Tải bản đầy đủ (.doc) (306 trang)

Bài Thuyết Minh Tuyến Điểm Xuyên Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 306 trang )

BÀI THUYẾT MINH XUYÊN VIỆT
Hành trình Xuyên Việt 20 ngày bắt đầu từ trung tâm thành phố Hồ Chí Minh mà điểm xuất
phát là tại trường Du lịch Sài Gòn. Chuyến thực tập này được gắn liền với sơ đồ tuyến,
chuyến du lịch bắt đầu.
Khái quát Thành phố Hồ Chí Minh
I.Điều kiện tự nhiên
1.Vị trí địa lý
Thành phố Hồ Chí Minh có địa giới hành chính chung với các tỉnh Bình Dương ở phía Bắc,
Tây Ninh ở phía Tây Bắc, phía Đông và Đông Bắc giáp Đồng Nai, phía Đông Nam giáp Bà
Rịa - Vũng Tàu, phía Tây và Tây Nam giáp Long An và Tiền Giang, phía Nam giáp biển Đông
với
chiều
dài
bờ
biển
khoảng
15
km.
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm Nam Bộ, cách thủ đô Hà Nội 1.738 km về phía
Đông Nam. Là thành phố cảng lớn nhất đất nước, hội tụ đủ các điều kiện thuận lợi về giao
thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt, đường hàng không, là một đầu mối giao thông
kinh tế lớn nối liền với các địa phương trong nước và quốc tế. Ngày 05/11/2003, Chính phủ
ban hành Nghị định số 130/2003/NĐ – CP về việc thành lập các quận Bình Tân, Tân Phú và
các phường trực thuộc; điều chỉnh địa giới hành chính các phường thuộc quận Tân Bình;
thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Bình Chánh, Cần Giờ và Hóc Môn, thành phố Hồ Chí
Minh. Như vậy, hiện nay thành phố Hồ Chí Minh có 19 quận và 5 huyện.
2.Đặc điểm địa hình
Địa hình thành phố Hồ Chí Minh phần lớn bằng phẳng, có ít đồi núi ở phía Bắc và Đông
Bắc, với độ cao giảm dần theo hướng Đông Nam. Nhìn chung có thể chia địa hình thành
phố Hồ Chí Minh thành 4 dạng chính có liên quan đến chọn độ cao bố trí các công trình
xây dựng: dạng đất gò cao lượn sóng (độ cao thay đổi từ 4 đến 32 m, trong đó 4 – 10 m


chiếm khoảng 19% tổng diện tích. Phần cao trên 10 m chiếm 11%, phân bố phần lớn ở
huyện Củ Chi, Hóc Môn, một phần ở Thủ Đức, Bình Chánh); dạng đất bằng phẳng thấp (độ
cao xấp xỉ 2 đến 4 m, điều kiện tiêu thoát nước tương đối thuận lợi, phân bố ở nội thành,
phần đất của Thủ Đức và Hóc Môn nằm dọc theo sông Sài Gòn và nam Bình Chánh chiếm
15% diện tích); dạng trũng thấp, đầm lầy phía tây nam (độ cao phổ biến từ 1 đến 2 m,
chiếm khoảng 34% diện tích); dạng trũng thấp đầm lầy mới hình thành ven biển (độ cao
phổ biến khoảng 0 đến 1 m, nhiều nơi dưới 0 m, đa số chịu ảnh hưởng của thuỷ triều hàng
ngày, chiếm khoảng 21% diện tích).
3. Khí hậu
Thành phố nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, mang tính chất cận xích đạo. Lượng bức xạ
dồi dào, trung bình khoảng 140 kcal/cm2/năm, nắng trung bình 6,8 giờ/ngày. Nhiệt độ
trung bình năm khoảng 27,50C. Biên độ trung bình giữa các tháng trong năm thấp là điều
kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng và phát triển quanh năm của động thực vật. Ngoài ra,
thành phố có thuận lợi là không trực tiếp chịu tác động của bão lụt. Nằm ở hạ lưu của hệ
thống sông Đồng Nai – Sài Gòn với địa hình tương đối bằng phẳng, chế độ thuỷ văn, thuỷ
lực của kênh rạch và sông ngòi không những chịu ảnh hưởng mạnh của thuỷ triều biển
Đông mà còn chịu tác động rất rõ nét của việc khai thác các bậc thang hồ chứa ở thượng
lưu hiện nay và trong tương lai (như các hồ chức Trị An, Dầu Tiếng, Thác Mơ…).
1


Thành phố nằm giữa hai con sông lớn là: sông Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông và chịu ảnh
hưởng lớn của sông Đồng Nai, sông Sài Gòn là sông có độ dốc nhỏ, lòng dẫn hẹp nhưng
sâu, ít khu chứa nên thuỷ triều truyền vào rất sâu và mạnh. Chế độ thuỷ văn, thuỷ lực của
kênh rạch trong thành phố chịu ảnh hưởng chủ yếu của sông Sài Gòn. Sông Vàm Cỏ Đông
rất sâu, nhưng lại nghèo về nguồn nước do vậy vào mùa khô mặn thường xâm nhập sâu
vào đất. Vàm Cỏ Đông có rất nhiều nhánh và kênh rạch nối với sông Vàm Cỏ Tây và Đồng
Tháp Mười. Do vậy khi dòng triều truyền vào bị biến dạng và giảm biên độ đáng kể. Sông
Đồng Nai là nguồn nước ngọt chính của thành phố với diện tích lưu vực khoảng 45.000
km2, hàng năm cung cấp khoảng 15 tỷ m3 nước. Trong tương lai khi có hồ chứa Phước Hoà,

sông Sài Gòn sẽ được bổ sung một lưu lượng khoảng 42 m 3/s góp phần đáp ứng yêu cầu
cấp nước của thành phố.. Hệ thống kênh rạch của thành phố có hai hệ thống chính. Hệ
thống các kênh rạch đổ vào sông Sài Gòn với hai nhánh chính là: rạch Bến Cát và kênh
Nhiêu Lộc - Thị Nghè. Hệ thống các kênh rạch đổ vào sông Bến Lức, và kênh Đôi – kênh Tẻ
như: rạch Tân Kiên, rạch Bà Hom, rạch Tân Hoá – Lò Gốm…
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Tiềm năng đất đai trên phạm vi địa bàn thành phố có nhiều hạn chế về diện tích và phẩm
chất. Ngoại trừ phần nội thành, phần ngoại thành có thể chia thành các nhóm đất chính
sau đây: nhóm đất phèn trung bình và phèn nhiều (chiếm 27,5% tổng số diện tích - loại
đất phèn trung bình đang phát triển cây lúa, còn loại phèn nhiều hay phèn mặn tuỳ theo
mức độ cải tạo đang phát triển các loại cây mía, thơm, lác); nhóm đất phù sa không hoặc
ít bị nhiễm phèn (chiếm 12,6% - đây là nhóm đất thuận lợi cho phát triển cây lúa, trong đó
loại đất phù sa ngọt có 5.200 ha cho năng suất lúa rất cao); nhóm đất xám phát triển trên
phù sa cổ (chiếm khoảng 19,3% - nhóm đất này thích hợp cho phát triển cây công nghiệp
hàng năm, cây công nghiệp ngắn ngày và rau đậu..); nhóm đất mặn (chiếm 12,2% phân
bố ở Cần Giờ, chủ yếu dùng cho việc trồng rừng, đặc biệt là cây đước).
Ngoài ra còn có các nhóm đất khác như đất đỏ vàng chiếm 1,5% phân bố trên vùng đồi gò
ở Củ Chi và Thủ Đức dùng cho xây dựng cơ bản, nhóm đất cồn cát, đất cát biển chiếm
3,2% và các loại đất khác, sông suối chiếm 23,7%.
2. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản trên địa bàn thành phố chủ yếu là vật liệu xây dựng như sét gạch
ngói, cát, sạn, sỏi; nguyên liệu cho gốm sứ và chất trợ dụng; các nguyên liệu khác như
than bùn… Chỉ có một số khoáng sản có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu của thành
phố: nguyên liệu làm vật liệu xây dựng, sành sứ thuỷ tinh, nguyên nhiên liệu…Các khoáng
sản khác như kim loại đen, kim loại màu (trừ nhôm), than đá.. đều không có triển vọng
hoặc chưa được phát hiện.
III.
Tiềm
năng

kinh
tế
1.
Những
lợi
thế
so
sánh
Phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gắn liền với tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội của khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước; dựa trên lợi thế
so sánh, vai trò và vị trí của thành phố Hồ Chí Minh đối với khu vực kinh tế trọng điểm phía
Nam, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và cả nước, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng khu vực dịch vụ, phát triển kinh tế
hướng
mạnh
về
xuất
khẩu.
2


2.Tiềm
năng
du
lịch
Do có vị trí địa lý thuận lợi, khí hậu ơn hồ, quanh năm hai mùa mưa nắng, cùng với lịch sử
trên 300 năm đấu tranh quật khởi kiên cường chống ngoại xâm đã từng có tiếng vang trên
thế giới và nền văn hố đậm đà bản sắc dân tộc, thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành
trung tâm du lịch của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh hấp dẫn du khách khơng chỉ vì có
nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hố, cơng trình kiến trúc cổ mà còn thu hút

du
khách
bởi
văn
hố
ẩm
thực
mang
đậm
nét
Nam
Bộ.
Là cửa ngõ của đất phương Nam, ngay tại trung tâm thành phố, từ bến Bạch Đằng, du
khách có thể xuống thuyền xi theo sơng Sài gòn để được hồ mình với thiên nhiên bao
la của sơng nước, hướng về những làng nghề truyền thống, vườn cây ăn trái sum s,
vườn cây kiểng, chợ nổi trên sơng hay khu du lịch sinh thái Cần Giờ - khu du lịch được
UNESCO cơng nhận là "Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn" đầu tiên của Việt Nam…
Thành phố còn là cửa ngõ đưa du khách đến với những địa danh nổi tiếng của cả khu vực
phía Nam như: vùng nước nóng thiên nhiên Bình Châu, rừng ngun sinh Nam Cát Tiên,
vùng biển Mũi Né, vùng ven biển Hà Tiên, Đà Lạt, đồng bằng sơng Cửu Long nổi tiếng với
những vựa lúa, vườn cây trái, rừng ngập mặn, rừng tràm, đồng bưng và nhiều loại đặc sản
q hiếm.Kể từ năm 1990 trở lại đây, doanh thu du lịch của thành phố ln chiếm từ 28% 35% doanh thu du lịch của cả nước.
Từ khi có chính sách mở cửa, số khách du lịch, nhất là khách quốc tế đến thành phố Hồ Chí
Minh đã tăng với tốc độ cao, từ chỗ có 180.000 khách quốc tế vào năm 1990, đến nay đã
có hàng triệu khách quốc tế mỗi năm, chiếm trên 50% - 70% lượng khách quốc tế vào Việt
Nam. Sự tăng trưởng nhanh của khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và vào thành phố Hồ
Chí Minh là kết quả của chính sách mở cửa và hội nhập thế giới, sự cải tạo và nâng cấp cơ
sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du khách, sự khuyến khích đầu tư nước ngồi
mà thành phố Hồ Chí Minh ln là địa phương đi đầu trong cả nước trong sự nghiệp đổi
mới

trong
lĩnh
vực
đời
sống

hội.
Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố ngập tràn ánh nắng, chói chang trên khắp phố phường,
lung linh trên những dòng sơng uốn lượn, với những nụ cười và ánh mắt thân thiện của
người dân Sài Gòn – thành Phố Hồ Chí Minh, những con người đã làm nên truyền thống vẻ
vang của mình với vẻ đẹp của “cốt cách văn hố phương Nam” : u nước, thương nòi;
đồn kết thống nhất, kiên cường trong đấu tranh dựng nước và giữ nước; coi trọng nhân
nghĩa; biết hội nhập văn hố để phát triển… đã trở thành "Ðiểm đến của thiên niên kỷ
mới", thu hút du khách ở khắp mọi miền của Tổ Quốc và trên thế giới.
Cầu Sài Gòn
Cầu Sài Gònhay cầu Tân Cảnglà một trong những cây cầu bắc qua sơng Sài Gòn nối đường
Điện Biên Phủ (quận Bình Thạnh) với Xa lộ Hà Nội (Quận 2), Thành phố Hồ Chí Minh. Cho
đến khi đường hầm Thủ Thiêm được xây dựng xong thì đây vẫn là cửa ngõ chính để vào
nội ơ Thành phố Hồ Chí Minh từ các tỉnh miền Trung và miền Bắc Việt Nam. Cầu được cơng
ty Johnson Drake and Piper thi cơng từ tháng 11 năm 1958 đến ngày 28 tháng 6 năm 1961
thì hồn thành. Cầu dài 1010m, gồm 22 nhịp, trong đó có 3 nhịp với chiều dài 267,45m.
Cầu được sửa chữa 3 lần vào các năm 1995, 1996. Năm 1998, cầu được tiến hành nâng
cấp và sửa chữa với tổng kinh phí 54 triệu francetừ nguồn vốn viện trợ của Pháp và đến
tháng 6 năm 2000 thì hồn thành. Sau khi nâng cấp, mặt cầu được mở rộng từ 19,63m lên
24m đạt tải trọng 430-XB80, có 4 làn xe, có tải trọng 32 tấn, đáp ứng nhu cầu giao thơng
ngày càng cao của thành phố Hồ Chí Minh.
Sông Sài Gòn
3



