Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
Khoa Nhật Bản học
Đề tài:
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
NHẬT BẢN
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2015
BỐ CỤC
I/ Khái quát về VHCT:
1. Các khái niệm (Văn hóa / Chính trị / Văn hóa chính trị )
2. Đặc trưng
3. Chức năng
II/ VHCT truyền thống phương Đông và cơ sở hình thành
III/ VHCT Nhật Bản
1. Cơ sở hình thành VHCT Nhật Bản
2. Nội dung VHCT Nhật Bản
a) Nội dung VHCT truyền thống (bao gồm biểu hiện)
b) Nội dung VHCT hiện đại
IV/ Phần trả lời câu hỏi thảo luận
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ
1. Các khái niệm:
1.1. Khái niệm văn hóa:
Cho đến nay, có rất nhiều khái niệm về văn hóa, chẳng hạn như theo UNESCO:
“Văn hoá cần được xem như tập hợp những đặc trưng về tinh thần, vật chất, trí tuệ và
tình cảm của một xã hội hoặc một nhóm người trong xã hội, bao gồm nghệ thuật, văn
học, lối sống, phương thức sinh hoạt cộng đồng, những quyền cơ bản của con người, hệ
thống giá trị, truyền thống tín ngưỡng… Chính văn hóa đem lại khả năng suy xét về bản
thân, chính văn hóa làm cho con người trở thành những sinh vật đặc biệt - nhân bản có
lý tính, có óc phê phán và dấn thân có đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể
hiện mình, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là phương án chưa hoàn thiện đặt ra
để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ
và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân mình”1.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những
nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” 2, mà hiểu chung nhất thì văn hóa là một
hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy
trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường
tự nhiên và xã hội.3
1.2.
Khái niệm chính trị:
Cũng giống như văn hóa, từ xưa đến nay các khái niệm về chính trị cũng rất đa
dạng. Ở Tây phương, Platon cho rằng “Chính trị là nghệ thuật cai trị, cai trị bằng sức
mạnh là độc tài, cai trị bằng nghệ thuật mới là đích thực”. Hay như ở phương Đông,
đặc biệt là ở Trung Quốc, Khổng Tử quan niệm, “Chính trị là việc của người quân tử,
làm cho chính đạo, chính danh”. Trong thời kỳ đêm trường trung cổ, các nhà thần học
hay chủ nghĩa duy tâm cho rằng, “Chính trị là quyền lực tối cao của Thượng đế”.
Theo như Từ Điển Bách Khoa Việt Nam định nghĩa, “Chính trị là toàn bộ những
hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các
tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng
1
Tuyên ngôn phổ quát về Đa dạng văn hoá của UNESCO năm 1992 (theo n/c quốc tế số1/ 3-2009 , tr 21)
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t3, tr431
3
PGS.TS Trần Ngọc Thêm. Cơ sở văn hóa Việt Nam. (Tái bản lần 2) NXB Giáo dục, Hà Nội 1999, trang 10.
2
quyền lực nhà nước, sự tham gia vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ
chức, nhiệm vụ, nội dung hoạt động của nhà nước”.
1.3.
Khái niệm văn hóa chính trị:
Văn hóa chính trị hiện nay vẫn còn là một khái niệm chưa được thống nhất hoàn
toàn, tùy theo các hướng tiếp cận thì sẽ có những khái niệm khác nhau. Theo nhà
chính trị học G.Almond nhận định thì, “Văn hóa chính trị là một dạng đặc biệt của
định hướng chính trị, phản ánh đặc thù của mỗi hệ thống chính trị”4.
PGS.TS Hoàng Chí Bảo cho rằng, “Văn hóa chính trị là chất lượng tổng hòa của tri
thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị công dân, thúc đẩy họ tới
những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội, là thói quen
và nhu cầu tham gia một cách tự giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội, trở
thành giá trị xã hội của công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích
chung của xã hội vì tiến bộ và phát triển”5.
Từ điển bách khoa của Nga có viết: “Văn hóa chính trị là kinh nghiệm lịch sử, ký ức
cộng đồng xã hội và nhóm người trong lĩnh vực chính trị, là phong tục tập quán, thói
quen và các xu hướng ảnh hưởng đến hành vi cá nhân, nhóm cá nhân trong hoạt động
chính trị”6.
Ngoài ra, theo G.S T.S nhân học chính trị Toh Goda thì,“Văn hóa chính trị là một hệ
thống hoàn chỉnh các tổ chức, giá trị, diễn ngôn, hành vi và hệ thống tín ngưỡng về quyền
lực”. Tuy nhiên định nghĩa này thiên về hướng chính trị chứ không mang sắc thái văn
hóa.
Theo PGS.TS Hoàng Văn Việt, “Chính trị là bao gồm năng lực, phẩm chất, khả
năng và trình độ của các chủ thể chính trị trong hoạt động chính trị”, đây cũng là khái
niệm mà nhóm chúng tôi quyết định bám sát trong quá trình nghiên cứu đề tài này.
2. Đặc trưng:
2.1.
Tính giai cấp:
Mỗi một giai cấp, tầng lớp sẽ xây dựng cho mình một nền văn hóa chính trị phù
hợp. Hệ tư tưởng chính trị của giai cấp đó cũng chính là điều cốt lõi của nền văn hóa.
Trong lịch sử loài người, ứng với mỗi giai cấp thống trị xã hội sẽ sản sinh một giá trị
văn hóa chính trị khác nhau.
Ví dụ, văn hóa chính trị phong kiến thể hiện tư tưởng vua là tối cao, quyền lực
4
Chính trị học – Từ điển Bách khoa. NXB ĐH Kinh doanh Matxcơva, Matxơca, 1993, tr.14
Viện Mac-Lênin, “một số vấn đề về khoa học chính trị”, Hà Nội 4/1994
6
Chính trị học – Từ điển bách khoa. Sđd, tr. 264
5
tuyệt đối. Cơ sở pháp lý của xã hội là đạo Nho giáo với tam cương, ngũ thường, tam
tòng tứ đức... Văn hóa chính trị tư sản mang bản chất của văn hóa nô dịch, loại văn
hóa để củng cố và duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản.
2.2.
Tính lịch sử
Thể hiện sự gắn bó chặt chẽ với một giai cấp và với một thời kì lịch sử xác định.
Tùy vào từng giai đoạn phát triển của lịch sử, văn hóa chính trị cũng có những bước
thăng trầm, thay đổi.
2.3.
Tính kế thừa
Chế độ chính trị sau sẽ nối tiếp những giá trị văn hóa của các chế độ trước. Sự kế
thừa luôn có sự chọn lọc phù hợp với nền văn hóa chính trị đương đại, phù hợp với
chuẩn mực đạo đức của cộng đồng, dân tộc, quốc gia và quốc tế.
2.4.
Tính đa dạng
Tính đa dạng về giai cấp thống trị, đa dạng về các hình thái kinh tế xã hội, chế độ
chính trị, hình thức nhà nước và các giá trị, chuẩn mực, các quy định.
3. Chức năng:
Văn hóa chính trị có vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của
hệ thống chính trị. Nó góp phần hoàn thiện việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống chính
quyền, thể hiện bản chất dân chủ của một chế độ xã hội, là động lực cho việc định hình
nhân cách của công dân, của những nhà lãnh đạo chính trị. Những chức năng quan
trọng của văn hóa chính trị đóng một vai trò nhất định trong việc ổn định, duy trì hệ
thống chính trị, xã hội. Trong đó, phải kể đến chức năng tổ chức và quản lý xã hội.
Đây là một trong những chức năng quan trọng của văn hóa chính trị. Mỗi xã hội đều
được tổ chức theo một thể chế nhất định, được thống trị bởi một giai cấp nhất định và
vì lợi ích của giai cấp đó. Tùy vào giai cấp nắm giữ quyền lực là giai cấp nào mà có
kiểu tổ chức xã hội, cơ cấu và hệ thống chính trị khác nhau.
Ngoài ra, văn hóa chính trị còn có chức năng định hướng, điều chỉnh hành vi của
con người và các quan hệ xã hội. Dựa vào mục tiêu chính trị đã được đặt ra, giai cấp
cầm quyền sẽ xây dựng những đường lối, chính sách phù hợp nhằm đạt được mục tiêu
đó. Dựa trên nhận thức về lý tưởng đúng đắn, phù hợp với chuẩn mực xã hội, con
người chính trị sẽ chủ động thực hiện những hành động phù hợp như điều chỉnh xã hội
theo mục tiêu chính trị đã được đặt ra, hạn chế những điểm tiêu cực và phát huy những
điểm tích cực có ảnh hưởng đến sự ổn định của xã hội và nền chính trị.
