i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Trần Ngọc Tú
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH
:
công nghiệp hóa
ĐTH
:
đô thị hóa
HĐH
:
hiện đại hóa
LĐ
:
lao động
NN
:
nông nghiệp
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
Tên bảng
Trang
Cơ cấu GDP theo khu vực
34
Biến động diện tích đất đai của thành phố Đà Nẵng
36
Tình hình thu hồi đất nông nghiệp ở thành phố Đà Nẵng
37
Cơ cấu tuổi và giới tính của lao động nông nghiệp bị thu
38
hồi đất sản xuất được điều tra
Trình độ học vấn của lao động nông nghiệp bị thu hồi đất
được điều tra ở thành phố Đà Nẵng
40
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động nông nghiệp
2.6
2.7
2.8
2.9
2.10
2.11
2.12
bị thu hồi đất sản xuất được điều tra ở thành phố Đà Nẵng
Số hộ nông nghiệp hàng năm có đất bị thu hồi ở
thành phố Đà Nẵng
Tình trạng việc làm của lao động thuộc hộ bị thu hồi đất
sau quá trình ĐTH ở Đà Nẵng
Biến đổi việc làm của lao động nông nghiệp sau khi bị thu
hồi đất được điều tra
Nguyên nhân lao động nông nghiệp vẫn làm nghề cũ
Lao động nông nghiệp có việc làm sau khi bị thu hồi đất
sản xuất
Nguyên nhân thất nghiệp của lao động nông nghiệp
41
43
43
45
46
48
57
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNHHĐH) với mục tiêu chuyển nền kinh tế chủ yếu dựa trên nông nghiệp sang
nền kinh tế chủ yếu dựa trên công nghiệp. Hệ quả tất yếu của tiến trình đó là
quá trình đô thị hóa được hình thành và phát triển, tạo ra sự thay đổi không
chỉ về mặt kinh tế - xã hội mà còn đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó
đặc biệt là vấn đề tạo việc làm cho người lao động.
Thành phố Đà Nẵng cũng nằm trong tiến trình ấy, từ khi chia tách tỉnh
Quảng Nam - Đà Nẵng đến nay (1/1/1997), thành phố Đà Nẵng đã tiến hành
các chính sách lớn trong đó có việc quy hoạch, chỉnh trang đô thị, xây dựng và
nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã
hội của thành phố. Quá trình đô thị hóa đã đem lại nhiều điều kiện thuận lợi tạo
ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững của thành
phố Đà Nẵng. Trong giai đoạn vừa qua, đã có hàng chục ngàn hộ dân phải thực
hiện di dời giải tỏa, giao đất lại cho các khu công nghiệp, khu dịch vụ, du lịch
và các khu đô thị mới. Quá trình này đã có những tác động lớn đến chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động của thành phố. Thông qua các chính sách giải
tỏa đền bù, một bộ phận lao động được thu hút vào làm việc ở các khu công
nghiệp, một số hộ khác có vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, bên cạnh đó quá
trình đô thị hóa đã tạo ra ngày càng nhiều việc làm mới trong lĩnh vực phi nông
nghiệp tạo điều kiện cho một bộ phận lao động trong nông nghiệp chuyển đổi
ngành nghề hoặc có việc làm trong thời gian nông nhàn tạo ra thu nhập góp
phần ổn định cuộc sống cho người lao động.
Tuy nhiên những vấn đề hậu đô thị hóa, trong đó công tác tạo việc làm
cho người lao động nông nghiệp vẫn đang là vấn đề bức thiết cần được quan
tâm giải quyết. Công tác tạo việc làm gặp không ít khó khăn do trình độ của
2
người lao động nông nghiệp thường thấp, khả năng chuyển đổi nghề nghiệp
còn nhiều hạn chế, trong khi yêu cầu của doanh nghiệp đòi hỏi cao để có khả
năng thích ứng ngay với yêu cầu công việc. Vấn đề tạo việc làm cho những
đối tượng này để họ ổn định và nâng cao đời sống không thể một sớm một
chiều là có thể giải quyết, đòi hỏi chính quyền địa phương cùng với các cơ
quan chức năng phải có chính sách phù hợp, phương thức thực hiện hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề trên đây, khi mà quá trình ĐTH trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng vẫn còn diễn ra trên diện rộng thì việc tìm hiểu thực trạng
vấn đề tạo việc làm cho lao động nông nghiệp ở thành phố Đà Nẵng vẫn là
yêu cầu cấp thiết. Do đó tôi chọn vấn đề “Tạo việc làm cho lao động nông
nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về lao động và việc làm của
lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng, sẽ đề
xuất những giải pháp cơ bản nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình ĐTH ở thành phố Đà Nẵng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về việc làm, tạo việc làm cho lao
động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa.
+ Điều tra, khảo sát, phân tích thực trạng lao động và việc làm của lao
động nông nghiệp; phân tích, đánh giá thực trạng tạo việc làm cho lao động
nông nghiệp trong quá trình ĐTH ở thành phố Đà Nẵng.
+ Đề xuất những giải pháp nhằm tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu về lao động nông nghiệp (không nghiên
cứu về lao động ngư nghiệp), quá trình đô thị hóa, việc làm và tạo việc làm
cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ nghiên cứu về vấn đề việc làm và tạo việc làm cho lao
động nông, lâm nghiệp (không nghiên cứu lao động ngư nghiệp) trong quá
trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2006 - 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam, lý thuyết kinh tế học phát triển, kinh tế lao động, việc làm, kinh tế
nguồn nhân lực hiện đại.