Sông Sài Gònlà một con sông bắt nguồn từ Tây Ninh, chảy qua Bình Dương, và đổ vào sông
Đồng Nai ở mũi Đèn Đỏ huyện Nhà Bè nhập chung thành sông Nhà Bè. Ra tới mũi Nhà Bè
lại tách làm hai nhánh là Lòng Tàu và Soài Rạp chảy ra biển Đông, Thành phố Hồ Chí Minh.
Sông này dài 256 km, diện tích lưu vực trên 5.000 km².
Đoạn đầu nguồn của sông có hồ thủy lợi Dầu Tiếng. Sau đó sông là ranh giới tự nhiên giữa
các tỉnh Tây Ninh và Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh và Bình Dương. Đoạn từ chợ Thủ
Dầu Một đến khúc quanh ở khu cư xá Thanh Đa (Thành phố Hồ Chí Minh) còn gọi là sông
Thủ Khúc. Từ cầu Ông Lãnh đến khi đổ vào sông Đồng Nai có tên là sông Bến Nghé hay
"Ngưu Chữ Giang". Sông còn có tên trong sách xưa là Tân Bình giang, vì ngày xưa chảy
qua phủ Tân Bình.Sông này có các cảng lớn thuộc hệ thống Cảng Sài Gòn.
Khaùi quaùt tænh Ñoàng Nai
I.Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, thuộc Đông Nam Bộ, có diện
tích tự nhiên là 5.862,37 km2 (bằng 1,76% diện tích tự nhiên cả nước và 25,5% diện tích tự
nhiên vùng Đông Nam Bộ). Phía Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng và Bình Dương; phía Đông giáp
tỉnh Bình Thuận; phía Nam giáp tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh.
Về ranh giới hành chính, Đồng Nai giáp các tỉnh Lâm Đồng, Bình Dương, Bình Phước, Bình
Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu và thành phố Hồ Chí Minh. Đồng Nai có hệ thống giao thông
thuỷ bộ, đường sắt nối liền với các địa phương khác trong cả nước, có sân bay quân sự
Biên Hoà, là địa bàn trọng yếu về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng, có vị trí quan
trọng trong sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gắn kết vùng Đông Nam
Bộ với Tây Nguyên. Ngày 21/8/2003, Chính Phủ ban hành Nghị định số 97/2003/NĐ - CP về
việc thành lập thị xã Long Khánh và các phường, xã trực thuộc thị xã Long Khánh, thành
lập các huyện Cẩm Mỹ, Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Như vậy, hiện nay tỉnh Đồng Nai có tất
cả là 11 đơn vị hành chính gồm thành phố Biên Hoà là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá
của tỉnh, thị xã Long Khánh và 9 huyện: Long Thành, Nhơn Thạch, Thống Nhất, Vĩnh Cửu,
Xuân Lộc, Định Quán, Tân Phú, Cẩm Mỹ, Trảng Bom.
2.Đặc điểm địa hình
Đồng Nai có địa hình trung du chuyển từ cao nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng Nam

Bộ. Nhìn chung địa hình tương đối bằng phẳng, có 82% đất có độ dốc <8 0, 10% đất có độ
dốc <150, 8% đất có độ dốc >150. Trong đó đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình
bằng phẳng, nhiều nơi trũng thấp ngập nước quanh năm; đất đen, nâu, xám, hầu hết có
độ dốc <80, đất đỏ có độ dốc hầu hết <15 0, riêng đất tầng mỏng và đất đá bọt có độ dốc
cao.
3.Khí hậu
Đồng Nai nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm 25 – 27 0C,
nhiệt độ cao nhất khoảng 20,5 0C, số giờ nắng trong năm 2.500 – 2.700 giờ, độ ẩm trung
bình 80 – 82%. Trong năm có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, lượng mưa
4


tương đối lớn, trung bình năm 1.700 – 1.800 mm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm
sau, thời tiết nắng, nóng, độ ẩm thấp, có khi xuống dưới 70%.
II.Tài nguyên thiên nhiên
1.Tài nguyên đất
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 586.237 ha được chia thành 10 nhóm đất chính,
trong đó: đất xám là loại đất có diện tích lớn nhất, chiếm 40,05% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và nhất là cho xây dựng; đất đen chiếm 22,44%
thích hợp trồng các loại cây hàng năm; đất đỏ chiếm 19,27% rất thích hợp trồng các loại
cây công nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, các nhóm đất khác như đất phù
sa ven sông Đồng Nai, đất gley (9,32%), chủ yếu dùng cho trồng lúa, rau, màu và các loại
đất khác như đất nâu (1,94%), đất tầng mỏng (0,54%), đất cát (0,1%), đất có tầng loang lổ
chỉ chiếm 0,02%, còn lại là đất đá bọt.
Diện tích đất có chất lượng (độ phì, tầng dày) từ trung bình đến cao chiếm 44%. Đất có
tầng mỏng dưới 50 cm, chất lượng kém chiếm 40% tổng quỹ đất. Nhìn chung, đất đai
Đồng Nai không chỉ thích hợp cho sản xuất nông nghiệp mà còn thuận lợi cho xây dựng
các công trình xây dựng.
Trong tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp chiếm 49,1%, diện tích đất lâm
nghiệp chiếm 30,4%, diện tích đất chuyên dùng chiếm 13%, diện tích đất khu dân cư

chiếm 2,1%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 5,4%. Khả năng phát triển các loại cây
trồng có giá trị kinh tế cao: cao su 45.000 ha, cà phê 25.000 – 27.000 ha, điều 30.000 –
35.000 ha, ngô 60.000 – 65.000 ha, sắn 13.000 ha, mía 14.000 ha, đậu nành 9.000 –
10.000 ha.
2.Tài nguyên rừng
Rừng Đồng Nai có đặc trưng cơ bản của rừng nhiệt đới, có tài nguyên động, thực vật
phong phú đa dạng, tiêu biểu là rừng quốc gia Nam Cát Tiên. Năm 1976, tỷ lệ che phủ
rừng còn 47,8% diện tích tự nhiên, năm 1981 còn 21,5%. Đến nay độ che phủ của rừng đã
tăng lên đạt 26% tổng diện tích tự nhiên. Khu bảo tồn thiên nhiên rừng Nam Cát Tiên có
nhiều loại động vật quý hiếm. Tổng diện tích đất lâm nghiệp hiện có 178.643 ha, trong đó
rừng tự nhiên 110.678 ha, rừng trồng 39.596 ha.
3.Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại như: kim loại quý (vàng), kim loại
màu (bôxít), đá quý, nguyên liệu gốm sứ (cao lanh, sét bột màu), vật liệu xây dựng, phụ
gia xi măng, than bùn, nước khoáng và nước nóng… Đến nay, đã phát hiện hơn 200 mỏ và
điểm khoáng sản, trong đó đáng chú ý là các khoáng sản phục vụ cho xây dựng như: đá
xây dựng tập trung chủ yếu ở thành phố Biên Hoà và các huyện Thống Nhất, Xuân Lộc,
Long Thành với tổng trữ lượng lớn (dự báo trên 300 triệu m 3). Cát xây dựng chủ yếu trong
trầm tích của sông Đồng Nai và một số sông khác với trữ lượng lớn dự báo trên 38 triệu
m3. Nguồn sét gạch ngói khá phong phú, phân bổ ở hầu hết các địa phương trong tỉnh,
tổng trữ lượng trên 85 triệu m3; 23 điểm tích mỏ phụ gia xi măng (puzơlan), có tổng trữ
lượng trên 400 triệu tấn; 12 điểm mỏ laterit, dự báo trữ lượng trên 23 triệu tấn.
5


II.Tiềm năng du lịch
Đồng Nai là vùng đất có nền văn minh cổ xưa với nhiều di tích văn hoá, lịch sử giá trị.
Nhiều tuyến điểm du lịch đã và đang được hình thành như tuyến du lịch sông Đồng Nai cù lao Phố - Bửu Long, tuyến du lịch Sông Mây - Trị An, tuyến du lịch thác Mai - suối Mơ,
rừng nguyên sinh Nam Cát Tiên, tuyến du lịch Long Thành – cù lao Ông Cồn… Du lịch Đồng
Nai chủ yếu hướng về tiềm năng văn hoá, lịch sử, sinh thái, dã ngoại.

Tài nguyên đất và nước của Đồng Nai không chỉ thuận lợi cho phát triển công nghiệp, đặc
biệt với quy mô lớn mà còn có thể phát triển nhiều vùng chuyên canh nông sản đặc thù,
giá trị kinh tế cao, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến phục vụ tiêu dùng và
xuất khẩu.
Khaùi quaùt tænh Bình Thuaän
I.Điều kiện tự nhiên
1.Vị trí địa lý
Bình Thuận là tỉnh duyên hải cực Nam Trung Bộ, thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ và nằm
trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Phía Bắc của tỉnh
giáp tỉnh Lâm Đồng và Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, phía Nam giáp Bà Rịa Vũng Tàu, phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Ngoài
khơi có đảo Phú Quy cách thành phố Phan Thiết 120 km. Trung tâm tỉnh cách thành phố
Hồ Chí Minh 200 km, cách thành phố Nha Trang 250 km, có quốc lộ 1A, đường sắt Bắc
Nam chạy qua nối Bình Thuận với các tỉnh phía Bắc và phía Nam của cả nước, quốc lộ 28
nối liền thành phố Phan Thiết với các tỉnh Nam Tây Nguyên, quốc lộ 55 nối với trung tâm
dịch vụ dầu khí và du lịch Vũng Tàu.
Với vị trí trên, bên cạnh mối quan hệ kinh tế truyền thống với địa bàn kinh tế trọng điểm
phía Nam, Bình Thuận sẽ có điều kiện mở rộng mối quan hệ giao lưu phát triển kinh tế với
các tỉnh Tây Nguyên và cả nước. Sức hút của các thành phố và trung tâm phát triển như
thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang đã tạo điều kiện cho tỉnh đẩy mạnh sản xuất
hàng hoá, tiếp thu nhanh khoa học và kỹ thuật.
2.Đặc điểm địa hình
Đại bộ phận lãnh thổ là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp, địa hình hẹp ngang kéo
theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình: đất cát và cồn cát ven
biển chiếm 18,22% diện tích đất tự nhiên, đồng bằng phù sa chiếm 9,43% diện tích đất tự
nhiên, vùng đồi gò chiếm 31,65% diện tích đất tự nhiên, vùng núi thấp chiếm 40,7% diện
tích đất tự nhiên. Với địa hình này đã tạo điều kiện cho tỉnh phát triển kinh tế đa dạng
3.Khí hậu
Tỉnh Bình Thuận nằm trong khu vực có vùng khô nhất cả nước, nhiều gió, nhiều nắng,
không có mùa đông, nhiệt độ trung bình là 26,5 0C – 27,50C; lượng mưa trung bình là 800 1600 mm/năm, thấp hơn trung bình cả nước (1.900 mm/năm).
II.Tài nguyên thiên nhiên

