Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

tìm hiểu về ngân hàng thụy sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.74 KB, 21 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Đại Học kinh tế Huế
∞-∞-∞-∞

TIỂU LUẬN

TÌM HIỂU
NGÂN HÀNG THỤY SĨ


PHẦN I

LỜI MỞ ĐẦU
Thụy Sĩ là một quốc gia ở Trung Âu. Thủ đô là Berne. Thành phố lớn nhất là
Zürich. Quốc gia này phía tây giáp Pháp, phía nam giáp Italia, phía đông giáp Áo
là Liechtenstein, phía bắc giáp Đức. Thụy Sĩ không chỉ nổi tiếng về thiên nhiên
hùng vĩ và tươi đẹp. Có vô số điều về Thụy Sĩ đã cuốn hút du khách khắp thế
giới như đồng hồ, lễ hội âm nhạc, phô mai và sô cô la…Đặc biệt, khi nhắc đến
Thụy Sĩ có lẽ người ta sẽ nghĩ ngay đến “hệ thống ngân hàng an toàn hàng đầu
thế giới”. Với chiến lược ngân hàng số 1 và nền kinh tế ổn định nhất thế giới
trong suốt những năm qua, Thụy Sĩ trở thành cái tên uy tín về các hoạt động tiền
tệ giao dịch ngân hàng toàn cầu.
Vậy, nguyên nhân nào đã giúp ngân hàng Thụy Sĩ đạt được vị trí tối ưu hiện tại?
Ngân hàng Thụy sĩ tạo ra sự khác biệt gì để thu hút các nhà tài phiệt trên thế
giới? Chúng ta có thể học hỏi được gì từ những điều đó để phát triển ngành ngân
hàng ở Việt Nam hay không?
Đó chính là nội dung chính mà chúng em đề cập đến trong bài tiểu luận này.

2



PHẦN II

NỘI DUNG CHÍNH
I.

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

I.1.Lịch sử hình thành:
Ngân hàng Thụy Sĩ lần đầu tiên được hình thành vào thế kỷ 18 do nhu
cầu của các thương gia giàu có (Nhờ tiền hợp đồng của lính đánh thuê).
Wegelin & Co., thành lập năm 1741, là ngân hàng lâu đời nhất ở Thụy Sĩ cho
đến khi được tái cơ cấu hợp pháp năm 2013. Hentsch & Cie và Lombard
Odier được thành lập dưới hình thức là một ngân hàng tư nhân vào năm 1796
tại Geneva, và The Pictet Group được thành lập dưới hình thức ngân hàng
thương mại vào năm 1805. Hentsch & Cie là một trong những thành viên
sáng lập ra ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ trong năm 1852.
Các ngân hàng Thụy Sĩ tại Geneva và Zurich đã từng là nơi trú ẩn an toàn
cho tài sản của nhà độc tài, những tên cướp và buôn vũ khí, quan chức tham
nhũng và gian lận thuế.
Đó là những ngân hàng sơ khai đầu tiên ở Thụy Sĩ. Số lượng ngân hàng
ngày càng tăng, đạt đến con số 53 vào năm 1826. Điều đó đặt ra yêu cầu phải
hình thành một ngân hàng Trung ương. Năm 1891, Hiến pháp Liên Bang
được sửa đổi để ủy thác quyền phát hành tiền cho một Liên đoàn duy nhất.
Trải qua nhiều giai đoạn phát triển, với bề dày lịch sử đáng kể của “nơi xuất
xứ của các ngân hàng”, đến nay Ngân hàng Thụy Sĩ đã đạt đến tầm cao vượt
trội trên thị trường tài chính tiền tệ thế giới, đặc biệt là từ khi có sự ra đời của
Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ.

I.2. Qúa trình phát triển:
Tên đầy đủ của Ngân hàng trung ương Thụy Sĩ là Swiss National Bank

(SNB). SNB được thành lập bởi quy định của Đạo luật Liên Bang Ngân hàng
quốc gia Thụy Sĩ, có hiệu lực từ ngày 16 tháng 1 năm 1906, bắt đầu kinh
doanh vào ngày 20 tháng 6 năm 1907.

3


SNB có hai trụ sở chính: một ở Berne và một ở Zurich. Ngoài ra nó duy
trì sáu văn phòng đại diện (trong Basel, Geveva, Lausanne, Lucerne, Lugano
và St Gallen). Hơn nữa, nó có 14 cơ quan hoạt động của các ngân hàng bang
có thể trợ giúp để đảm bảo việc cung cấp tiền cho đất nước.
Trụ sở chính:



Tại Zurich: Bdrsenstrasse 15 P.O hộp 2800 8022 Zurich
Tại Bern: Berne Bundesplatz 1 3003 Bern

Từ khi thành lập Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ vào năm 1907, nó đã có tác
động mạnh tới chính sách kinh tế ở Thụy Sĩ.
Các “Biên niên sự kiện tiền tệ” liệt kê tất cả các luật quan trong nhất, đạo
luật và các quyết định liên quan đến chính sách tiền tệ từ năm 1848. Các “hồ
sơ tiểu sử” chứa thông tin về nghề nghiệp chuyên môn và chính trị của tất cả
các cựu thống đốc và hiện tại của Hội đồng Ngân hàng SNB, tất cả các thành
viên của Ban điều hành của nó, cùng với những bức ảnh cụ thể. Thông qua
đó, có thể hình dung được sự phát triển qua từng giai đoạn của SNB với
những sự kiện nổi bật sau:








Năm 1914-1917: trong thế chiến thứ 1, SNB được cho phép phát hành
trái phiếu lần đầu tiên để huy động vốn.
Năm 1936: Hội đồng liên bang giảm giá đồng Franc tạo nên một
khoản dự trữ tương lai cho SNB
Năm 1994: Ngân hàng đã được mô tả như là một công ty cổ phần hoạt
động dưới sự quản lý và giám sát của Liên đoàn, đã có tám chi nhánh
và hai mươi tiểu ngành trong bang.
Tháng 5 năm 2004: Với sự ra đời của Điều 99 của Hiến pháp Liên
bang, SNB đạt được độc lập chính thức.
Tính đến năm 2015: SNB thuộc sở hữu tư nhân,với phần lớn cổ phần
thuộc bang và ngân hàng của bang.

