ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
----------
Môn: Tổng quan văn học hiện đại Việt Nam
Tiểu luận giữa kỳ :
Tướng về hưu
Thành phố Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu........................................................................................................
2
Hoàn cảnh sáng tác thời kì đổi mới của nền văn học việt nam thế kỷ XX……..2
Vài nét về tác giả Nguyễn Huy Thiệp và tác phẩm Tướng về hưu.....................
3
Tướng về hưu – sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của con người.................6
Đánh giá tác phẩm...............................................................................................
15
Danh mục tài liệu tham khảo...............................................................................
22
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Nổi bật trong nền văn học Việt Nam hiện đại với các nhà văn tiêu biểu
như Bảo Ninh, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Lê Lựu,…không thể không
kể đến Nguyễn Huy Thiệp, nhà văn đã có nhiều đóng góp gây tiếng vang lớn
cho nền văn học nước nhà. Các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp chứa đựng
những đặc điểm nổi bật của cuộc sống nhân thế hậu chiến tranh, là nhân sinh
quan trong cõi đời với một ngôn ngữ nghệ thuật đầy tính cách tân chứa đựng
năng lượng biểu đạt lớn lao đáng kinh ngạc.
Từ năm 1986, xu hướng đổi mới trong văn nghệ Việt Nam chuyển qua
giai đoạn cao trào, diễn ra hết sức sôi nổi. Thoạt đầu là những tuyên ngôn lí
thuyết rầm rộ. Báo chí cả nước luận bàn về văn học với hiện thực, nghệ thuật
và chính trị. Các sáng tác của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp càng có sức hấp
dẫn đối với dân chúng, với bạn đọc cả nước, đặc biệt với ấn phẩm “Tướng về
hưu” đã không chỉ khiến mọi người mà ngay cả chính bản thân ông cũng
chấm cho nó một cái nhìn ưu ái
2
1.HOÀN CẢNH SÁNG TÁC THỜI KÌ ĐỔI MỚI CỦA NỀN VĂN HỌC
VIỆT NAM THẾ KỶ XX
Ở thời kì kháng chiến, giữa rừng mưa bom đạn khói, giữa những điều
kiện hết sức khó khăn và bất lợi cho việc sáng tác, các nhà văn của chúng ta
vẫn cho ra đời những tác phẩm xuất sắc, vẫn đẻ ra được những tác phẩm
mang tính thời đại sâu sắc cổ vũ tinh thần đấu tranh của dân tậc, những tác
phẩm mà hàng vạn, hàng triệu con người dù gian khổ hết sức vẫn muốn nghe,
muốn đọc. Trở lại hòa bình, tưởng như các nhà văn sẽ được thỏa sức vẫy vùng
mà sáng tạo, tưởng rằng là thời cơ mà “cá đã gặp nước” để dốc hết tinh thần
và trí lực để tiếp tục viết những tác phẩm tiêu biểu như trước và thậm chí hơn
trước. Nhưng thực tế là, suốt cả một thời gian dài sau hòa bình, các nhà văn
không tìm đượclối đi và các tác phẩm ca ngợi chiến tranh, ca ngợi người anh
hùng dân tộc dần dân mất đi chỗ đứng vững chắc của mình.
Kết thúc chiến tranh, khi cuộc sống trở lại với những ngày tháng bình
yên không bom đạn, không khói lửa, khi vấn đề cơm áo và những nhu cầu vật
chất được đặt cao hơn những vấn đề chính trị, cũng là lúc văn học cần thay
đổi cách nhìn và nhà văn cần thay đổi cách viết của mình. Hiện thực cuộc
sống thời hậu chiến không còn đơn giản là những hình tượng nhân vật sử thi
được xây dựng nên như những bức tượng đẹp được “bao bọc trong làn khí vô
trùng”. Hiện thực thời bình, con người thời bình nổi lên với những vấn đề hết
sức gai góc, xù xì, hết sức đa đoan, đa chiều. Nhà văn không ngần ngại khai
thác những phương diện xấu xí nhất, phản diện nhất, những nhân vật bỉ ổi hay
thực dụng nhất để làm nên một bức tranh thời hậu chiến ngổn ngang giữa
thiện và ác, xấu và tốt, cái cao cả và cái đê hèn. Truyện ngắn đương đại thực
3
sự đã thoát ra khỏi chiến trường để đến với những hiện thực rộng lớn hơn của
đời sống nhân sinh, thế sự.
2.VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ NGUYỄN HUY THIỆP VÀ TÁC PHẨM
“TƯỚNG VỀ HƯU”
2.1 Tác giả Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê ở huyện
Thanh Trì, Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng
bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Năm 1960, gia đình
chuyển về quê, định cư ở Xóm Cò, làng Khương Hạ, Hà Nội. Năm 1970, ông
tốt nghiệp khoa Sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội và lên Tây Bắc dạy học
tới năm 1980. Sau đó ông chuyển về làm việc tại Bộ Giáo dục và đào tạo, sau
đó làm việc tại công ty Kỹ thuật Trắc địa bản đồ, Cục bản đồ cho tới khi về
hưu. Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài
truyện ngắn in trên báo Văn nghệ 1986. Năm 1996, Tiểu Long Nữ được coi là
cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông – cuốn tiểu thuyết đầu tiên được chính thức
xuất bản bởi nhà xuất bản Công an Nhân dân.
Nguyễn HuyThiệp được xem là một hiện tượng tiêu biểu của Văn học
Việt Nam cuối thế kỷ XX. Những sáng tác của ông, đặc biệt ở thể loại truyện
ngắn, đã mang đến một làn gió mới cho đời sống văn chương đương đại . Tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp in dấu ấn khá đậm nét về nông thôn và những
người lao động với chất văn lạnh lùng, kết cấu truyện độc đáo cùng với việc
đưa thơ ca vào trong tác phẩm của mình như một sáng tạo hiếm có. Sở trưởng
của ông là truyện ngắn, mảng đề tài đa dạng gồm lịch sử và văn học, hơi
hướng huyền thoại và cổ tích. Ngoài ra, ông còn viết kịch, thơ và tiểu phê
bình in trên nhiều báo, tạp chí trong nước.