- Phương pháp nghiên cứu:
+ Sử dụng phương pháp thu thập số liệu từ các nguồn có sẵn, tài liệu sơ
cấp thông qua điều tra xã hội học đối tượng lao động nông nghiệp bị ảnh
hưởng bởi quá trình đô thị hóa, phương pháp phỏng vấn.
+ Phương pháp xử lý, tổng hợp và phân tích số liệu, thống kê - so sánh.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học của đề tài: đề tài góp phần bổ sung thêm một số nội
dung lý luận cơ bản về các vấn đề như lao động, việc làm, tạo việc làm và nội
dung tạo việc làm, tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô
thị hóa.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: thông qua việc nghiên cứu lý luận và điều
tra, khảo sát, phân tích về thực trạng việc làm và công tác tạo việc làm cho lao
4
động nông nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, đề tài đã đưa ra được nhiều giải
pháp hay, mang tính khả thi cao, đồng thời cũng nêu lên được những kiến
nghị cho chính quyền thành phố trong việc thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ
tạo việc làm nhằm góp phần tạo việc làm, ổn định cuộc sống cho lao động
nông nghiệp của thành phố trong tiến trình đô thị hóa.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo đề tài gồm
3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về việc làm và tạo việc làm trong quá
trình đô thị hóa
Chương 2: Thực trạng tạo việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá
trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn 2006 - 2010
Chương 3: Những giải pháp tạo việc làm cho lao động nông nghiệp
trong quá trình đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO
VIỆC LÀM TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA
1.1. Việc làm
1.1.1. Việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các yếu tố của quá trình kinh
tế xã hội, nhân khẩu, chất lượng lao động. Việc làm là một nhân tố chủ yếu
nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Chính vì vậy, cho đến nay đã thu hút sự
quan tâm của không ít những nhà khoa học với nhiều cách hiểu khác nhau về
việc làm, do đó cũng tồn tại nhiều khái niệm khác nhau về việc làm.
Trước đây đã có nhiều quan niệm cho rằng, việc làm phải là những công
việc yêu cầu một chuyên môn nào đó và tạo ra một thu nhập nhất định. Người
có việc làm phải thuộc biên chế nhà nước hoặc làm việc trong khu vực kinh tế
quốc doanh. Với cách hiểu ở trạng thái tĩnh như vậy đã không bao hàm hết
được tất cả những hoạt động khác có thể tạo ra thu nhập cho bản thân, gia đình
người lao động và xã hội mà không bị pháp luật cấm. Do đó, cũng tạo ra sự
phân biệt đối xử về lao động giữa các thành phần kinh tế, không huy động
được tối đa các nguồn lực lao động cho sự phát triển, đồng thời cách hiểu đó
cũng giới hạn phạm vi giải quyết việc làm chỉ là trách nhiệm của Nhà nước.
Nếu hiểu theo trạng thái động, trong giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực
của trường Đại học Kinh tế quốc dân (2008) thì khái niệm việc làm được hiểu
là “phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và những điều kiện
cần thiết (vốn, tư liệu sản xuất, công nghệ…) để sử dụng sức lao động đó” [2,
tr.256]. Trạng thái phù hợp đó được thể hiện qua công thức:
∑VL = C/V
6
Trong đó: C là chi phí ban đầu như nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị,
nguyên vật liệu…
V là chi phí về sức lao động
Quan hệ tỷ lệ biểu hiện sự kết hợp giữa C và V phải phù hợp với trình độ
công nghệ sản xuất. Khi trình độ công nghệ thay đổi, như theo hướng công
nghệ sử dụng nhiều vốn hoặc theo hướng công nghệ sử dụng nhiều sức lao
động, thì sự kết hợp giữa C và V cũng thay đổi theo. Ví dụ, trong điều kiện kỹ
thuật thủ công, với một đơn vị chi phí ban đầu về tư liệu sản xuất, về vốn đòi
hỏi kết hợp với nhiều đơn vị sức lao động (công nghệ sử dụng nhiều lao
động). Ngược lại, trong điều kiện tự động hóa, chi phí về vốn, công nghệ,
thiết bị rất cao nhưng chỉ đòi hỏi một tỷ lệ thấp sức lao động (công nghệ sử
dụng nhiều vốn).
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, việc ứng
dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào thực tiễn sản xuất ngày càng
phổ biến và mạnh mẽ, thì quan hệ tỷ lệ giữa C và V thường xuyên biến đổi. Từ
công thức nêu trên ta có, nếu tỷ lệ C/V = 1 cho thấy sự phù hợp giữa chi phí
ban đầu và sức lao động, nghĩa là mọi người có khả năng lao động và có nhu
cầu làm việc đều có việc làm. Nếu tỷ lệ C/V <1 cho thấy sự không phù hợp
giữa chi phí ban đầu và sức lao động, lúc này là sử dụng sức lao động không
hết khả năng hay lãng phí sức lao động, gây ra thiếu việc làm hoặc thất nghiệp.