II.HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THỤY SĨ:

4


II.1. Mô hình hoạt động
Việc tổ chức SNB được quy định trong đạo luật Ngân hàng quốc gia và
trong quy chế tổ chức.
Sơ đồ mô hình hoạt động của ngân hàng trung ương Thụy Sĩ – SNB

*Giải thích mô hình:
Theo đó, Ngân hàng quốc gia Thụy Sĩ trực thuộc Quốc Hội và độc lập hoàn
toàn với Chính phủ.
Cơ cấu tổ chức của SNB bao gồm 4 bộ phận:

+ Đại hội đồng cổ đông: Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tổ chức mỗi
năm một lần, như một quy luật vào tháng Tư. Do nhiệm vụ công của SNB,
quyền hạn của hội đồng cổ đông không lớn như trong các công ty cổ phần
theo quy định của pháp luật tư nhân.
+Hội đồng Ngân hàng: giám sát và kiểm soát các hành vi kinh doanh của
Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ và bao gồm 11 thành viên. Sáu thành viên, bao
gồm cả Thống đốc và Phó thống đốc, được chỉ định bởi Hội đồng Liên bang,
và 5 thành viên được đề cử bởi Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng Ngân hàng

5


thành lập bốn ủy ban từ cấp bậc riêng của nó: một Ủy ban Kiểm toán, một
Ủy ban rủi ro, một Ủy ban Thù lao và một Ủy ban bổ nhiệm.
+Quản lý ngân hàng: Quản lý và điều hành cơ thể của Ngân hàng Quốc gia
Thụy Sĩ, là Hội đồng quản trị. Hội đồng quản trị có trách nhiệm đặc biệt đối
với chính sách tiền tệ, chiến lược quản lý tài sản, góp phần vào sự ổn định
của hệ thống tài chính và hợp tác tiền tệ quốc tế. Hội đồng quản trị bao gồm
3 thành viên:
Chủ tịch: Thomas Jordan
Phó Chủ tịch: Fritz Zurbrügg
Thành viên: Andréa M. Maechler
+Nội bộ quản lý: Ngân hàng quốc gia được chia thành 3 cục. Các đơn vị tổ
chức của vụ I và III là phần lớn nằm ở Zurich và vụ III tại Berne. Phạm vi
kinh doanh vụ I bao gồm vấn đề quốc tế, kinh tế, pháp lý và hành chính vụ,
nhân lực, truyền thông. Phạm vi vụ II bao gồm: tiền, Tài chính và kiểm soát,
ổn định tài chính và giám sát, an ninh. Phạm vi vụ III: thị trường tiền tệ và
ngoại hối, quản lý rủi ro, hoạt động Ngân hàng, công nghệ thông tin.
Ngân hàng TW Thụy Sĩ nắm vai trò điều hành hệ thống ngân hàng
quốc gia, với 338 ngân hàng các loại, trong đó có 148 ngân hàng nước ngoài.

Hầu như tất cả những ngân hàng lớn trên thế giới đều có chi nhánh, văn
phòng đại diện ở các thành phố Zurich, Bern, Geneva hay Lugano của Thụy
Sĩ.

II.2. Tổng quan về hệ thống ngân hàng quốc gia:
- Ngoài rất nhiều yếu tố khác, lĩnh vực ngân hàng ở Thụy Sĩ phân biệt
chính nó thông qua sự đa dạng và tính không đồng nhất của nó. Qua thời

6


gian, nhóm ngân hàng rất khác nhau đã phát triển và trong chừng mực nào đó
đã trở nên chuyên biệt.
- Hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ dựa trên mô hình của các ngân hàng
phổ quát. Điều này có nghĩa rằng tất cả các ngân hàng có thể cung cấp tất cả
các dịch vụ ngân hàng, chẳng hạn như:

Tín dụng / kinh doanh cho vay

Tiền gửi và kinh doanh tiền gửi (tài khoản tiết kiệm,vv)

Quản lý tài sản và tư vấn đầu tư

Giao dịch thanh toán

Kinh doanh chứng khoán (giao dịch chứng khoán)

Kinh doanh bảo lãnh phát hành (phát hành trái phiếu hoặc cổ
phiếu)


Phân tích tài chính
-Các ngân hàng đang hoạt động tại Thụy Sĩ có thể được chia thành các
nhóm ngân hàng sau:
+Các ngân hàng lớn
Các ngân hàng lớn cung cấp cơ bản tất cả các loại giao dịch, đặc biệt là ngân
hàng đầu tư (các giao dịch thị trường vốn, thương mại với chứng khoán, thực
hiện các giao dịch thị trường tiền tệ, kỹ thuật tài chính, chứng khoán hóa các
giao dịch cho vay cũng như tư vấn trong và sáp nhập và mua lại tiến hành).
Credit Suisse Group AG và UBS. Cả hai ngân hàng lớn có các chi nhánh và
các công ty con tại hơn 50 quốc gia và có mặt ở tất cả các trung tâm tài chính
lớn trên thế giới. Cùng với nhau, chiếm hai ngân hàng lớn hơn 50% tổng số
cân đối kế toán của các ngân hàng ở Thụy Sĩ.
+Ngân hàng bang
Bang ngân hàng được định nghĩa là các ngân hàng có cơ sở pháp lý theo luật
pháp bang, với bang giữ tối thiểu một phần ba vốn và quyền bỏ phiếu của
ngân hàng. Với Luật Ngân hàng sửa đổi của ngày 01 Tháng Mười năm 1999,
bảo lãnh nhà nước không còn là một đặc điểm cấu tạo của các ngân hàng
bang. Tính đến hết năm 2013, tổng tài sản của ngân hàng bang "dao động từ
2,6 tỷ CHF đến hơn 147 tỷ CHF. Các ngân hàng bang nhỏ hơn tập trung vào
tiết kiệm và kinh doanh thế chấp, trong khi những người lớn hơn cung cấp
một loạt các dịch vụ và có thể được mô tả như là các ngân hàng phổ điển
hình. Hiệp hội Thụy Sĩ Cantonal Banks (ASCB) đại diện cho lợi ích chung
của các ngân hàng bang ..