Với cách thể hiện sự sâu sắc, quyết đoán và khá ngay thẳng trong chính
trang văn của mình, quyện hòa trong đó là một tâm hồn vô cùng nhạy cảm
4
cùng một phong cách văn chương mới lạ, độc đáo và tài hoa, Nguyễn Huy
Thiệp đã thực sự chinh phục được đông đảo bạn đọc trong nền văn học Việt
Nam đương đại
2.2 Tác phẩm “Tướng về hưu”
Cùng với những nhu cầu bức thiết về sự đổi mới đó trong văn học, đã
có nhiều nhà văn nổi lên với ngòi bút sắc sảo, tinh tế, gai góc và đầy tính nhân
bản. Nguyễn Minh Châu, Phan Thị Vàng Anh, Phạm Thị Hoài, Lê Lựu, Bảo
Ninh hay Nguyễn Huy Thiệp là những ngòi bút như vậy. Đặc biệt nhắc đến
Nguyễn Huy Thiệp, người ta không thể bỏ qua “Tướng về hưu”. Một tác
phẩm ngắn với những lời kể gọn và đôi khi cộc lốc, mạch văn tỉnh táo đến
lạnh lùng, “Tướng về hưu” như một bức màn được vén lên cho màn biểu diễn
hết sức hỗn độn, nhếch nhác của cuộc sống thời hậu chiến. Ở đó, những nhân
vật là gia đình với nhau đang cùng sống, nhưng lại sống một cuộc sống không
hề liên quan, không hề hòa nhập với nhau. Ở đó, người ta cảm nhận rõ ràng
dòng chảy tách biệt của các thế hệ và sự đa chiều trong những hạng người
khác nhau. Nếu Nguyễn Minh Châu là người mở đầu cho sự đổi mới văn
chương sau 1975 thì Nguyễn Huy Thiệp lại có thể được xem là người tạo ra
một bước ngoặc cho thời kì đổi mới văn chương đó, với chính tác phẩm
“Tướng về hưu”
5
2. TƯỚNG VỀ HƯU – SỰ XUỐNG CẤP VỀ PHẨM CHÁT ĐẠO ĐỨC
CỦA CON NGƯỜI
2.1 Nhân vật Thuấn
Ông Thuấn là vị tướng về hưu ở cái độ tuổi 70 với sự kính nể và
ngưỡng vọng của gia đình và cả dân làng như chính lời anh con trai đã nói:
“Cha tôi bao giờ cũng là hình ảnh của niềm vinh dự, tự hào. Cả ở trong họ,
trong làng, tên tuổi của cha tôi cũng được mọi người ngưỡng vọng”. Thế
nhưng sau khi bước ra từ những cuộc chiến ác liệt nơi chiến trường khói lửa
với mưa bom bão đạn, liệu rằng chính ông có an yên được với hạnh phúc
trong cuộc sống thực tại của mình - hay xoay quanh cuộc sống vị tướng về
hưu này cũng chỉ là những tấn bi kịch và mâu thuẫn của những con người
trong thời kì Đổi mới?
Sau khi về hưu, ông Thuấn đã phải sống như một người tách biệt hoàn
toàn với cuộc sống đời thường hiện tại với liên tục hết những sự ngỡ ngàng
này đến lạ lẫm khác mà chính con người là nhân vật trung tâm. Ở đó có
Thuần – con trai ông, có ông Bổng – người em cùng cha khác mẹ, chính ở
những đứa cháu của ông và đặc biệt hơn cả là Thủy, người khiến chính bản
thân ông không hiểu nổi mình có đang sống ở nơi chốn nào quá xa lạ, sao ông
cảm thấy có cả khối cô đơn đang đè nặng lấy mình.
Sống với gia đình có cô con dâu quá thực dụng và tính toán, ông cảm
thấy có gì đó đang bóp nghẹt trái tim mình. Ông cảm thấy hoàn toàn bất lực
trước cuộc sống có quá nhiều bộn bề, ngang trái, trước lối sống quá coi trọng
đồng tiền như một ma lực làm mờ khuất đi cái đẹp đạo đức ở trong mỗi con
người, khiến họ cũng chỉ thêm xấu xa, bỉ ổi. Đó là cái đen tối, phi đạo đức ở
Thủy, khi mà cô cứ đem từ bệnh viện về nhà những nhau thai nhi và đem vào
6
cối xay làm thức ăn cho đàn chó Bec-giê. Những sinh linh bé nhỏ ấy không có
tội mà chính vì cô quá độc ác và tàn nhẫn. Khi phát hiện ra sự thật đau đớn ấy,
chính vị tướng già cũng đã nghẹn ngào với những giọt nước mắt: “Khốn nạn,
tao không cần sự giàu có này”. Rồi khi được con dâu gợi ý nuôi vẹt, ông phản
ứng rằng “Kiếm tiền à?”, ta có thể thấy được thái độ khinh thường của ông
đối với việc kinh doanh và kiếm tiền là kịch liệt như thế nào.
Ông Thuấn là hình ảnh cho những người lính bước ra từ cuộc chiến,
bước ra từ thế giới quân đội với bình quân là lẽ sống, có lẽ ông chưa hòa hợp
được với cuộc sống hậu chiến tranh với cơm áo gạo tiền, với sự tính toan đa
đoan, thực tế rạch ròi của một xã hội mới. Ông “lúng túng, khổ sở,…kinh hãi,
đau đớn” trước một đám cưới “ô hợp, láo nháo thản nhiên rất đời” khiến
người đọc thấy xót xa và thương cảm cho ông. Câu nói của Thủy “Cha là
tướng, về hưu cha vẫn là tướng. Cha là chỉ huy…” nghe như một lời châm
biếm sâu sắc, bởi chính trong gia đình ông, ông vẫn không được “quyền”
“sống ở dãy nhà ngang với mẹ tôi”, không được giúp ông Cơ và cô Lài, đến
cả việc đi đâu, làm gì của ông vẫn chịu ảnh hưởng bởi Thủy, người quản lý
kinh tế của gia đình. Ta thấy thấp thoáng trong nhân vật Thủy là hình ảnh
chính quyền, kiểm soát về kinh tế và đối xử với những cựu chiến binh một
cách trân trọng giả tạo, tôn thờ tung hô nhưng cũng tước đi quyền lực của họ.