6


1.Tài nguyên đất
Với diện tích 785.462 ha, Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau: đất cát, cồn
cát ven biển và đất mặn phân bố dọc theo bờ biển từ Nam Tuy Phong đến Hàm Tân, diện
tích là 146,5 nghìn ha (18,3% diện tích đất toàn tỉnh), với loại đất này có thể phát triển mô
hình trồng cây ăn quả và các loại hoa mùa như dưa, hạt đậu các loại…; trên đất lợ có thể
làm muối hoặc nuôi tôm nước lợ; đất phù sa với diện tích 75.400 ha (9,43% đất toàn tỉnh)
phân bố ở vùng đồng bằng ven biển và vùng thung lũng sông La Ngà, diện tích đất này
trồng được lúa nước, hoa màu và cây ăn quả…; đất xám có diện tích là 151.000 ha
(19,22% diện tích đất toàn tỉnh), phân bố hầu hết trên địa bàn các huyện, thuận lợi cho
việc phát triển cây điều, cao su, cây ăn quả và các loại cây có giá trị kinh tế cao. Diện tích
còn lại chủ yếu là đồi núi, đất đỏ vàng, đất nâu vùng bán khô hạn… Những loại đất này sử
dụng vào mục đích nông - lâm nghiệp.
2.Tài nguyên rừng
Theo kết quả kiểm kê hiện trạng rừng năm 1999, diện tích đất rừng của tỉnh là 368.319
ha; diện tích rừng tự nhiên là 344.385 ha với tổng trữ lượng gỗ trên 19 triệu m3 và trên 95
triệu cây tre, nứa. Kiểu rừng gỗ lá rộng, kiểu rừng rụng lá, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm
ưu thế; kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại. Điều đáng lưu ý là hiện nay đang diễn ra
tình trạng giảm diện tích rừng giàu, rừng trung bình và tăng diện tích rừng hỗn giao tre,
nứa và rừng trồng nguyên liệu.
3.Tài nguyên khoáng sản
Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại: vàng, wolfram, chì, kẽm,
nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, nước khoáng, sét, đá xây dựng có giá trị
thương mại và công nghiệp.
Trữ lượng sa khoáng ilmenít là 1,08 triệu tấn, zicon 193.000 tấn, đi cùng với zicon còn có
nhiều monazít và đất hiếm. Nguồn khoáng sản rất lớn của Bình Thuận là thuỷ tinh với tổng
trữ lượng 496 triệu m3 cấp P2, hàm lượng SiO2. Nó có thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất
thuỷ tinh cao cấp và kính dân dụng hoặc sản xuất nguyên liệu. Khoáng vật liệu xây dựng

có các kết vôi 3,9 triệu m3 cấp P2 phân bố ở Vĩnh Hảo và Phước Thế, đá vôi san hô (Tuy
Phong), sét gạch ngói phân bố ở nhiều nơi; đá xây dựng và trang trí ở Tà Kóu trữ lượng 45
triệu m3, núi nhọn (Hàm Tân) trữ lượng cấp P là 30 triệu m 3.Bên cạnh đó, tỉnh còn có nhiều
mỏ nước khoáng có trữ lượng lớn và chất lượng tốt, có khả năng khai thác thương mại sản
xuất nước giải khát, sản xuất tảo; phục vụ dịch vụ tắm chữa bệnh và nghỉ dưỡng. Riêng 3
điểm nước suối Vĩnh Hảo, Văn Lâm, Hàm Cường và Đa Kai là các mỏ nước khoáng loại
cácbonát - natri được dùng sản xuất nước giải khát với khả năng khai thác hàng năm
khoảng 300 triệu lít.
III.Tiềm năng du lịch
Bình Thuận là một tỉnh có nhiều tiềm năng, tài nguyên lợi thế cho phát triển du lịch: tiềm
năng về nhân văn, tín ngưỡng, di tích lịch sử phục vụ cho phát triển loại hình du lịch tham
quan nghiên cứu như: lịch sử văn hoá về dân tộc Chăm, chùa Hang, dinh Thầy Thím, lầu
ông Hoàng gắn với nhà thơ Hàn Mặc Tử, di tích và lễ hội Nghinh Ông… Có bờ biển dài gần
200 km với nhiều bãi biển sạch đẹp, đồi cát, rừng cây ven biển, có suối nước nóng, nước
7


khoáng… phát triển nhiều loại hình du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí và chữa bệnh. Có
nhiều hồ, thác nước và rừng thích hợp cho các loại hình du lịch sinh thái.
Với vị trí nằm giữa tam giác du lịch thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu – Đà Lạt – Nha Trang,
với khoảng cách di chuyển không dài (2 – 4 tiếng đồng hồ), với hệ thống giao thông,
đường bộ vừa được nâng cấp rất thuận lợi cho việc di chuyển và cùng với tiềm năng, tài
nguyên du lịch như trên, trong những năm gần đây tỉnh đã tập trung quy hoạch, nâng cấp
tôn tạo kết cấu hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ trong các khu du lịch, thực hiện nhiều giải
pháp, chính sách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư... Những việc làm này đã và đang tạo
cho tỉnh một lợi thế so sánh rất lớn về du lịch, có sức hấp dẫn, thu hút nhiều nhà đầu tư.
Du lịch tỉnh đã và đang đạt mức độ phát triển nhanh cả về đầu tư cơ sở vật chất và lượng
khách đến ngày càng được nâng lên. Hiện nay, toàn tỉnh đã thu hút được trên 250 dự án
đầu tư phát triển du lịch, tập trung tại các khu du lịch Phan Thiết – Mũi Né, Tiến Thành –
Hàm Thuận Nam. Trong đó, khoảng 60 dự án đã đi vào hoạt động. Nhiều dự án có quy mô

lớn từ 50 – 200 ha. Lượng khách đến tham quan, nghỉ dưỡng tăng bình quân hàng năm 25
– 30%, trong đó khách du lịch quốc tế chiếm 7 – 8%; công suất huy động buồng, phòng
bình quân đạt trên 60%.
Khaùi quaùt tænh Ninh Thuaän
I.Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Ninh Thuận là tỉnh ven biển thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, có địa giới chung với các
tỉnh Khánh Hoà ở phía Bắc, Bình Thuận ở phía Nam, Lâm Đồng ở phía Tây, phía Đông là
biển Đông. Diện tích đất tự nhiên là 3.360,1 km 2. Tỉnh hiện có 5 đơn vị hành chính cấp
huyện, thị, gồm thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và các huyện Ninh Sơn, Bác Ái, Ninh Hải,
Ninh Phước.
2.Đặc điểm địa hình
Địa hình Ninh Thuận thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, bởi đây là vùng đất cuối của
dãy Trường Sơn với nhiều dãy núi đâm ra biển. Lãnh thổ tỉnh được bao bọc bởi 3 mặt núi:
phía Bắc và phía Nam là 2 dãy núi cao chạy sát ra biển, phía Tây là vùng núi cao giáp tỉnh
Lâm Đồng. Tỉnh Ninh Thuận có 3 dạng địa hình: núi, đồi gò bán sơn địa, đồng ven biển.
Vùng đồi núi chiếm 63,2% diện tích của tỉnh, chủ yếu là núi thấp, cao trung bình từ 200 –
1.000 m. Vùng đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4% diện tích tự nhiên, vùng đồng bằng ven
biển chiếm 22,4% diện tích đất tự nhiên.
3.Khí hậu
Ninh Thuận nằm trong vùng khô hạn nhất nước, có nền khí hậu nhiệt đới gió mùa điển
hình với đặc trưng là khô nóng, gió nhiều, bốc hơi mạnh từ 670 – 1.827 mm. Nhiệt độ trung
bình năm là 270C, trong năm có hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 – 11, mùa khô từ
tháng 12 năm trước đến tháng 8 năm sau. Lượng mưa trung bình từ 700 – 800 mm/năm ở
Phan Rang và tăng dần theo độ cao ở vùng núi. Độ ẩm 75 – 77%. Năng lượng bức xạ lớn,
khoảng 160 kcal/cm2/năm. Tổng lượng nhiệt bình quân năm khoảng 9.500 – 10.0000C..
8


II.Tài nguyên thiên nhiên

1.Tài nguyên đất
Tài nguyên đất của Ninh Thuận không nhiều. Đất đai phần lớn là đồi núi, độ dốc cao, tầng
đất mỏng, đá lẫn và lộ đầu ít đến nhiều. Tổng diện tích đất có khả năng nông nghiệp toàn
tỉnh khoảng 101,8 nghìn ha đất canh tác, hiện đã sử dụng 60,4 nghìn ha. Diện tích đất
nông nghiệp có khả năng mở rộng thêm khoảng 46 nghìn ha.
Tổng quỹ đất lâm nghiệp có khoảng 200 nghìn ha, đến năm 2000 đã sử dụng 157,3 nghìn
ha. Diện tích đất lâm nghiệp có khả năng mở rộng thêm khoảng 50 nghìn ha.Đất chưa sử
dụng và sông suối, núi đá không rừng cây có 104,1 nghìn ha, trong đó có trên 19.200 ha
đất bằng, có thể khai thác 17.000 ha để trồng cây lương thực và cây hàng năm; trên
72.500 ha đất đồi núi chưa sử dụng có thể khai thác khoảng 60.000 ha để trồng rừng, cây
lâu năm. Diện tích mặt nước chưa sử dụng có khoảng 800 ha, có thể khai thác khoảng trên
700 ha để nuôi trồng thuỷ sản.
2.Tài nguyên biển
Bờ biển Ninh Thuận dài 105 km với vùng lãnh hải rộng trên 18.000 km 2, có 3 cửa khẩu ra
biển là Đông Hải, Cà Ná, Khánh Hải. Vùng biển Ninh Thuận là một trong bốn ngư trường
lớn nhất và giàu nguồn lợi nhất về các loài hải sản của cả nước, nhiều tiềm năng để phát
triển du lịch và phát triển công nghiệp khai thác thuỷ sản và khoáng sản biển.Vùng biển
Ninh Thuận có trên 500 loài cá, tôm, trong đó có nhiều loại có giá trị kinh tế cao như cá
mú, hồng, thu, ngừ, tôm hùm, mực ống, mực nang…Tổng trữ lượng cá, tôm khoảng 120
nghìn tấn, trong đó cá đáy có 70 – 80 nghìn tấn, cá nổi 30 – 40 nghìn tấn, khả năng khai
thác hàng năm 50 – 60 nghìn tấn.
Nằm trong vùng có nhiệt độ cao, cường độ bức xạ lớn, Ninh Thuận có điều kiện lý tưởng để
sản xuất muối công nghiệp. Khả năng diện tích làm muối có thể tới 3.000 – 4.000 ha, tập
trung ở khu vực Đầm Vua, Cà Ná, Quán Thẻ và vùng ven biển thị trấn Khánh Hoà, sản
lượng thu hoạch hàng năm có thể đạt 400 – 500 nghìn tấn.Bờ biển Ninh Thuận có các bãi
tắm nổi tiếng như Ninh Chữ, Cà Ná.
3.Tài nguyên rừng
Rừng của Ninh Thuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển các ngành kinh tế - xã
hội và cải tạo môi trường sinh thái, là một thế mạnh cần khai thác trong thời kỳ tới. Đất
lâm nghiệp của tỉnh Ninh Thuận có 157,3 nghìn ha, bao gồm rừng tự nhiên là 152,3 nghìn

ha, rừng trồng có 5 nghìn ha, tỷ lệ che phủ rừng là 46,8% diện tích rừng. Trữ lượng gỗ của
tỉnh gần 11 triệu m3 và có 2,5 triệu cây tre nứa. Rừng sản xuất có 58,5 nghìn ha, trữ lượng
4,5 triệu m3 gỗ, rừng phòng hộ đầu nguồn có 98,9 nghìn ha, trữ lượng gỗ khoảng 5,5 triệu
m3 .
4.Tài nguyên khoáng sản
Khoáng sản ở Ninh Thuận tương đối phong phú về chủng loại: nhóm khoáng sản kim loại
có wolfram ở Krông Pha, núi Đất; molipđen ở Krông Pha, núi Đất (4.000 tấn); thiếc gốc ở
núi Đất (24.000); nhóm khoáng sản phi kim loại có thạch anh tinh thể ở núi Chà Bang, Mộ
Tháp I, Mộ Tháp II; cát thuỷ tinh ở Thành Tín, sét gốm ở Vĩnh Thạnh…; muối khoáng thạch
9


anh ở Cà Ná, Đầm Vua, sô đa ở Đèo Cậu…; nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng có cát
kết vôi ở Sơn Hải, Cà Ná, Mỹ Tường, Thái An, Cà Ná - trữ lượng 2,5 triệu tấn CaO; sét phụ
gia, đá xây dựng…
Hiện nay chủ yếu mới khai thác đá, đất sét, cát làm vật liệu xây dựng; khai thác muối
khoáng để sản xuất muối công nghiệp, khai thác nước khoáng ở Tân Mỹ. Các khoáng sản
làm nguyên liệu cho vật liệu xây dựng còn tiềm năng, có thể khai thác để sản xuất xi
măng, làm gạch ngói, đá xây dựng.
III.Tiềm năng du lịch
Ninh Thuận có nhiều tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Bờ biển
Ninh Thuận có nhiều bãi tắm đẹp nổi tiếng, tắm được quanh năm như Bình Tiên, Ninh Chữ,
Cà Ná và nhiều sông suối phục vụ du lịch như suối Vàng, thác Tiên, nhiều tháp Chàm như
Pôklong Grai (Tháp Chàm), tháp Pôrômê (Ninh Phước) Nơi đây còn lưu giữ bảo tồn nhiều
công trình văn hoá kiến trúc cổ Chămpa gắn với các lễ hội văn hoá dân tộc Chăm. Sự đa
dạng về địa hình tạo ra nhiều vùng sinh thái có những thắng cảnh độc đáo như đèo Ngoạn
Mục, vịnh Vĩnh Hy, suối nước nóng, thác Tiên…thuận lợi cho phát triển các loại hình du lịch
biển, du lịch văn hoá kết hợp với sinh thái nghỉ dưỡng.
Khaùi quaùt tænh Khaùnh Hoøa
I.Điều kiện tự nhiên