7


+ Ngân hàng tư nhân
Ngân hàng tư nhân là một trong những ngân hàng lâu đời nhất ở Thụy Sĩ và
bao gồm các doanh nghiệp cá nhân, tập thể và quan hệ đối tác hạn chế. Ngân

hàng tư nhân phải chịu trách nhiệm không giới hạn công ty con với tài sản cá
nhân của họ, chừng nào tổ chức các hoạt động không như một công ty đại
chúng (AG). Lĩnh vực quan trọng nhất của họ về hoạt động là quản lý tài sản,
chủ yếu dành cho khách hàng cá nhân. Nếu họ không công khai thu hút tiền
gửi từ các bên thứ ba, các ngân hàng tư nhân không cần thiết để xây dựng
quỹ dự trữ hoặc xuất bản báo cáo tài chính hàng năm. Tuy nhiên, họ phải
tuân theo tất cả các quy định khác của SBL, trong các yêu cầu cụ thể đối với
vốn chủ sở hữu. Ngân hàng tư nhân có liên quan trong Hiệp hội ngân hàng tư
nhân Thụy Sĩ (SPBA) kể từ năm 1934.
+Khu vực và tiết kiệm ngân hàng
Các ngân hàng trong nhóm này tập trung chủ yếu vào các doanh
nghiệp quan tâm truyền thống, với các khoản cho vay thế chấp và cho vay
các doanh nghiệp trên một mặt và các quỹ của khách hàng trong các hình
thức tiết kiệm và đầu tư về việc khác (được gọi là ngân hàng bán lẻ). Hoạt
động kinh doanh của họ giống như rất nhiều các hoạt động kinh doanh của
các ngân hàng bang nhỏ hơn; lĩnh vực địa lý của các doanh nghiệp nói chung
là nhỏ hơn. Lợi thế của họ là gần gũi khách hàng; họ đang làm quen với hoàn
cảnh địa phương và với chu kỳ kinh doanh khu vực. Hầu hết các ngân hàng
khu vực và tiết kiệm đã được bảo quản tính cách địa phương của họ và vẫn
còn ngày nay thường được tổ chức như hợp tác xã, như các công ty chứng
khoán có chứng khoán của họ được tổ chức bởi khách hàng của mình hoặc
người dân địa phương.
+Ngân hàng Raiffeisen
Raiffeisen ngân hàng là nhóm duy nhất của các ngân hàng có cấu trúc
như các hợp tác xã. Các ngân hàng Raiffeisen tập trung chủ yếu vào ngân
hàng bán lẻ. Các ngân hàng Raiffeisen cá nhân là chủ yếu hoạt động trong
khu vực, nhưng họ cùng nhau tạo thành một nhóm toàn quốc.
+Ngân hàng chuyên về chứng khoán, chứng khoán và quản lý tài sản
doanh nghiệp
Nhóm này của các ngân hàng chủ yếu bao gồm các công ty hữu hạn

được thành lập theo pháp luật tư nhân và chi phối tại Thụy Sĩ. Họ tập trung

8


chủ yếu về quản lý tài sản cho khách hàng trong nước và nước ngoài. Với chỉ
một vài trường hợp ngoại lệ, các tổ chức này, cùng với các ngân hàng cá
nhân khác, đều là thành viên của Hiệp hội Thụy Sĩ tài sản và ngân hàng
Wealth Management.
+Các ngân hàng khác
Các ngân hàng rơi vào thể loại này bao gồm ba ngân hàng bán lẻ với
các hoạt động trên khắp Thụy Sĩ.

II.3. Một số ngân hàng lớn:
II.3.1.UBS ( Union Bank of Switzerland)
UBS ra đời vào tháng 6 năm 1998, khi Union Bank of Switzerland,
được thành lập vào năm 1862, và Thụy Sĩ Corporation Ngân hàng, được
thành lập vào năm 1872, sáp nhập. Trụ sở chính đặt tại Zurich và Basel, đó là
ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ. Nó duy trì bảy văn phòng chính trên khắp thế
giới (bốn trong nước Mỹ và một ở London, Tokyo và Hồng Kông) và chi
nhánh trên khắp năm châu.
II.3.2. Credit Suisse
Credit Suisse là ngân hàng lớn thứ hai Thụy Sĩ. Có trụ sở tại Zurich, nó được
thành lập vào năm 1856; vốn hóa thị trường của nó (như năm 2007) là US $
95200000000, và các công ty có khoảng 40.000 nhân viên. Credit Suisse
Group cung cấp các dịch vụ ngân hàng tư nhân, ngân hàng đầu tư và quản lý
tài sản. Nó mua lại Tập đoàn Boston tiên vào năm 1988 và sáp nhập với
Winterthur công ty bảo hiểm trong năm 1997; sau này đã được bán cho AXA
vào năm 2006. [35] Các dịch vụ quản lý tài sản được bán cho Aberdeen
Asset Management vào năm 2008 trong cuộc khủng hoảng tài chính 20072010.