Không những vậy, văn hóa chính trị còn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
việc đẩy mạnh xã hội hóa về chính trị, làm cho mọi người dân thấm nhuần hoạt động
chính trị. Văn hóa chính trị cũng có chức năng nâng cao nhận thức của công dân về vị
trí và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mình trong một hệ thống quyền lực chính trị.
Thông qua những cơ chế, chính sách phù hợp, những hoạt động chính trị sẽ được xã
hội hóa, trở thành một phần trong đời sống hằng ngày, cổ vũ, động viên, thúc đẩy hoạt
động sáng tạo của con người, hình thành nhân cách công dân, nhân cách những nhà
lãnh đạo chính trị. Thông qua những hoạt động chính trị, trình độ, sự giác ngộ trong
mỗi cá nhân sẽ được nâng cao. Đồng thời, bản lĩnh chính trị của từng cá nhân cũng
được tôi luyện. Đây là cơ sở cho việc định hình nhân cách công dân và những nhà lãnh
đạo chính trị.
CHƯƠNG 2
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ TRUYỀN THỐNG PHƯƠNG ĐÔNG
VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH
1. Cơ sở hình thành:
Phương Đông là nơi có điều kiện tự nhiên phong phú và đa dạng. Vì vậy, ngay từ
khi có xã hội loài người, nơi đây đã từng là khu vực sinh tồn của bầy người nguyên
thuỷ. Rồi theo sự phát triển của lịch sử, ở phương Đông dần dần xuất hiện công xã thị
tộc, bộ lạc và sau đó là các nhà nước.
Phương Đông bước vào xã hội chiếm hữu nô lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm. Các nhà nước cổ đại phương Đông
không chỉ có những đặc trưng chung của một xã hội chiếm hữu nô lệ mà còn có những
đặc điểm riêng mang màu sắc phương Đông.
Vào những năm cuối cùng trước công nguyên hoặc những năm đầu công nguyên,
nhìn chung các quốc gia phương Đông đều kết thúc chế độ nô lệ và lần lượt chuyển
sang xã hội phong kiến. Trong các nhà nước phong kiến phương Đông, nhà nước
phong kiến Trung Hoa là một điển hình. Đặc trưng của kiểu nhà nước này là có một
chính thể quân chủ chuyên chế tập quyền cao độ, hoàn hảo. Dưới chế độ phong kiến,
vua là người nắm trong tay toàn bộ quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Vua được
mệnh danh là Thiên tử. Và bộ máy nhà nước do vua đứng đầu có một uy quyền vô
cùng to lớn.
2. Văn hóa chính trị truyền thống phương Đông:
Văn hóa chính trị được hình thành và phát triển gắn liền với đời sống chính trị. Ở
các nước phương Đông, nhà nước xuất hiện rất sớm trong hoàn cảnh sự phân hóa giai
cấp chưa chín muồi. Các tư tưởng về văn hóa chính trị ở phương Đông chủ yếu xuất
hiện tại Trung Quốc, với 3 tư tưởng lớn của Khổng Tử, Lão Tử và Mạnh Tử.
Khổng Tử (551-471 TCN) là một trong những nhà tư tưởng đầu tiên đề cập đến
Văn hóa chính trị với cách tiếp cận chính trị - đạo đức. Thể hiện tập trung trong quan
niệm của ông về Nhân, Lễ, chính danh và mối quan hệ giữa chúng.
Nhân: để chỉ mối quan hệ mang tính con người. Đó chính là lòng người, lòng
thương người. Nhân là nền móng, từ gốc nảy sinh ra các phẩm chất đạo đức khác.
Lễ: bao quát không chỉ là các chuẩn mực đạo đức trong mối quan hệ giữa người
với người mà còn chỉ hành động tế lễ, các hình thức của lễ. Nhân để khôi phục lễ
nhưng nhân phải có hình thức thể hiện tương ứng, phù hợp, đủ sức chuyển tải bản chất
ấy – chính là thông qua lễ. Ông chia thành hai loại người trong xã hội là kẻ tiểu nhân
và quân tử. Quân tử là người thuộc tầng lớp quý tộc, quan liêu, trí thức thuộc giai cấp
thống trị. Tiểu nhân là những người lao động chân tay, thuộc giai cấp bị trị. Ông xem
nhân và lễ là đức tính của người quân tử còn tiểu nhân thì tuyệt đối không có nhân
cách ấy. Ông coi tu thân là cái gốc của người quân tử. Tu thân phải chính tâm, thành ý,
trí tri.
Chính danh: Ở đây cần nhìn vấn đề chính danh từ sự quy định lẫn nhau giữa phẩm
chất và năng lực với vị thế xã hội.
Vấn đề căn bản trong học thuyết của Khổng Tử là người quân tử (người cầm
quyền) với những chuẩn mực cần thiết về ứng xử trong chính trị. Niềm tin của ông gắn
chặt với luân thường đạo lý và đạo đức cá nhân. Khổng Tử cho rằng, chỉ những người
quân tử liêm khiết và tuân theo đạo của người quân tử hay là người có văn hóa mới
được cầm quyền, tư cách của những nhân vật đó phải kiên định với địa vị trong xã hội.
Lão Tử (580-500 TCN) cũng là nhà tư tưởng đề cập đến đạo trị nước theo phương
châm "vô vi nhi trị" trên cơ sở nhận thức và hành động theo "đạo" - theo quy luật vận
động và phát triển tự nhiên của xã hội. Tuy chưa đề cập đến khái niệm văn hóa chính
trị, nhưng điều đó không có nghĩa là Lão tử không có quan niệm về văn hóa chính trị.
Thực ra, khi bàn về chính trị, về kế sách chính trị, về hoạt động chính trị, Lão Tử đã
thể hiện quan niệm về văn hóa chính trị của mình.
Mạnh Tử (372-289 TCN) đựơc coi là người kế thừa xuất sắc và chính thống học
thuyết của Khổng Tử. Học thuyết của ông là sự phản ánh thực trạng xã hội thời đó
theo khuynh hướng cải lương điều hòa mâu thuẫn giai cấp có lợi cho bọn địa chủ quí
tộc hơn là bọn quí tộc chủ nô đã đến bước đường cùng.
Tư tưởng hai hạng người và thuyết tính thiện: Kế thừa quan điểm của Khổng Tử
về phân chia hai hạng người trong xã hội là quân tử và tiểu nhân, nhưng cụ thể hóa
hơn, ông xác định rõ ràng quân tử là những người “lao tâm cai trị người” và được
người cung phụng. Tiểu nhân là những người lao lực bị người cai trị và phải cung
phụng cho người.
Bản tính con người là thiện, tính thiện là bốn đức tốt nhân, nghĩa, lễ, trí. Bốn cái
đó là trời phú, có giữ được hay không là do tâm của mình. Nếu tâm có đầy đủ 4 đức
tính đó thì người với trời hòa hợp.
Chính trị “vương đạo, nhân chính và được lòng dân”: Mạnh Tử đề cao vương đạo
kịch liệt phê phán bá đạo. Ông coi vương đạo là dùng nhân nghĩa mà trị dân, còn bá
đạo là dùng bạo lực để cai trị mà mục đích là tranh lợi. Tranh lợi là nguồn gốc của mọi
rối ren, cướp đoạt lẫn nhau. Vương đạo phải thi hành nhân chính, thi hành chính trị
được lòng dân.
Một câu nói nổi tiếng của ông là: dân là quí, xã tắc là phụ, vua là thường. Ông cho
rằng phải phân phối đất đai cho dân cày cấy, làm cho dân no ấm, sau đó với thúc đẩy
dân làm điều thiện. Không cho dân có hằng sản, để cho dân sinh tội lỗi rồi lại dùng
hình phạt ra mà trị dân như vậy là chăng lưới để bẫy dân.
CHƯƠNG 3
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ NHẬT BẢN
1. Cơ sở hình thành
1.1. Điều kiện tự nhiên:
Nhật Bản là một đảo quốc hình vòng cung nằm ở phía Đông lục địa châu Á, với
diện tích là 377.800 km² , trong đó 85% diện tích là đồi núi, dốc cao, giữa núi là các
cao nguyên và bồn địa. Đồng bằng chỉ chiếm diện tích rất nhỏ, chủ yếu là những dãy
hẹp chạy ven biển. Nhật Bản còn là một đất nước thường xuyên xảy ra thiên tai như
động đất, sóng thần, núi lửa do nằm trọn trong vành đài lửa Thái Bình Dương.