1.Vị trí địa lý
Khánh Hoà là tỉnh ven biển, cực đông của Việt Nam, với 200 km bờ biển ở phía Đông, liền
kề với Tây Nguyên ở phía Tây, phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận.
Phần lãnh hải có hệ thống đảo, đặc biệt là huyện đảo Trường Sa, có vị trí rất quan trọng về
kinh tế, quốc phòng của cả nước. Khánh Hoà nằm giữa hai thành phố lớn là thành phố Hồ
Chí Minh và Đà Nẵng, là các trọng điểm phát triển kinh tế của cả nước, trung tâm tỉnh lỵ
Nha Trang cách thành phố Hồ Chí Minh 400 km. Với vị trí địa lý như vậy đã tạo điều kiện
thuận lợi cho Khánh Hoà phát triển sản xuất hàng hoá và mở rộng giao lưu kinh tế - xã hội
với các tỉnh trong cả nước và quốc tế.
2.Đặc điểm địa hình
Địa hình của tỉnh Khánh Hoà tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông với những
dạng địa hình núi, đồi, đồng bằng, ven biển và biển khơi. Phần phía Tây là sườn đông dãy
Trường Sơn, chủ yếu là núi thấp và đồi, độ dốc lớn và địa hình bị chia cắt mạnh. Tiếp đến là
dạng địa hình núi thấp, đồi thấp xen kẽ bình nguyên và thung lũng, thỉnh thoảng có núi đá
chạy ra sát biển chia cắt dải đồng bằng ven biển thành những vùng đồng bằng nhỏ hẹp,
với chiều dài 200 km bờ biển khúc khuỷu có điều kiện thuận lợi để hình thành các cảng
nước sâu, nhiều vùng đất rộng thuận lợi để lập khu chế xuất và khu công nghiệp tập trung.
Có 8 cửa lạch, 10 đầm, vịnh, 2 bán đảo và trên 200 hòn đảo lớn, nhỏ với nhiều hình thù
khác nhau. Đặc điểm địa hình Khánh Hoà đã tạo ra những cảnh quan phong phú và đa
dạng vừa mang tính đặc thù của mỗi tiểu vùng, vừa mang tình đan xen và hoà nhập. Việc
khai thác tài nguyên phải phù hợp với các dạng hình cảnh quan nhằm bảo đảm tính bền
vững và có hiệu quả.
10


3. Khí hậu
Khí hậu Khánh Hoà vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất
của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hoà. Nhiệt độ trung bình năm 26 0C . Do có những
vùng núi cao trên 1.000 m nên có các đặc trưng của khí hậu nhiệt đới vùng núi cao, ôn
hoà và mát mẻ quanh năm, không có các hiện tượng thời tiết đặc biệt như gió nóng, sương

muối… Ở những tiểu vùng khí hậu này, sương mù thường xuất hiện vào lúc sáng sớm và
chiều tối cuối tháng 7 và 8 tăng thêm vẻ huyền ảo của tự nhiên, thuận lợi cho việc phát
triển du lịch nghỉ dưỡng, du lịch núi và trồng các loại cây có nguồn gốc ôn đới. Lượng mưa
trung bình trên dưới 2.000 mm/năm, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến
tháng 12 tập trung 70 - 80% lượng mưa cả năm. Riêng khu vực Nha Trang mùa mưa chỉ
kéo dài trong 2 tháng, còn lại nắng ấm, rất thuận lợi cho mùa du lịch kéo dài. Gió với tần
suất khác nhau xuất hiện theo mọi hướng, gió tây khô nóng và gió tu bông thường xảy ra
bất lợi cho cây trồng.
Những đặc điểm khí hậu, thời tiết của Khánh Hoà rất thuận lợi cho tham quan du lịch biển,
nhất là từ tháng 1 đến tháng 8. Ánh sáng nhiều là điều kiện tốt cho sinh trưởng cây cối nói
riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung. Song cũng cần chú ý đến các hiện tượng bất lợi
như lũ lụt về mùa mưa, khô hạn về mùa khô, gió tây nóng và gió tu bông ảnh hưởng đến
kết quả sản xuất, đặc biệt vào mùa trổ bông, ra hoa của cây trồng.
4.Tài nguyên đất
Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 5.197,45 km2, gồm các nhóm chính: đất cát và cồn cát
chiếm 2%, chủ yếu sử dụng cho khu dân cư, trồng cây ăn quả và đồng bằng ven biển; đất
phù sa chiếm 7,5%, giàu dinh dưỡng; đất mặn và phèn mặn chiếm 1,5%, thích hợp cho
trồng muối, nuôi trồng thuỷ sản; đất xám bạc màu chiến 4,6%; đất đỏ vàng và các loại đất
khác chiếm 84,4%, hiện đang được sử dụng để trồng màu và cây công nghiệp, có khả
năng khai hoang mở rộng diện tích nông - lâm nghiệp.
Đất thích hợp cho phát triển nông nghiệp của Khánh Hoà rất hạn chế, chỉ có 74,9% nghìn
ha, chiếm 14,2% diện tích đất tự nhiên, trong đó đã khai thác và đưa vào sử dụng 67,7
nghìn ha, còn lại 7,2 nghìn ha có khả năng khai hoang để đưa vào sử dụng. Các vùng đất
cao chiếm phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh, lại thiếu nước tưới, rất khó khăn cho việc
mở rộng diện tích phát triển nông nghiệp. Đất nông nghiệp bình quân đầu người
670m2/người.
Đất thích hợp cho phát triển lâm nghiệp chiếm phần lớn diện tích đất tự nhiên của tỉnh với
322,4 nghìn ha, chiếm 61,3%. Song hiện nay, diện tích có rừng chỉ có 155,8 nghìn ha, còn
lại 166,6 nghìn ha, chiếm 31,7% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, đang còn là vùng đất
trống, đồi núi trọc. Đây là một tiềm năng lớn, song muốn khai thác và sử dụng được phải

đầu tư lớn.
5.Tài nguyên rừng
Diện tích có rừng hiện có 155,8 nghìn ha, trữ lượng gỗ 18,5 triệu m 3, trong đó có 64,8% là
rừng sản xuất, 34% là rừng phòng hộ và 1,2% là rừng đặc dụng. Rừng sản xuất chiếm
nhiều song chủ yếu là rừng trung bình và rừng nghèo. Rừng phòng hộ chiếm 34%, hầu hết
là rừng giàu ở khu vực núi cao, đầu nguồn các huyện Khánh Vĩnh, Vĩnh Sơn và Ninh Hoà.
11


Tuy rừng là một thế mạnh của Khánh Hoà song việc khai thác bữa bãi những năm qua đã
làm tài nguyên rừng ngày một cạn kiệt.
6.Tài nguyên khoáng sản
Có nhiều loại khoáng sản như than bùn, môlíp đen, cao lanh, vàng sa khoáng, nước
khoáng, sét chịu lửa, cát, đá vôi, san hô, đá granít… Tuy nhiên, các loại khoáng sản này
chưa được đưa vào khai thác và chế biến theo quy mô công nghiệp, mà còn ở dạng khai
thác thủ công quy mô nhỏ, hiệu quả sử dụng tài nguyên thấp. Trong các loại khoáng sản
đó, đáng chú ý nhất là cát thuỷ tinh Cam Ranh, trữ lượng 34,3 triệu tấn, cát bán đảo Hòn
Gốm (Vạn Ninh) trữ lượng khoảng 1 tỷ tấn, inmenhit trữ lượng 26 vạn tấn, đá granít trữ
lượng 2 tỷ tấn (chưa tính đảo), nước khoáng được phân bố rải đều trên địa bàn. Cát thuỷ
tinh Cam Ranh là cát có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sản xuất thuỷ tinh quang học,
pha lê và thuỷ tinh kỹ thuật cao cấp.
7.Tài nguyên biển
Tổng trữ lượng hải sản thuộc vùng biển Khánh Hoà khoảng 150 nghìn tấn, trong đó chủ
yếu là cá nổi (70%), cho phép khai thác hàng năm khoảng 70 nghìn tấn. Nguồn lợi biển
phân bố không đều, tập trung phần lớn ở ngư trường ngoài khơi và ngư trường ngoài tỉnh
từ Quảng Nam - Đà Nẵng đến vịnh Thái Lan. Mặt khác, khai thác ngư trường quanh quẩn
đảo Trường Sa vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa đảm bảo an ninh - quốc phòng. Nước
biển có nồng độ muối tương đối cao, thuận lợi cho việc sản xuất muối tập trung và các sản
phẩm sau muối, nhất là muối công nghiệp. Biển Khánh Hoà còn là nơi cư trú của loài chim
yến, hàng năm cho phép khai thác khoảng 2.000 kg yến sào. Đây là một đặc sản quý hiếm

ít tỉnh trong cả nước có, không chỉ đóng góp trực tiếp cho xuất khẩu, mà còn là nguồn
nguyên liệu quý cho công nghiệp chế biến dược liệu bổ dưỡng cao cấp.
Dọc bờ biển Khánh Hoà có rất nhiều bãi tắm đẹp như bãi biển Nha Trang nằm ngay trung
tâm thành phố, có chiều dài 5 km; bãi Tiên nằm về phía Bắc thành phố; Dốc Lết thuộc
huyện Ninh Hoà có chiều dài 4 km; Đại Lãnh (Vạn Ninh) có chiều dài 2 km. Ngoài ra, dọc
bờ biển còn tập trung nhiều đảo lớn, nhỏ có khả năng tổ chức du lịch, săn bắn dưới nước,
vui chơi giải trí trên các đảo. Đặc biệt, đảo Hòn Tre là đảo lớn, quanh đảo có nhiều bãi tắm
san hô rất đẹp như bãi Trũ, bãi Tre, Bích Đầm… Với cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều
danh lam thắng cảnh đẹp, khí hậu lý tưởng cho mùa du lịch kéo dài gắn với nhiều di tích
lịch sử và công trình văn hoá như Tháp Bà, thành Diên Khánh, biệt thự Bảo Đại, chùa Long
Sơn, mộ Yersin… Khánh Hoà đã trở thành một trong mười trung tâm du lịch lớn của cả
nước, rất hấp dẫn lôi cuốn khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là với hình thức du
lịch biển.
II.Tiềm năng du lịch
Khánh Hoà nổi tiếng về cảnh đẹp thiên nhiên, năm 2003, Nha Trang được thế giới công
nhận một trong 29 vịnh gia nhập câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới. Bên cạnh đó,
Khánh Hoà là tỉnh nằm ở một trong các cửa ngõ ra biển của duyên hải nam Trung Bộ, Tây
Nguyên và lục địa châu Á, lại không xa thành phố Hồ Chí Minh nên có điều kiện thuận lợi
phát triển du lịch. Bờ biển Nha Trang có nhiều bãi tắm đẹp, từ đầm Nha Phu đến Lương
Sơn, bãi Tiên, cầu Đá, sông Lô và hàng loạt bãi tắm tạo nên các cụm công trình, các loại
hình dịch vụ du lịch vui chơi, tắm biển được trang bị tiện nghi cao cấp. Trục du lịch Trần
Phú - cầu Đá - bãi Tiên là trung tâm du lịch của vùng này. Nơi đây sẽ xây dựng con đường
12


du lịch song hành và các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 3 đến 5 sao. Cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú, di tích lịch sử, văn hoá phong phú, đặc biệt là vịnh Vân Phong được
xem là một trong những điểm du lịch đẹp nhất Việt Nam và có tầm cỡ thế giới, có điều
kiện đầu tư để phát triển kinh tế đa ngành, trở thành khu du lịch sinh thái tầm cỡ. Với diện
tích 200 ha, tại vùng bán đảo Hòn Gốm sẽ xây dựng làng du lịch. Hệ thống khách sạn và

cấu trúc hạ tầng đã có sẽ được cải tạo và xây dựng mới… tạo cho thành phố Nha Trang nói
riêng và Khánh Hoà nói chung có lợi thế để phát triển mạnh ngành du lịch, đặc biệt là
ngành du lịch sinh thái biển.
Cảnh quan Khánh Hoà cho phép phát triển nhiều loại hình du lịch, điều dưỡng, săn bắn, bơi
lặn, leo núi, tắm biển. Một trong những điểm du lịch quan trọng nhất của Khánh Hoà là
vịnh Vân Phong, Đảo Hòn Gốm là phức hợp du lịch nhiệt đới và là bãi tắm đẹp, là một
trong những thắng cảnh biển đẹp nhất trong khu vực châu Á - Viễn Đông. Ngoài bãi biển
Khánh Hoà còn có các điểm tham quan, du lịch khác như đền Miếu, tháp Chàm, chùa Long
Sơn, lầu Bảo Đại, Hòn Chuông, Hòn Yến, suối Ba Hồ, suối Tiên, Dốc Lết, khu di tích Yersin
tại Hòn Bà… Nha Trang của Khánh Hoà kết hợp với Đà Lạt của Lâm Đồng, Vũng Tàu, thành
phố Hồ Chí Minh tạo thành một tứ giác du lịch có triển vọng nhất của Việt Nam trong thời
gian tới.
Thaønh phoá Nha Trang
Nha Tranglà một thành phố ven biển và là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học
kỹ thuật và du lịch của tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam. Trước khi trở thành phần đất của Việt
Nam, Nha Trang thuộc về Chiêm Thành. Các di tích của người Chăm vẫn còn tại nhiều nơi
ở Nha Trang như các tháp Chàm, tháp Bà.
Các bãi biển đẹp của thành phố này đã biến nó thành một danh lam thắng cảnh. Nơi đây
cũng được biết đến như một thành phố sự kiện với các sự kiện lớn như Festival Biển (Nha
Trang), Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Thế giới 2010...Thành phố Nha Trang hiện nay có
diện tích tự nhiên là 251 km², dân số 350.375 người (2005) [1]. Phía Bắc giáp huyện Ninh
Hòa, phía Nam giáp thị xã Cam Ranh và huyện Cam Lâm, phía Tây giáp huyện Diên Khánh,
phía Đông giáp Biển Đông.
Nha Trang nằm ở phía Đông Đồng bằng Diên Khánh - Nha Trang.Một đồng bằng được bồi
lấp bởi sông Cái Nha Trang có diện tích gần 300 km², địa hình đòng bằng bị phân hóa
mạnh:
Phần phía Tây dọc sông Chò từ Khánh Bình đến Diên Đồng bị bóc mòn, độ cao tuyệt đối
khoảng 10-20 m. Phần phía Đông là địa hình tích tụ độ cao tuyệt đối dưới 10m, bề mặt địa
hình bị phân cắt mạnh bởi các dòng chảy.
Giải thích tên gọi