II.3.3. Ngân hàng J. Safra Sarasin:
Một trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất của Thụy Sĩ.
II.3.4. Ngân hàng Coop:
Một ngân hàng phổ quát hoạt động trên khắp cả nước. Nó cung cấp một loạt
các dịch vụ ngân hàng cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ.

II.4. So sánh mô hình ngân hàng Việt Nam và Thụy Sĩ:

9


Chỉ tiêu so
sánh

Ngân hàng Việt Nam

Ngân hàng Thụy Sĩ

Địa lý pháp


- Ngân hàng nhà nước
Việt Nam trực thuộc
chính phủ. Chính phủ
có ảnh hưởng rất lớn
đến ngân hàng trung
ương thông qua việc bổ
nhiệm các thành viên,
can thiệp trực tiếp vào
việc xây dựng và thực

thi chính sách tiền tệ

- SNB: Ngân hàng trung ương
độc lập với chính phủ.
- Chính phủ không can thiệp
vào hoạt động của NHTW, đặc
biệt trong việc xây dựng và
thực thi chính sách tiền tệ.
- SNB là ngân hàng của các
ngân hàng, theo quy định đặc
biệt của pháp luật Liên bang.

- Ngân hàng nhà nước
Việt Nam là cơ quan
ngang bộ của chính
phủ, là ngân hàng trung
ương của nước ta.
Ngân hàng nhà nước là
pháp nhân có vốn pháp
định thuộc sở hữu nhà
nước, có trụ sở chính
tại thủ đô Hà Nội.
Công cụ thi
hành chủ
yếu và hiệu
quả

- Dự trữ bắt buộc

- Dự trữ bắt buộc


- Lãi suất

- Lãi suất

- Tỷ giá hối đoái

- Tỷ giá hối đoái

- Hạn mức tín dụng

- Hạn mức tín dụng

- Thị trường mở

- Thị trường mở
- Chỉ đạo thanh khoản
- Giảm phát và Lạm phát
- Thảo thuận mua lại
- Giao dịch mua đứt.

Về cách

- Ngân hàng NN Việt

10

- Ngân hàng quốc gia có hai



thức điều
hành

Nam chi nhánh các
tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương: là
các đơn vị phụ thuộc
của NHNN, chịu sự
điều hành và lãnh đạo
tập trung, thống nhất
của thống đốc NHNN.

nơi: một ở Bener và một ở
Zurich. Hơn nữa nó vẫn duy
trì 6 văn phòng đại diện
(Basel, Geneva, Lausanne,
Lugano, Lucerne, và St
Gallen). Ngoài ra có 14 cơ
quan hoạt động của các ngân
hàng bang và phục vụ cung
cấp tiền của đất nước.

Về chức
năng nhiệm
vụ

- Tham gia xây dựng
chiến lược và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã
hội nhà nước.


- Đảm bảo ổn định giá cả,
trong khi để ý đến sự phát
triển kinh tế.

- Xây dựng chính sách
tiền tệ quốc gia để
chính phủ xem xét
trình quốc hội.

- Thực hiện các chính sách tiền
tệ của mình bằng cách chỉ đạo
thanh khoản trên thị trường
tiền tệ và do đó ảnh hưởng đến
mặt bằng lãi suất

- Xây dựng dự án luật,
pháp lệnh và các dự án
về hoạt động của ngân
hàng.
- Cấp và thu hồi giấy
phép hoạt động của các
ngân hàng thương
mại….

- Ổn định giá cả

- Cung cấp và phân phối tiền
mặt
- Quản lý tài sản.

- Ổn định hệ thống tài chính
bằng cách phân tích nguồn gốc
rủi ro hệ thống tài chính và
xác định các lĩnh vực mà hành
động là cần thiết.
- Hợp tác tiền tệ quốc tế và
nâng cao kỹ thuật
- Biên dịch giữ liêu thống kê
về các ngân hàng và thị trường
tài chính, cán cân thanh toán,
đầu tư trực tiếp, đầu tư quốc tế
và các tài khoản tài chính của
Thụy Sĩ

11


* Nhận xét về ưu, nhược điểm của mô hình ngân hàng Thụy Sĩ


Ưu điểm:

Vì có mô hình độc lập với chính phủ:
-Quyết định trong việc thực thi các chính sách nên tăng tính chủ động và
giảm độ trễ của chính sách tiền tệ.
-Có thể từ chối trong mục tiêu thâm hụt ngân sách.
-Tự chủ về cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính nhân sự nên có tính linh hoạt
tương đối cao.
-Trách nhiệm giải trình đầy đủ và minh bạch.



Nhược điểm:

-Ngân hàng phải chịu sự chi phối chính trị và sự thực hiện hài hòa giữa chính
sách tiền tệ và chính sách tài khóa diễn ra khó khăn hơn.
-Trong một vài trường hợp, sự hợp tác đồng bộ giữa hai chính sách này bị
cản trở.
-Chính phủ không thể kiểm soát được hoạt động của ngân hàng, nhất là trong
trường hợp xảy ra khủng hoảng.
-Đặc biệt, việc tồn tại như một công ty cổ phần khiến SNB có nguy cơ mất
ổn định trong tổ chức cũng như trong hoạt động điều hành hệ thống tài chính
tiền tệ quốc gia.

III. TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG HIỆN NAY CỦA
NGÂN HÀNG THỤY SĨ:
III.1. Hoạt động của ngân hàng SNB:
-Cung tiền và phân phối: Ngân hàng quốc gia được giao phó với quyền
phát hành tiền. Nó cung cấp cho nền kinh tế tiền giấy mà đáp ứng các tiêu
chuẩn cao về chất lượng và an ninh.