Trạng thái phù hợp này thể hiện ở cả mặt số lượng và chất lượng. Vì
vậy, tạo việc làm là một quá trình tạo ra tư liệu sản xuất (số lượng và chất
lượng), sức lao động (số lượng và chất lượng) và các điều kiện kinh tế xã hội
khác. Quan điểm này tuy có mặt tích cực là khái quát được bản chất của việc
làm nhưng nó dễ làm người ta lẫn lộn, nhầm lẫn giữa việc làm hợp pháp và
không hợp pháp, nhất là trong bối cảnh nước ta hiện nay đang xuất hiện nhiều
7
hoạt động có ích cho cá nhân nào đó nhưng lại gây nguy hại cho xã hội,
không được xã hội thừa nhận đã trở nên bức bách.
Theo tác giả Đặng Xuân Thao thì “việc làm là một dạng hoạt động có
ích, không bị pháp luật cấm, có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu
nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng” [9, tr.25]. Quan niệm này
hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội nước ta hiện nay, một mặt, nó
mở rộng phạm vi quan niệm việc làm, tránh được tình trạng phân biệt đối xử về
lao động, kích thích khơi dậy và động viên được nguồn nhân lực cho phát triển,
mặt khác nó giới hạn được những hoạt động có hại cho cộng đồng, xã hội.
Mặc dù có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm nhưng tựu chung các
tác giả đều thống nhất rằng việc làm là một dạng hoạt động kinh tế - xã hội
phải có đầy đủ các đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, việc làm là hoạt động có mục đích của con người;
Thứ hai, hoạt động đó tuân thủ theo pháp luật;
Thứ ba, hoạt động đó mang lại thu nhập hoặc tạo điều kiện cho người lao
động tham gia để tạo thu nhập hoặc giảm chi phí cho gia đình và cộng đồng.
Những đặc trưng trên đây cũng là nội dung cốt lõi bao quát được bản
chất của việc làm được thống nhất và cụ thể hóa trong khái niệm việc làm của
Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX
thông qua tại Khoản 1, Điều 13, Chương II như sau: “Mọi hoạt động lao
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là
việc làm” [5, tr.13].
Khái niệm trên rất phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của nước ta hiện
nay, nó cho thấy sự đổi mới sâu sắc trong nhận thức về vấn đề việc làm và
giải quyết việc làm. Từ chỗ quan niệm cho rằng, giải quyết việc làm là trách
nhiệm của Nhà nước và chỉ có biên chế làm việc trong cơ quan Nhà nước mới
được coi là việc làm, nay đã chuyển sang nhận thức mới, mọi hoạt động tạo ra
8
thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm và giải quyết
việc làm không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà còn là trách nhiệm của bản
thân người lao động và toàn xã hội. Quan niệm về việc làm này đã được mở
rộng, tạo ra nhiều khả năng cho việc giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết
việc làm cho nhiều người và huy động tối đa mọi nguồn lực cho phát triển.
1.1.2. Phân loại việc làm
Có nhiều cách nhìn nhận và phân loại việc làm, nhưng cơ bản là
đứng trên góc độ chủ thể hoạt động của việc làm là n g ư ờ i lao động.
Những hoạt động của người lao động thể hiện hình thức, tính chất, đặc
điểm, yêu cầu và cả xu hướng của việc làm. Việc làm vì thế có thể phân loại
theo chủ thể hoạt động lao động là người lao động và chủ thể tạo việc làm
trong nền kinh tế.
Theo hoạt động của mỗi cá thể người lao động việc làm có thể chia ra
thành: việc làm chính, việc làm phụ. Việc làm chính là công việc mà người
thực hiện dành nhiều thời gian nhất so với công việc khác. Việc làm phụ là
công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất sau công việc
chính. Trong trường hợp việc làm chính và phụ có thời gian bằng nhau thì
việc làm nào có thu nhập cao hơn được xem là việc làm chính. Xét về tính
chất việc làm, việc làm có thể mang tính chất ổn định hay tạm thời. Việc làm
ổn định trong một năm đối với người lao động có thời gian làm việc từ 6
tháng trở lên. Việc làm tạm thời là những công việc dưới 6 tháng.
Các nền kinh tế khác nhau có hình thức tổ chức khác nhau, nhưng
thông thường phân theo các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, khu vực
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, khu vực các tổ chức cộng đồng và khu
vực có yếu tố nước ngoài. Theo phân loại của cuộc điều tra thực trạng việc
làm và thất nghiệp hàng năm của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
phân ra, việc làm trong các khu vực như sau [1, tr.27]:
9
- Khu vực hành chính: cơ quan tổ chức hành chính nhà nước (các cấp
bộ, ban, ngành ở trung ương, tỉnh, huyện, xã…);
- Khu vực sự nghiệp: các đơn vị sự nghiệp (Giáo dục, y tế, văn hóa,
thông tin, truyền hình, thể thao v.v..) gồm cả công lập, bán công, tư thục và
dân lập;
- Khu vực cộng đồng: các cơ quan đảng, đoàn, tổ chức chính trị, các
hiệp hội;
- Khu vực sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp trong nước: các doanh
nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh và doanh nghiệp tư nhân;
- Khu vực hợp tác xã: hiện đang hoạt động theo luật hợp tác xã;
- Khu vực kinh tế hộ: kinh tế cá thể, hộ gia đình;
- Khu vực có yếu tố nước ngoài: việc làm trong các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài và trong các cơ quan, tổ chức và cá nhân nước ngoài khác.