Về mặt tài nguyên thiên nhiên, Nhật là một đất nước nghèo tài nguyên khoáng sản,
có than đá nhưng nhiệt năng thấp, trữ lượng ít và chất lượng kém. Còn chủ yếu là Nhật
có rừng và biển, do có nhiều núi, cộng với lượng mưa hàng năm tương đối lớn nên
rừng Nhật Bản rất phát triển (chiếm 66,8% diện tích), bốn bề xung quanh Nhật Bản lại
là biển nên cũng cung cấp một lượng lớn tài nguyên.
Về mặt khí hậu, chủ yếu là khí hậu ôn đới, một năm có bốn mùa rõ rệt. Hằng năm,
Nhật Bản còn phải chịu ảnh hưởng của bão, điều này gây khó khăn trong cuộc sống và
sản xuất nông nghiệp.
Vì là đảo quốc bốn bề xung quanh là biển, cộng với sự khắc nghiệt về mặt địa hình
và khí hậu đã khiến cho Nhật Bản thành một quốc gia có sự khu biệt về địa lý, không
tiếp giáp quốc gia hay vùng lãnh thổ nào trên đất liền, cũng không bị thế lực bên ngoài
nào xâm lược, đồng thời đề cao vai trò của tập thể hơn là cá nhân, đề cao việc làm theo
nhóm hơn là làm riêng lẻ. Do địa hình trắc trở như thế nên hoạt động sản xuất nông
nghiệp gặp khá nhiều khó khăn, đòi hỏi con người phải hợp sức làm theo nhóm chứ
không làm riêng lẻ, cả việc đánh bắt cá cũng phải làm theo nhóm. Chính những yếu tố
này sẽ ảnh hưởng đến văn hóa chính trị truyền thống của Nhật Bản, như việc làm theo
nhóm, tập thể hình thành nên quan hệ bầu chủ - người phụ thuộc, đề cao vai trò của
người đứng đầu.
1.2. Con người Nhật Bản:
Nhật Bản là quốc gia có sự thuần nhất cao độ về phương diện sắc tộc. Người
Yamato chiếm tới 99.4% dân số, 0.4% còn lại là dân tộc Ainu, Triều Tiên, Trung Quốc,
….và tất cả bọn họ đều nói chung một ngôn ngữ đó là tiếng Nhật.
Ngoài ra vì sự khắc nghiệt về mặt địa hình và khí hậu đã khiến cho con người Nhật
biết thích nghi nhanh và biết sáng tạo những cách ứng xử để thích nghi được với môi
trường tự nhiên khắc nghiệt đó một cách khéo léo, tinh tế, có chọn lọc.
1.3. Tư tưởng:
Tín ngưỡng bản địa của Nhật Bản là Thần đạo ( 神神-Shintou), xuất hiện sớm nhất
tại Nhật, bắt nguồn từ thuyết vật linh của người Nhật cổ, họ cho rằng mọi vật đều có
linh hồn, linh hồn đều có nguồn gốc thần linh. Người Nhật cho rằng nguồn gốc của
dân tộc họ là từ thần linh, và Thiên Hoàng là con cháu của thần Mặt Trời Amaterasu,
có quyền lực tối thượng, là biểu tượng của cả dân tộc Nhật Bản và được người dân
kính trọng. Chính vì vậy người Nhật rất tự hào về nguồn gốc của dân tộc mình và tôn
kính Thiên Hoàng. Chính tư tưởng này đã ăn sâu vào tiềm thức của người Nhật và dẫn
đến việc sùng bái cá nhân, nhà nước và quyền lực trong văn hóa chính trị truyền thống
Nhật Bản.
Ngoài Thần đạo ra, người Nhật còn tiếp thu hệ tư tưởng của đạo Nho, đạo Phật
nhưng không phải tiếp thu một cách máy móc mà tiếp thu có chọn lọc, nên khi đạo
Nho du nhập vào Nhật Bản không còn mang nặng tính lý thuyết và được dùng trong
việc tổ chức chính quyền. Cụ thể là trong Hiến pháp 17 điều của thái tử Shotoku có sử
dụng một số yếu tố của đạo Nho, ví dụ như điều 1 có nói rằng “…Ra đến ngoài phải
tuân lệnh quân vương, ở trong nhà phải thuận mệnh phụ mẫu…”. Việc tôn trọng cha
mẹ, người bề trên và các quan lại từ tư tưởng Nho giáo này đã góp phần hình thành
chủ nghĩa gia trưởng, gia đình trị trong văn hóa chính trị truyền thống Nhật Bản.
1.4. Văn hóa:
Một trong những yếu tố vô cùng quan trọng không thể không nhắc đến trong việc
hình thành nền văn hóa chính trị truyền thống Nhật Bản đó là văn hóa. Có thể coi văn
hóa là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành nền văn hóa chính trị Nhật Bản.
Như đã nói ở phần khái niệm, văn hóa là một hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra và tích lũy nó qua quá trình thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Mà mỗi một quốc gia lại có môi trường
tự nhiên và xã hội khác nhau, vậy nên sự tương tác giữa con người ở quốc gia đó với
môi trường tự nhiên và xã hội cũng khác nhau, từ đó dẫn đến văn hóa quốc gia đó
cũng khác nhau, và nền văn hóa chính trị của quốc gia đó cũng bị ảnh hưởng bởi văn
hóa.
Nhật Bản cũng là trường hợp như thế, với vị trí địa lý khu biệt và điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt, cùng với sự thuần nhất về mặt chủng tộc như vậy đã hình thành nên
một nền văn hóa khá thuần nhất. Và nền văn hóa chính trị truyền thống của Nhật cũng
có sự ảnh hưởng từ văn hóa Nhật Bản, là một biểu hiện của văn hóa. Có thể nói văn
hóa là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành văn hóa chính trị Nhật Bản.
2. Nội dung văn hóa chính trị Nhật Bản
Nói đến văn hóa chính trị là nói đến văn hóa chính trị truyền thống và văn hóa
chính trị hiện đại của cộng đồng xã hội và nhóm người trong lĩnh vực chính trị và ảnh
hưởng của nó trong hoạt động chính trị.
2.1. Nội dung văn hóa chính trị truyền thống
Truyền thống nói một cách chung nhất là những gì “vốn có”, “tự có” và “tại chỗ”
được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một khoảng thời gian dài tạo thành
bản sắc riêng của một dân tộc, một quốc gia,…
2.1.1. Sùng bái cá nhân, tập trung quyền lực:
Sùng bái cá nhân nghĩa là việc tôn sùng một người nào đó, người đó được cho là
một tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Việc này thường xảy ra trong lĩnh vực
chính trị, văn hóa,… Trong chính trị, việc sùng bái cá nhân là cách để giới chính trị
tuyên truyền và thần thánh hóa các lãnh tụ, để có thể lôi cuốn mạnh mẽ quần chúng,
biện minh cho quyền lực toàn trị. Ở trường hợp của Nhật Bản, sùng bái cá nhân nghĩa
là tên tuổi, công danh và quyền lực của các thủ lĩnh chính trị được xã hội công nhận,
tôn vinh và tán dương. Mà trường hợp cụ thể nhất trong lịch sử chính trị Nhật Bản
chính là Thiên hoàng.
Thiên hoàng là một cá nhân xuất hiện xuyên suốt chiều dài lịch sử của Nhật Bản,
là người được thần dân kính trọng và tôn sùng đến mức thần thánh hóa. Quyền lực của
Thiên hoàng trong suy nghĩ của người dân Nhật Bản là “thiêng liêng bất khả xâm
phạm”. Các học giả Nhật Bản cho rằng điều cha truyền con nối của dòng dõi hoàng
tộc ở Nhật Bản dài lâu hơn bất cứ nước nào trên thế giới là do các Thiên hoàng đều
anh minh, cai trị dân một cách hiền hoà, không dùng bạo lực.
