BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG HÀ NỘI
Họ và tên:
Mã số:
Điểm
Lớp:
Bằng số
Bằng chữ
TÀI CHÍNH -NGÂN HÀNG
Môn:
ĐẦU TƯ TÀI CHÍNH
BÀI TẬP KIỂM TRA
Câu hỏi số 1:
Nêu khái niệm chung về thị trường chứng khoán? Trình bày chức năng và cơ cấu
của thị trường chứng khoán?
Câu hỏi số 2:
a/ Trình bày công thức tính và mô hình chiết khấu cổ tức DDM?
b/ Giả sử rằng một cổ phiếu chi trả cổ tức trong 3 năm, mỗi năm 90$ và tỷ lệ chiết
khấu k=12%. Trong trường hợp này, giá trị của cổ phiếu ngày hôm nay bằng bao
nhiêu?
c/ Giả sữ thay vì vậy, cổ phiếu này chi trả cổ tức trong 3 năm, lần lượt là
15$,25$,35$ tương ứng ở năm 1, năm 2, năm 3, và tỷ lệ chiết khấu k = 10%. giá trị của
cổ phiếu ngày hôm nay bằng bao nhiêu?
BÀI LÀM:
Câu 1:
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán
Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán (TTCK) và thị trường vốn
là một, chỉ là tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm: Thị trường tư bản (Capital
Market). Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất
bên trong của quá trình mua bán các chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là
hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời
nhau mà thống nhất và cùng phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị
trường tư bản.
Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng: ” Thị trường chứng khoán
được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không phải đồng nhất là một”. Nhưvậy, theo
quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch,
mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn nhưtrái phiếu chính phủ, cổ phiếu và
Đầu Tư Tài Chính
Page 1 of 6
TS: Trần Minh Thái
trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền
tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.
Quan điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được tại đa số các Sở giao dịch
chứng khoán lại cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi
mua bán các phiếu cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan
điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong từng điều
điểm này, thị trường chứng khoán được đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ
tài chính mang lại quyền tham gia sở hữu.Các quan kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên, quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, được trình bày là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại
chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là các loại giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, nó
cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành
hoặc quyền sở hữu. Các quyền yêu cầu này có sự khác nhau giữa các loại chứng khoán,
tuỳ theo tính chất sở hữu của chúng
Chức năng của Thị trường chứng khoán
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do
các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh
doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và
chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử
dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng
một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng
khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà
đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của
mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể
chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác
khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng
khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu
tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng
khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của
các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh
giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng
tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích
thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô:Các chỉ
báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá
các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng;
Đầu Tư Tài Chính
Page 2 of 6
TS: Trần Minh Thái
ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì
thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp
Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể
mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và
quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện
pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối
của nền kinh tế
Cơ cấu Thị Trường Chứng Khoán
Xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại:
1. Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị
trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà
đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
2. Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị
trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã
phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành.
Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài
sản tài chính, nhận một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá.
Như vậy, thị trường thứ cấp không cung cấp dịch vốn cho các doanh nghiệp, thì có
lợi gì? Không có thị trường thứ cấp, thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán
phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp, thì nhà đầu tư cũng
không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một
loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu của một tổ chức niêm yết trên thị trường
chứng khoán khi được mua bán nhiều là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức
đó; do đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu
hoặc trái phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ
phiếu đang ở xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi
thị trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu
tổ chức phát hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì việc mua bán
trên thị trường thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ
phiếu đó không giao dịch được trên thị trường thứ cấp.
Đối tượng tham gia thị trường chứng khoán gồm: Sở giao dịch chứng khoán (hoặc
Trung tâm giao dịch chứng khoán), là người tổ chức thị trường; công ty chứng khoán, là
người kinh doanh chứng khoán, trực tiếp mua bán chứng khoán trên Sở Giao dịch
chứng khoán (hoặc Trung tâm giao dịch chứng khoán); nhà đầu tư, là những người mua
bán chứng khoán thông qua các công ty môi giới chứng khoán; tổ chức niêm yết; và cơ
quan quản lý-giám sát thị trường
Câu hỏi số 2:
a/ Trình bày công thức tính và mô hình chiết khấu cổ tức DDM?
MÔ HÌNH CHIẾT KHẤU CỔ TỨC
Đầu Tư Tài Chính
Page 3 of 6
TS: Trần Minh Thái
Mô hình chiết khấu cổ tức là mô hình định giá cổ phiếu theo cách tiếp cận phân tích
sử dụng các yếu tố kinh tế căn bản (fundamental analysis). Nói một cách tổng quát,
cách tiếp cận này chuyển tập hợp các quan sát về đặc điểm của doanh nghiệp và các
biến số kinh tế vĩ mô thành giá trị thị trường của cổ phiếu doanh nghiệp.
Cổ tức trong tương lai được xem là tiền mà cổ đông kỳ vọng sẽ nhận được khi nắm
giữ cổ phiếu. Căn cứ vào nguyên tắc chiếu khấu ngân lưu, giá trị hiện tại của dòng cổ
tức trong ương lai chính là giá trị căn bản của cổ phiếu.