1.2. Tạo việc làm và nội dung tạo việc làm
1.2.1. Tạo việc làm
Tạo việc làm là “quá trình tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất, số
lượng và chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế xã hội khác để kết
hợp tư liệu sản xuất và sức lao động” [2, tr.261].
Tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để
tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng
hoá và dịch vụ theo yêu cầu thị trường.
Thực chất của tạo việc làm cho người lao động là tạo ra trạng thái phù
hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất gồm cả về chất lượng và cả số
lượng. Môi trường cho sự kết hợp giữa các yếu tố này là hết sức quan trọng,
nó bao gồm các chính sách, điều kiện khuyến khích người lao động cũng như
người sử dụng lao động trong công việc. Thị trường lao động chỉ có thể được
10
hình thành khi người lao động với người sử dụng lao động gặp gỡ trao đổi đi
đến nhất trí vấn đề sử dụng sức lao động, do vậy vấn để tạo việc làm phải
được nhìn nhận ở cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời
không thể không thể kể đến vai trò của Nhà nước.
1.2.2. Nội dung tạo việc làm
Để tạo việc làm đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức
cùng với các cá nhân người lao động. Mỗi bên đảm nhận một chức năng, nhiệm
vụ nhất định song lại có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau để cộng
tác tạo thành việc làm một cách có hiệu quả. Suy cho cùng, nếu công tác tạo việc
làm có hiệu quả cao thì cả ba bên đều có lợi. Về phía người lao động, họ có việc
làm có thể có thu nhập, ổn định cuộc sống, nâng cao vị thế của mình trong xã
hội. Đối với người sử dụng lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao
động cũng là duy trì và mở rộng kinh doanh cho doanh nghiệp. Còn đối với nhà
nước, nếu lao động được tạo việc làm đầy đủ thì sẽ giảm thất nghiệp, từ đó giảm
các khoản trợ cấp của chính phủ, tăng cường nguồn đầu tư vào các lĩnh vực
khác, đặc biệt là lĩnh vực xây dựng các công trình phúc lợi, nâng cao xã hội về
nhiều mặt. Trên cơ sở đó, nội dung tạo việc làm cho lao động cần bao hàm các
hoạt động sau:
1.2.2.1. Phát triển kinh tế tạo việc làm
Đối với mỗi nền kinh tế, việc phát triển kinh tế một cách hợp lý sẽ gắn
với việc tạo ra nhiều việc làm mới nhằm góp phần giải quyết việc làm cho
người lao động. Việc phát triển kinh tế hợp lý về cơ bản sẽ phụ thuộc vào việc
tăng trưởng kinh tế hợp lý thông qua việc lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh
tế phù hợp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH nhằm đảm
bảo thực hiện có hiệu quả các vấn đề xã hội, trong đó có vấn đề tạo việc làm,
giảm tỷ lệ thất nghiệp và qua đó sẽ đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao
động. Trên thực tế, việc lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp với các
11
nguồn lực của từng địa phương sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến việc
tạo ra ít hay nhiều việc làm mới cho người lao động. Bên cạnh đó, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động một cách cân đối sẽ
đảm bảo sự cân bằng cung - cầu lao động trong nền kinh tế, cũng như tạo
thêm nhiều việc làm mới cho người lao động trong các ngành công nghiệp,
thương mại và dịch vụ. Chính vì vậy, đối với mỗi địa phương, việc phát triển
kinh tế một cách hợp lý là một trong những nội dung quan trọng của công tác
tạo việc làm nhằm tạo ra nhiều việc làm mới cho người lao động.
1.2.2.2. Hỗ trợ vốn tạo việc làm
Hỗ trợ vốn tạo việc làm là một trong những chính sách quan trọng từ
phía Nhà nước. Vốn đầu tư có ý nghĩa rất lớn đối với việc làm của người lao
động: vốn dùng để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc thiết
bị, đào tạo đội ngũ người lao động,… Trong điều kiện hiện nay, để phát triển
sản xuất đòi hỏi phải có vốn để đổi mới máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học
công nghệ trong sản xuất, trên thực tế để có lợi thế doanh nghiệp phải có một
nguồn vốn lớn và muốn phát triển một ngành nghề nào đó cần phải có một
lượng vốn đầu tư tương ứng cho một chỗ làm mới. Do đó, việc hỗ trợ vốn tạo
việc làm thông qua nhiều chính sách khác nhau của Nhà nước sẽ là nhân tố
quan trọng để tạo ra nhiều việc làm mới.
1.2.2.3. Hỗ trợ đào tạo nghề
Thông qua chính sách giáo dục đào tạo và các đề án đào tạo nghề,
chuyển đổi ngành nghề sẽ tạo điều kiện cho người lao động trang bị cho mình
những kỹ năng, trình độ chuyên môn nhất định để có khả năng đáp ứng được
những yêu cầu của của doanh nghiệp khi được tuyển dụng hoặc có khả năng
chuyển đổi việc làm hoặc tự tạo việc làm cho bản thân người lao động khi có
những điều kiện cho phép.
12
1.2.2.4. Giao quyền sử dụng đất và hỗ trợ điều kiện sản xuất
Bên cạnh các chính sách hỗ trợ về vốn và hỗ trợ đào tạo nghề thì hỗ trợ
cho thuê đất, giao quyền sử dụng đất lâu dài cho người lao động và thực hiện
các chính sách hỗ trợ điều kiện sản xuất cho người lao động sẽ giúp cho
người lao động có được tư liệu sản xuất, có điều kiện để tổ chức sản xuất,
thông qua đó sẽ tự tạo việc làm cho bản thân và gia đình, đồng thời tạo ra
nhiều việc làm góp phần giải quyết việc làm cho những lao động khác ở địa
phương.
