chất thì
luật công bình vẫn chiếm ưu thế hơn so với luật Common Law trong trường hợp có
sự xung đột. Điều này đã được nêu trong Đạo luật hệ thống tư pháp (Judicature
Acts) năm 1873 và 1875.
Ngày nay bên cạnh án lệ với tư cách là một loại nguồn pháp luật đặc thù của
hệ thống Common Law, luật thành văn và các loại qui tắc khác cũng được coi là
một bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật này. Khi xét xử những nước theo hệ
thống pháp luật Common Law thường căn cứ vào hai câu hỏi lớn, đó là câu hỏi sự
thật khách quan (question of fact) và câu hỏi về luật - theo nghĩa rộng (question of
law). Trong bất cứ vụ việc nào, ngày nay khi xét xử các thẩm phán của Common
Law vẫn dựa cả vào án lệ, luật viết và những căn cứ thực tế để xét xử.
15




Những đặc điểm cơ bản

Thứ nhất, Common Law là dòng họ pháp luật trong đó các hệ thống pháp luật
trực thuộc ít, nhiều chịu ảnh hưởng của hệ thống pháp luật của Anh và thựa nhận
án lệ như một nguồn luật chính thống, tức là thừa nhận học thuyết tiền lệ pháp.

Học thuyết tiền lệ pháp lở các hệ thống pháp luật này đều ít, nhiều chi phối hệ
thống luật án lệ theo hướng: các phán quyết đã tuyên của toà án cấp trên nói chung
có giá trị ràng buộc toà án cấp dưới trong quá trình xét xử các vụ án hiện tại.
Thứ hai, thẩm phán trong các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common Law
đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo và phát triển các quy phạm pháp luật.
Thứ ba, nhìn chung các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ Common Law
không có sự phân biệt giữa luật công và luật tư như trong dòng họ pháp luật châu
Âu lục địa.
Thứ tư, chế định pháp luật tiêu biểu của các hệ thống pháp luật thuộc dòng họ
Common Law là chế định uỷ thác – chế định đặc thù của hệ thống pháp luật Anh ra
đời do hoàn cảnh lịch sử riêng có của nước anh, gắn liền với nhu cầu giải quyết
tranh chấp đất đai phát sinh từ hợp đồng uỷ thác đất đai ở Anh thời Trung cổ nhằm
đưa ra giải pháp công bằng đối với người được uỷ thác trong có hành vi chiếm
dụng đất đai của người uỷ thác trong quá trình thực hiện hợp đồng uỷ thác.
Thứ năm, sau khi hình thành ở Anh quốc, Common Law đã lan sang khắp các
châu lục khác làm thành dòng họ Common Law, một trong hai dòng họ pháp luật
lớn nhất thế giới.
Để tìm hiểu ảnh hưởng của pháp luật La Mã đối với dòng họ Common Law
người viết sẽ phân tích qua tác động của Common Law đối với hệ thống pháp luật
tiêu biểu thuộc dòng họ Common Law – hệ thống pháp luật Anh.
2.2.1.2 Hệ thống pháp luật Anh
16




Pháp luật Anh thời kì đế quốc La Mã trị vì

Vào những năm 55 đến năm 54 trước Công nguyên, Julius Ceasar đã xâm
chiếm nước Anh và biến nước Anh thành một tỉnh của đế quốc La Mã. Trong gần

bốn thế kỉ cai trị nước Anh, đế quốc La Mã đã để lại những ảnh hưởng nặng nề đối
với nền văn hoá Anh. Tuy nhiên, đế quốc La Mã không ban cho người dân bản địa
hệ thống pháp luật La Mã; nước Anh đã không được phát triển mà chỉ đơn thuần bị
đế quốc La Mã chiếm đóng và luật La mã chỉ là khía cạnh không quan trọng,
không phải là mục đích của sự chiếm đóng đó và chỉ được sử dụng để điều chỉnhh
mối quan hệ giữa những cư dân người La Mã. Những gì đế quốc La Mã đóng góp
cho hệ thống pháp luật Anh thời kì này chỉ là những đóng góp gián tiếp, diễn ra
thông qua sự rơi rớt lại của những tàn dư của thể chế xã hội văn minh.