Ngay cả trong thời kì chính quyền Mạc phủ nắm quyền lực, Thiên hoàng vẫn tồn
tại và được người dân ủng hộ do sự tôn kính và tin tưởng đối với Thiên hoàng. Tuy
nhiên, trong thời kì Mạc phủ nắm quyền, các hoạt động chủ yếu của Thiên hoàng chỉ
giới hạn trong những vấn đề mang tính văn hóa hơn là chính trị. Mặc dù có một vài
Thiên hoàng đã cố gắng khôi phục quyền lực chính trị nhưng họ hoàn toàn thất bại
hoặc chỉ thành công trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. Mãi đến ngày 13/10/1867,
tướng quân Yoshinobu mới trao trả quyền lực cho Thiên hoàng. Thiên hoàng ban sắc
lệnh Vương chính phục cổ (Thiên hoàng khôi phục lại quyền lực như xưa) và chính
thức tiếp nhận chính quyền từ tướng quân Yoshinobu. Đến tận thời điểm này, mô hình
Thiên hoàng trực tiếp điều hành mới chính thức thay thế cho chế độ phong kiến do
Shogun đứng đầu. Thiên hoàng Minh Trị cai trị từ năm 1868 đến năm 1912, ông đóng
vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện cuộc cải cách Minh Trị Duy tân đổi mới đất
nước Nhật Bản nông nghiệp lạc hậu. Đến thời điểm này, ảnh hưởng của Thiên hoàng
trở nên tuyệt đối trong đời sống chính trị Nhật Bản.
Vào thời kì quân phiệt hóa, giới cầm quyền Nhật Bản đã sử dụng một cách khéo
léo vai trò của Thiên hoàng và thế lực quân phiệt. Họ biến chủ nghĩa quân phiệt thành
một “lý tưởng”, một “đạo giáo” chi phối, bao trùm mọi mặt sinh hoạt trong xã hội
Nhật Bản. Còn biểu tượng Thiên hoàng thì được khuếch trương cao độ, trở thành đối
tượng để dân chúng thể hiện sự trung thành, lòng yêu nước và sẵn sàng quên mình vì
Thiên hoàng. Thậm chí sau khi chiến tranh kết thúc, Thiên hoàng vẫn giữ ngôi vị tối
cao, mặc dù trên thực tế chỉ mang tính biểu tượng quốc gia.
Sau Chiến tranh thế giới thứ 2 chủ nghĩa quân phiệt bị triệt tiêu, Nhật Bản trở
thành quốc gia quân chủ lập hiến. Hiến pháp 1889 của Nhật Bản quy định Thiên hoàng
là nguyên thủ quốc gia, là tổng tư lệnh quân đội tối cao, quyết định tuyên chiến hoặc
hòa bình,… Nói chung Hiến pháp đã xác lập quyền uy tuyệt đối của Thiên hoàng tại
Nhật Bản, duy trì tính "thiêng liêng bất khả xâm phạm" của Thiên hoàng như thời đại
quân chủ chuyên chế. Hiến pháp năm 1947 đã hạn chế rất nhiều quyền hạn của Thiên
hoàng, nhưng ông vẫn là “biểu tượng sức mạnh đoàn kết thống nhất dân tộc Nhật
Bản”. Điều 1 của bản Hiến pháp này quy định “Thiên hoàng là biểu tượng của nước
Nhật Bản và sự thống nhất của quốc dân Nhật Bản, địa vị này dựa trên sự mong muốn
của quốc dân Nhật Bản, người nắm trong tay chủ quyền”. Điều đó cho thấy vị trí của
Thiên hoàng trong lòng người dân Nhật Bản vẫn rất cao.
2.1.2. Chủ nghĩa gia trưởng, gia đình trị:
Môt đặc điểm nữa trong văn hóa chính trị truyền thống của Nhật Bản chính là chủ
nghĩa gia trưởng, gia đình trị:
Gia trưởng là hành vi thực hiện bởi một cá nhân, tổ chức hay nhà nước, vì lợi ích
của họ mà hạn chế sự tự do hoặc tự chủ của người hay hội nhóm nào đó. Gia trưởng
cũng có thể hàm ý rằng hành vi này chống lại hay bất chấp ý muốn của một người,
hoặc cũng có thể rằng hành vi đó thể hiện một thái độ bề trên kẻ cả. Nguồn gốc của
chủ nghĩa gia trưởng có thể do ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo ngày xưa hoặc do
ảnh hưởng của chế độ phụ hệ thời xa xưa.
Truyền thống gia trưởng vẫn còn ảnh hưởng đến văn hóa chính trị của Nhật Bản
thời nay. Chính chủ nghĩa gia trưởng đã hỗ trợ cho nguyên tắc đề cao những người
đứng đầu cộng đồng. Do đó, người dân Nhật dễ dàng chấp nhận việc các lãnh tụ chính
trị nắm quyền kiểm soát hoàn toàn đời sống kinh tế - xã hội. Kiểu quản lý xã hội này
thực chất là sự liên kết giữa các doanh nghiệp và chính phủ. Chủ nghĩa gia trưởng ở
Nhật còn được thể hiện qua việc xã hội Nhật vẫn còn quan niệm trọng nam khinh nữ
trong công việc. Vị trí của nữ giới trong giới chính trị vẫn chưa được đánh giá cao, số
quan chức nữ giới ở Nhật vẫn rất ít ỏi, nếu có chăng nữa cũng không nắm nhiều quyền
lực. Những năm trước đây, số phụ nữ đi làm có tăng nhưng cũng không bằng số nam
giới. Phụ nữ đi làm cũng phải chịu rất nhiều áp lực từ xã hội. Tiêu biểu như việc lấy
chồng sinh con, nếu có con sẽ đồng nghĩa với việc họ sẽ chấm dứt việc đang làm và
các mối quan hệ xã hội của mình để trở thành một bà nội trợ chăm lo gia đình, chồng
con. Những năm gần đây, nhờ chính sách phát triển của thủ tướng Shinzo Abe đã
khuyến khích phụ nữ năng động hơn trong việc đi làm nhưng quan niệm “Đàn ông đi
làm, phụ nữ ở nhà” vẫn còn tồn tại rất rõ rệt. Điều đó có thể dễ dàng nhận thấy qua
cảnh tượng những người đàn ông ăn mặc như kiểu nhân viên văn phòng ngồi cả ngày
ngoài bến xe hay tàu điện vì không có việc làm.
Ngoài chủ nghĩa gia trưởng, văn hóa chính trị truyền thống của Nhật Bản còn thể
hiện qua một khía cạnh khác, đó là chủ nghĩ gia đình trị. Gia đình trị đã xuất hiện từ
rất lâu, là một kiểu cai trị độc tài. Kiểu cai trị này cho phép điều chuyển quyền lực theo
nguyên tắc huyết thống, tức là cha truyền con nối.
Chủ nghĩa gia đình trị được thể hiện rõ nhất qua sự tham gia vào hoạt động chính
trị của các Zaibatsu. Zaibatsu (tài phiệt) là từ dùng để chỉ các tập đoàn kinh doanh tài
chính và công nghiệp lớn theo chế độ gia tộc ở Nhật. Zaibatsu là các tập đoàn độc
quyền gia đình trị gồm một công ty mẹ đứng đầu và một công ty con chi phối những
mảng quan trọng của thị trường một cách đơn lẻ hoặc thông qua nhiều công ty con
dưới nó. Họ nắm quyền chi phối nền kinh tế Nhật Bản, có thể thâu tóm và làm lũng
đoạn thị trường thông qua các hoạt động tài chính. Các Zaibatsu hầu hết đều được thiết
lập từ đầu thời kì Minh Trị. Môi trường để các Zaibatsu phát triển mạnh mẽ là chiến
tranh thế giới thứ nhất. Họ có thể phát triển mạnh mẽ được như vậy là nhờ các đơn đặt
hàng của chính phủ. Nhờ sự hậu thuẫn của chính phủ Nhật qua các khoản trợ cấp, thuế
quan bảo hộ,… mà các Zaibatsu đã chiếm vai trò chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế và
ảnh hưởng đến chính sách đối nội và đối ngoại của Nhật Bản thời đó. Sau khi Chiến
tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, có rất nhiều công ty sát nhập lại với nhau càng làm tăng
thêm thế lực của các Zaibatsu. Sau khi chiến tranh kết thúc, các nhà cầm quyền Mỹ đã
dỡ bỏ hoàn toàn hệ thống gia đình trị này nhưng những tàn tích của nó vẫn còn tồn tại
đến ngày nay. Điều đó được thể hiện qua việc ở Nhật còn rất nhiều các công ty lâu đời
nhất thế giới như khách sạn Hoshi Ryokan, hang ủ rượu Sudo Honke,… Để lý giải cho
điều này, các chuyên gia cho rằng, bước sang thế kỷ 20, chế độ cha truyền con nối cho
con trưởng phai nhạt dần nhưng chủ các công ty vẫn thường chỉ để lại tài sản cho một
người thừa kế. Ngoài con ruột, người đứng đầu gia nghiệp có thể nhận nuôi hợp pháp
một người phù hợp để điều hành và truyền lại công ty. Việc thu nạp thêm nhiều thành
viên mới giúp các công ty lâu đời tại Nhật tiếp tục phát triển. Hầu hết những công ty
cao tuổi nhất nước này là doanh nghiệp gia đình.