Ông Thuấn bước ra từ những cuộc chiến kéo dài đằng đẵng mấy chục
năm trời, và khi đối diện với cuộc sống hiện tại với khá nhiều thay đổi về vật
chất lẫn tinh thần, ông cảm thấy mình như lạc loài và không sao hòa hợp
được. Ông chết khi lần cuối cùng ra trận địa trong lần về thăm đơn vị cũ. Vậy
là ông không chết trong đời thường, không chết trong cõi người tàn nhẫn này,
không chết ở một nơi mà ông sống như 1 người lạc loài. Ông là người duy
nhất nhận thấy cuộc đời thật đáng buồn, con người thật đáng sợ. Ông cũng là
người duy nhất nhận thấy sự ô hợp, nhốn nháo của cuộc sống con người. Ông
7
không chấp nhận được điều đó và cái chết là điều tất yếu, như một sự giải
thoát
2.2 Nhân vật Thủy
Chiến tranh đi qua, con người ta dường như đang được nhìn nhận một
cách trần trụi và thẳng thắn nhất ở mọi phương diện. Có vẻ như khi chính trị
không còn là mối lo hàng đầu và duy nhất thì cũng là lúc con người trở về với
những thứ là nhân bản nhất: tiền bạc, nhu cầu, tham vọng, tình dục… mà đặc
biệt là tiền. Tiền bạc như trở thành một thứ quyền lực vạn năng, chi phối rất
nhiều người khiến bộ mặt đê tiện, thực dụng, bỉ ổi dần lộ rõ nét. Đọc “Tướng
về hưu” không thể không giật mình với Thủy – con dâu vị tướng đã về hưu.
Một người phụ nữ khác hẳn với hình tượng của thời 45- 54, cô dường như
mới là “tướng”của gia đình ấy. Là phụ nữ nhưng cô lại có được cái quyền mà
các nhân vật khác ai cũng phải kiêng dè, đó là cái quyền được nắm hết tiền
bạc, từ bán gì, tiêu gì đến cho ai vay hay nhận của ai. Thủy là người phụ nữ
khéo léo, có thể nói là thông minh. Cô có đủ sự mẫn tiệp, tính toán, đủ sự tỉnh
táo và khôn khi nhìn ra những cái lỗi thời trong thời đại mà cô sống. Có mấy
người phụ nữ như cô, biết lợi dụng bố con ông Cơ lỡ vận mà biến họ thành
người ở? Biết nuôi chó bẹc giê kiếm thêm thu nhập, tính toán đám tang mẹ
chồng chi li đâu vào đấy. Nhưng có lẽ cũng chính vì khôn khéo quá, chính vì
tính toán quá đã khiến Thủy trở thành thành lạnh lùng, thành mất đi một phần
nào cái đẹp của người phụ nữ. Lời thoại của Thủy không dài, nhưng câu nào
cũng lạnh lùng, cũng chứa đầy những sự tính toán. Từ việc để mẹ chồng nằm
dưới nhà ngang vì “tại mẹ lẫn”, khuyên bố chồng “hay cha nuôi vẹt” vì trên
phố người ta nuối nhiều vẹt và chim cốt để kiếm tiền, bảo chồng “Đừng đổ
sâm, khổ cho mẹ” khi thấy bà cụ kiệt sức cho đến “Họ hàng nhà anh kinh bỏ
8
mẹ” hay “Thôi, coi như trả công. Lão ấy tốt nhưng nghèo”…dường như cái
“trọng trách” gánh kinh tế gia đình khiến cô lúc nào cũng tính toán.
Người ta ấn tượng và nhớ mãi cái chi tiết cô mang rau thai nhi ở viện
sản về cho chó ăn: “Vợ tôi làm việc ở bệnh viện sản, công việc là nạo phá
thai. Hằng ngày các rau thai nhi bỏ đi, Thủy cho vào phích đá đem về. Ông
Cơ nấu lên cho chó, cho lợn… Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám,
trong đó có các mẩu thai nhi bé xíu. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc… Vợ tôi đi vào
nói với ông Cơ: Sao không cho vào máy xát? Sao để ông biết?”. Một giọng tự
sự ở ngôi thứ nhất – lời của người chồng nhưng không hề có một sự biểu lộ
cảm xúc gì, một giọng kể đều đều như trần thuật một cách tỉnh rụi khiến cho
người ta có cảm giác Thủy làm việc này như một hành động tự nhiên lắm,
bình thường lắm. Đấy là một sự tỉnh và lạnh đến mức rợn người. Con người
đã để mất đi nhân tính, mất cảm xúc với chính đồng loại của mình, đấy có lẽ
cũng chính là một niềm đau, một nỗi nhức nhối và luôn đau đáu trong lòng
nhà văn.
Còn một chi chi tiết nữa ở Thủy mà chúng ta không thể bỏ qua, đó là
việc cô ngoại tình với Khổng – một tên buôn nước mắm thích làm thơ và hay
mang thơ, mua thơ cho cô đọc. Chuyện ngoại tình của cô không kín đáo gì, bố
chồng cô biết thậm chí còn thấy “chướng lắm”, chồng cô biết vì có lần thấy
tập thơ chép tay của Khổng trên giường vợ chồng, ông Cơ cũng biết…nhưng
biết là biết vậy, cũng chẳng ai làm gì.
Tuy nhiên, Thủy không hẳn là một người quá thực dụng và hoàn toàn
phản diện. Ta vẫn còn thấy những chi tiết như cô cho tiền bố con ông Cơ về
quê lo mồ mả cho ông bà hay bắt đầu hối hận về hành động ngoại tình với
Khổng…Qua đó mới thấy Nguyễn Huy Thiệp muốn khai thác cong người ở
những gì là bản năng nhất, chân thật nhất. Mà con người là đa đoan, đa chiều,
nhiều góc cạnh. Không thể chỉ nhìn một phía để đánh giá cả một nhân vật sẽ
dễ dẫn đến sai lầm.