Một nhà đầu tư mua cổ phiếu vào cuối năm 0, giữ cổ phiếu đó trong đúng một năm
để hưởng cổ tức là D1 và bán cổ phiếu vào cuối năm 1 với giá P1. Hoạt động đầu tư
này tạo ra dòng tiền vào cuối năm 1 là D1 + P1. Với ke là suất chiết khấu thích hợp, cổ
phiếu được định bằng cách chiết khấu ngân lưu như sau: (với P là giá trị cổ phiếu, D là
cổ tức, k là suất chiết khấu và t là thời gian)
Nếu nhà đầu tư giữ cổ phiếu trong 2 năm thì dòng tiền được hưởng trong tương lai
sẽ là D1 vào cuối năm 1 và D2 + P2 vào cuối năm 2. Công thức chiết khấu ngân lưu sẽ
có dạng như sau:
Một cách tổng quát, cổ phiếu được định giá bằng công thức:
Tuy nhiên, công thức trên quá tổng quát và không giúp ích nhiều cho chúng ta trong
việc tính toán cụ thể. Để có thể áp dụng công thức trên trong thực tế, chúng ta phải dự
báo tốc độ tăng trưởng cổ tức trong các năm để có thể tính được D1, D2,..., Dn,.... từ
một mức cổ tức cơ sở D nào đó.
Mô hình tăng trưởng cổ tức, còn được gọi là mô hình tăng trưởng Gordon, có ba
dạng dựa trên ba giả thiết về tăng trưởng cổ tức trong tương lai.
• Mô hình một giai đoạn: doanh nghiệp đã bước vào giai đoạn tăng trưởng ổn định
ở đó cổ tức tăng trưởng với tốc độ không đổi mãi mãi.
• Mô hình hai giai đoạn: doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển nhanh; cổ tức
tăng trưởng với tốc độ không đổi trong một số năm nhất định, sau đó chuyển sang giai
đoạn ổn định với một tốc độ tăng trưởng thấp hơn (và không đổi) cho đến mãi mãi về
sau.
• Mô hình ba giai đoạn: doanh nghiệp đang ở giai đoạn phát triển nhanh; cổ tức
tăng trưởng với tốc độ không đổi trong một số năm nhất định, sau đó tăng trưởng với
Đầu Tư Tài Chính
Page 4 of 6
TS: Trần Minh Thái
tốc độ giảm dần trong một số năm của giai đoạn chuyển đổi, rồi cuối cùng thì đi vào ổn
định với tốc độ tăng trưởng được giữ nguyên cho đến mãi mãi về sau.
Mô hình tăng trưởng cổ tức:
Các thông số cần thiết:
Dự báo tốc độ tăng trưởng cổ tức để tính được Dt+n
Suất chiết khấu k: Chi phí cơ hội của vốn hay suất sinh lợi kỳ vọng của nhà đầu tư.
Có 3 mô hình dựa trên 3 giả thiết về tăng trưởng cổ tức:
Mô hình 1: cổ tức tăng trưởng với tốc độ không đổi mãi mãi.
Mô hình 2: cổ tức tăng trưởng với tốc độ không đổi trong 1 số năm nhất định, sau
đó chuyển sang một tốc độ tăng trưởng thấp hơn (và không đổi) từ đó cho đến mãi mãi.
Mô hình 3: cổ tức tăng trưởng với tốc độ không đổi trong 1 số năm nhất định, sau
đó tăng trưởng với tốc độ giảm dần trong một số năm, rồi cuối cùng thì giữ nguyên tốc
độ tăng trưởng từ đó cho 16 đến mãi mãi.
Tóm tắt : các mô hình tăng trưởng cổ tức
Mô hình 1 giai đoạn: Cổ tức tăng trưởng đều mãi mãi:
Mô hình 2 giai đoạn: Cổ tức tăng trưởng đều n năm và tăng trưởng thấp hơn nhưng
ổn định mãi mãi
Mô hình 3 giai đoạn:
- Cổ tức tăng trưởng đều n năm - tốc độ tăng trưởng giảm dần trong một số năm; Sau đó giữ tốc độ này ổn định mãi mãi
Đầu Tư Tài Chính
Page 5 of 6
TS: Trần Minh Thái
Một số lưu ý
Mức lạm phát phải tương ứng với đồng tiền đang sử dụng trong định giá.
Nếu kết quả định giá bằng mô hình DDM có vấn đề: Giá tính được quá thấp: có thể
do tỷ lệ trả cổ tức của doanh nghiệp ở giai đoạn ổn định quá thấp thử dùng mô hình
FCFE ổn định; hoặc có thể do beta của doanh nghiệp ở giai đoạn ổn định cao ,sử dụng
beta gần bằng 1.
Giá tính được quá cao: có thể do tốc độ tăng trưởng kỳ vọng quá cao đối với doanh
nghiệp đã ở giai đoạn ổn định thì sử dụng tốc độ tăng trưởng gần với tốc độ tăng GNP.
b/ Giả sử rằng một cổ phiếu chi trả cổ tức trong 3 năm, mỗi năm 90$ và tỷ lệ chiết
khấu k=12%. Trong trường hợp này, giá trị của cổ phiếu ngày hôm nay bằng bao
nhiêu?
Áp dụng CT:
= 216,165
$
c/ Giả sữ thay vì vậy, cổ phiếu này chi trả cổ tức trong 3 năm, lần lượt là
15$,25$,35$ tương ứng ở năm 1, năm 2, năm 3, và tỷ lệ chiết khấu k = 10%. giá trị của
cổ phiếu ngày hôm nay bằng bao nhiêu?
Áp dụng CT:
=60,594
Đầu Tư Tài Chính
$
Page 6 of 6
TS: Trần Minh Thái