2.1.3. Sự thích nghi với các giá trị tư tưởng mới
Trong tiến trình lịch sử nhân loại, sự tiếp xúc giữa các quốc gia đã diễn ra khá
sớm. Nhưng việc tiếp xúc đó sẽ chỉ mãi là quan hệ trao đổi hàng hóa nếu không có sự
xuất hiện của hệ tư tưởng đế quốc trong thời đại phong kiến bấy giờ. Nhật Bản nằm ở
vùng ngoại biên trong thời kỳ đế chế Trung Hoa chiếm vị trí trung tâm, nên trong thời
kỳ đầu, Nhật Bản đã cử nhiều phái đoàn triều cống sang Trung Hoa để học hỏi mô
hình tiên tiến của chế độ, tổ chức và kỹ thuật, nhập khẩu những sản vật quý báu từ
Trung Quốc. Đồng thời, có những tri thức và sản phẩm từ Triều Tiên du nhập vào Nhật
Bản, thông qua đoàn triều cống Nhật trên đường đi Trung Quốc có đi qua bán đảo
Triều Tiên, hoặc các cuộc viễn chinh, di dân từ Triều Tiên sang Nhật, tạo thành quan
hệ trục bánh xe và nan hoa (hub-and-spokes).
Có thể nói, nền văn minh Trung Hoa đã từng là tấm gương sáng cho Nhật Bản noi
theo, cho đến thế kỷ 16 ~ 17, khi các thế lực Tây Ây bắt đầu xuất hiện vào khu vực
Đông Á, phá vỡ vị thế trung tâm của Trung Hoa. Những người phương Tây (Bồ Đào
Nha, Anh, Pháp, Hà Lan) tìm đến Nhật Bản với cái cớ là để thiết lập quan hệ buôn
bán, nhưng thực chất là để dọn đường cho chủ nghĩa thực dân vào đất nước này. Bên
cạnh đó, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa vào cuối thế kỷ thứ 18 ở nông thôn –
nông dân không sản xuất nông nghiệp nữa mà tập trung làm hàng thủ công hay chế
biến những sản phẩm nổi tiếng của địa phương, dẫn đến hiện tượng lực lượng nông
nghiệp ngày càng ít đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế, điều đó đối với một thiết chế chính
trị phong kiến dựa trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp là rất bất lợi.
Tuy rằng đã thực hiện nhiều biện pháp kinh tế, nhưng không chính sách nào đem
lại kết quả khả quan. Vì thế, tình trạng kiệt quệ về kinh tế đã khiến chính quyền Mạc
phủ đã vốn thối nát lại càng thêm suy sụp trước sự tiến công dồn dập của làn sóng
phương Tây. Tư tưởng Thiên chúa giáo, Tin Lành và các giá trị dân chủ tư sản dần dần
được truyền bá vào Nhật Bản, trước tiên là người Bồ Đào Nha, tiếp đó là người Hà
Lan, Anh, Mĩ. Trước sự thâm nhập của các nước phương Tây, để duy trì sự ổn định
chính trị trong nước và cũng tránh cho Nhật Bản khỏi ánh mắt nhòm ngó của các nước
phương Tây, Mạc phủ Edo đã thực hiện chính sách đóng cửa đất nước vào thế kỷ thứ
17. Thế nhưng chỉ sau hai thế kỷ, Nhật Bản đã phải một lần nữa mở cửa đất nước, đặc
biệt sau khi chiến hạm đen của đề đốc Hoa Kỳ xuất hiện ngay ở vùng biển Nhật Bản.
Lúc bấy giờ, Mạc phủ lại càng nhận thức rõ hơn sức mạnh của phương Tây cùng với
sự lạc hậu của Nhật Bản nên đã tìm mọi cách để nhanh chóng tiếp cận với kỹ thuật tiên
tiến. Nhật Bản bắt đầu khuyến khích việc đào tạo những người hiểu biết về khoa học,
kỹ thuật, ngôn ngữ phương Tây. Trong đó có thể kể đến sức ảnh hưởng của phái Hà
Lan học đến các cao trào dân chủ hóa ở Nhật Bản nửa sau thế kỉ XIX, tạo nên phong
trào Rangaku (Lan học).
Sau mở cửa, sự phát triển của một số ngành kinh tế và quá trình tập trung dân cư
vào các đô thị đã tạo nên một môi trường xã hội mới cho sự phát triển đa dạng về văn
hóa. Trải qua hơn hai thế kỷ, một đội ngũ trí thức xuất thân từ các đẳng cấp bình dân
đã xuất hiện. Tư tưởng của họ đã giúp suy nghĩ của dân tộc Nhật Bản không bị gò bó
bởi bất kỳ khuôn khổ hạn hẹp nào. Hệ quả là, thông qua những cuộc tranh biện giữa
các dòng tư tưởng, trước những yêu cầu của lịch sử, dân tộc Nhật Bản đã quyết tâm
thực hiện thành công chủ trương cải cách và tuyệt đối phải trở thành cường quốc trong
khu vực.
2.1.4. Quan hệ bầu chủ - người phụ thuộc trở thành nền tảng của các quan hệ
xã hội thứ bậc:
Một đặc trưng trong văn hóa chính trị truyền thống thường thấy ở tất cả các nước
Á Đông, đặc biệt rõ rệt tại Nhật Bản là quan hệ bầu chủ - người phụ thuộc hay còn
được biết đến như Chủ nghĩa bảo trợ của La Mã cổ đại với tên tiếng Anh là Client Patron Relationships. Từ “bầu chủ” được dịch ra từ từ tiếng Anh “Patron” có nghĩa là
ông bầu, ông chủ, trong giới chính trị mang ý chỉ những người có thế lực, địa vị và
giàu có cần sự hỗ trợ của người dân để tăng thêm danh tiếng và uy quyền cho mình.
Trong khi từ “người phụ thuộc” là từ được dịch ra từ từ “Client” có nghĩa là khách
hàng, trong giới chính trị mang ý chỉ những người luôn tìm kiếm sự che chở, bảo bọc
của các bầu chủ (Patron) vì muốn có cuộc sống ổn định. Nguồn gốc của mối quan hệ
bầu chủ - người phụ thuộc là sự phân chia đẳng cấp trong các tầng lớp xã hội. Một hệ
thống chính trị trong đó có một quan hệ bất bình đẳng giữa những người được bảo trợ
vì ủng hộ chính trị, chẳng hạn qua lá phiếu cho người bảo trợ có thế lực để nhận được
lợi ích cho bản thân mình như ân huệ, hàng hóa và dịch vụ.
Ở Nhật quan hệ này được hể hiện rõ nhất qua nguyên tắc BA ( nguyên tắc tự sắp
đặt sẵn). Cơ sở hình thành các nguyên tắc quan hệ BA là sự phân biệt đẳng cấp. Nó
được hình thành trong điều kiện xã hội cát cứ nặng nề về mặt địa lí và hoạt động tự trị
của các phe nhóm chính trị. Cấu trúc của BA là nhà nước - nhóm cá nhân - cá nhân,
khác với cấu trúc quan hệ bầu chủ - người phụ thuộc của Chủ nghĩa bảo trợ chỉ có hai
nhân tố là bầu chủ và người phụ thuộc. Ngày xưa, Nhà nước là chính quyền trung
ương - đứng đầu là Thiên hoàng; người đứng đầu nhóm cá nhân, tập thể là thủ lĩnh
chính trị; cá nhân là thần dân. Người dân là các Clients của các thủ lĩnh đứng đầu các
nhóm cá nhân, các thủ lĩnh địa phương vừa là Patron của cá nhân (người dân), vừa là
Clients của người đứng đầu nhà nước – Thiên hoàng. Trong mối quan hệ thứ bậc này
thì Thiên hoàng là người đứng đầu chính quyền trung ương - là Patron lớn nhất. Người
dân (Clients) muốn bày tỏ sự cung kính và lòng trung thành của mình với người đứng
đầu nhà nước, trước hết cần bày tỏ sự phục tùng người đứng đầu nhóm cá nhân, tập
thể. Những người đứng đầu nhóm cá nhân, tập thể này trong lịch sử chính là các
Shogun và các Daimyo, họ được hưởng nhiều đặc quyền đặc biệt, vừa hoàn thiện vai
trò của Client đối với Thiên hoàng, vừa thể hiện diện mạo người Patron trước người
dân. Trong lịch sử hình thành và tồn tại các Shogun và sau này là các Daimyo ở Nhật
Bản, các lãnh chúa địa phương được hưởng nhiều đặc quyền đặc biệt, vừa hoàn thiện
vai trò của Client đối với Thiên hoàng, vừa thể hiện diện mạo người Patron trước
người dân.