1.2.2.5. Xuất khẩu lao động
Đối với nhiều quốc gia, với cơ cấu dân số trẻ và lực lượng lao động dồi
dào thì công tác tạo việc làm cho một lực lượng lớn lao động lớn như vậy là
một thách thức không nhỏ. Trong điều kiện đó và trong giai đoạn hội nhập
kinh tế quốc tế thì khoảng cách ranh giới giữa các quốc gia gần như đã được
xóa bỏ, các nguồn lực được di chuyển thường xuyên giữa các quốc gia trong
đó có nguồn lực con người, do đó hoạt động xuất khẩu lao động giữa các
quốc gia hiện nay rất sôi động, nó đã góp phần làm cân bằng cung - cầu lao
động giữa các quốc gia. Vì vậy, hoạt động xuất khẩu lao động được xem như
là một nội dung quan trọng trong công tác tạo việc làm ở nước ta hiện nay,
thực hiện tốt hoạt động xuất khẩu lao động sẽ tạo ra nhiều việc làm cho người
lao động, tạo ra một nguồn thu ngoại tệ dồi dào và giảm sức ép việc làm lên
nền kinh tế trong nước.
1.2.2.6. Xúc tiến tạo việc làm từ doanh nghiệp
Trong các nội dung tạo việc làm thì việc xúc tiến tạo việc làm từ doanh
nghiệp là một nội dung quan trọng. Việc xúc tiến tạo việc làm từ doanh
nghiệp thông qua các hoạt động dịch vụ, giới thiệu việc làm cho người lao
động sẽ giúp người lao động và doanh nghiệp nắm bắt được những thông tin
trên thị trường lao động. Với vai trò là cầu nối giữa cung và cầu lao động, trên
13
cơ sở nắm vững thông tin về cầu lao động, hệ thống dịch vụ việc làm có
nhiệm vụ tạo ra sự gặp nhau giữa cung và cầu lao động. Việc xúc tiến tạo việc
làm từ doanh nghiệp giúp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội
trong và ngoài nước, có những thông tin đầy đủ và kịp thời về thị trường đầu
vào và thị trường đầu ra để không chỉ tạo ra chỗ làm việc mà còn phải duy trì
và tăng cường chỗ làm việc cho người lao động. Điều đó cũng góp phần duy
trì sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để có thể duy trì sản xuất, mở
rộng qui mô, nâng cao hiệu quả của sản xuất, người sử dụng lao động không
chỉ cần vốn để mua hoặc thuê nhà xưởng, công nhân, máy móc, trang thiết bị,
nguyên vật liệu, nhân công, mà cần thiết phải có cả kinh nghiệm tổ chức quản
lý, khả năng vận dụng linh hoạt chính sách về lao động, việc làm của nhà
nước, biết quản lý một cách khoa học và nghệ thuật để không những nâng cao
sự thỏa mãn của người lao động trong công việc, thu hút, giữ chân người lao
động giỏi mà vẫn đạt được mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra.
1.2.3. Tiêu chí tạo việc làm
Một số tiêu chí tạo việc làm cơ bản như:
- Số lao động được tạo việc làm mới;
- Số lao động được chuyển đổi nghề và tìm được việc làm;
- Số lao động được xuất khẩu lao động;
- Số lao động được tạo việc làm thông qua các chính sách hỗ trợ từ phía
chính quyền;
- Số vốn hỗ trợ cho lao động để tạo việc làm.
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm
Hiệu quả của công tác tạo việc làm chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác nhau. Song với quan niệm cho rằng, chủ thể tạo việc làm bao gồm Nhà
14
nước, doanh nghiệp, cộng đồng và bản thân người lao động thì những nhân tố
cơ bản sau đây sẽ ảnh hưởng đến việc tạo việc làm cho lao động:
1.3.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế xã hội
Cầu việc làm bắt nguồn từ đòi hỏi của sản xuất, sự phát triển của nền
kinh tế. Sản xuất càng tăng, qui mô ngày càng mở rộng thì cầu lao động càng
lớn, do đó khả năng tạo việc làm ngày càng tăng. Nhưng muốn mở rộng sản
xuất, phát triển kinh tế cần phải dựa vào những tiền đề vật chất, đó là nhân tố
tiên quyết trước hết ảnh hưởng đến tạo việc làm. Trong những tiền đề vật
chất, đầu tiên phải kể đến điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên của một
quốc gia, một vùng, một địa phương. Chúng được hình thành một cách tự
nhiên, ngoài ý muốn chủ quan của con người. Ví dụ như điều kiện khí hậu, độ
màu mỡ của đất đai, diện tích đất canh tác bình quân đầu người, trữ lượng tài
nguyên thiên nhiên… của địa phương. Trên thế giới, có những nước rất giàu
tài nguyên, điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển các ngành sản xuất, thu
hút được người lao động. Tuy nhiên, lại có những nước thiên nhiên không ưu
đãi, tài nguyên thiên nhiên hạn hẹp, thường xuyên xảy ra thiên tai, động đất,
bão lụt… gây ảnh hưởng bất lợi cho sản xuất. Chính vì vậy, mỗi quốc gia,
mỗi địa phương cần phải biết tận dụng các lợi thế của mình để phát triển kinh
tế, mở rộng sản xuất tạo việc làm.