Pháp luật Anh thời kì Anglo-Saxon

Sau khi người La Mã ra đi, nước Anh một lần nữa đối mặt với sự tấn công và
xâm chiếm của các bộ tộc Giermanic gồm Angles, Danes, Jutes và Saxon. Xã hội
Anh lại bị thống trị bởi cộng đồng các bộ tộc khác nhau và luật áp dụng chủ yếu
lúc đó vẫn là tập quán bất thành văn của các địa phương. Những nỗ lực của các
luật gia thời Justinian và Byzantine ở thế khỉ thứ VI nhằm biên soạn Corpus Juris
Civilis (Tập hợp các nguồn luật La Mã) đã không có ảnh hưởng tới Anh nhiều.
Đầu thời kì này Anh quốc bị chi cắt thành nhiều vương quốc nhỏ; cái được gọi
là toà án thực chất là các cuộc họp công cộng với các thẩm phán không chuyên
nghiệp. Các toà án được tổ chức dưới hình thức đơn giản nói trên tiến hành xét xử
dựa vào tập quán địa phương. Mãi đến thế kỉ X, Hoàng đế Alfred của vùng Wessex
đã thành công trong việc thống nhất đất nước và trong việc sáng lập ra vương quốc
lớn. Sự kiện này được cho là lí do thực sự để phát triển Common Law và tăng
cường sức mạnh chống lại ảnh hưởng của luật La Mã ở Anh. Và nhờ vậy hệ thống
pháp luật Anh ngày càng được phát triển và hoàn thiện theo hướng khác biệt so với
17


hệ thống pháp luật các nước châu Âu lục địa vốn đang bước vào giai đoạn phục

hưng ảnh hưởng của luật La Mã.


Pháp luật Anh sau cuộc chinh phục của người Norman (từ thế kỉ XI đến
cuối thế kỉ XIV)

Chiến thắng của William ở Hastings giống như sự kế vị hơn là cuộc chinh
phục nước Anh. Sau khi giành được ngai vàng vua William thiết lập thành công
nền thống trị tập trung cao độ để dùng số ít người Norman quản lí thành công số
lượng lớn người Saxon mà một trong những công cụ đó là luật pháp. Ông tiến hành
nhiều cải tổ trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Việc hệ thống hoá các
tập quán địa phương nâng lên thành tập quán quốc gia để đưa vào sử dụng ở Anh
đã làm hình thành nên kết cấu đồ sộ của Common Law sau này. Mô hình chính phủ
tập trung cao độ và nhu cầu bức bách về một quốc gia thống nhất đã thúc đẩy sự
phát triển của hệ thống pháp luật quốc gia ở Anh. Từ đó ta thấy mặc dù giai cấp
thống trị ở Anh có nguồn gốc xuất pháp từ một bộ phận quý tộc ở Pháp – quốc gia
chịu ảnh hưởng sâu rộng của luật La Mã nhưng dựa vào những đặc điểm do hoàn
cảnh lịch sử để lại pháp luật thành văn cứng nhắc không thể áp dụng ở Anh, hệ
thống pháp luật Anh đã phát triển theo hướng ngày càng coi trọng tiền lệ pháp; các
tập quán địa phương từng bước bị thay thế bằng tiền lệ pháp (án lệ) được áp dụng
thống nhất trên toàn Anh quốc. Khác với châu Âu lục địa, nơi mà tập quán địa
phương và tập quán vùng giữa địa vị tối cao mà ngay cả toà án trung ương khi xét
xử phúc thẩm cũng phải sử dụng tập quán địa phương có liên quan, luật đã được
hiện đại hoá của Anh có xuất phát điểm là luật bản địa, dựa trên các tập quán nổi
tiếng và thông lệ quen thuộc, ít chịu ảnh hưởng của luật La Mã.
Có lẽ do được hình thành sớm hơn so với nhiều hệ thống pháp luật ở châu Âu
lục địa, hệ thống pháp luật Anh đã phát triển một cách tập trung và tiếp đó đã được
hiện đại hoá, trong khi đó các nước châu Âu lục địa còn đang dò tìm trong luật La
18