9
2.3 Nhân vật ông Cơ và cô Lài
Bên cạnh những nhân vật chính như ông Thuấn, cô Thủy, cậu Thuần
thì chúng ta cũng phải chú ý tới những nhân vật phụ. Đầu tiên là cha con ông
Cơ, cô Lài - người ở trong gia đình ông Thuấn. Họ đều là những nhân vật có
nhiều phẩm chất tốt đẹp. Ông Cơ, qua những lời giới thiệu ban đầu của nhân
vật tôi: “Ngoài những người ở trên gia đình tôi còn có ông Cơ và cô con gái
gàn dở của ông”, “Ông Cơ sáu mươi tuổi, quê Thanh Hóa. Vợ tôi gặp cha
con ông khi nhà của ông bị cháy, cơ nghiệp mất sạch. Thấy cha con ông tốt
bụng đáng thương, vợ tôi sắp xếp cho họ ở chung với chúng tôi”, “Ông Cơ
hiền lành, chịu khó” . Qua những lời giới thiệu ban đầu đó ta phần nào thấy
được hoàn cảnh đáng thương: vợ chết; đứa con gái duy nhất lại ngờ nghệch,
gàn dở; sản nghiệp cháy rụi, phải đi ở đợ cho gia đình giàu có. Mặc dù hoàn
cảnh như thế nhưng ở ông Cơ vẫn ánh lên những phẩm chất của một người
nông dân thật thà, cần mẫn, sống đầy tình nghĩa, ở nơi đất khách quê người,
ông vẫn nhớ đến việc về quê bốc mộ vợ. Chịu ơn gia đình ông Thuấn và khắc
ghi cái ơn đó mà luôn hết lòng vì chủ. Phận làm tôi tớ, hết lòng nghe lời chủ
nhưng trong ông vẫn còn luôn ý thức về đạo đức con người. Đó là sự băn
khoăn, đau đớn của ông khi tự tay mình phải bỏ những nhau thai nhi vào máy
xát. Đáp lại câu hỏi của Thủy “Sao không bỏ vào máy sát” là câu “ Tôi xin
lỗi, tôi quên”, dường như đó là sự trốn tránh công việc vô nhân đạo, nhưng
cũng là một sự bế tắc bởi chính ông biết rằng mình không thể không làm.
Với nhân vật Lài, một cô gái gàn dở, ngờ nghệch, nhưng lại là ngọn
lửa ấm áp thắp sáng cả câu chuyện về hình ảnh một con người lương thiện,
chân thành, trong sáng. Những phẩm chất đó đã xuất hiện ngay từ đầu tác
phẩm: “ Cô Lài mặc dầu gàn dở nhưng lại xốc vác và nội trợ giỏi.Vợ tôi dạy
cô ấy nấu bóng, nấu nấm, nấu gà hầm. Cô bảo: Cháu chẳng ăn thế bao giờ. Cô
không ăn thật”. Ấn tượng đầu tiên cho người đọc có lẽ là một cô gái giản đơn,
thật thà. Cô còn rất tốt bụng và yêu quý trẻ con. Khi mẹ con cô Kim Chi vợ
10
của thằng Tuân bị đuổi ra khỏi nhà sau chục ngày làm đám cưới thì “Cô Lài
thêm một trách nhiệm. Được cái cô Lài vô tâm, tính lại yêu trẻ con”. Cô cũng
nữ tính, biết ngại ngùng, bẽn lẽn khi “mặc bộ quần áo mới may bằng vải hoa
cha tôi cho hôm về. Cái Mi và cái Vi trêu: Chị Lài là xinh nhất”. Cô Lài cười
thỏn thẻn: Chả phải. Mợ mới là xinh nhất”. Trước cái chết của bà Thuấn,
trong khi Thuần bộc lộ sự nhu nhược, kém cỏi, cô Thủy thể hiện mình là một
con người giỏi tính toán, chi li đến mức lạnh người “ Ba mươi hai mâm. Anh
phục em tính sát không?”, ông Bổng cũng nhân cái chết của chị mình mà
kiếm chác cho riêng mình thì cô Lài, một người chẳng có máu mủ ruột rà với
bà Thuấn lại rơi những giọt nước mắt thật sự. Cô khóc nức nở như người thân
mình mất đi, bởi cô luôn là người thân cận, chăm sóc từng miếng ăn giấc ngủ,
cả chuyện đi ngoài khi bà Thuấn còn sống : “Bà ơi, bà đánh lừa con bà đi!
Sao bà không cho con đi hầu bà, “Cháu có ở nhà thì bà có chết không bà”.
Qua cái chết của bà Thuấn ta nhận ra rằng, cô Lài tuy có gàn dở “xấu xí” “lại
cả tin” nhưng không vì thế mà làm lu mờ những vẻ đẹp tâm hồn, đặc biệt là
lòng yêu thương giữa người với người của cô.
Hai nhân vật cũng đáng chú ý đó là 2 cô con gái của Thuần và Thủy:
Mi 12 tuổi, Vi 14 tuổi . Tuy xuất hiện ít nhưng hai nhân vật này cũng thể hiện
những nét tính cách đặc biệt. Là trẻ con, chúng vô tư trêu đùa chị Lài khi có
cái áo mới cũng như khi ông Thuấn đi ra trận thì vô tư hỏi: Đường ra trận
mùa này đẹp lắm phải không ông?” . Tuy nhiên, bên cạnh nét trẻ con, chúng
cũng bị quá trình đô thị hóa ít nhiều ảnh hưởng. Khi bà nội chết, nếu Mi thể
hiện sự ngây thơ, trẻ con khi hỏi rằng: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền?
Sao lại cho tiền vào miệng bà” thì Vi lại thê hiện sự sâu sắc, biết đời hơn hẳn:
“Đó có phải là ngậm miệng ăn tiền không hả bố?”, “ Con hiểu đấy. Đời người
cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần”. Qua câu trả lời của đứa trẻ
14 tuổi ta tự hỏi cái xã hội này như thể nào mà gieo vào đầu một đứa trẻ suy
11
nghĩ về sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Và rồi chúng sẽ lớn lên như thế nào
với những suy nghĩ đó? Đó cõ lẽ là vẫn đề mỗi người chúng ta cần suy nghĩ…
2.4 Nhân vật ông Bổng và cậu Tuân
Bằng lối kể chuyện giản dị và trung thực về con người, ở Tướng về
hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã thể hiện một cách nhìn rất thật và sâu sắc về bản
chất của từng nhân vật. Nếu ông Thuấn là biểu tượng của một thời oanh liệt,
là hình ảnh của một vị tướng tài ba, là niềm tự hào của cả dòng họ và là người
độ lượng, có lòng nhân hậu thì hai cha con ông Bổng dường như là sự đối lập
lại hoàn toàn. Ông Bổng, Tuân cùng Thủy là đại diện cho sự tha hóa về nhân
cách, sự xuống cấp một cách trầm trọng của đạo đức.