Bên cạnh điều kiện tự nhiên thì tình hình phát triển kinh tế xã hội cũng
ảnh hưởng đến công tác tạo việc làm. Đối với một quốc gia hay một địa
phương việc phát triển kinh tế ổn định sẽ tạo động lực mạnh mẽ để giải quyết tốt
các vấn xã hội, trong đó có vấn đề việc làm. Kinh tế tăng trưởng ổn định sẽ tạo
điều kiện cho thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại và bền
vững, cùng với đó là sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo chiều hướng tích cực.
Bên cạnh đó việc phát triển kinh tế xã hội ổn định sẽ giúp tạo ra nhiều việc làm
mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống cho mọi người dân.
15
1.3.2. Nhóm nhân tố thuộc về chính quyền
- Nhân tố chính sách
Các chính sách liên quan chặt chẽ đến hiệu quả tạo việc làm bao gồm:
chính sách quản lý di cư, chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách tiền lương,
chính sách dân số… Các chính sách này không chỉ tác động trực tiếp đến quy
mô, số lượng và chất lượng nguồn lao động mà còn tác động đến số lượng và
chất lượng những chỗ việc làm mới được tạo ra. Ở đây có thể nêu ra tác động
của một vài chính sách đến tạo việc làm như sau:
+ Chính sách tiền lương: trên thị trường lao động, mọi giá cả sức lao
động thể hiện ở tiền lương, tiền công. Tuy nhiên, trong thực tế ở mức độ nào
đó Nhà nước có thể can thiệp một cách gián tiếp đến việc hình thành tiền
công, tiền lương. Chẳng hạn, để bảo vệ lợi ích của người lao động, Nhà nước
có thể quy định lương tối thiểu ở mức cao. Với việc quy định này có thể tạo
động lực khuyến khích nâng cao năng suất lao động, gia tăng sản lượng. Từ
đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo mở nhiều việc làm mới ở khu vực kinh tế
chính thức và khu vực kinh tế không chính thức góp phần giải quyết việc làm.
+ Chính sách giáo dục, đào tạo: một chính sách giáo dục tốt ít nhất phải
hội tụ đủ hai tiêu chuẩn cơ bản nhất, một là cung cấp đủ số lượng lao động
cho số lượng việc làm được tạo ra; hai là, cơ cấu về giáo dục đào tạo, bao
gồm cơ cấu giới tính, độ tuổi, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, cơ cấu về ngành
nghề đào tạo, theo vùng, theo khu vực… phải phù hợp với sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Do vậy, khi có một chính sách phát triển
giáo dục, đào tạo tốt sẽ tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho công tác tạo việc
làm. Ngược lại, một chính sách giáo dục đào tạo có nhiều hạn chế, khiếm
khuyết thì sẽ không chuẩn bị tốt nguồn nhân lực trên cả ba phương diện: số
lượng, chất lượng và cơ cấu đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế - xã
hội, gây cản trở không nhỏ cho giải quyết việc làm.
16
Ngoài những chính sách trên thì các chính sách như: chính sách phát triển
kinh tế xã hội nông thôn, chính sách hỗ trợ vốn, chính sách quản lý di dân…
cũng là tác nhân mạnh mẽ đến hiệu quả tạo việc làm cho người lao động.
- Nhân tố lựa chọn mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế và lựa chọn
công nghệ:
Ở phương diện lý thuyết, lựa chọn mô hình tăng trưởng và phát triển
kinh tế tức là nghiên cứu lựa chọn cách thức khai thác và sử dụng các nguồn
lực: vốn, khoa học, công nghệ, lao động, tài nguyên thiên nhiên. Do đó, nền
kinh tế khai thác và sử dụng ít hay nhiều lao động là do sự lựa chọn mô hình
tăng trưởng và phát triển kinh tế quyết định. Điều này cũng có nghĩa, việc sử
dụng nhiều hay ít lao động cho quá trình sản xuất phụ thuộc vào cơ cấu kết
hợp các nguồn lực, nhu cầu sử dụng các nguồn lực và khả năng thay thế lẫn
nhau giữa nguồn lực lao động với các nguồn lực khác.
Nếu nền kinh tế có quá ít vốn đầu tư vào sản xuất thì nguồn lực lao động
sẽ ứ đọng, không có tiền đề vật chất để hoạt động, khi đầu tư nhiều vốn vào
sản xuất thì nâng cao khả năng thu hút lao động. Nếu lựa chọn mô hình tăng
trưởng kinh tế sử dụng công nghệ cao thì cần nhiều vốn nhưng nhu cầu về số
lượng lao động lại ít. Trong thực tế, không có một mô hình tăng trưởng và
phát triển kinh tế một cách tuyệt đối, với việc sử dụng ít vốn, công nghệ cao,
sử dụng nhiều lao động, tiêu tốn ít tài nguyên mà có năng suất cao. Vì thế, đối
với một quốc gia, một nền kinh tế, tùy theo điều kiện hoàn cảnh cụ thể mà xác
định những mục tiêu cần ưu tiên để lựa chọn một mô hình tăng trưởng và phát
triển kinh tế cho phù hợp.