Mã những quy phạm thích hợp để áp dụng ở nước mình. Hơn nữa những tài liệu
cần thiết cho việc tiếp nhận luật La Mã một cách có hệ thống hầu như không du
nhập vào Anh và khi luật La Mã ảnh hưởng khắp châu Âu và sau này ảnh hưởng
tới Scotland, hệ thống pháp luật của Anh quốc đã được hình thành theo con đường
riêng không dễ gì thay đổi. Đó là lí do giải thích tại sao luật La Mã đã không thể có
được ảnh hưởng đáng kể nào đối với hệ thống pháp luật Anh như từng gây được
ảnh hưởng đối với nhiều hệ thống pháp luật khác ở châu Âu lục địa.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, ở một mức độ nhất định, luật La Mã vẫn xâm
nhập vào hệ thống pháp luật Anh. Bất kể sự biến mất của luật La Mã vào thời kì
cuối của giai đoạn chiếm đóng cua rđế quốc La Mã ở Anh và sự từ chối tiếp nhận
luật La Mã ở Anh sau này, hệ thốgn pháp luật Anh vẫn có một số dấu hiệu thể hiện
sự ảnh hưởng của luật La Mã.
Một là sự phân chia pháp luật thành luật công và luật tư trong những năm
trước đây ở Anh quốc.
Hai là sư tồn tại của các pháp quan La Mã và hình thức khởi kiện ở Anh được
cho là có xuất xứ từ hệ thốgn pháp luật La Mã. Trong nhà nước La Mã, toà án La
Mã chỉ chấp nhận giải quyết vụ việc nếu bên nguyên được viên pháp quan
(praetor) cấp cho đơn khiếu kiện (document of claim) tương tự như ở Anh sau này,
bên nguyên phải giành được trát để tiếp cận công lí Hoàng gia. Ở cả Nhà nước La
Mã và ở Anh quốc thời trung cổ sau này, số lượng đơn khiếu kiện (La Mã) hay trát
(Anh) đều bị hạn chế nhưng trên thực tế chủng loại các văn bản này đều tăng lên
theo thời gian do đòi hỏi của thực tiễn.
Ba là quyền khiếu kiện về hành vi chiếm đoạt quyền sở hữu thái ấp ở Anh rất
có thể có nguồn gốc từ La Mã.

19


Bốn là sự tồn tại của các nhà thờ cơ đốc giáo ở Anh thời kì đầu và học thuyết

về luật giáo hội minh chứng cho việc giảng dạy luật của người La Mã ở Anh là có
thực.
Năm là cố vấn hàng đầu của William, Lanfranc đã giảng dạy luật La Mã và
luật giáo hội ở khoa luật nổi tiếng ở Pavia. Vào giữa thế kỉ XII, Archbishop
Theobald cũng đã mời Vacarius tới Oxford để giảng dạy luật La Mã.
Sáu là những thành viên đầu tiên của Hội đồng cố vấn của Quốc vương Anh
(Curia Regis) đều là những giáo sĩ đã từng học luật La Mã.
Bảy là Bracton (chánh án ở Eyre, thẩm phán của Toà án chính trị (King’s
Bench) và Đại pháp quan của Exeter Cathedral) có quan điểm nảy sinh từ học
thuyết pháp lí của La Mã, đặc biệt từ Azo, người đã giảng dạy tại Đại họ c Bologna
của Ý.
Tám là luật hiện đại của Anh có liên quan tới đất vô chủ và quyền đi qua đất
của người khác có nguồn gốc từ học thuyết La Mã.
Cuối cùng, Corpus Juris Civilis không phải chỉ hấp dẫn đối với các trường đại
học ở các nước châu Âu lục địa mà cũng ít nhiều tỏ ra hấp dẫn đới với người Anh.
Thời Henri VIII, Trường đại học Cambrige đã sáng tạo ra danh hiệu giá sư luật dân
sự, trong đó thuật ngữ “luật dân sự” (Civil Law) được hiểu là “luật La Mã”
(Roman Law).


Giai đoạn hình thành và pháp triển của equity (luật công bằng) từ thế kỉ
XV đến thế kỉ XIX.