ØTheo giả thuyết thứ nhất thì tên gọi ngày nay được xuất phát từ từ Cù Nha Trang. Cù Nha
Trang là tên gọi chỉ con sông Ngọc Hội, hay còn gọi là sông Cù. Tên Nha Trang là do tiếng
thổ âm của người Chàm là Eatrang hay Jatrang bị đọc chệch mà thành ra la Nha Trang. Ea
hay Ja là dòng sông, Trang là lau sậy. Gọi như vậy là do ngày xưa, trước khi khai phá thì
dọc hai bên bờ sông Nha Trang lau sậy mọc um tùm, hoa bông lau nở trắng xóa một vùng.
ØTên Nha Trang chính được sử dụng khi người Việt đặt chủ quyền của mình trên mảnh đất
này vào năm 1653. Hơn 3 thế kỷ qua, trải qua nhiều biến động của lịch sử, ban đầu chỉ là
13


tục danh, về sau trở thành địa danh hành chính, cái tên Nha Trang vẫn tồn tại như một
truyền
thuyết
cho
tới
ngày
nay.
ØCòn có một giả thuyết nữa về tên gọi thành phố Nha Trang. Vào đầu thế kỷ này ở Nha
Trang còn bao gồm tồn nhà tranh vách đất, duy nhất chỉ có nhà bác sĩ A.Yersin là xây
bằng gạch, mái ngói đỏ tươi, tường qt vơi trắng. Một hơm có chiếc thuyền bn ngoại
quốc ngang qua cửa biển Cù Hn (cửa lớn Nha Trang). Viên chỉ huy hỏi đây là xứ gì. Người
thơng ngơn khơng hiểu ý, chỉ vào ngơi nhà của bác sĩ A.Yersin và trả lời rằng đây là" nhà
Trắng". Viên chỉ huy liền ghi vào bản đồ. Vì tiếng nước ngồi viết chữ khơng có dấu nên "
nhà trắng" đã trở thành " Nha Trang", từ đó vơ tình Nha Trang đã trở thành tên thành phố.
Đương nhiên đây chỉ là một truyền thuyết kể để vui cùng nhau.
Đặc sản
Ngồi các sản vật biển, Nha Trang có nước yến/yến sào (hay tổ chim yến được chúng làm
từ nước dãi của mình) và nem nướng Ninh Hòa. Ngồi ra, nói đến các món dân dã Nha
Trang còn nổi tiếng qua món bún cá hay bánh căn. Với món bánh canh Nha Trang thì
khơng giống với bất kỳ ở một địa phương nào khác, nước lèo được làm từ chất ngọt của cá

cộng với bột bánh canh tạo nên một hương vị khó qn. Ngồi ra tại Nha Trang còn có
bong bóng cá , vi cá , nước mắm , khơ cá thu được xếp vào loại ngon . Hải sản Nha Trang
đa dạng và phong phú với rất nhiều loại và vơ số những món ăn khác nhau , nổi tiếng có
món nhum còn gọi là cầu gai hay nhím biển ăn sống với cải bẹ xanh.
Du lòch sinh thái Hòn Lao - Đảo Khỉ
Nằm giữa đầm Nha Phu thuộc xã Lương Sơn (Nha Trang - Khánh Hồ), Hòn Lao là nơi nổi
tiếng có nhiều hải sản, nước trong xanh, quanh năm biển lặng, cảnh trí hữu tình... Nơi đây
đã được đầu tư, tơn tạo thành khu giải trí dã ngoại với nhiều dịch vụ phục vụ khách du
lịch.
Khi đặt chân lên đảo, ấn tượng đầu tiên là nét hoang sơ nhưng ngoạn mục của cỏ cây,
ghềnh đá, thấp thống đâu đó những lều tranh xinh xắn nằm ẩn mình dưới những rặng
dừa xanh bạt ngàn. Tiếng khỉ kêu, tiếng ngựa hí... càng tạo nên cảnh trí thật thơ mộng và
hoang vu. Nét độc đáo của Hòn Lao là đàn khỉ hàng trăm con. Trước kia đàn khỉ này ni
để xuất sang Liên Xơ (cũ) với mục đích thí nghiệm. Nhưng dự án khơng thành, đàn khỉ
được chuyển qua biểu diễn xiếc phục vụ du khách và được thả tự nhiên trên đảo. Khỉ ở đây
có nhiều giống: khỉ lơng vàng, khỉ mặt đỏ, khỉ đi dài, khỉ đi cụt, khỉ sư tử... Chúng có
thể đem đến cho du khách những giờ phút thú vị bởi sự thơng mình, láu lỉnh, nhanh nhẹn
mỗi khi được cho q hay những trò biểu diễn dưới sự điều khiển của huấn luyện viên xiếc.
Trên đảo Hòn Lao có nhiều dịch vụ giải trí cho khách như: chèo thuyền, câu cá, cưỡi ngựa
quanh đảo, cưỡi voi, xem xiếc voi... Ngồi ra còn có nhà hàng ăn uống, giá cả khơng q
cao; những căn nhà trọ bằng tranh hoặc gạch đủ tiện nghi, nằm riêng rẽ trơng xinh xắn.
Trước mỗi căn nhà còn có giàn mướp, giàn hoa giấy, đường đi lát đá sạch sẽ dưới bóng mát
dừa làm tăng thêm nét đẹp rất chân q cho ốc đảo này. Hòn Lao còn có khu cắm trại dã
ngoại cho du khách khơng muốn th phòng, có thể th võng hoặc lều để ngủ qua đêm.
Trong chương trình du lịch đến Nha Trang, Hòn Lao đã dần trở thành điểm du lịch sinh thái
mới mẻ và có sức hấp dẫn riêng so với các nơi du dịch khác.
Đầm Nha Phu
14



vựng bin Nha Trang cú rt nhiu ni ang khoỏc lờn mỡnh v p hin i vi s chm
chỳt ca bn tay con ngi nhng vi m Nha Phu - mt trong hai m ln ca tnh
Khỏnh Hũa vn cũn hi c im ca mt vựng sinh thỏi quý him vi nỳi rng, sụng
sui, bin o.
n vi Nha Phu bn s cú c hi hũa mỡnh trn vn vi s bin i ca thiờn nhiờn k
thỳ, vi ln nc bin trong lnh. Ch cn i bng ca nụ cao tc khong 15 phỳt t bn ỏ
Chng, Hũn Lao s hin ra trc mt cỏc bn. Bin xung quanh o phng lng v xanh
bic, ho phúng tng con ngi nhng bói tm lý tng Hũn Lao l o di hỡnh mi lao,
cũn cú tờn "o kh", bi trờn o cú hng nghỡn con kh sinh sng t nhiờn.
Hng ngy, l kh i kim n khp ni trong o, chỳng dn d v thõn thin vi ngi, ụi
khi cũn nghch ngm vũi vnh ũi du khỏch cho n. Trờn o cng cú xic thỳ vi voi, gu
v mt cụng viờn chim vi a dng cỏc loi chim rng.
Mt c trng sinh thỏi ca Hũn Lao l xung quanh o cú nhng rn san hụ ln v rt
p. n õy du khỏch cú c hi c ln xung ỏy i dng ngm nhỡn san hụ vi
cỏc loi sinh vt bin y sc mu rc r, hay i thm nhng hang ng cũn nguyờn v
hoang s.
T Hũn Lao tip tc vt súng bin v phớa ụng bc khong 15 phỳt, du khỏch s thy
m ra mt vựng nỳi non hựng v. Bỏn o Hũn Hốo mõy trng, nỳi xanh, mt cn c lng
ly trong khỏng chin, nay c khai thỏc lm khu du lch Sui Hoa Lan. Ni õy cú bin,
rng ngp mn, li cú thỏc, cú sui, h nc ngt, cựng nhiu loi ng thc vt rng...
Va mờ mn vớ bói tm An Bỡnh vi nhng phin ỏ phng s, b cỏt di mn mng v
ln nc trong xanh, du khỏch ó li ngc nhiờn vi s bin i l lựng ca cnh trớ khi t
tay chốo thuyn kayak trờn h Nghi Xuõn, vo thm ng Phong Lan, ngm cỏc loi lan a
dng gia mt khung cnh c ỏo. c bit, bn cú th khỏm phỏ th trn ca Khng
Minh, ú l Mờ cung trn , c trng bi 45.000 cõy dng trờn din tớch 13.500m 2.
Dch v sinh hot teem building - mt dch v kt hp du lch vi hun luyn cỏc hot
ng tp th thụng qua cuc chi trờn bói bin, hin nay ang c khỏch quc t v cỏc
cụng ty ln rt a chung. Vi nhiu ngi, mt cuc dó ngoi th ny khụng ch n
thun l gii trớ m ó l cuc du ngon khỏm phỏ thiờn nhiờn, khỏm phỏ chớnh bn thõn
mỡnh. Nhng hot ng nh du lch, vui chi m Nha Phu tht s l cú ý ngha vi

khỏch du lch, khụng mt nhiu thi gian nhng cú th tn hng c nhng phỳt giõy
tuyt vi nht vi bn bố v ngi thõn.
Cng vo sõu, nỳi rng Nha Phu cng cun hỳt khỏch. Vt qua ghnh thỏc, vo tn hang
mõy, bn mỡnh trong rng ngp mn ri n khi hong hụn buụng xung cựng bn bố
cm tri ven sui, nõng ly nhy mỳa, ca hỏt trong ỏnh la bp bựng... Nha Phu cũn quỏ
nhiu hp dn v vn i khỏch mt ngy quay tr li.
ẹeứo Roù Tửụùng
éốo R Tng cũn cú tờn l ốo Rut Tng, trc kia l ranh gii gia huyn Ninh Hũa v
huyn Vnh Xng, nay l ranh gii ca hai xó Ninh Lc v Ninh ch huyn Ninh Hũa, tnh
Khỏnh Ho. ốo nm cỏch trung tõm th trn Ninh Hũa 11 km, cỏch ốo Rự Rỡ 17km.
15


Về tên Rọ Tượng sách Non Nước Khánh Hoà của Nguyễn Đình Tư giải thích rằng xưa kia
vùng này có nhiều voi, voi được gọi kiêng là tượng. Người dân thường làm những chiếc rọ
đặt trên đèo để bắt voi, vì thế đèo có tên là Rọ Tượng. Còn về tên gọi Ruột Tượng thì là vì
đèo quanh co và rộng ở khúc giữa giống như ruột tượng.
Ðèo trước kia, khi mới hình thành thì quanh co và cao gần 45m so với mặt biển, nhưng
sau nhiều thời kỳ tu sửa, đèo đã được san ủi nhiều lần nên thấp dần và hướng đèo được
nắn chỉnh ít quanh co hơn. Ðèo bây giờ xem như một cái dốc quanh cao không quá 40m,
dài không tới 2km. Tuy nhiên lịch sử về các tai nạn khu vực đèo vẫn còn là nỗi ám ảnh của
khách bộ hành và các tài xế mà chứng tích là các miếu thờ hiện diện ở hai đầu và ngay
giữa đèo lúc nào cũng đầy hương khói. Chạy song hành và bên dưới lòng đất là hầm
xe lửa.
Dưới chân đèo về phía Nha Trang thuộc thôn Phú Hữu có những quán ăn đặc sản biển mà
các du khách đi ngang qua hay ghé lại, nổi tiếng với quán Gió. Chân đèo về phía Ninh Hòa
là làng chài Tân Thủy với các mái nhà ngói đỏ lô nhô, xa xa là vùng biển của đầm Nha Phu
lặng sóng với những chiếc thuyền câu và đăng lưới đẹp như tranh.
Khu du lòch Doác Leát
Từ thành phố Nha Trang theo quốc lộ 1A đi về phía bắc, vượt qua đèo Bánh Ít, có một con