Thằng Tuân con trai ông Bổng làm nghề đánh xe bò. Hai cha con đều
ghê gớm to như hộ pháp, ăn nói văng mạng. Tuân-một người con bất hiếu,
một người chồng vũ phu. Vì sự đánh đập của Tuân mà người vợ trước đã bỏ
nhà ra đi. Anh cưới Kim Chi đây đã là lần thứ hai anh cưới vợ. Tuân cũng bị
bắt giam vì tội côn đồ cầm dao chém bố. Nhân vật Tuân ít được nhắc đến
trong truyện nhưng bằng những lời kể,tả cùng những giai thoại ngắn gọn đã
khắc họa rõ nét bản chất con người của Tuân.
Ông Bổng là người anh em cùng cha khác mẹ với ông Thuấn. Tuy họ
hàng thân thuộc là thế nhưng chưa bao giờ gia đình của Thuần ưa nổi về cái
gia đình của ông Bổng "Thâm tâm chúng tôi không ưa cha con ông Bổng,
khốn nỗi"một giọt máu đào hơn ao nước lã", giỗ tết vẫn phải đi lại, nhưng mà
ngày thường cũng nhạt". Ông Bổng -một người cha, người chú làm nhiều điều
đáng để xã hội phải lên án. Hầu như trong những trang văn khai thác về đề tài
cuộc sống của con người sau chiến tranh Nguyễn Huy Thiệp đã làm sống dậy
những bản chất xấu xa, đê hèn của một lớp người nào đó trong xã hội khi mà
cái sự thói nát về đạo đức trong mỗi con người chưa thực sự được phơi bày
qua những tác phẩm của các tác giả trước đó. Ở Tướng về hưu, cái xấu xa, đê
hèn mà Nguyễn Huy Thiệp nói đến không phải là những điều quá bất nhân,
12
bất nghĩa; không phải là trộm cướp hay giết người mà là ông như đang kể lại
câu chuyện của một gia đình trong đó hiện lên cái lối sống với những hành vi
trái đạo đức. Mà ông Bổng chính là tiêu biểu cho những điều đó. Ông Bổng
say rượu và đuổi người con dâu ra khỏi nhà.
Nếu bạn đã một lần đọc qua truyện ngắn Tướng về hưu thì ở một góc
độ nào đó ta có thể cảm thông cho chính họ. Có lẽ chính cái hoàn cảnh nghèo
khó đã một phần nào tạo nên cái sự đốn mạc và đê hèn trong con người họ.
Họ không những nghèo vật chất mà còn nghèo cả tri thức. Ông Bổng hay nói
"Quân trí thức khốn nạn! Rẻ dân lao động".
Ông Bổng còn là hiện thân của lối sống thực dụng, vụ lợi một cách
trắng trợn. Ở đám tang chị dâu, ông tỏ vẻ tiếc rẻ khi cho thợ mộc đóng quan
tài bằng gỗ dổi "Mất mẹ bộ xa lông. Ai đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ?
Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván". Chính cái lối sống thực dụng đã làm tha
hóa, khiến con người đánh mất lương tri, khơi dậy những ham muốn bản
năng, chạy theo những ham muốn trực tiếp, những mối quan hệ lành mạnh bị
thay thế bằng những quan hệ vụ lợi, vật chất, trở nên vô trách nhiệm. Những
điều thói nát đó đã được phơi bày ngay trong cái đám tang của vợ ông Thuấn:
"Đưa tao bốn nghìn, mày định làm bao nhiêu mâm?" "Không đủ cho đô tùy
rửa ruột. Mày bàn với vợ mày đi. Bốn mươi mâm". Đám tang là nơi của sự
trang nghiêm vậy mà ông cùng bọn đô tùy đánh tam cúc ăn tiền. Ông vào vái
quan tài, lạy chị chẳng qua để bảo chị phù hộ cho mình thắng được nhiều tiền:
"Lạy chị, chị phù hộ cho chúng em vét thật nhẵn túi chúng nó". Sức mạnh của
đồng tiền thật sự đã làm cho ông Bổng trở nên vô cảm trước cái chết của chị
mình. Thủy đã nhận xét về gia đình ông Bổng "Họ hàng nhà anh kinh bỏ mẹ"
Bằng những đoạn kể hoặc tả vô cùng ngắn gọn, tiết kiệm từ đến mức
tối đa, Nguyễn Huy Thiệp đã lột tả và phơi bày toàn bộ sự xấu xa bên trong
hai con người kia.
13
Cuộc sống không đơn giản mà vô cùng phức tạp. Con người không dễ
hiểu mà vô cùng rắc rối. Khám phá con người bằng một cặp mắt nhiều chiều,
Nguyễn Huy Thiệp đã thấu rõ hơn bên trong của cái bản chất xấu xa, đê hèn
của ông Bổng vẫn còn một chút gì đó của cái tốt. Có người tốt kẻ xấu, người
cao thượng kẻ đê hèn. Tuy nhiên mỗi bản thân con người không hề đơn giản
một chiều mà sâu kín, rối rắm nhiều chiều. Nguyễn Huy Thiệp đã len lỏi vào
nẻo sâu kín nhất trong nội tâm nhân vật ông Bổng, nhìn thấy những biểu hiện
dù nhỏ nhất lóe lên tong tâm hồn ông. Ông Bổng tuy lỗ mãng, táo tợn là vậy
nhưng lại khóc òa lên như một đứa trẻ vì được gọi là người "Thế là chị
thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu.
Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người". Mặc dù là
người lỗ mãng, làm đủ mọi điều xắu nhưng ông vẫn giành tình thương cho
đứa con trai của mình. Ông qua vay tiền Thủy để tổ chức đám cưới cho thằng
Tuân mặc dù đó là một cái đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ông
còn nhờ ông Thuấn "Anh phải đứng ra chủ hôn, bố cháu Kim Chi Vụ phó, anh
là tướng, thế là môn đăng hộ đối. Sau này các cháu nhờ phúc của ông, như tôi
thằng phu xe, báu gì".