Đây là giai đoạn phát triển và hoàn thiện của Common Law. Common Law
với sự cứng nhắc và phức tạp trong thủ tục tố tụng đã bộ lộ những khuyết điểm
trong quá trình áp dụng như làm cho bên nguyên trong nhiều trường hợp bị bác

20



đơn hoặc thua kiện vì lí do kĩ thuật. Do đó sự ra đời và tồn tại song song của
Equity nhằm sửa đổi và bổ sung cho Common Law


Giai đoạn cải cách hệ thống toà án và thủ tục tố tụng cuối thế kỉ XIX

Bước sang thế kỉ XIX, Anh quốc ở vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng
cả về chính trị và xã hội. Trong lĩnh vực pháp luật, cả Common Law và equity đều
đã bộc lộ những khiếm khuyết của mình. Từ đó dẫn đến nhu cầu có những sự cải tổ
thay đổi trong pháp luật để phù hợp với tình hình đất nước lúc bấy giờ. Cuộc cái tổ
này bắt đầu bằng công cuộc đại pháp điển hoá một cách toàn diện. Song song với
việc cải tổ hệ thống toà án là việc ban hành một số đạo luật thành văn, thống nhất
và đơn giản hoá các thủ tục tố tụng. Cùng với cải tổ luật tố tụng, luật nội dung
cũng được pháp điển hoá trong thế kỉ XIX nhiều hơn bất kì giai đoạn nào trước đó.
Mặc dù trước đó, nước Anh đã có luật thành văn quy định về lĩnh vực luật tư
nhưng những đạo luật này thường chỉ được ban hành để sửa đổi những quy phạm
pháp luật cụ thể đã được pháp triển bởi án lệ chứ không nhằm điều chỉnh toàn diện
một lĩnh vực quan hệ xã hội nào cả. Vào cuối thế kỉ XIX, một số đạo luật điều
chỉnh lĩnh vực luật tư khác đều là sản phẩm của hoạt động lập pháp của thế kỉ XX.
Bên cạnh luật tư, nhiều đạo luật điều chỉnh xã hội hiện đại cũng đã được thông qua
trong giai đoạn này. Điều này cho thấy tromg xu hướng phát triển tất yếu các hệ
thống pháp luật trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau, Common Law cũng
không ngoại lệ. Common Law ngày càng có xu hướng tiếp nhận nhiều hạt nhân
hợp lý từ Civil Law hay nói cách khác Common Law ngày càng tiếp nhận những
tư tưởng tiến bộ từ luật La Mã phản ánh trong hệ thống pháp luật các nước châu
Âu lục địa nhất là các quy định về sở hữu tài sản của cơ quan công và tư nhân, chế
định thừa kế,… - những chế định trong luật La Mã đã đạt đến trình độ chuẩn mực.
2.2.2. ảnh hưởng tới hệ thống civil law.
1.


Khái niệm:
21


2.

Civil law là hệ thống pháp luật có nền tảng bắt nguồn từ hệ thống pháp luật của
Pháp, Đức và pháp luật của một số nước lục địa Châu Âu. Trong đó pháp luật của
Pháp, Đức là quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn tới pháp luật của các nước khác
trong hệ thống pháp luật này. Hệ thống pháp luật của các nước này nhìn chung đều
chịu ảnh hưởng của Luật La Mã. Ngày nay, phạm vi ảnh hưởng của hệ thống Civil
Law tương đối rộng bao gồm các nước Châu Âu lục địa (Pháp, Đức, Italia…),
Quebec (Canada), Louisiana (Mỹ), Nhật Bản và một số nước Châu Mỹ Latinh
(Brazin, Vênêduêla…).
lịch sử hình thành:
Civil law là một trong những hệ thống có lịch sử lâu đời nhất so với các hệ
thống pháp luật khác trên thế giới.
Một trong những đặc điểm nổi bật của civil law là chịu sự ảnh hưởng của luật
La Mã xuyên suốt quá trình hình thành và phát triển. lịch sử hình thành của civil
law bắt nguồn từ lịch sử hình thành phát triển của luật La Mã.