12


-Thanh toán không dùng tiền mặt giao dịch:Trong lĩnh vực thanh toán
không dùng tiền mặt giao dịch, Ngân hàng Quốc gia cung cấp dịch vụ thanh
toán giữa các ngân hàng. Chúng được cố định tại các hệ thống liên ngân
hàng Thụy Sĩ Clearing (SIC) thông qua tài khoản tiền gửi của các Ngân
hàng.
-Đầu tư dự trữ tiền tệ : Ngân hàng Quốc gia quản lý dự trữ ngoại tệ. Tạo ra
sự tin tưởng vào đồng franc Thụy Sĩ, giúp ngăn ngừa và khắc phục khủng

hoảng và có thể được sử dụng để can thiệp vào thị trường ngoại hối.
-Hệ thống tài chính ổn định: Ngân hàng quốc gia góp phần vào sự ổn định
của hệ thống tài chính bằng hành động như một trọng tài đối với chính sách
tiền tệ. Trong bối cảnh của công việc này, nó phân tích các nguồn rủi ro cho
hệ thống tài chính, giám sát các hệ thống thanh toán và thanh toán chứng
khoán hệ thống quan trọng và giúp thúc đẩy một môi trường hoạt động cho
các lĩnh vực tài chính.
-Hợp tác tiền tệ quốc tế : Cùng với các nhà chức trách liên bang, Ngân hàng
quốc gia tham gia vào hợp tác tiền tệ quốc tế và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật.
-Ngân hàng của Liên bang : Ngân hàng quốc gia đóng vai trò là ngân hàng
của Liên bang Thụy Sĩ. Nó xử lý các khoản thanh toán thay mặt cho Liên
đoàn, vấn đề thị trường tiền tệ , tuyên bố đăng ký nợ và trái phiếu, xử lý sự
bảo vệ an toàn của chứng khoán thị trường tiền tệ và ngoại hối.
-Thống kê: Ngân hàng Quốc gia biên dịch dữ liệu thống kê về các ngân
hàng và thị trường tài chính, cán cân thanh toán, đầu tư quốc tế và các tài
khoản tài chính của Thụy Sĩ.
*Vai trò của SNB trong nền kinh tế rất lớn, không chỉ nắm quyền điều
hành thị trường tiền tệ mà còn tác động mạnh mẽ tới thị trường vốn.
Chính vì vậy, ngành ngân hàng ở Thụy Sĩ đóng góp đến 20% GDP của
Thụy Sĩ, và là thành phần tối quan trọng của nền kinh tế nước này.

III.2.Hoạt động của các ngân hàng trong hệ thống:
Như đã trình bày ở phần tổng quan của hệ thống ngân hàng, các ngân
hàng được phân hóa theo nhiều mục đích khác nhau, thực hiện từng chức
năng chủ yếu riêng theo từng nhóm. Tuy nhiên, hoạt động của các ngân hàng
nhìn chung xoay quanh một số vấn đề nổi bật sau:


Tín dụng / kinh doanh cho vay


13




Tiền gửi và kinh doanh tiền gửi (tài khoản tiết kiệm,vv)



Quản lý tài sản và tư vấn đầu tư



Giao dịch thanh toán



Kinh doanh chứng khoán (giao dịch chứng khoán)



Kinh doanh bảo lãnh phát hành (phát hành tráiphiếu hoặc cổ phiếu)



Phân tích tài chính

III.3. Điểm đặc biệt trong ngành ngân hàng Thụy Sĩ
Nhắc đến hoạt động của ngân hàng Thụy Sĩ, nếu chỉ chú ý đến những
lĩnh vực đã nêu trên thì chưa thể hình dung được toàn bộ sự tối ưu của hệ

thống. Để hiểu rõ vì sao người ta gọi Thụy Sĩ là nơi dẫn đầu trong ngành
ngân hàng thế giới, là “ngân hàng an toàn nhất thế giới”, cần quan tâm đến
các đặc trưng sau:
-Tính bảo mật: Khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng Thụy Sĩ
sẽ được lưu riêng một loại mã số gửi tiền tại ngân hàng Thụy Sĩ, mã số của
khách hàng ngoại quốc sẽ khác với mã số của những cư dân tại Thụy Sĩ. Với
sự bảo vệ chặt chẽ của pháp luật Thụy Sĩ, rất ít nhân viên ngân hàng có thể
biết và nắm được thông tin khách hàng.
-Nhân viên chuyên nghiệp: Một ưu thế khác của các nhân viên ngân
hàng là ngôn ngữ. Nhân viên của các ngân hàng lớn ở Thụy Sĩ có thể giao
dịch bằng bốn thứ tiếng. Ngoài tiếng Anh, họ có thể sử dụng cả ba thứ tiếng
là ngôn ngữ chính của Thụy Sĩ gồm tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Italia.
Như vậy, muốn tìm việc làm ở một ngân hàng Thụy Sĩ, ứng viên phải tốt
nghiệp từ các trường đào tạo chính quy và các sinh viên mới tốt nghiệp bao
giờ cũng bắt đầu từ những vị trí thấp nhất để làm quen với môi trường làm
việc. Nhờ đó, nhân viên ngân hàng thông thạo nghiệp vụ và tích lũy được
nhiều kinh nghiệm.
-Hệ thống thuế minh bạch: Ngoài ra, hệ thống thuế tại Thụy Sĩ rất
minh bạch góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh lý tưởng. So sánh
với nhiều nước châu Âu khác, thuế thu nhập của Thụy Sĩ nhìn chung thấp
hơn. Người dân Thụy Sĩ sống tiết kiệm và chính sách thuế hấp dẫn đã giúp
Thụy Sĩ thu hút dòng vốn nước ngoài. Nhờ vậy, các ngân hàng Thụy Sĩ có
thể tài trợ cho khách hàng với lãi suất thấp.