Có lẽ tại cái đám tang, ngoài tình cảm thật sự mà ông Thuấn giành cho
vợ của mình còn cô con dâu Thủy chỉ lo tính toán thu xếp chuyện tiền nông
thì ông Bổng là người đã nhỏ những giọt nước mắt tiếc thương chân thực nhất
cho người chị dâu. Ông Bổng nín bặt, lại khóc "Chị ơi, chị đánh lừa em chị
đi...Chị bỏ em chị đi...". Dù lỗ mãng, táo tợn, làm đủ mọi điều phụ nhân bất
nghĩa vậy mà vẫn chất chứa những niềm vui, thích thú lắm khi được đi xa
"Nước mình đẹp như tranh. Bây giờ tôi mới hiểu vì sao phải yêu đất nước.
Chứ ở quê ta, dù Hà Nội có văn minh thật, tôi chẳng thấy yêu gì cả". " Thế là
nơi này yêu nơi kia, người này yêu nơi kia. Tất cả đều đất nước mình, nhân
dân mình cả.Vậy thì đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm! Hoan hô đèn
cù" Như vậy, bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai mặt
14
đối lập: đẹp - xấu, thiện - ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng - tắm tối…Con
người có lúc là thần thánh song có lúc là quỷ dữ.Ai dám bảo một con người
xấu xa như ông Bổng lại không có lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của
thiên lương? Có thể nói Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công trong việc khắc
họa lớp nhân vật lưỡng diện như ông Bổng.
ĐÁNH GIÁ TÁC PHẨM
1.Đánh giá về nội dung
Nguyễn Huy Thiệp là một hiện tượng lạ của nền văn học trong thời kỳ
sau đổi mới mà đến nay người ta vẫn nhắc đến như một huyền thoại. Giữa
cơn bão văn học với nhiều tác phẩm kinh điển với đủ các màu sắc nhưng
truyện của Nguyễn Huy Thiệp vẫn khẳng định được vị trí của mình khi khoác
lên minh một bộ cánh đầy cách tân và thực tế. Bằng tài năng của mình,
Nguyễn Huy Thiệp thực sự đã rất thành công trong việc “đốt nóng” cái
không gian tĩnh lặng của văn đàn với những tác phẩm văn học minh họa
“tượng sáp” ở thời kì trước đổi mới. Tướng về hưu tuy không phải là tác
phẩm tâm đắc nhất của Nguyễn Huy Thiệp nhưng đây là tác phẩm lấy được
nhiều phản hồi nhất của dư luận. Chính bởi sức nóng của tác phẩm này mà
liên tiếp sau đó, Nguyễn Huy Thiệp đã cho ra đời hàng loạt tác phẩm kinh
điển khác. Để rồi, trong thời kỳ đó, văn chương của Nguyễn Huy Thiệp trở
thành những “ngôi sao màn bạc” nổi tiếng nhất mà không ai có thể bì kịp. Vì
thế không phải là vô lý khi một nhà phê bình văn học đã dùng những lời có
cánh để viết về Nguyễn Huy Thiệp và tác phẩm của ông “càng viết dư luận
càng mạnh, truyện chưa ra thì người đọc đã kháo nhau, truyện đăng rồi thì
tranh nhau tìm đọc, đọc rồi thì tranh nhau bình phẩm, bàn tán, chốn phòng
văn cũng như chốn vỉa hè đâu đâu cũng kháo chuyện… Văn đàn thời đổi mới
đã khởi sắc bỗng khởi sắc hẳn.”
15
Nếu ai đã từng đọc tướng về hưu một lần chắc hẳn những cảm xúc
vui, buồn, cảm động sẽ thay nhau đan cài trong suy nghĩ của mình bởi những
dẫn dắt của tác giả khi đưa ta đến với một mẫu chuyện nhỏ trong cuộc sống
hằng ngày. Đọc tướng về hưu, có lẽ ta sẽ không cần phải chong đèn hàng đêm
để suy nghĩ về những điều ẩn ý chứa trong nó như bao tác phẩm khác mà ở
đây mọi ý nghĩa đã được Nguyễn Huy Thiệp khéo léo chuyển tải hết vào
trong từ câu chữ, từng dẫn dắt nhỏ nhặt nhất. Ở đây đã làm bật lên được sự
suy đồi trong đạo đức, trong lối sống, suy nghĩ và hành vi của con người
trong xã hội vào thời kỳ sao đổi mới. Tuy cách diễn tả hơi trần trụi, hơi khô
khan nhưng thực chất Tướng về hưu đã giáng một cái tát rất mạnh lên bộ mặt
của cái xã hội mới ấy.
Đó là một cô Thủy đại diện cho cái lớp người thực dụng, sống vì tiền
và chết cũng vì tiền với những hành vi trục lợi cho bản thân đáng khinh bỉ. Có
lẽ sẽ hơi đau đớn khi ta nhìn vào sự thật phũ phàng đấy, nhưng ta cũng phải
chấp nhận rằng trong cái xã hội ấy lớp người cơ hội, thực dụng sống bám vào
sự gian manh, xảo quyệt là không nhỏ. Những con người ấy, với họ chỉ có
đồng tiền với những dục vọng hèn kém mới là bạn, là tri kỉ. Họ bỏ qua tất cả
mọi giá trị xung quanh. Họ tính toán từng li từng tí sao cho không bị thiệt thòi
về mình. Điều này, khiến cho độc giả vô cùng căm phẫn. Những giọt nước
mắt giả tạo của Thủy ở đám tang mẹ chồng, hay là lúc cầu xin chồng tha thứ
cho hành vi ngoại tình của mình không làm cho độc giả thương cô hơn mà chỉ
khiến cho họ cảm thấy khinh bỉ.