đường nhựa mới mở, thẳng băng, bóng loáng dẫn bạn đến Dốc Lết. Ðiểm du lịch này nằm
trên địa phận huyện Ninh Hòa, cách thành phố Nha Trang 50 km.
Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa) được xếp thứ 19 trong số những vịnh đẹp nhất thế giới. Bao
quanh vịnh có đến 20 điểm du lịch sinh thái hấp dẫn, trong đó có Dốc Lết. Những dải cát
trắng trải dài bất tận, những đụn cát cao hàng chục mét, ngăn cách bãi biển với phần đất
ven bờ. Ai muốn đến bãi tắm đều phải leo qua những đụn cát dài, mệt phờ mà hứng thú,
đúng với cái tên "Dốc Lết".
Thiên nhiên đền bù cho bạn một cách xứng đáng. Một bãi biển tuyệt đẹp với lớp cát trắng
tinh khiết. Biển nơi đây còn vẻ nguyên sơ, mầu nước xanh trong, nhìn rõ những hạt cát
trắng dưới đáy. Ðược những dãy đảo phía xa bao quanh chắn gió, mặt biển luôn êm dịu,
hiền hòa ngay cả những ngày có gió to.
Ðã thế, đáy biển Dốc Lết lại thoải dần ra xa bờ mà không dốc như các bãi biển khác. Ra xa
bờ đến 100 m, nhưng mực nước chỉ khoảng ngang ngực. Phía trong bờ là những khu rừng
phi lao mênh mông, xanh ngắt, làm thành bức tường xanh thiên nhiên dịu mát. Tắm biển
thỏa thê, lên bờ tản bộ dưới rặng phi lao, để chân trần dẫm lên lớp cát mịn, hoặc bước đi
trên những lớp lá khô nhám, cũng thật thích thú. Trước mặt Dốc Lết, chếch về phía bắc là
vịnh Vân Phong - một trong những quần thể du lịch hấp dẫn, được tổ chức du lịch quốc tế
OMT quy hoạch.
Một dịch vụ khác dành cho các bạn trẻ là khám phá các đảo nhỏ nằm bao quanh gần đó.
Các bạn có thể thuê một chiếc thuyền nhỏ của dân địa phương với giá 20.000 đồng/lần, để
tận mắt cảm nhận được đời sống của ngư dân mộc mạc, một nắng hai sương, bám biển để
sinh tồn.Từ năm 1999, Công ty du lịch Khánh Hòa đã đầu tư hơn 7 tỷ đồng, biến gần 4 ha
vùng đất hoang sơ này thành một khu du lịch. Một con đường nhựa phẳng phiu dài gần 20
km từ quốc lộ 1A đưa bạn tới gần bờ biển. Xe hơi, xe gắn máy có thể dễ dàng đưa khách
vào bãi biển. Qua cánh đồng muối trắng, những xóm làng đông đúc, những vườn dừa xanh
16


tốt, những đồi cát được san phẳng, để du khách khỏi phải khó nhọc "lết dốc" như ngày
nào.

Hệ thống dịch vụ nơi đây khá hoàn chỉnh, với 16 nhà nghỉ xây theo lối nhà sàn, đủ tiện
nghi ẩn mình trong rừng phi lao. Bạn sẽ có một dịp nghỉ ngơi trong khung cảnh yên bình,
với tiếng ru của rừng phi lao và tiếng rì rào của sóng biển. Trời đêm bao la, nhìn những dãy
đèn như sao sa trên mặt biển của những thuyền ngư dân đánh bắt hải sản. Những chiếc
thuyền nhỏ bán những món đặc sản như: ghẹ, ốc, tôm, mực... còn tươi roi rói, được chế
biến ngay tại chỗ, thơm phức, kèm thêm một ít muối tiêu pha chanh. Ðó là những vị ngọt
của biển với giá rẻ bất ngờ. Nhà hàng Dốc Lết cũng không thiếu các món ngon chế biến từ
các loại hải sản, rau tươi, tráng miệng bằng trái cây ướp lạnh.
Dốc Lết đón trung bình mỗi ngày từ 500 - 600 khách, vào những ngày nghỉ, lễ Tết có thể
lên đến 10.000 người, từ nam chí bắc, từ Tây Nguyên và các tỉnh lân cận đổ về...
Vònh Vaân Phong
Vịnh Vân Phong thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, cách thành phố Nha Trang khoảng
80km về phía bắc.
Đây thực sự là một kỳ quan thiên nhiên với khí hậu ôn hoà, bãi biển đẹp, cát mịn, núi đồi
hùng vĩ bao quanh. Có một ngọn đồi cát dài 18km nằm giữa đất liền và hai hòn đảo, tạo
ra vịnh Vân Phong với phong cảnh tuyệt đẹp. Cùng với những cánh rừng nhiệt đới hầu như
còn nguyên vẹn, những rạn san hô đa sắc, đẹp sững sờ, có dấu tích sinh tồn của một khu
rừng ngập mặn, hàng trăm sinh cảnh, muông thú đặc chủng và hàng chục ngàn loài thuỷ,
hải sản quý là những ưu thế giúp Vân Phong có thế mạnh phát triển du lịch sinh thái rõ
nét. Tổng cục Du lịch Việt Nam đã xếp Vân Phong vào "Vùng du lịch trọng điểm phát triển"
trong kế hoạch dài hạn của ngành đến năm 2010. Vịnh Vân Phong cũng được Hiệp hội Biển
thế giới công nhận là một trong bốn vịnh có vị trí du lịch biển lý tưởng nhất hiện nay.
Nơi đây có thể tổ chức nhiều loại hình du lịch thể thao dưới nước và trên núi (lặn, lướt ván,
thuyền buồm hoặc đi săn, leo núi, tắm nước khoáng...).
Ñaàm Moân
Nằm trong khu vực bán đảo Hòn Gốm với diện tích 128 km 2, và số dân 4.300 người, Đầm
Môn cách thành phố Nha Trang khoảng 80 km. Đây là khu du lịch tự nhiên nổi tiếng, đã
được Tổ chức Du lịch thế giới (OMT) đánh giá cao. Trước đây, muốn đến Đầm Môn, du
khách đi xuồng máy từ thị trấn Vạn Giã, đi và về trong ngày bởi ở đây chưa có khách sạn.
Tháng 8-2002, một con đường mới được hoàn thành với số vốn đầu tư 60 tỷ đồng, bắt đầu

từ dưới chân đèo Cổ Mã chạy thẳng đến Đầm Môn dài 18,5 km, mở đầu cho việc phát triển
khu du lịch nơi này. Con đường mới mở này xuyên qua một cồn cát ven biển, sóng êm ả,
nước trong xanh. Nó kéo dài từ Đầm Môn đến tận Đại Lãnh, và điểm cuối cùng dừng lại là
một làng chài nhỏ nằm trong vịnh, kín đáo, quanh năm xanh rợp bóng dừa. Đầm Môn có 3
thôn, Đầm Môn Hạ, Đầm Môn Thượng và thôn Sơn Đừng. Ở làng chài nhỏ nằm trong vịnh
hình trăng lưỡi liềm này mọi người không mang dép và có thể ngồi hay nằm dài trên cát
bất kể nơi nào. Đi ghe qua thôn Sơn Đừng, du khách được tắm biển và khám phá sự kỳ
diệu của thiên nhiên: chỉ cần đào một gang tay sẽ tìm thấy nước ngọt ngay cạnh bờ biển.

17


Tham quan làng xong, du khách sẽ chuyển sang thám hiểm các vùng núi cao trước mặt. Ở
đây có khoảng gần 20 hòn đảo lớn nhỏ, trên đó là những khu rừng ngun sinh. Từ trên
đồi cao, nhìn xuống bao qt cảnh vịnh Vân Phong, một khung cảnh thiên nhiên hồnh
tráng
hiện
ra
trước
mắt.
Tại Đầm Mơn hiện có một khách sạn của Cơng ty Minexco với 12 phòng đầy đủ tiện nghi,
máy lạnh, nước nóng lạnh, ti vi, điện thoại… sẽ đón tiếp du khách với giá cả rất mềm...
Biển Đại Lãnh
Địa danh Đại Lãnh nằm kề ranh giới giữa hai tỉnh Phú n và Khánh Hòa, cách thành phố
Nha Trang khoảng 80 km và cách thành phố Tuy Hòa khoảng 30 km.
Từ thành phố Tuy Hòa đi vào, vượt qua đèo Cả, một con đèo lớn là địa giới của hai tỉnh
Khánh Hòa và Phú n với 12 km đường đèo quanh co, du khách sẽ thấy hiện ra ngay dưới
chân mình một bãi biển khá rộng, dài với nước biển xanh biếc, lấp lánh ánh mặt trời,
thuyền bè tấp nập qua lại.
Bãi tắm Đại Lãnh được cấu tạo thuần khiết bởi một thứ cát trắng mịn, nước biển trong

xanh nhìn rõ tận đáy, lại có độ thoải lớn, có thể bơi lội xa bờ. Kế đó lại có ngay một nguồn
nước ngọt chảy ra, hòa vào biển cả, quanh năm khơng cạn. Từ Đại Lãnh, du khách có thể
đi thuyền máy thăm làng chài ở Khải Lương, Đầm Mơn là dải đất liền phía cực đơng của
Việt Nam, hay cảng Vũng Rơ kề ngay phía bắc, một địa danh nổi tiếng đã từng là bến cảng
bí mật của những “con tàu khơng số” chở vũ khí, đạn dược từ miền Bắc vào miền Nam,
tiếp viện cho chiến trường khu 5 trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng những danh thắng của đất nước. Năm
1836, vua Minh Mạng cho thợ chạm hình phong cảnh Đại Lãnh vào một trong chín chiếc
đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) lớn trang trí trước sân Thế Miếu - Huế. Năm 1853, dưới triều vua Tự
Đức, Đại Lãnh có tên trong từ điển quốc gia do triều đình biên soạn.
Dù bạn vào Nam hay ra Bắc, bạn đều có thể đi qua ngọn đèo Cả hùng vĩ, nơi có địa danh
Đại Lãnh nổi tiếng với những dải cát trắng mịn, những cơn sóng vỗ rì rào của biển cả,
những làng chài tấp nập và những phong cảnh sơn thủy hữu tình.
Vũng Rô
Vũng Rơ nằm ở thơn Vũng Rơ, xã Hòa Xn Nam, huyện Tuy Hòa, cạnh quốc lộ 1A.
Nhìn trên bản đồ Phú n, ở góc đơng nam có một bán đảo hình dáng như đầu con chim
với chiếc mỏ nhọn. Bán đảo ấy được hình thành bởi núi Vũng Rơ làm cho bờ biển cao và
dốc, ghềnh đá ngổn ngang tạo ra nhiều mũi, phía đơng có mũi Mao, mũi Ba, phía nam có
mũi La. Các bán đảo này ơm lấy Vũng Rơ, tạo nơi đây thành một cảng biển tốt, để tàu
thuyền neo đậu, tránh bão, đánh bắt cá.
Vũng Rơ có cả thảy 12 bãi nhỏ: bãi Lách, bãi Mù U, bãi Ngài, bãi Chùa, bãi Chân Trâu, bãi
Hồ, bãi Hàng, bãi Nhỏ, bãi Chính, bãi Bàng, bãi Lau, bãi Nhãn.
Phía nam Vũng Rơ là hòn Nưa, cao 105m, có hình dáng giống như cây trụ chia đơi cánh
cửa vào Vũng Rơ. Sách Đại Nam nhất thống chí ghi là Trụ tự.
18


Từ năm 1964 đến đầu năm 1965, Vũng Rơ đã tiếp nhận 4 chiếc tàu khơng số từ miền Bắc
chở vũ khí, đạn dược, cung cấp cho chiến trường Phú n, Tây Ngun và Nam Trung Bộ.
Vũng Rơ được Nhà nước cơng nhận là di tích “lịch sử - văn hóa quốc gia”.

Đèo Cả
Đèo Cảlà một con đèo hiểm trở và hùng vĩ bậc nhất tại miền Trung Việt Nam, nằm tại ranh
giới giữa tỉnh Phú n (huyện Đơng Hòa) và Khánh Hòa (huyện Vạn Ninh), trên Quốc lộ 1A.
Đỉnh đèo có cao độ 333 m vượt dãy núi Đại Lãnh có chiều dài tổng cộng 12 km trong đó 9
km thuộc địa phận Phú n và 3 km thuộc địa phận Khánh Hòa. Đèo nằm giữa hai sườn núi
Hảo Sơn (Hốc Ao) và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn).
Hiện đang có kế hoạch xây dựng hầm đường bộ Đèo Cả để việc đi lại trên quốc lộ 1A
khơng còn phải vượt qua đường đèo hiểm trở này.
Khái quát tỉnh Phú Yên
I.Điều kiện tự nhiên
1. Vị trí địa lý
Phú n là một tỉnh dun hải miền Trung. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp
tỉnh Khánh Hồ, phía Tây giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Gia Lai, phía Đơng giáp biển Đơng. Phú
n có lực lượng lao động tại chỗ dồi dào, cần cù lao động, có học vấn khá và được đào tạo
tốt.
Phú n có đường quốc lộ 1A và quốc lộ 25 đi qua. Thị xã Tuy Hồ nằm cách Thủ đơ Hà Nội
1.160 km, cách thành phố Hồ Chí Minh 561 km, cách khu du lịch quốc tế Văn Phong
(Khánh Hồ) 40 km. Từ các thành phố của Việt Nam có thể đến Phú n thuận tiện bằng
đường sắt, đường bộ, đường hàng khơng và đường biển.
2. Đặc điểm địa hình
Địa hình tỉnh thấp dần từ Tây sang Đơng với những dạng địa hình núi, đồi xen kẽ đồng
bằng. Vùng trung du có những cao ngun rộng, tương đối bằng phẳng ở huyện sơng Hinh,
Sơn Hồ rất thuận lợi cho việc phát triển các cây cơng nghiệp, chăn ni đại gia súc.
Rải rác có núi đá chạy sát ra biển đã chia cắt dải đồng bằng ven biển của tỉnh thành nhiều
đồng bằng nhỏ, lớn nhất là đồng bằng thuộc hạ lưu sơng Ba với diện tích 500 km 2. Đây là
vựa lúa lớn của miền Trung.
Phú n có đường bờ biển dài 189 km với nhiều vũng, vịnh thuận lợi cho phát triển ni
trồng thuỷ sản. Ngồi ra dải đất cát ven biển có thể phát triển thành những vùng ni tơm
trên triều đạt hiệu quả cao. Đặc biệt Phú n có cảng hàng hố Vũng Rơ sẽ là đầu mối vận
chuyển hàng hố của tỉnh và các tỉnh Tây Ngun.