Thiên hoàng
Client
Thủ lĩnh chính trị
(shogun, daimyo)
Client
Thần dân
Patron
Sơ đồ mối quan hệ giữa Patron – Clien theo nguyên tắc BA tại Nhật
Ngày nay trong chiến dịch vận động tranh cử của các đảng phái chính trị, người
dân ít để ý đến các đảng chính trị mà quan tâm nhiều hơn và dành phiếu bầu cho cá
nhân – thủ lĩnh chính trị vừa có uy tín, vừa có năng lực và phẩm chất lãnh đạo chính
trị. Trong các cuộc tranh cử các ứng viên thường sử dụng các phương pháp tuyên
truyền, vận động nhằm đánh bóng tên tuổi mình trước cử tri.
2.1.5. Chủ nghĩa thân hữu
Chủ nghĩa thân hữu hay còn được biết đến như chủ nghĩa “lợi ích nhóm”. “Lợi ích
nhóm” là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc hình thành các “nhóm lợi ích”. Đặc điểm
của các “nhóm lợi ích” là có sự kết hợp cùng mục tiêu lợi ích, cùng hành động, cùng
phân chia lợi ích, giữa những người có nhiều tiền với những người có quyền lực trong
nhà nước và trong Đảng cầm quyền. Có tiền chuyển hóa thành có quyền lực. Có quyền
lực chuyển hóa thành có tiền. Người có tiền sẽ có quyền lực và người có quyền lực sẽ
có tiền. Họ cùng nhau hành động để có quyền lực và có tiền ngày càng nhiều hơn.
Đồng tiền cộng với quyền lực tạo thành sức mạnh khống chế, lũng đoạn tổ chức và xã
hội. Nhận thức sự quan trọng của thông tin, “nhóm lợi ích” còn móc nối, “kết nạp”, kết
hợp với một số nhóm truyền thông không lành mạnh để tác động chi phối dư luận theo
hướng có lợi cho “nhóm lợi ích” và xuyên tạc vu cáo những người, những doanh
nghiệp không cùng nhóm để tranh quyền lực và lợi ích. “Lợi ích nhóm” sẽ kéo theo và
song hành với tham vọng quyền lực cùng với tham vọng tiền bạc.
Ở Nhật, “Chủ nghĩa tư bản thân hữu” không phải là một giai đoạn của chủ nghĩa
tư bản, mà là một hiện tượng, một khuyết tật, một sự tha hóa của chủ nghĩa tư bản.
Đây là loại hình “phát triển” mà trong đó các doanh nghiệp dựa vào ưu thế về mối
quan hệ với những người có quyền lực để tạo ra nguồn thu tài chính cho cá nhân và
đơn vị mình. Các doanh nghiệp này tập trung đầu tư vào “quan hệ”, vào “quan chức”
để từ đó mà dùng quyền lực tạo ra lợi nhuận siêu ngạch. Đặc trưng của “chủ nghĩa tư
bản thân hữu” là có sự cấu kết, xâm nhập lẫn nhau giữa nhóm đặc quyền kinh tế và
nhóm đặc quyền chính trị, người kinh doanh cũng đầu tư vào quyền lực và người có
quyền lực cũng tham gia kinh doanh, làm quan chức để làm giàu, họ cùng nhau bóc lột
“mềm” toàn xã hội, bóc lột cả dân tộc, họ thâu tóm các nguồn tài chính, của cải và
thâu tóm quyền lực chính trị, biến bộ máy nhà nước thành công cụ của một nhóm
người (nhân danh nhà nước và đảng cầm quyền) thực hiện độc quyền kinh tế kết hợp
với độc quyền chính trị. Nói họ thực hiện bóc lột “mềm” là vì không có hình thức tổ
chức sản xuất - kinh doanh cụ thể để trực tiếp bóc lột giá trị thặng dư của lao động, sự
bóc lột của họ tinh vi hơn, nhưng tai hại hơn, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Sự bóc lột
ấy thực hiện thông qua các dự án, các chương trình đầu tư; thông qua các cơ chế, chính
sách (không phục vụ cho toàn xã hội mà phục vụ cho một nhóm người) và thông qua
cách điều hành, cách quản lý mập mờ, không minh bạch, gây tiêu cực, tham nhũng...
Họ thu lợi thông qua các công ty “sân sau”, công ty con, công ty cháu, công ty nhánh
của gia đình, của “cánh hữu”. Mối quan hệ “thân hữu” này dẫn tới hai hệ luỵ hiển
nhiên. Thứ nhất, nó ảnh hưởng tới sự phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả của nền
kinh tế. Các quan chức cấu kết với các doanh nhân sẽ đẻ ra các chính sách và quyết
định chính trị liên quan đến việc phân bổ nguồn lực có lợi cho các thân hữu của họ
trong giới làm ăn. Thí dụ, các chính sách ưu đãi, hỗ trợ, trợ giá, lãi suất, kích cầu… có
lợi cho một số doanh nghiệp nhất định. Sự ban phát các lợi ích này không phải miễn
phí mà nó là kết quả của quan hệ “thân hữu” dựa trên lợi ích. Quan chức của chính phủ
thì tìm kiếm lợi ích (rent seeking) dưới các dạng như tiền hối lộ, các đóng góp vào các
quỹ tranh cử...còn giới doanh nghiệp thì tìm cách kiếm lợi bất chính dưới bóng của các
thân hữu trong bộ máy chính quyền. Thứ hai, các quan hệ “thân hữu” giữa quan chức
và doanh nhân sẽ phá hỏng chức năng của nhà nước với tư cách là cơ quan giám sát và
điều tiết các hoạt động của thị trường, thí dụ như việc giám sát các tiêu chuẩn liên
quan đến việc đóng thuế, tuân thủ các tiêu chuẩn về môi trường, các quy định về sử
dụng và đối xử với người lao động… Lý do là các “thân hữu” trong hệ thống chính
quyền bị các “thân hữu” trong hệ thống doanh nghiệp vô hiệu hoá, há miệng mắc quai.
Việc này đến lượt nó lại tạo ra một môi trường kinh doanh không dựa trên pháp luật,
hoặc nói đúng hơn, pháp luật chỉ áp dụng cho những doanh nghiệp nhỏ hoặc “cô thế”
không có các thân hữu trong hệ thống quyền lực nhà nước hỗ trợ. Một ví dụ cho sự tác
động mạnh mẽ và quan hệ qua lại chặt chẽ của 3 bộ phận cơ cấu hệ thống chính trị
Nhật Bản (đảng, bộ máy hành chính và chính phủ) nắm quyền lực là họ tạo ra một tập
đoàn lũng đoạn nhà nước Nhật Bản có số lượng từ 30.000 đến 50.000 người, bao gồm
các đại biểu quốc hội của Đảng dân chủ tự do, các quan chức chính phủ cao cấp đứng
đầu các vụ, cục của cấp bộ và những người hoạt động chủ chốt của tập đoàn lũng đoạn
tài chính. Giữa họ đan chéo các quyền kinh tế - chính trị thông các mối quan hệ truyền
thống, dòng họ, bạn bè. Như vậy, bản chất xã hội tư bản chủ nghĩa của Nhật Bản quy
định tính chất tư sản quyền lực của nó. Chính quyền Nhật Bản nằm trong tay một
nhóm người đại diện cho tầng lớp trên của giai cấp tư sản - tập đoàn tư tưởng lũng
đoạn - nhà nước. Tính dân chủ trong hệ thống chính trị của Nhật Bản chỉ có thể mang
tính tư sản dân chủ của số ít người đối với đa số người.