Đối với việc lựa chọn công nghệ cho mô hình tăng trưởng và phát triển
kinh tế thì lựa chọn công nghệ càng hiện đại, mức độ tự động hóa cao, cần
nhiều vốn sẽ làm giảm chỗ làm việc năng suất thấp và tăng chỗ làm việc có
chất lượng, năng suất cao cần lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Do
17
đó, việc lựa chọn công nghệ hiện đại tác động đến tạo việc làm thông qua cầu
lao động, theo hai hướng khác nhau:
+ Giảm cầu lao động, nhất là cầu lao động có trình độ thấp, tăng nguy cơ
thất nghiêp.
+ Tăng cầu lao động, khi công nghệ càng cao năng suất lao động tăng,
chi phí lao động giảm, tức là lợi nhuận tăng, nâng cao được quy mô tích lũy
vốn tạo điều kiện mở rộng sản xuất, tạo ra nhiều chỗ việc làm mới, tạo điều
kiện thuận lợi cho giải quyết việc làm.
Do vậy, hiệu quả của công tác tạo việc làm phụ thuộc rất lớn vào công
nghệ được lựa chọn có phù hợp với số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn lao
động hay không. Những điều trên đây hàm ý rằng, trong quá trình ĐTH, thì
việc lựa chọn công nghệ theo xu hướng HĐH là tất yếu, song cũng phải lấy
đặc điểm nguồn lao động làm căn cứ cơ bản để quyết định lựa chọn công
nghệ sản xuất phù hợp sao cho vừa hạn chế được thất nghiệp, tăng chỗ làm,
vừa tăng năng suất lao động, tiết kiệm được tài nguyên thiên nhiên. Tuy nhiên
đây là một thách thức không nhỏ đối với những nhà hoạch định chính sách,
các nhà quản lý.
1.3.3. Nhóm nhân tố thuộc về người lao động
Đặc điểm của người lao động bao gồm đặc điểm về nhân khẩu (độ tuổi,
giới tính, dân tộc, quy mô và kiểu hộ gia đình, tình trạng hôn nhân…), đặc
điểm về giáo dục (học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề), đặc
điểm về kinh tế (mức sống, thu nhập, quy mô và thói quen chi tiêu, nhà ở, tài
sản…), đặc điểm về văn hóa, lối sống, phong tục, tập quán, tác phong lao
động, khả năng thiết lập các mối quan hệ làm ăn, thái độ tích cực, sự năng
động và niềm tin của bản thân người lao động về khả năng tìm kiếm việc
làm… Do đó, những nhân tố thuộc về người lao động không chỉ quyết định
khả năng tham gia và thực hiện các giao dịch trên thị trường lao động của bản
18
thân người lao động mà còn là căn cứ để những nhà hoạch định chính sách
phát triển kinh tế lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế ở tầm vĩ mô, là căn cứ
để người sử dụng lao động đưa ra những quyết định sản xuất kinh doanh hiệu
quả. Như vậy, những nhân tố thuộc về người lao động ảnh hưởng lớn đến
thách thức sử dụng nguồn lao động, tạo việc làm.
Những đặc điểm của người lao động thể hiện như trên là những nhân tố
cấu thành nên chất lượng nguồn lao động. Ở nước ta hiện nay, số lượng lao
động dồi dào nhưng chất lượng lao động còn thấp chưa đáp ứng được những
yêu cầu về chất lượng lao động của quá trình CNH, HĐH. Tình trạng dư thừa
lao động, thiếu việc làm, thất nghiệp với tỷ lệ cao ở khía cạnh nào đó là một
trong những nguyên nhân cản trở quá trình CNH, HĐH. Bên cạnh đó, do chất
lượng nguồn nhân lực thấp, năng suất lao động và thu nhập hầu hết chỉ đủ để
nuôi bản thân nên nhu cầu việc làm thêm cũng như việc làm mới tốt hơn tăng
lên đáng kể, gây áp lực cho kinh tế - xã hội. Hơn nữa, thu nhập thấp cũng là
lý do cản trở việc tham gia các chương trình giáo dục, đào tạo và chăm sóc
sức khỏe cho người lao động. Vì vậy việc cải thiện chất lượng nguồn lao động
ở nước ta hiện nay là một thách thức không nhỏ.
1.4. Đô thị hóa và tác động của đô thị hóa đến việc làm cho lao động nông
nghiệp
1.4.1. Đô thị hóa
- Đô thị:
Đô thị là khái niệm đã xuất hiện khá lâu và được quan tâm nghiên cứu
trong vài chục năm trở lại đây.
Thuật ngữ “đô thị” bắt nguồn từ tiếng La - tinh: Urbanus - thuộc về đô
thị, Urban - thành thị, đô thị, … Đô thị là một khái niệm cơ bản và được sử
dụng khá thống nhất ở các quốc gia, nhằm chỉ những nơi có dân cư đông đúc,
sinh sống bằng các nghề phi nông nghiệp.
19
Do trình độ phát triển khác nhau mà hiện nay trên thế giới ở mỗi nước
khác nhau có những tiêu thức khác nhau về đô thị, có những tiêu chuẩn định
lượng và định tính khác nhau để phân biệt thành thị và nông thôn.
Ở Việt Nam, ngày 5/5/1990 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định
số 132/HĐBT và nghị định số 72/2001/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
5/10/2001 quy định về phân loại đô thị và phân cấp đô thị. Theo đó, điểm dân
cư gọi là đô thị phải có các chỉ tiêu cơ bản sau:
Là trung tâm tổng hợp hay chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội của cả nước, của một miền lãnh thổ, của một tỉnh, huyện
hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện.