14


-Hệ thống ngân hàng của Chính phủ: Hiện nay, có khoảng 1.300
ngân hàng tại Thụy Sĩ với một số ngân hàng lâu đời trên dưới 300 năm. Một
số ngân hàng tích lũy trên dưới 200 tỉ USD và có khoảng 150 ngân hàng

Thụy Sĩ do Chính phủ làm chủ và nhận tiền gửi của khách hàng, để đầu tư,
họ chia lời rất hậu cho khách hàng.
Bên cạnh những ưu điểm vượt trội như thế, Ngân hàng Thụy Sĩ
cũng gặp phải một số cản trở, đặc biệt là trong thời gian gần đây:
-Nguyên tắc bí mật ngân hàng Thụy Sĩ không hoàn toàn tuyệt đối. Chi
tiết về khách hàng có thể được hé mở một phần trong một số trường hợp, cụ
thể là khi chủ tài khoản có liên quan đến các vụ rửa tiền, chuyển ngân lậu
hay liên quan đến tội phạm
-Trong khoảng thời gian gần đây, truyền thống bí mật ngân hàng Thụy Sỹ
lại bị bồi thêm một cú là cuộc chiến chống tham nhũng mang tính toàn cầu.
Tháng 9/2007, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-Moon, Chủ tịch Ngân hàng
thế giới (WB) Robert Zoellick và Ủy ban phòng chống tội phạm và ma túy LHQ
(UNODC) đã đưa ra sáng kiến StAR (Stolen Asset Recovery - Thu hồi những tài
sản bị đánh cắp) nhằm đấu tranh chống tham nhũng, tìm ra tài sản bị mất để trả
lại cho quốc gia bị thiệt hại, kể cả việc lôi ra ánh sáng những kẻ ăn cắp của người
nghèo.
-Kể từ năm 2008, ngành ngân hàng Thụy Sĩ bị tấn công và hai ngân hàng
lớn nhất đất nước, từng gặt hái nhiều thành công trong lĩnh vực tài chính toàn
cầu, là UBS và Credit Suisse đã phải trả giá. Cả UBS và Credit Suisse đều phải
đối mặt với yêu cầu tăng tỷ lệ vốn tự có khiến lĩnh vực ngân hàng đầu tư bớt
màu mỡ và buộc các ngân hàng phải thu hẹp quy mô hoạt động.
-Từ năm 2007-2011, giá trị tài sản của khách hàng ngoại quốc gửi
trong két sắt của pháo đài tiền tệ Thụy Sĩ đã giảm đáng kể , khoảng ¼ còn
2000 tỷ franc Thụy Sĩ. Tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng đi xuống.

III.4. Các giải pháp khắc phục và xu hướng phát triển:
Nhằm tiếp tục duy trì vị trí hàng đầu thế giới về ngân hàng của mình,
Thụy sĩ đã thực hiện rất nhiều giải pháp khác nhau, đồng thời có sự điều
chỉnh trong chiến lược phát triển lâu dài.


15


III.4.1. Các giải pháp:
1.

Ngân hàng Thụy Sĩ ngừng nhận “tiền bẩn”

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội ngân hàng (NH) Thụy Sĩ, trong
năm 2014, các NH ở Thụy Sĩ đã phát hiện 1.753 trường hợp giao dịch bị
nghi ngờ rửa tiền, với số tiền cao mức kỷ lục là 3,5 tỷ USD. Giao dịch có giá
trị lớn nhất là 213,4 triệu USD, ngoài ra có 6 giao dịch khác cũng có giá trị
cao là 80 triệu USD. Ngoài ra, tiền liên quan đến hành vi tham nhũng, biển
thủ, nhận hối lộ cũng không hề ít. Hoạt động rửa tiền chủ yếu liên quan đến
những hành vi như ủy thác tài chính, tư vấn tài chính hoặc liên quan đến
những khoản tiền “kếch xù” giao dịch thông qua các NH ở Thụy Sĩ. Với quy
định mới của Chính phủ Thụy Sĩ, đến một thời điểm nhất định, các NH sẽ chỉ
được tiếp nhận những "đồng tiền sạch", tức đã được thẩm định rằng không
có chuyện rửa tiền, trốn thuế đằng sau các khoản ký gửi khổng lồ.
Ưu điểm: Chấm dứt việc tự do nhận các khoản tiền gửi mà không cần
phải khai báo cho chính quyền của các NH Thụy Sĩ.
Nhược điểm: Ảnh hưởng có hại lớn tới sức hút và lợi nhuận của NH
Thụy Sĩ.
2.

Ngân hàng Thụy Sĩ quay trở lại thị trường Mỹ

Sau khi xảy ra tranh chấp thuế với Mỹ, hầu hết các ngân hàng Thụy Sĩ
đã rút khỏi thị trường này. Tuy nhiên, gần đây một số tổ chức tài chính-ngân
hàng Thụy Sĩ đã bắt đầu trở lại Mỹ. Tài sản thuộc quyền quản lý (AUM) của

những ngân hàng này đang gia tăng một cách ngoạn mục. Ngân hàng lớn
nhất Thụy Sĩ UBS - từng bị phạt 780 triệu USD năm 2009 trong vụ tranh
chấp với Mỹ, có số AUM tăng 41% trong vòng năm năm qua. UBS-Swiss
Financial Advisors (UBS-SFA), chi nhánh của ngân hàng hàng đầu Thụy Sĩ
nói trên, đang hướng mục tiêu tới thị trường Mỹ. Các băng hình quảng cáo
của UBS-SFA đều cổ vũ cho sự tuân thủ luật pháp.Số lượng các tổ chức tài
chính-ngân hàng Thụy Sĩ trở lại Mỹ gần đây đã tăng vọt, từ chỗ chỉ có bốn tổ
chức được thành lập vào năm 2007 đã tăng lên con số 34 vào năm ngoái.
Kể từ khi Thụy Sĩ là nước đầu tiên mà Mỹ nhắm đến để tập trung các
nỗ lực chống trốn thuế, những ngân hàng nước này đã đạt được một bước
trong khía cạnh cạnh tranh với các đối thủ của họ, khi bắt đầu tham gia vào
thị trường ở nước ngoài một cách hợp pháp.