2.1.6. Nguyên tắc thỏa hiệp
Cụ thể là sự thỏa hiệp giữa lực lượng bảo thủ với lực lượng đổi mới trong cuộc cải
cách Meiji 1866. Khi ấy, Nhật Bản là sự hiện diện của một tổ hợp rời rạc của hơn 270
phiên trấn với người lãnh đạo và chính sách cai trị khác nhau, mạnh ai nấy lo và tan
đàn xẻ nghé. Lúc bấy giờ, những người lãnh đạo tân chính phủ nghĩ đến việc phải tổ
chức chính trị dưới hình thức trung ương tập quyền như các quốc gia Âu Mỹ, một mặt
xây dựng cho mình một đội quân hùng mạnh để chống lại sự câu kết của các lãnh chúa
địa phương dưới thời Mạc phủ Tokugawa, mặt khác dưới sự xâm nhập của chủ nghĩa
phương Tây, Nhật Bản cần phải quy về một khối để tránh sự xâu xé của các liệt cường
vãng lai. Thế nên đã có một cuộc tranh cãi khá gay gắt, một phái cho rằng nên giữ
nguyên hiện trạng, còn một phái cho rằng nên triệt hạ chế độ phiên trấn một lần cho
trót. Với tiền đề là việc thực thi chính sách “Bản tịch phụng hoàn” và “Phế phiên lập
huyện” – các phiên quy trả về cho Thiên hoàng, thay vào đó, các cựu lãnh chúa nhận
được nhiều chính sách khá quảng đại về mặt vật chất đối với họ. Từ đó, hàng loạt các
cuộc cải cách mang tính chiết trung giữa luận điểm của hai bên đã được thi hành, làm
cho các giá trị văn hóa thích nghi với thời đại mới nhưng vẫn giữ được nét truyền
thống của đất nước và con người bản địa.
Nhắc đến thỏa hiệp, không thể không nói đến bản Hiệp ước an ninh song phương
Mỹ - Nhật được ký kết năm 1951. Theo hiệp ước này, Nhật Bản chấp nhận thỏa thuận,
trở thành hậu thuẫn của Mỹ tại châu Á cho những mục tiêu chiến lược của mình, để
đổi lấy sự phục hồi tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc mà thế giới vẫn thường gọi là
“sự vực dậy thần kỳ của Nhật Bản”. Có thể thấy, sự thỏa hiệp chỉ diễn ra khi cả hai bên
cùng có lợi.
Dù rằng trong quá trình thỏa hiệp vẫn không tránh khỏi có những khúc mắc phát
sinh một bên thỏa thuận phá vỡ thế cân bằng, đơn cử trong nội bộ chính trị Nhật Bản
vẫn xảy ra hiện tượng phụ thuộc lẫn nhau giữa các bộ phận cơ chế chính quyền, tạo
nên mâu thuẫn giữa chính phủ và các tổ chức lũng đoạn. Tuy vậy, các mâu thuẫn này
chủ yếu vẫn giải quyết trên cơ sở đàm phán và thỏa thuận trong quá trình thông qua
các quyết định hoặc hiệp ước song phương.
2.2. Nội dung văn hóa chính trị hiện đại
2.2.1. Tổ chức Tổ chức nhà nước dân chủ tư sản hiện đại
Sau cải cách Minh Trị Duy Tân năm 1968, xã hội Nhật Bản chuyển từ phong kiến
sang tư bản, cùng với đó là hệ thống chính trị Nhật Bản bước sang giai đoạn mới đó là
tổ chức nhà nước dân chủ tư sản. Nhà nước dân chủ tư sản là nhà nước với quyền dân
chủ nằm trong tay giai cấp tư sản nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản nắm giữ
địa vị thống trị xã hội.
Nhà nước pháp quyền tư sản coi thuyết "tam quyền phân lập" là học thuyết cơ bản
trong việc thực hiện quyền lực nhà nước, bao gồm 3 cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và
Tư pháp. Ba thể chế này được quản lí và chịu trách nhiệm bởi các cơ quan nhà nước
khác nhau, độc lập với nhau. Cả 3 cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp đều được
vận hành theo một cơ chế khác nhau nhưng đều phải theo một khuôn khổ luật pháp
nhất định, và đó cũng chính là điểm đặc trưng nhất trong hệ thống văn hóa chính trị
hiện đại của Nhật Bản.
a) Cơ quan lập pháp (Nghị viện):
Năm 1947, Nhật Bản thông qua Hiến pháp để xây dựng chế độ Nghị viện bao gồm
Hạ nghị viện và Thượng nghị viện, chịu trách nhiệm quản lí bởi Quốc hội Nhật Bản.
Nghị viện là cơ quan đại diện cho nhân dân, do nhân dân trực tiếp chọn ra thông qua
bầu cử, có quyền lực cao nhất và là cơ quan duy nhất có quyền Lập pháp. Quốc hội
Nhật Bản có 2 viện như vậy nhằm hạn chế quyền lực của nhau và đồng thời giám sát,
tránh sự thái quá của mỗi viện trong quá trình thực hiện quyền lực.
Theo Hiến pháp năm 1947 thì Hạ nghị viện có thẩm quyền hơn Thượng nghị viện.
Hạ nghị viện có quyền xem xét các dự thảo có được trình ra trong các phiên họp
thường xuyên của Quốc hội hay không, có quyền chỉ định Thủ tướng mới và kí kết
cách hiệp ước cũng như cũng có quyền đưa ra đề nghị tín nhiệm hoặc không tín nhiệm
Nội các.
b) Cơ quan hành pháp (Nội các):
Nội các Nhật Bản hiện đại được thành lập theo Hiến pháp năm 1946 của Nhật
Bản. Cơ quan hành chính trung ương là cơ quan thực hiện chức năng hành pháp của
nhà nước Nhật Bản.
Quyền hành pháp được giao cho Nội các, gồm Thủ tướng và các bộ trưởng, tất cả
chịu trách nhiệm tập thể trước Quốc hội. Thủ tướng phải là một nghị viên của Quốc
hội và được Quốc hội bổ nhiệm, có quyền chỉ định và bãi nhiệm các bộ trưởng, các vị
sau này phải là dân sự và phần lớn là nghị viên Quốc hội.
Nội các Nhật Bản có thể hành xử hai loại quyền lực: một là, thực hiện thông qua
Nhật hoàng theo thỉnh cầu và tư vấn của Nội các. Hai là, quyền lực do Nội các trực
tiếp thực hiện. Hiến pháp Nhật Bản trao toàn bộ công việc hành pháp cho Nội các.
c)
Cơ quan tư pháp (Tòa án):
Tư pháp có nghĩa là xét xử và hoạt động chủ yếu thuộc chức năng Tòa án. Có vai
trò duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật. Hệ thống tòa án của Nhật Bản gồm 4 cấp: Tòa
án tối cao, Tòa án cấp cao, Tòa án quận và Tòa án gia đình (cùng một cấp), và cuối
cùng là Tòa án cơ sở.
- Tòa án tối cao: là tòa án có quyền lực cao nhất, là nơi đưa ra các phán quyết cuối
cùng trong thi hành các đạo luật hay mệnh lệnh.
- Tòa án cấp cao: gồm 8 tòa án, đặt ở Tokyo, Osaka, Nagoya, Hiroshima, Fukuda,
Sendai, Sapporo và Takamatsu. Tòa án cấp cao có quyền xử lý phúc thẩm các kháng
cáo về các phán quyết của các tòa dân sự, gia đình và địa phương. Ngoài ra còn xét
xử những vụ án liên quan đến tội phản quốc, tranh chấp về bầu cử và các vấn đề
khác.
- Tòa án quận: gồm 50 tòa đặt tại thủ phủ mỗi quận (trừ Hokkaido có 4 tòa) và 203
chi nhánh của tòa án Quận phân bố khắp nước Nhật. Tòa án quận có thẩm quyền xử
sơ thẩm các vụ án và phúc thẩm với các kháng cáo đối với các phán quyết của tòa
dân sự. Tòa địa phương cũng có thẩm quyền xử lý các vụ phá sản và chuyển đổi sở
hữu.
- Tòa án gia đình: có thẩm quyền xử lý và hòa giải các tranh chấp trong nội bộ gia
đình như giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ với con cái và các vụ trẻ em vị thành niên
phạm pháp.
- Tòa án cơ sở: xét xử các vụ án hình sự và dân sự nhỏ. Xét xử những vụ dân sự trị
giá dưới 90,000 yên, còn đối với những vụ hình sự thì chỉ xét xử những vụ liên quan
đến mức xử phạt hoặc phạm tội không nguy hiểm như trộm cắp và tham ô nhỏ.