2.1.

giai đoạn từ thế kỷ V TCN đến thế kỷ VI SCN
Sự ra đời của luật La Mã đánh dấu sự ra đời của đánh dấu sự ra đời của luật 12
Bảng (499 TCN). Luật 12 Bảng chủ yếu là các tập quán Latinh và vay mượn pháp
luật Hy Lạp cổ đại. đó là các quy tắc cơ bản, chưa phải là các văn bản pháp luật
hoàn chỉnh. Tuy nhiên đây được coi là pháp điển sớm nhất của luật La Mã..
Năm 528, hoàng đế Justinian I(527-565), với ý đồ kết hợp giá trị pháp lý truyền
thống và những thành tựu đương thời, đã ra lệnh tập hợp, cũng cố, hệ thống hóa và

điền chế hóa luật La Mã và tập hợp các chế định luật dân sự Coprus Juris Civils ra
đời.

2.2.

giai đoạn thừ thế kỷ XI đến thế kỷ XVIII
Từ thế kỷ V đến thế kỷ X, luật La Mã ở Châu Âu bị lu mờ, thậm chí bị tầm
thường hóa bởi các tộc người Giecmanh xâm chiếm lãnh thổ La Mã. Tuy nhiên, vì
tinh thần của luật Đức là căn cứ vào yếu tố cá nhân, không căn cứ vào yếu tố lãnh
thổ, nên dân chúng của đế quốc La Mã cũ cùng con cháu họ vẫn được phép sử
dụng luật La Mã. Giáo hội Công giáo La Mã cũng góp phần quan trọng trong việc
duy trì luật pháp La Mã cũ vì giáo luật, tức là luật dùng trong các Toà án của giáo
hội, đã được xây dựng theo luật La Mã.

22


Từ thế kỷ thứ XI đến thế kỷ XIII, thời kỳ phục hưng của luật La Mã được đánh
dấu bằng sự kiện bộ tổng luật Coprus Juris Civils được nghiên cứu và giảng dạy
tại các trường tổng hợp Châu Âu. Trường đại học tổng hợp Bologna (Ý) là trung
tâm là trung tâm giảng dạy Luật La Mã ở Châu Âu cuối thế kỷ XI. Các học giả bắt
đầu nghiên cứu và giải thích, hiện đại hóa những nội dung luật cũ cho phù hợp với
tình hình xã hội thời đó . Họ mở trường luật ở Paris, Oxford, Prague, Heidelberg,
Copenhague, họ làm luật sư cho giáo hội, cho các vua chúa, và cho các vùng lãnh
thổ khắp Châu Âu. Nhờ cùng được đào tạo chung theo một nội dung , luật gia của
các nước Châu Âu đã tạo nên những Bộ Dân Luật của nước họ xây dựng trên nền
tảng chung là luật La Mã.
Quá trình nghiên cứu và giảng dạy đã làm sống lại luật La Mã. Kéo theo đó là
sự ra đời của các trường phái nhấn mạnh tới và các phương pháp riêng trong bình
luận và giải thích luật La Mã.

3.

Cấu trúc hệ thống
Các bộ luật lớn ở lục địa Châu Âu như bộ luật dân sự Napoleon(1804), bộ luật
dân sự Đức (1896) đều được hình thành trên cơ sở kết hợp tập quán địa phương và
luật La Mã.
Luật La Mã được áp dụng giảng dạy tại các trường đại học Pháp, Đức và các
lục địa Châu Âu được áp dụng trực tiếp nếu họ chưa có quan hệ xã hội nào đó cần
phải điều chỉnh.
Civil law đặc biệt nhấn mạnh phân chia thành các ngành luật, dặc biệt là phân
chia thành luật công và luật tư.
Luật công điều chỉnh mối quan hệ giữa cơ quan nhà nước và cá nhân hoặc giữa
các cơ quan nhà nước với nhau. Đặc điểm của luật công là:



Quy phạm pháp luật mang tính tổng quát.



Đối tượng điều chỉnh: lợi ích công.



Phương pháp điều chỉnh: mệnh lệnh, thể hiện ý chí đơn phương của các cơ quan có
thẩm quyền.



Mang tính bất bình đẳng, cơ quan nhà nước có đặc quyền.

Luật tư điều chỉnh các quan hệ giữa cá nhân với nhau, được xây dựng trên cơ sở
luật La Mã. Đặc điểm của luật tư là:
23




Đối tượng điều chỉnh: tự do, lợi ích cá nhân.



Phương pháp điều chỉnh: thỏa thuận ý chí.