Đó là ông Thuấn, nhân vật tiêu biểu cho những con người cô độc, lao
đao giữa mênh mông dòng người. Dù thân quen, dù gần gũi là đấy, nhưng vẫn
không thể nào có thể hòa hợp được với cái thế giới xung quanh mình. “Sao
tôi cứ lạc loài mãi” đó là câu nói diễn tả được những bế tắc trong suy nghĩ mà
ông Thuấn không biết giải quyết ra sao. Ông lạ lẫm với cách kiếm tiền của cô
con dâu, ông không chấp nhận được sự nhu nhược của con trai khi biết vợ
16
mình ngoại tình, ông cũng không thể nào có thể quen với việc được người
khác hầu hạ vì với ông chữ “công bằng, bình đẳng” còn hơn tất cả những điều
khác. Có lẽ cuộc sống quân đội đã tôi luyện cho ông trở thành một con người
như vậy, sống tình cảm nhưng không kém phần kỉ cương nghiêm khắc. Rời
xa quân đội trở về với gia đình, trở về với cuộc sống thường nhật hằng ngày
lẽ ra ông phải vui mới phải nhưng ở đây, chính cái tư tưởng, chính cái lối
sống đớn hèn của một số người trong cái xã hội ấy đã khiến ông cảm thấy thật
lạc lõng, thật xa lạ, lạc lõng ngay chính ngôi nhà thân thuộc của mình. Việc
ông một lần nữa rời xa gia đình để đi đến với quân đội đó là đỉnh điểm của
cao trào cho thấy rằng dù cố gắng đến cách mấy ông cũng không thể nào hòa
hợp lý tưởng cao đẹp của mình vào cái lối sống trần trụi kia được. Với ông,
dù có phải chết thì chết ở chiến trường cũng sẽ vinh quang hơn là sống trong
nhung lụa với những hành vi kiếm tiền, làm giàu thật ti tiện. Ông tuyệt đối
không thể nào chấp nhận được sự ti tiện ấy và ông càng không thể nào chấp
nhận được việc mình trở thành một người thừa, một bức tượng sáp không
tiếng nói trong nhà.
Ta cũng có thể thấy được hình tượng nhân vật với những con người
với vẻ đẹp hoàn toàn trong sáng, thánh thiện và giàu tình thương. Điều này
cho thấy rằng, xã hội của Nguyễn Huy Thiệp không phải chỉ là những mảng
màu đen tối mà ở đó vẫn có những điểm sáng. Dù chỉ là những đốm sáng nhỏ,
yếu ớt nhưng nó không bao giờ bị thổi tắc. Đấy chính là sự thần kì của những
kiếp sống lay lắt. Tất cả điều ấy được thể hiện khéo léo qua hệ thống nhân vật
phụ: bà vợ, cha con cô Lài. Họ tuy là những người thiểu năng, những người
không được bình thường nhưng chính sự không bình thường ấy đã giúp họ có
thể giữ được cái tâm hồn trong sạch thanh cao mà không bụi nào vấy bẩn
được giữa cái chốn bùn lầy tăm tối của xã hội. Ta thương bà vợ ông Thuấn
với đầy đủ công – dung – ngôn - hạnh, dù không được tình yêu thương của
chống nhưng vẫn một lòng chung thủy chăm sóc gia đình, con cái, tăng gia
17
sản xuất, làm hậu phương vững chắc giúp chồng an tâm chiến đấu. Ta quý cái
nhân cách của cha con cô Lài, tuy họ hơi ngờ nghệch, ngu ngơ nhưng tình
cảm của họ, lời nói của họ là vô cùng thật lòng, trong sáng.
Đọc tướng về hưu ta cũng sẽ vừa thương vừa giận với hình tượng
nhân vật ông Bổng. Đây là tuýp nhân vật lượng diện với sự thay đổi phức tạp
trong suy nghĩ. Bên trong mỗi bản thể nhỏ nhoi ấy bao giờ cũng tồn tại hai
mặt đối lập: đẹp - xấu, thiện – ác, cao cả - thấp hèn, trong sáng – tăm tối, hạnh
phúc – khổ đau… Con người có lúc là thần thánh song cũng có lúc là quỷ dữ.
Ai dám bảo một người lương thiện không có lúc suy nghĩ đê tiện? Ai dám bảo
một người độc ác lại không có lúc lấp lánh trong tâm hồn ánh sáng của thiên
lương. Nguyễn Huy Thiệp đã vô cùng khéo léo khi len lỏi đến tận sâu phần
người của nhân vật ông Bổng khi diễn tả những giọt nước mắt của ông lúc chị
dâu bảo mình là người. Ông khóc như một đứa trẻ. Và giọt nước mắt của ông
trong đám tang của người chị với một tình cảm thật lòng khiến người đọc vô
cùng xúc động vì biết rằng trong cái xã hội ấy vẫn còn chút tình người. Tuy
nhiên, những hành động lỗ mãn, những tinh toán thiệt hơn xoay quanh chữ
tiền của ông cũng dấy lên trong lòng người không ít giận hờn.
Nguyễn Huy Thiệp là một nhà văn đại tài với những động tác múa bút
thật tài hoa và tinh tế. Có người ca ngợi ông như một nhà văn đại tài, đề nghị
tặng giải Nôben cho ông. Nhưng cũng có người đòi bỏ tù ông vì đã bôi nhọa
cuộc sống, “hạ bệ thần tượng”. Thái độ phê phán với Nguyễn Huy Thiệp
không có gì khó hiểu. Đó là do “lối viết đa âm đụng phải lối đọc thánh thư”
Mặc cho người đời khen hay chê, ca ngợi hay nguyền rủa, Nguyễn Huy Thiệp
vẫn tỏa sáng trên văn đàn Việt Nam như một tên tuổi lớn, như một nhà văn có
chân tài. Điều đáng quý ở Nguyễn Huy Thiệp là lòng dũng cảm. Dũng cảm
nhìn vào sự thật để trình bày hiện thực đúng theo những gì mình thấy, những
gì mình nghĩ. Tác phẩm của ông đã dạy chúng ta rằng “Cuộc sống như một
dòng sông, có cả sự trong veo tinh khiết đến ngỡ ngàng của nước, có cả rác
18
rưởi đang trôi”. Từ đó “ông giúp chúng ta hiểu hơn về nước, về rác bằng một
cái nhìn tỉnh táo và sâu sắc. Từ đó ông thức tỉnh một khao khát, bỏ rác đi ta sẽ
gặp sự trong trẻo của dòng sông”Những trăn trở của nhà văn về con người,
những suy tư của ông về thiện và ác, sáng và tối, cao thượng và thấp hèn,
người và quỷ… bên trong con người khiến chúng ta có thể kết luận rằng
Nguyễn Huy Thiệp đã viết được những áng văn “giản dị và trung thực về con
người”
2.Đánh giá về nghệ thuật
Tướng về hưu là một thành công lớn do sự khéo léo dẫn dắt của
Nguyễn Huy Thiệp với tác phẩm truyện không có cốt truyện. Tưởng không
phải là truyện nhưng nó là truyện. Được xây dựng dựa trên ngôi kể thứ 1 khai
thác theo góc nhìn của nhân vật người con trai. Nhưng, qua truyện ta có thể
cảm nhận rằng, việc người con trai kể lại đó chỉ đơn giản là một hành động
thông báo chứ thật chất anh ta chẳng để lộ bất kì một cảm xúc, một suy nghĩ
nào cho người đọc biết trong suốt quá trình kể chuyện cả. Đấy chính là sự vận
dụng ngôi kể thứ 1 một cách tài tình, là cái tài sử dụng ngôi kể của Nguyễn
Huy Thiệp.