3. Khí hậu
Phú n thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Thời
tiết có 2 mùa rõ rệt: mùa khơ từ tháng 1 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12,
19


tập trung từ 70 – 80% lượng mưa cả năm. Yếu tố này cộng với sông suối ngắn và dốc nên
dễ gây lũ lụt. Tuy nhiên, từ khi có lòng hồ nhà máy thuỷ điện sông Hinh đi vào hoạt động
đã hạn chế được tình trạng ngập lũ tại đồng bằng Tuy Hoà.
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Toàn tỉnh Phú Yên có 20 đơn vị đất đai thuộc 8 nhóm chính: nhóm đất cát biển; nhóm đất
mặn ven biển; nhóm đất mặn, phèn; nhóm đất phù sa; nhóm đất xám; nhóm đất đỏ vàng;
nhóm đất vàng đỏ trên núi; nhóm đất thung lũng dốc tụ; các loại khác. Tổng quỹ đất tự
nhiên của huyện là 503.512 ha, trong đó đất dùng vào nông nghiệp có 72.300 ha, đất lâm
nghiệp có 209.337 ha, đất chuyên dùng có 12.297 ha; đất ở 5.720 ha; đất chưa sử dụng
203.728 ha.
2. Tài nguyên nước
Phú Yên có hệ thống sông Ba, sông Bàn Thạch, sông Kỳ Lộ, sông Cầu với tổng diện tích lưu
vực 4.886 km2, tổng lượng dòng chảy 8.400 tỷ m3 rất thuận lợi cho việc xây dựng các nhà
máy thuỷ điện, đảm bảo nước cho công nghiệp, sinh hoạt của nhân dân và các loại cây
trồng.
Mỏ nước khoáng Phú Sen nằm cách thị xã Tuy Hoà khoảng 10 – 12 km về phía Tây – Nam,
hiện nay đang được khai thác song trữ lượng khai thác để đóng chai khoảng 40.000
lít/ngày. Với công trình thuỷ điện sông Hinh khi đi vào hoạt động thì nguồn nước cho lưu
vực cần có một sự bố trí thích hợp để tận dụng những ưu thế của nó ở lưu vực, cần chú ý
đến trường hợp khai thác tối đa nguồn thuỷ điện làm ảnh hưởng đến những nguồn lợi khác
của nó ở lưu vực như nông nghiệp, thuỷ sản…
3. Tài nguyên rừng
Toàn tỉnh có 3 kiểu rừng chính là rừng kín lá rộng thường xanh, đây là kiểu rừng phổ biến ở

Phú Yên chiếm 96,5% diện tích rừng tự nhiên; rừng rụng lá (khộp), kiểu rừng này chiếm tỷ
lệ 3,5% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; rừng trồng, hiện có 20.963,0 ha rừng trồng và
khoảng 8,4 triệu cây phân tán (tương đương 4.200 ha), gồm các loại cây chủ yếu như bạch
đàn, keo lá tràm. Keo tai tượng, xà cừ, phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gõ đỏ, muồng đen,
giáng hương và một số loại khác.
Hệ động thực vật rừng Phú Yên khá phong phú, có 43 họ chim với 114 loài (trong đó có 7
loài quý hiếm); thú có 20 họ với 51 loài (trong đó có 21 loài quý hiếm), bò sát có 3 họ và
22 loài (trong đó có 1 loài quý hiếm).
III. Tiềm năng du lịch
Phú Yên có nhiều di tích và điểm du lịch như Tháp Nhạn – núi Nhạn ở ngay trong lòng thị
xã Tuy Hoà, soi bóng xuống dòng sông Đà Rằng. Từ thị xã đi về phía Bắc, du khách có thể
đi thăm sông Cầu, khu du lịch biển Long Thuỷ - một vùng thiên nhiên mênh mông với đầm
Ô Loan nước trong vắt, các đảo ven bờ biển như hòn Chúa, hòn Yến, bãi Tiên, chùa Đá
Trắng. Đi về phía nam của Phú Yên là cảng Vũng Rô, bãi Xếp, bãi Tiên, ghềnh Đá Đĩa. Đi về
hướng tây là khu rừng cấm suối Tar, gò Thì Thùng, nơi ghi lại các chiến tích chiến trường
20


xưa của nhân dân Phú n, thác Yaly và thượng nguồn sơng Hinh; suối nước nóng Phước
Long, suối Tiên..
Phú n còn là q hương của nhiều dân tộc cùng chung sống đã tạo nên sự đa dạng,
phong phú về phong tục, truyền thống văn hố lễ hội, với những sắc thái văn hố riêng
như hát tuồng, hát bài chòi, các làn điệu hò miền biển, các lễ hội như hội đâm trâu, hội
cồng chiêng, âm điệu đàn đá Tuy An…Tất cả những điều này tạo cho Phú n một tiềm
năng lớn về du lịch.
Sân bay Tuy Hòa
Sân bay Tuy Hòalà một sân bay tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú n. Hiện nay các chuyến
bay này đều sử dụng loại máy bay tầm thấp do ATR (Âu Châu) sản xuất là ATR 72, với
động cơ cánh quạt và có sức chứa 60 chỗ ngồi. Trước năm 1975, đây là căn cứ khơng qn
quan trọng của Khơng lực Hoa Kỳ. Sân bay có 3 đường cất hạ cánh (2835 m, 844 m và

2900 m).
Theo quy hoạch phát triển của Cục Cảng hàng khơng dân dụng Việt Nam, đến năm 2015
sân bay Tuy Hòa sẽ trở thành một sân bay quan trọng, có thể đón được các loại máy bay
tầm trung của Boeing hay Airbus A320.
Sông Đà Rằng
Sơng Đà Rằngcòn gọi là Sơng Ba là một con sơng chảy trên địa bàn ba tỉnh miền Trung
Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai, Phú n. Nguồn gốc của tên Đà Rằng xuất phát từ chữ "Ea
Rarang" trong tiếng Chăm.
Sơng dài 374 km, bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Rơ, tây bắc tỉnh Kon Tum, từ độ cao 1.549
mét, chảy theo hướng Bắc-Nam qua các huyện Kon Plơng của tỉnh Kon Tum, KBang, Đắk
Pơ, An Khê, Kơng Chro, Ia Pa, Ayun Pa của tỉnh Gia Lai, chuyển sang hướng Tây Bắc-Đơng
Nam qua huyện Krơng Pa (Gia Lai) rồi đi vào địa phận Phú n theo hướng Tây-Đơng làm
thành ranh giới tự nhiên giữa Sơn Hòa và Sơng Hinh, giữa Sơn Hòa và Tây Hòa, giữa Tây
Hòa và Phú Hòa, giữa Tây Hòa và thành phố Tuy Hòa rồi đổ ra biển Đơng ở cửa biển Đà
Diễn, phía Nam thành phốTuy Hòa.
Lưu vực của hệ thống sơng Đà Rằng rộng 13.900 km² bao gồm cả phần phía Đơng Bắc của
Đăk Lăk. Các phụ lưu quan trọng nhất của sơng Đà Rằng là sơng Ayun (hợp lưu với Đà
Rằng ở ranh giới giữa hai huyện Ayun Pa và Ia Pa), sơng Krong H'Năng (hợp lưu với Đà
Rằng ở ranh giới giữa Gia Lai và Phú n) và sơng Hinh (hợp lưu huyện Sơng Hinh).
Sơng Đà Rằngcung cấp nước quanh năm cho đồng bằng Tuy Hòa, với diện tích hơn 20.000
ha, vựa lúa lớn nhất miền Trung Việt Nam.Dọc theo sơng Đà Rằng có nhiều danh lam
thắng cảnh và di tích lịch sử. Cầu Đà Rằng qua sơng này tại Tuy Hòa dài 1.512 m là cầu dài
nhất miền Trung Việt Nam.
Thành phố Tuy Hòa
Thành phố Tuy Hòalà một thành phố biển tỉnh lị của tỉnh Phú n nằm ở vùng Nam Trung
Bộ Việt Nam.Thành phố Tuy Hòa có diện tích 212,62 km², có vị trí giáp với huyện Tuy An ở
21


phía bắc, giáp Phú Hòa ở phía Tây, giáp Đông Hòa ở phía nam, giáp biển Đông ở phía Đông

với toàn chiều dài bờ biển trên 30 km, cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 560 km.
Địa hình thành phố chủ yếu là đồng bằng phù sa do hạ lưu sông Babồi đắp. Có 2 ngọn núi
Chóp Chài và núi Nhạn nằm ngay trung tâm thành phố.Bãi biển Tuy Hòa là một bãi ngang
trãi dài, thơ mộng với bãi cát trắng mịn là điểm du lịch nổi tiếng ở thành phố.Tuy Hòa có
dân số khoảng 214.174 người (2009).
Được mệnh danh là vựalúa của miền Trung. Hiện nay hoạt động kinh tế đang chuyển đổi
nông nghiệp sang công nghiệp và du lịch. Hiện có khu công nghiệp An Phú, và các điểm
công nghiệp trên địa bàn thành phố.Thành phố Tuy Hòa là đầu mối giao thông quan trọng
của tỉnh Phú Yên và khu vực miền Trung Tây Nguyên.
Nằm trên trục Quốc Lộ 1A Bắc Nam. Tuyến đường sắt Bắc Nam. Quốc lộ 25, ĐT645 nối liền
các tỉnh, thành phố trong khu vực. Sân bay Đông Tác được nâng cấp thành sân bay dân
dụng lớn trong khu vực.
Du lịch là một trong các ngành kinh tế mũi nhọn với lợi thế nhiều thắng cảnh tự nhiên
tuyệt đẹp do thiên nhiên ban tặng, những dòng sông uốn lượn quanh dãy Trường Sơn, tạo
nên nhiều đầm, phá, vịnh, vũng tuyệt đẹp.Các di tích và danh thắng là: Tháp Nhạn, sông
Đà Rằng, cầu Đà Rằng, các chùa Hồ Sơn, Hòa Sơn, Minh Sơn, Khánh Sơn, Bảo Tịnh, Bảo
Lâm, Kim Cang, khu du lịch Đá Bàn, núi Chóp Chài (Nựu Sơn).Hàng năm có nhiều hoạt
động lễ hội diễn ra nhất là vào mùa xuân : lễ hội Đầm Ô Loan, hội Dinh Thầy.
Thaùp Nhaïn
Tháp Nhạn ở ngay thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, gần quốc lộ I. Tháp chưa có một tư
liệu nào nói rõ ngày tháng năm xây dựng nhưng qua nghiên cứu thực tế di tích ta sẽ có
một tài liệu về dân tộc Chàm như Tháp PohNaGa ở Nha Trang, thì ta khẳng định chắc chắn
đây cũng là một di tích kiến trúc nghệ thuật của người Chàm từ thế kỷ thứ II trở về trước.
Thực dân Pháp sang xâm lược nước ta. Chúng đi tầu thủy từ ngoài biển trông vào tưởng
đây là pháo đài của chúng ta, chúng nã đại pháo vào làm cho đỉnh tháp và ba góc tháp bị
sứt đổ về phía cửa tháp ở hướng đông cũng bị phá rộng ra thêm. Trong thời kỳ kháng chiến
(1945-1954) tháp Nhạn bị nhiều loạt đạn của thực dân Pháp từ máy bay bắn xuống hoặc
các vùng mưa bom quanh núi Nhạn đã làm cho tháp ngày càng hư hỏng.
Vào năm 1960 chính quyền Ngụy tỉnh Phú Yên đã cho tu bổ lại hàn gắn những chỗ bị nứt
để ở phía bên trong tháp cũng như ở bên ngoài tháp còn trên thân thì vẫn dể nguyên, bên

cạnh đó chúng còn cho xây dựng thêm bệ chân tháp bằng ciment cốt thép để giúp cho
tháp thêm vững chắc dư sức chống lại mưa gió, nhưng đây là một việc làm sai nguyên tắc
tu sửa tôn tạo di tích.
Tháp Nhạn dược xây dựng trên một khu đất tương đối bằng phẳng gần đỉnh núi. Cấu trúc
của tháp hình tứ giác. Các cạnh không được thể hiện giống nhau mà có sai khác chút ít.
Cũng như tháp PohNaGa ở Nha Trang, tháp Nhạn cũng dược xây dựng theo hình thức tầng
cao, tháp Nhạn ở Tuy Hòa có 4 tầng càng lên cao càng thu nhỏ lại so với tầng dưới nhưng
vẫn theo phong cách tầng dưới.