16


Ưu điểm: Ước tính trong trung hạn các cơ sở tài chính, ngân hàng
Thụy Sĩ có thể thu hút khoảng 50 tỷ USD và lên đến 100 tỷ USD trong giai
đoạn dài hạn, nếu như họ có thể tối đa hóa các cơ hội.
Nhược điểm: Các chi phí liên quan đến sự thâm nhập thị trường Mỹ
cùng với quá trình triển khai luật tiếp tục gia tăng.
3.

NHTW Thụy Sĩ thả nổi đồng Franc

Quyết định của SNB được đưa ra trong bối cảnh tuần tới Ngân hàng
T.Ư châu Âu (ECB) sẽ nhóm họp và có thể thông qua quyết định nới lỏng
định lượng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Với lượng tiền mặt khổng lồ
được ECB bơm vào thị trường, đồng Euro được dự báo sẽ giảm giá hơn nữa
so với đồng USD. Diễn biến này sẽ gây áp lực lớn cho đồng Franc vốn được

neo theo giá trị của Euro. Vì thế quyết định dỡ bỏ tỷ giá này của SNB được
cho là không thể tránh khỏi nhằm giảm thiểu những tổn thất mà Thụy Sĩ có
thể phải hứng chịu do đồng Euro đã suy yếu xuống mức thấp nhất kể từ khi
nó ra đời. Đồng nội tệ của Thụy Sĩ luôn là hàng hóa được săn tìm nhiều nhất
trong các thời điểm bất ổn hay giai đoạn khủng hoảng. Trong lịch sử, SNB
đã nhiều lần phải tìm cách giải cứu cho đồng Franc trước áp lực từ dòng vốn
ngoại. Và quyết định lần này của SNB được cho là do Thụy Sĩ đã không còn
khả năng để bơm Franc ra thị trường để giữ tỷ giá danh nghĩa thấp hơn giá trị
thực quá nhiều. Thống đốc SNB cho rằng, biện pháp này tuy khác thường
nhưng sẽ bảo vệ được nền kinh tế Thụy Sĩ. Thậm chí, trong một nỗ lực nhằm
giảm sức hấp dẫn của đồng Franc, các quan chức SNB còn tuyên bố sẽ hạ
0,5% lãi suất đối với các khoản tiền gửi tại hệ thống ngân hàng nước này.
Nhược điểm: Đồng Franc trở nên đắt đỏ hơn làm giảm sức hấp dẫn
của các DN xuất khẩu và khiến du khách cân nhắc nhiều hơn trước khi quyết
định đến Thụy Sĩ.
4.

NHTW Thụy Sĩ áp dụng mức lãi suất âm

Ở Thụy Sĩ và các nước châu Âu, quyết định áp lãi suất âm đối với
phần vốn các ngân hàng thương mại gửi tại ngân hàng trung ương. Nói cách
khác, các ngân hàng tư nhân phải trả tiền gửi tiền cho các ngân hàng trung
ương.

17


Ở đây không phải lãi suất âm thực tế, tức lãi suất có thể cao hơn zero
nhưng thấp hơn lạm phát. Trái lại, ở đây là lãi suất âm danh nghĩa, tức được
đưa ra là một con số âm, không cần quan tâm đến lạm phát.

Mục tiêu tức thời của việc áp lãi suất âm là để ngăn chặn đồng tiền
tăng giá quá mạnh. Việc hạ lãi suất xuống dưới 0 hòng làm nản lòng các nhà
đầu tư muốn mua đồng tiền địa phương, từ đó kìm hãm đà tăng của đồng nội
tệ. Đó là những động thái của các ngân hàng trung ương với nhiệm vụ hàng
đầu là kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và việc làm.
Ưu điểm: Kích thích tăng trưởng và lạm phát, hiện đang ở dưới 0 và
thậm chí còn xuống sâu hơn.
Nhược điểm: Làm giảm mức hấp dẫn đối với các khoản đầu tư bằng
đồng franc.
5.

NHTW Thụy Sĩ bỏ trần tỷ giá

Vào ngày 15/1/2015, Ngân hàng Trung ương Thụy Sỹ (SNB) đã tuyên bố bỏ
mức tỷ giá 1,2 franc đổi 1 euro duy trì trong suốt 3 năm qua.Nguyên nhân do
đồng euro liên tục giảm giá so với các ngoại tệ khác, thì việc neo đồng franc
Thụy Sĩ vào Euro không mang lại lợi ích cho quốc gia này. Lý do khiến Thụy
Sĩ phải neo đồng tiền của mình vào năm 2011 bởi đó là thời gian "đáng sợ
nhất" đối với khu vực đồng euro khi lâm vào khủng hoảng nợ công.
Ưu điểm: Biện pháp đặc biệt và tạm thời này nhằm bảo vệ nền kinh tế
Thụy Sĩ khỏi bị tổn hại nghiêm trọng.
Nhược điểm:- Dẫn đến việc giá trị đồng franc tăng vọt, khiến các nhà
xuất khẩu và các công ty sản xuất có nhà máy trong nước gặp khó khăn do
chi phí sản xuất tăng cao.
- Tăng nguy cơ giảm phát .
- Ảnh hưởng xấu đến ngành du lịch. Khách du lịch sẽ phải cân nhắc hơn với
quyết định đến Thụy Sĩ.