Mang tính chất công bằng hơn, bảo vệ lợi ích của công dân.
Nguyên nhân civil law phân chia thành luật công và các luật tư là do các luật
gia quan niệm rằng:



Quan hệ giữa người trị và người bị trị là quan hệ đặc thù cần phải có các QPPL
riêng để điều chỉnh.



Lợi ích công và tư không thể so sánh.
2.2.3. ảnh hưởng tới pháp luật Việt Nam.
Quá trình phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam có thể được chia thành ba giai
đoạn.

A Giai đoạn của luật cổ
Khái niệm pháp luật dân sự, được xây dựng trong luật cận đại và luật hiện đại
Việt Nam, không tồn tại trong luật cổ. Các quy tắc viết có tác dụng điều chỉnh các
quan hệ giữa cá nhân và cá nhân trong xã hội cổ thường nằm lẫn lộn trong các
chương về hình sự, hành chính liên quan đến hôn nhân, gia đình và ruộng đất.
Pháp luật trước thời Lê chỉ còn có thể được hình dung thông qua sách sử, các
tài liệu chuyên môn về luật đều đã thất lạc hoặc bị tiêu hủy. Một số dữ kiện trong
sách sử cho phép suy đoán về sự tồn tại của các quy tắc xử sự chung chi phối các
quan hệ gia đình, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng. Mọi suy đoán đều không chắc
chắn.
Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng và hoàn thiện với sự quan tâm
đặc biệt. Bộ Quốc triều hình luật đã dành hẳn hai chương - Hộ hôn và Điền sản để nói không chỉ về hôn nhân, gia đình và ruộng đất, mà còn cả về chế độ tài sản
của vợ, chồng, thừa kế, tặng cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng,...
không kể các quy định có liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự nằm rải rác ở các
24


chương khác hoặc trong các văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật.
Nói chung, mặc dù chịu ảnh hưởng của văn hóa pháp lý Trung Quốc, người làm
luật thời Lê vẫn nhận ra những đặc điểm riêng của đời sống dân sự Việt Nam và đã
xây dựng được nhiều quy tắc pháp lý thể hiện tính độc đáo của pháp luật dân sự
Việt Nam, nhất là những quy tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ,
chồng và thừa kế.
Đến thời Nguyễn, luật viết lại trở về với thân phận chư hầu của Trung Quốc.
Nói riêng về luật dân sự, Bộ luật Gia Long hầu như chỉ lấy lại câu chữ của các quy
định liên quan trong Bộ luật nhà Thanh. Thực ra, người làm luật nhà Thanh, cũng
như người làm luật thời trước đó ở Trung Quốc, không có ý niệm gì về luật dân sự:
đối với luật, ngoài các quan hệ trong nội bộ gia đình, con người chỉ có các quan hệ
với quyền lực công cộng. Sao chép luật nhà Thanh, Bộ luật Gia Long giải quyết
các vấn đề dân sự như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành

chính và hình sự. Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời
Nguyễn có bổ sung một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, nghĩa vụ
và hợp đồng, hôn nhân và gia đình; nhưng đó chỉ là những bổ sung rất vụn vặt,
không ảnh hưởng đến những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật này.
B - Giai đoạn của luật cận đại
Luật dân sự Việt Nam xây dựng theo kiểu Pháp - Cùng với việc xây dựng và
củng cố chế độ thực dân ở Việt Nam, người Pháp đã nỗ lực La tinh hóa hệ thống
pháp luật Việt Nam. Nói riêng trong lĩnh vực dân sự, luật Việt Nam thời kỳ thuộc
địa được xây dựng theo khuôn mẫu luật của Pháp, có cải biên cho phù hợp với bối
cảnh kinh tế và xã hội của Việt Nam thời kỳ đó. Về luật viết, có một số văn bản
đáng chú ý: dân luật giản yếu (1883) áp dụng tại Nam kỳ; Sắc lệnh ngày 21/7/1925
về chế độ điền thổ cũng áp dụng tại Nam Kỳ; BLDS Bắc (1931); BLDS Trung
(1936, 1938, 1939); Sắc lệnh ngày 21/2/1921 về thương mại, áp dụng tại Bắc và
Nam Kỳ; Bộ thương luật Trung (1942);... Theo kiểu Pháp, luật viết thường chỉ ghi
25


×