Quy mô dân số (nội thị) tối thiểu là 4.000 - 6.000 người, con số này có
thể thấp hơn ở các vùng núi.
Mật độ dân cư (nội thị) cao hơn vùng nông thôn và được xác định theo
từng loại đô thị, tối thiểu có mật độ là 2.000 người/km2.
Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật như giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống
cấp thoát nước, và các công trình công cộng phục vụ khu dân cư đô thị từng
phần hoặc đồng bộ.
Có tỷ lệ lao động phi nông nghiệp chiếm 60% trở lên trong tổng số lao
động của nội thị.
- Đô thị hóa: khái niệm, đặc trưng
Thuật ngữ đô thị hóa (ĐTH) đã xuất hiện từ thời cổ đại, nó gắn liền với
việc thừa nhận ngày càng phổ biến vai trò và tầm quan trọng của các đô thị
đối đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. ĐTH là quá trình kinh tế - xã hội,
lịch sử mang tính quy luật trên quy mô toàn cầu. Ngày nay, ĐTH chứa đựng
nhiều vấn đề phức tạp với nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình
thức, mức độ khác nhau của xã hội hiện đại. Do đó, nó là đối tượng nghiên
20
cứu của không ít các ngành khoa học trong nổ lực xây dựng các cơ sở khoa
học cho việc quy hoạch, phát triển và quản lý đô thị. Theo đó cũng có nhiều
cách hiểu khác nhau về ĐTH.
Theo cách tiếp cận của nhân khẩu học và địa lý kinh tế thì ĐTH chính là
sự di cư từ nông thôn vào thành thị, chỉ sự tập trung ngày càng nhiều dân cư
sống trong lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là các đô thị. Đó cũng là quá trình
gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị trong tổng số dân số của một quốc gia. Với cách
tiếp cận này thì dường như tỷ lệ phần trăm dân số đô thị trên tổng dân số là
chỉ tiêu duy nhất để đo lường mức độ ĐTH. Và vì vậy, nó sẽ không thể giải
thích được hết tầm quang trọng và vai trò của ĐTH cũng như ảnh hưởng của
nó đến sự phát triển kinh tế - xã hội hiện tại.
Theo cách tiếp cận xã hội học, ĐTH được hiểu rộng hơn, đó là “quá
trình tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại; là sự thay đổi những
phương thức hay hình thức cư trú của nhân loại’’ [4, tr.80]. Điều này có ý
nghĩa là ĐTH không chỉ thay đổi phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt
động kinh tế mà còn là sự thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội và cá nhân, trong đó các quan hệ xã hội, các mô hình hành vi và ứng
xử tương ứng với điều kiện sống CNH, ĐTH và HĐH.
Theo quan điểm một vùng, ĐTH là một quá trình hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Theo quan điểm nền kinh tế Quốc dân, “ĐTH là quá trình biến đổi về sự
phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải
là đô thị thành đô thị’’ [10].
Tuy có nhiều cách tiếp cận với nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm
ĐTH, song ngày nay khi mà ĐTH gắn liền với CNH đang diễn ra mạnh mẽ và
phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới thì cách hiểu ĐTH là quá trình mang
tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội từ
21
nông nghiệp - nông dân - nông thôn sang công nghiệp - thị dân - đô thị ngày
càng phổ biến. Quá trình ĐTH là quá trình CNH đất nước, đồng thời cũng là
quá trình biến đổi sâu sắc về cơ cấu sản xuất, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu tổ
chức sinh hoạt xã hội, cơ cấu tổ chức không gian kiến trúc… biến nông thôn
thành thành thị, hay nói cách khác đô thị hóa là quá trình biến các làng quê
với hoạt động nông nghiệp là chủ yếu thành các đô thị với các hoạt động phi
nông nghiệp là chủ yếu, xóa bỏ dần thói quen của những người nông dân, xây
dựng phong cách, thói quen và lối sống của người dân trong các đô thị. Do
đó, quá trình ĐTH có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, ĐTH không phải là kết quả mà là một quá trình lâu dài diễn ra
trên một không gian lãnh thổ rộng lớn.
Hai là, tiền đề cơ bản của ĐTH là sự phát triển công nghiệp hay CNH,
HĐH. Bởi lẽ, trong quá trình ĐTH có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào
nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Ba là, ĐTH là quá trình hình thành, nâng cấp và mở rộng quy mô đô thị
với cơ sở hạ tầng hiện đại.
Bốn là, các làn sóng di cư nông thôn - đô thị làm tăng nhanh quy mô dân
số đô thị, chuyển từ lối sống phân tán - mật độ dân số thưa sang lối sống tập
trung - mật độ dân số cao, dẫn đến sự bố trí lại dân cư, thay đổi cơ cấu giai
cấp, phân tầng xã hội.
Năm là, không gian đô thị ngày càng mở rộng và cùng với nó là sự thu
hẹp đất nông nghiệp để nhường chỗ cho các khu công nghiệp, dịch vụ, thương
mại, du lịch, khu đô thị mới.
Sáu là, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị ngày càng tăng, thể hiện ở
tốc độ và quy mô thu hút vốn đầu tư, số lượng và quy mô các đơn vị kinh tế,
…