Thêm một điểm nổi bật nữa trong tác phẩm này về phần nghệ thuật đó
chính là cách sử dụng những câu nói ngắn, đơn sơ, thậm chí là có những lúc
rất thô lỗ. Cả truyện ngắn ta không thấy được bất kì câu chữ nào dư thừa, tất
cả sử dụng đều có dụng ý của tác giả qua đây đồng thời khắc họa được cái tài
sử dụng từ của Nguyễn Huy Thiệp là như thế nào.
Trong Tướng về hưu, tác giả tả người như tả sự vật, tả hành động, tâm
tư, lời nói của người như kê khai sự kiện tự nhiên. Không ai sống với ai. Mỗi
người tồn tại bên cạnh người khác, như cây mọc bên tường. Có gặp nhau
chăng, cũng tình cờ, vô tư. Ðể đạt kết quả ấy, tác giả dùng nhiều thủ pháp.
Một thủ pháp là: không một nhân vật nào có được một nét mặt, mỗi người thu
gọn vào chức năng tồn tại của một động vật: “Cha tôi tên Thuẫn, con trưởng
19
họ Nguyễn [...] Tôi ba mươi bẩy tuổi, là kỹ sư, làm việc ở Viện vật lý. Thủy,
vợ tôi, là bác sĩ, làm việc ở bệnh viện sản. Chúng tôi có hai con gái, đứa mười
bốn, đứa mười hai. Mẹ tôi lẫn lộn, suốt ngày chỉ ngồi một chỗ”. Những nhân
vật khác đều được giới thiệu như vậy. Rồi những thủ pháp khác : trong truyện
có nhiều lời phát biểu, nhưng hầu như không có đối thoại. Chỉ có những lời
tuyên bố song song, đơn độc. Thí dụ đoạn văn sau, lúc người em sắp mất chị :
Ông nói : “Bà ấy cứ xoay ngang xoay dọc trên giường thế này là gay go đấy.”
Lại hỏi : “Chị ơi, chị nhận ra em không ?”. Mẹ tôi bảo : “Có”. Lại hỏi : "Thế
em là ai ?".Mẹ tôi bảo : "Là người." Ông Bổng khóc òa lên : "Thế là chị
thương em nhất. Cả làng cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu.
Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người. Kỹ thuật trình
bày cũng được vận dụng để bóp nghẹt đối thoại. Không tách rời những đoạn
đối thoại, không xuống hàng, kéo gạch để làm nổi bật sự hiện diện của các đối
tượng, mà viết lời nói lẫn lộn với lời kể : Ông thợ mộc quát : “Sợ chúng ông
ăn cắp gỗ à ?” Ông Bổng hỏi : “Ván mấy phân ?” Tôi bảo : “Bốn phân.” Ông
Bổng bảo : “Mất mẹ bộ xa-lông. Ai lại đi đóng quan tài bằng gỗ dổi bao giờ ?
Bao giờ bốc mộ, cho chú bộ ván”
Ðọc một trang đối thoại kiểu này khó mà giữ được bình tĩnh. Phải
buồn nôn. Còn gì đối thoại ? Còn đâu tiếng nói – nhịp cầu giữa người với
người ? Chỉ còn những ống loa phát loạn xạ những âm vang lạc loài. Nhưng
có lẽ thủ pháp triệt để nhất trong lối hành văn Tướng về hưu là : kê khai dồn
dập những sự kiện, liên miên từ đầu đến cuối truyện, không cho kẻ đọc kịp
thở, có thời giờ và khoảng cách để thêu dệt một mối liên hệ tổng hợp nào, dù
đúng, dù sai. Nhịp văn Tướng về hưu là nhịp thở dốc. Câu văn ngắn ngủn, chi
chít, dồn dập nhô lên bên cạnh nhau, không có nhịp cầu nối lại, cả về ý lẫn về
từ, tạo nên một đám chữ loạn, không xây hình dựng nghĩa gì cả. Văn Tướng
về hưu như cơn gió lốc, có xen tiếng hoang loạn của những con người không
có mặt mũi.
20
Người với nhau đã vậy. Từng người với mình cũng chẳng hơn. Tình
cảm, suy nghĩ, hành động, cứ bộc phát như những sự kiện của thế giới tự
nhiên, như cây như cỏ, tản mát, vụn lẻ, không đầu không đuôi, chẳng khác gì :
con cóc trong hang, con cóc nhẩy ra, con cóc ngồi đó... Về mặt này, "nhân
vật" ông Bổng điển hình nhất : khóc, cười, chửi, mắng, ăn, nói... chẳng khác
gì con nít đái, ỉa.
Tóm lại, thế giới Tướng về hưu là một thế giới trong đó con người
không có hoài bão, xã hội không có tương lai. Vì thế Tướng về hưu là một
truyện không cần cốt, không có cốt truyện. Tính chất nghệ thuật của Tướng về
hưu ở chỗ khơi được thế giới đó, cảm giác đó, qua lối hành văn. Chẳng giải
thích dài dòng, chẳng dùng những tính từ dao búa, chỉ viết những lời ai ai
cũng hiểu được, mà tạo nên cả một bầu không khí điên đầu, cả một thế giới
trong đó không ai có thể hiểu ai.
21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS Nguyễn Thị Bình, Văn xuôi Việt Nam 1975 – 1995 – Những đổi
mới cơ bản, Nxb Giáo dục
2.Tố Hữu (1973), Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân
ta, với thời đại ta, Nxb Văn học, Hà Nội
3. Văn Trâm (1988), Đọc Nguyễn Huy Thiệp, Báo Văn nghệ số 48
22