III.4.2. Xu hướng phát triển:
1.Xu hướng bảo mật thông tin khách hàng : Truyền thống bảo đảm

bí mật cho khách hàng của các ngân hàng Thụy Sĩ đã bị lên án mạnh mẽ .

18


Giải pháp : Xu hướng mới : minh bạch hóa thông tin tàikhoản khách
hàng vào năm 2018
2.Nỗ lực tái cơ cấu và cuộc đổ bộ vào khu vực châu Á-Thái Bình
Dương .Chuyển hướng từ tích trữ tài sản sang tư vấn và quản lý đầu tư; từ
"nhập khẩu khách hàng" sang "xuất khẩu dịch vụ" để tìm kiếm khách hàng
mới. Các thị trường được các ngân hàng Thụy Sĩ nhắm đến chính là châu Á
và Hoa Kỳ - nơi đã và đang có nhiều triệu phú và tỷ phú nhất trên thế giới,
hứa hẹn sự giàu có mới tạo ra tốc độ tăng trưởng bùng nổ.
3.Xu hướng mua lại,sáp nhập,hợp nhất ngân hàng : Có 283 ngân
hàng ở Thụy Sĩ vào cuối năm 2013 giảm 14 trong số các tổ chức so với trước
đây
Trong năm 2013, đã có tám vụ mua lại và sáp nhập một, một chi nhánh ngân
hàng nước ngoài đã được đóng lại. Việc mua lại lớn nhất trong năm 2013 là
của Merrill Lynch (Thụy Sĩ) bởi Ngân hàng Julius Bär & Co và của Ngân
hàng Sal. Jr Oppenheim. & Cie. (Thụy Sĩ). Các xu hướng trong những năm
gần đây đối với hợp nhất, đặc biệt là ở nước ngoài ngành ngân hàng, tiếp tục
trong nửa đầu của năm 2014. Ngân hàng Thụy Sĩ Valartis đã được mua lại
bởi Banque Cramer & Cie., và Morgan Stanley (Thụy Sĩ) bởi J. Safra
Sarasin. Các ngân hàng Đức Deka (Thụy Sĩ) đã ngừng hoạt động tại cuối
tháng tư năm 2014.
4.Tăng thu nhập ròng : Trong năm 2013, thu nhập ròng hoạt động
của các ngân hàng ở Thụy Sĩ tăng lên đến 60,8 tỷ CHF và tài sản của họ dưới
sự quản lý tăng CHF 340 tỷ
5. Sự kết hợp và được sự hậu thuẫn cuả dòng vốn nước ngoài:
Theo cuộc khảo sát mới đây của Hiệp hội các ngân hàng Thụy Sĩ (SBA), giá

trị tài sản được các ngân hàng nước này nắm giữ đã tăng gần 8% trong năm
ngoái lên 6.660 tỷ franc Thụy Sĩ (6.900 tỷ USD), trong đó hơn một nửa đến
từ các nguồn nước ngoài.

IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM:
Thụy Sĩ là một đất nước đặc biệt, đi lên từ quốc gia nghèo
nhất Châu Âu trở thành nơi có thu nhập bình quân cao nhất thế

19


giới. Họ xây dựng danh tiếng của mình gắn liền với chữ “nhất”, thế
mạnh của họ khó có một quốc gia nào vượt qua được. Trong lĩnh
vực ngân hàng cũng vậy, từ vị trí “xuất xứ của các ngân hàng”, họ
trở thành “ngân hàng an toàn nhất thế giới”.
Chìa khóa thành công của Thụy Sĩ là gì?
Trước tiên, có thể kể đến tính bí mật của ngân hàng. Tính bí
mật này được quy định rõ trong Hiến pháp của Thụy Sĩ. Tuy gần
đây, xu hướng bảo mật này đã bị lung lay nhưng không thể phủ
nhận rằng đó chính là ưu thế nổi trội của Thụy Sĩ so với các nước
khác. Hiện tại, Thụy Sĩ vẫn giữ chân được nhiều nhà tài phiệt lớn
trên thế giới, là bởi vì không chỉ phát triển dựa trên ưu thế bí mật
khách hàng, ngành ngân hàng nước này còn nổi tiếng với hoạt động
tài chính chuyên nhiệp, hệ thống ngân hàng chính phủ vững mạnh,
và đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản.
Như vậy, muốn thành công, rõ ràng phải có cơ sở hạ tầng tốt.
Bài học về công tác đào tạo nhân viên ngân hàng, phát triển tính
chuyên nghiệp của hệ thống tài chính tiền tệ, nâng cao tầm quan
trọng và sức mạnh của ngân hàng trung ương chính là cái mà chúng
ta rút ra được từ tiến trình phát triển của ngân hàng Thụy Sĩ.


20


PHẦN III
KẾT LUẬN
Sau khi tìm hiểu về của ngân hàng Thụy Sĩ, chúng em đã có
những kiến thức căn bản nhất về đặc điểm, vai trò, ưu thế của
“ngân hàng an toàn nhất thế giới”. Từ đó rút ra được những bài học
kinh nghiệm đáng giá cho việc phát triển hệ thống ngân hàng Việt
Nam.
Tuy nhiên, do kiến thức của chúng em còn nhiều hạn chế,
nguồn tài liệu hạn hẹp, nên khó tránh khỏi sai sót trong quá trình
trình bày, kính mong nhận được sự góp ý từ giáo viên.
Chúng em xin chân thành cám ơn!

21



×