22


Kiến trúc tháp Nhạn có cùng phong cách kỹ thuật như các tháp Chàm PohNaGar Nha Trang
Thuận Hải... và nói chung đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kiến trúc. Cái đẹp của tháp
là tuy xây dựng cao và đồ sộ như thế nhưng càng đến gần càng nhìn thấy cái đẹp của nó
hài hòa, tinh xảo. Đó là công trình kiến trúc nghệ thuật có giá trị lịch sử cao của người
Chàm xưa. Ngày nay chúng ta phải có trách nhiệm bảo quản tu sửa, phục chế di tích đã
bảo tồn cho mai sau kế thừa nền văn hóa cổ xưa của dân tộc.
Hiện nay, trong tháp Nhạn không có bộ thờ. Các tượng thờ cũng không thấỵ, tuy nhiên
phía sau tháp cách chân bệ adimont I mát có một phiến đá lớn đảo gọt trơn tru, dưới chân
hình vuông, lên cao thì đỉnh bầu và nhỏ dần tạo thành hình chóp nón, cao 1,30m, mỗi
cạnh rộng 0,90m dưới chân có chạm hình cánh sen phình ra mỗi bên 5cm. Đó là phần nổi
trên mặt đất. Còn phần bị khuất lấp bên dưới thì chưa rõ. Đặc biệt là phần chạm cánh sen
tận cùng của mỗi cánh sen lớn nhất của bốn mặt phiến đá. Có người cho rằng phiến đá
này là chóp tháp, lại có người cho rằng đây là cái bia, cũng có ý kiến cho rằng đây là cái
Linga một vật mà người Chàm xưa thường hay thờ ở các tháp như Ponagar Nha Trang và
tháp ở Thuận Hải.
Đây là một chóp tháp được kết hợp hài hòa giữa hai hình tượng chóp nón thể hiện sự cao
quý thiêng liêng của ngôi tháp cùng với hình tượng Linga, một vật mà người Chàm thường
thờ ở các tháp. Cho nên chóp tháp ở đây tạc theo hình tượng Linga nhưng chưa có hình

dạng hoàn chỉnh như những Linga ở PohNaGar hoặc ở Cổ Viện Chàm Đà Nẵng.
Đặc biệt dưới chân núi Nhạn về phía Tây Nam nếu ta theo con đường đất của khu phố ở
vòng theo chân núi ven bờ sông Chùa có một tảng đá lớn khá bằng phẳng trên khắc ba
dòng chữ cổ (Dạng chữ Phạn) mà ta thường gặp ở các tấm bia, trụ cột trong các tháp
Chàm như ở Ponagar Nha Trang, tảng đá cao 5m rộng 5m. Chữ được khắc ở khoảng 1/3
tảng đá mặt đá (tính từ trên xuống) dòng dài 0,80m. Có lẽ đây là thư tịch duy nhất ở khu
vực tháp này còn lưu lại mà hiện nay ta tìm thấy được.
Trong tháp không có bệ thờ, không có tượng. Căn cứ theo hình dáng kiến trúc của Tháp thì
ta có thể cho rằng đây là nơi thờ phụng thần linh của người Chàm cổ (như dạng bàn thờ
Ponagar ở Tháp Bà Nha Trang). Tuy nhiên về các sự tích vị thần được thờ trong tháp không
nghe nhân dân đề cập đến mà chỉ biết các miếu thờ ở chung quanh tháp và ngay đến ngôi
miếu lớn ở trước tháp đều thờ một vị nữ thần : Thiên Y A Na Diên Ngọc Phi hay còn gọi là
Thượng đỉnh chúa Thiên Y A Na Diên Ngọc Phi.
Bà là người phù hộ, yểm trợ cho dân làng làm ăn sinh sống, giúp đỡ ghe thuyền của ngư
dân vượt khỏi sóng to gió lớn. Tất cả tai nạn xảy ra đưa đến cho dân làng đều được bà
dùng phép thần thông che chở, lai lịch của bà thì nhân dân không biết rõ.
Căn cứ vào tờ sắc phong của các vua triều Nguyễn như Duy Tân, Thành Thái, Khải Định mà
chùa Kim Long (nằm về hướng Đông của ngôi Tháp gần chân núi) hiện giữ cả ba tân sắc
đều ghi rõ công lao của bà Thiên Y A Na Diên Ngọc Phi.
Ñaàm OÂ Loan
Đầm Ô Loan nằm sát quốc lộ 1A, dưới chân đèo Quán Cau, cách thành phố Tuy Hoà 22km.
Đây là một địa danh gắn với phong trào Cần Vương của tỉnh Phú Yên.

23


Đầm Ơ Loan rộng khoảng 1.200 ha. Đứng trên đèo Qn Cau nhìn xuống, Ơ Loan giống
như con phượng đang xòe cánh, còn trên bản đồ, Ơ Loan giống như con thiên nga đang
thong thả bay.
Phía Tây đầm Ơ Loan là những quả đồi nhỏ nằm san sát nhau.Phía đơng là mả Cao Biền.

Dân gian cho rằng trên đường đi ếm hại nhân tài nước Nam, Cao Biền đã bị trời chơn tại
đây.
Thật ra, đây khơng phải là mả mà là một cồn cát. Tuy nằm sát biển, sóng gió vơ chừng
nhưng nhờ có một luồng gió xốy mang cát bồi đắp, nên khơng khi nào mả bị sụp xuống
thấp. Ơ Loan là một đầm nước lợ, gần như nằm trọn trong đất liền, có món đặc sản là sò
huyết. Dưới thời phong kiến, các quan lại khi về Phú n thường ra đầm Ơ Loan thưởng
ngoạn phong cảnh và thưởng thức món sò huyết.
Món đặc sản khác ở Ơ Loan là hàu. Tản Đà (Nguyễn Khắc Hiếu) nhà thơ nổi tiếng sành ăn
đã từng đi khắp nước, ăn khắp nơi, đến Phú n nếm món ngon vật lạ cũng khen rằng:
“Phú Câu cước cá, Ơ Loan miếng hàu”. Hàu sống dựa vào các tảng đá ngập mặn, có cạnh
rất sắc. Hàu dùng để nấu cháo, nấu canh, xào, nhưng ngon và hấp dẫn nhất là món hàu
tái hoặc hàu trộn với đậu phụng và cà chua.
Món ngon vật lạ ở Ơ Loan còn có cua đế, còn gọi là huỳnh đế hay hồng đế. Mai cua hồng
đế màu đỏ hoặc vàng đậm, ngay khi cua còn sống ở dưới nước, đằng sau có một chùm
lơng vàng, ngắn. Đặc biệt, lồi cua này khơng bò ngang mà bò tới, vì càng và que đều mọc
ở đằng trước đầu. Ngồi ra, Ơ Loan còn có tơm rằn, tơm bạc, mực, sứa, rau câu, điệp. Giữa
đầm có hai tảng đá lớn chồng lên nhau gọi là hòn Chồng.
Hàng năm đến ngày mùng 7 tháng giêng âm lịch, lễ hội cầu ngư của ngư dân vùng đầm Ơ
Loan được tổ chức. Hàng vạn người từ khắp nơi về tham dự. Đây là một nét đẹp của văn
hóa dân gian truyền thống Phú n. Đầm Ơ Loan đã được Bộ Văn hóa - Thơng tin xếp
hạng là di tích danh thắng quốc gia.
Đèo Cù Mông
Đèo Cù Mơngnằm trên Quốc lộ 1A, là một trong những đèo núi hiểm trở nhất Việt Nam,
đèo là ranh giới của 2 tỉnh Bình Định và Phú n. Đèo dài 7 km, từ km 1.243 đến km 1.250,
độ cao của đỉnh đèo là 245 m, độ dốc 9%. Đường dốc, có nhiều cua gấp, hai bên là núi
cao, dễ gây ra tai nạn giao thơng. Về địa lý, đèo là tuyến đường bộ đi qua một trong những
nhánh đâm ra biển của dãy Trường Sơn Nam. Trước đây khi chưa có tuyến đường Quy
Nhơn-Sơng Cầu thì đèo là con đường chính để qua lại giữa Bình Định và Phú n.
Khái quát tỉnh Bình Đònh
I.Điều kiện tự nhiên

1.Vị trí địa lý
Bình Định là tỉnh thuộc vùng dun hải Nam Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía
Nam giáp tỉnh Phú n, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai, phía Đơng giáp biển Đơng. Bình Định
được coi như cửa ngõ của các tỉnh Tây
24


Nguyên. Tỉnh có 11 đơn vị hành chính gồm 10 huyện và 1 thành phố. Quy Nhơn là thành
phố loại II, trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá của tỉnh.
2. Đặc điểm địa hình
Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông của dãy Trường Sơn, độ
cao trung bình 500 – 700 m, kế tiếp là vùng trung du. Địa hình phổ biến là đồi thấp xen kẽ
thung lũng hẹp có độ cao dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn. Vùng thấp
là vùng đồng bằng rải rác có đồi thấp xen kẽ. Địa hình đồng bằng nghiêng nên rất dễ bị
rửa trôi, dẫn đến đất bị bạc màu và mặn hoá. Ngoài vùng là cồn cát ven biển. Các địa hình
chủ yếu của tỉnh là: vùng núi trung bình phía Tây (chiếm 70% diện tích tự nhiên của tỉnh,
cao từ 500 - 700 mét, độ dốc trên 250 kéo dài theo chiều Bắc - Nam qua các huyện Hoài
Ân, An Lão, Vĩnh Thạnh, Vân Canh, bị chia cắt mạnh; vùng này có dãy núi cao trên 1.000
mét); vùng đồi, tiếp giáp giữa vùng núi phía Tây và đồng bằng phía Đông (chiếm khoảng
10% diện tích, độ cao dưới 100 mét, độ dốc 10 – 15 0); vùng đồng bằng ven biển (chiếm
20% diện tích, đồng bằng nhỏ hẹp theo hạ lưu các sông và bị chia cắt thành nhiều mảnh
nhỏ. Ven biển có nhiều đầm, vịnh, cửa biển)
3. Khí hậu
Bình Định thuộc vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Nhiệt độ trung bình 27 0C. Lượng mưa trung
bình hàng năm trong 5 năm gần đây là 2.185 mm. Mùa mưa (từ tháng 8 đến tháng 12) tập
trung 70 - 80% lượng mưa cả năm. Mùa mưa trùng với mùa bão nên thường gây ra lũ lụt.
Ngược lại, mùa nắng kéo dài nên gây hạn hán ở nhiều nơi. Độ ẩm trung bình là 80%.
II. Tài nguyên thiên nhiên
1. Tài nguyên đất
Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 6.025,6 km 2, có thể chia thành 11 nhóm đất với 30 loại

đất khác nhau, trong đó quan trọng nhất là nhóm đất phù sa có khoảng trên 70 nghìn ha,
phân bố dọc theo lưu vực các sông. Đây là nhóm đất canh tác nông nghiệp tốt nhất, thích
hợp với trồng cây lương thực và cây công nghiệp ngắn ngày. Diện tích đất chưa sử dụng
còn rất lớn, chiếm tới 34% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh. Đây là một tiềm năng lớn cần
được đầu tư khai thác.
2. Tài nguyên rừng
Bình Định hiện có khoảng 196.000 ha đất lâm nghiệp, trong đó trên 151.500 ha rừng tự
nhiên và hơn 44.300 ha rừng trồng. Rừng hiện nay còn tập trung chủ yếu ở những vùng xa
đường giao thông nên chỉ có ý nghĩa lớn về phòng hộ và bảo vệ môi trường. Xét theo mục
đích kinh tế thì rừng sản xuất có 65,5 nghìn ha, rừng phòng hộ có gần 128 nghìn ha. Rừng
Bình Định có hơn 40 loài cây có giá trị dược liệu, phân bố hầu khắp ở các huyện như: ngũ
gia bì, sa nhân, thiên niên kiện, bách bộ, thổ phục linh, hoàng đằng, thiên môn, phong kỷ,
kim ngân. Vùng trung du, ven biển có cây dừa, trám, đặc biệt cây mai gừng có giá trị dược
liệu cao, nhưng chủ yếu phân bố ở vài vùng đất hẹp tại huyện Vĩnh Thạnh. Cây sa nhân
cũng có giá trị xuất khẩu cao.
3.Tài nguyên khoáng sản
25


×