Ngoài ra cơ quan tư pháp còn có cơ quan công tố và luật sư:
- Cơ quan công tố: gồm 4 cấp: cơ quan công tố tối cao (đứng đầu là tổng công tố),
cơ quan công tố cấp cao, cơ quan công tố cấp quận và cơ quan công tố cơ sở tương
ứng với hệ thống tòa án. Cơ quan công tố này được thành lập nhằm mục đích đáp
ứng nguyện vọng chính đáng của công dân là được điều tra làm sáng tỏ vụ việc.
- Luật sư là những người ưu tú trong xã hội, được trọng vọng và có thu nhập cao.
Họ được xem là cầu nối giữa cơ quan tư pháp của nhà nước và công dân trong xã
hội.
2.2.2. Vị trí của Thiên Hoàng trong tư tưởng người Nhật Bản
Theo hai bộ thư tịch cổ được xem như có ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử tôn
giáo Nhật Bản là Cổ sự ký và Nhật Bản thư kỷ, mà được gọi chung là Thần thoại ký kỷ
(神神神神), thì sau khi trật tự trên trời và dưới đất được xác lập, Thiên tôn, tức nguồn cội
quyền lực thống trị của Thiên hoàng giáng lâm. Cháu của Amaterasu là Ninigimikoto
(神神神神). Ninigi đã cùng với Ame no Uzume xuống đỉnh Takachiho (神神神) của vùng
Chikushi (神神- một địa danh cổ của vùng Kyushu ngày nay). Ninigi có hai người con là
Hoderi( 神 神 )và Hoori ( 神 神 神 ). Hoori, người chuyên săn thú ở vùng núi đã đấu tranh
hòng hoán đổi vai trò với anh mình là Hoderi, người chuyên đánh cá ở vùng biển, nên
đã xuống hải cung của Thần biển mượn sức mạnh và giành chiến thắng. Người con có
được giữa Hoori và Nữ Thần Biển Toyotamabime (神神神神) là Ugayafukiaezu. Con sinh
ra giữa Ugayafukiaezu và em gái Toyotamabime, tức Tamayorihime ( 神 神 神 ), là
Kamuyamatoiwarehiko (神神神神神神神), tức chính là Thiên hoang Jinmu (神神 Thần vũ).
Như vậy, ba đời thần Ninigi, Hoori, Ugayafukiaezu đã mang tính chất của quá trình
quá độ chuyển từ thần thoại sang lịch sử.
Đã từng có giai đoạn tầng lớp thống trị đã lợi dụng sự tồn tại thiêng liêng của
Thiên Hoàng để cổ vũ cho chủ nghĩa quân phiệt trong lịch sử. Cụ thể là vào cuối thời
Kamakura, do nạn ngoại xâm của quân Mông Cổ đã làm ý thức quốc gia Nhật Bản
được nâng cao, hình thành tư tưởng Thần quốc, coi Nhật Bản là đất nước của Thần mà
Thiên Hoàng là trung tâm. Trong bối cảnh đó, sự phát triển của quan điểm Ise Shinto
(神神神神 y thế thần đạo) mà nhiệm vụ cơ bản là thờ phụng Thiên Hoàng như một kami
(神 thần) cùng với sự xuất hiện khái niệm kokutai (神神 quốc thể), là cơ sở cho tư tưởng
bảo vệ và trung thành tuyệt đối với Thiên hoàng, đặt nền móng cho sự giáo dục chủ
nghĩa quân phiệt sau này. Tuy nhiên, sự thất bại của Nhật Bản trong thế chiến thứ hai
đã làm sụp đổ Thần đạo với tư cách là hệ tư tưởng thờ cúng Thiên hoàng và “Đại
Nhật”. Tuy hiện nay Thần đạo đã tách ra khỏi nhà nước nhưng tư tưởng này vẫn còn
ảnh hưởng khá sâu sắc. Thiên Hoàng – người được xem như là con cháu của Nữ Thần
Mặt Trời- vẫn còn tồn tại với tư cách là một người đứng đầu nhà nước, đây là biểu
tượng dân tộc bất khả xâm phạm
Vai trò Thiên Hoàng trong hệ thống chính trị Nhật Bản hiện nay thì Thiên Hoàng
được xem như là người đứng đầu Hoàng gia, đứng đầu quốc gia Quân chủ lập hiến,
người duy nhất trên thế giới được gọi là Emperor (Hoàng đế) trong tiếng Anh và là
giáo chủ của Thần đạo Nhật Bản. Đương kim Thiên hoàng là Akihito ( 神 神 , Minh
Nhân), niên hiệu là Bình Thành (Heisei). Ông lên ngôi năm 1989 sau khi vua cha
Hirohito, tức Thiên hoàng Chiêu Hòa (神神神神, Shōwa tennō) – vị Thiên hoàng trị vì lâu
nhất trong chính sử - qua đời.
Cũng như bao người đứng đầu nền Quân chủ lập hiến khác, Thiên hoàng được tôn
sùng là Thiên tử (神神, Tenshi –con của trời) với những quyền lực tối cao. Tuy vậy, trên
thực tế xuyên suốt hơn 1500 năm kể từ khi có truyền thống truyền nối ngôi vua, Thiên
hoàng thường chỉ giữ vai trò mang tính biểu tượng khi quyền lực nằm trong tay các
nhiếp chính và tướng quân. Hiện nay, vai trò của Thiên hoàng được quy định trong
Hiến pháp (1947) là: Tiến hành các công việc của quốc gia dựa trên sự cho phép của
nội các chính phủ. Cụ thể là: Chỉ định thủ tướng chính phủ và chánh án toà án tối cao,
thông báo việc khai hội hay giải tán quốc hội, công bố các văn bản luật mới. Bên cạnh
đó, công việc của Nhật hoàng còn có cả việc tham dự các ngày lễ của quốc dân, tiếp
đón nguyên thủ quốc gia các nước, viếng thăm các nước… Nhật hoàng không phải là
nguyên thủ quốc gia, nhưng được xem như là một vị nguyên thủ quốc gia.
Điều làm cho Hoàng gia Nhật Bản trở thành một sợi chỉ xuyên suốt chiều dài lịch
sử chính là tính bền vững và duy nhất của nó. Hoàng tộc luôn nhận được sự mến yêu
và tôn kính trọn vẹn của người dân. Đa phần các Thiên hoàng đều rất anh minh, cai trị
một cách hiền hòa, không dùng bạo lực. Tuy có những âm mưu lật đổ nhưng chúng đã
đều thất bại, minh chứng cho sự thất bại đó chính là sự tồn tại vững chắc của Hoàng
thất tới tận bây giờ, 125 Thiên hoàng – một gia tộc, một dòng máu, một hiện tượng đặc
biệt của lịch sử, bất biến giữa vạn biến.
Một vài lý do khác nữa giúp cho dòng giõi hoàng tộc duy trì triều đại đến tận ngày
nay đó chính là vị trí địa lý đặc biệt của Nhật Bản, một quốc đảo ít chịu ảnh hưởng từ
những tranh chấp với các quốc gia khác nên có rất ít áp lực lên bộ máy cai trị. Giáo sư
Akira Momochi thuộc trường đại học Nihon đã nhận định: “Với truyền thống Chủ
nghĩa Dân tộc ăn sâu trong dòng máu người dân, Nhật Bản không thể tồn tại mà không
có Nhật hoàng. Nhật hoàng chính là biểu tượng tinh thần, là cội rễ để chúng tôi khẳng
định nguồn gốc của mình”.
Hiện nay, Hoàng gia Nhật Bản gồm có 23 thành viên, được chịu trách nhiệm mọi
mặt bởi Cơ quan nội chính Hoàng gia Nhật Bản (viết tắt là IHA) – một tổ chức độc
lập, tuy thuộc Nội các nhưng lại không phải trực tiếp báo cáo với Thủ tướng, không
chịu sự ràng buộc của luật pháp với 1.500 nhân viên và có toàn quyền tự quyết chi tiêu
khoảng 260 triệu USD trong ngân sách quốc gia mỗi năm. Khi chưa được sự chấp
thuận của IHA, Thủ tướng Nhật Bản không thể hội kiến với Thiên hoàng; cơ quan
quyền lực này cũng kiểm soát chặt chẽ mọi tin tức, tranh ảnh, hoạt động của các thành
viên Hoàng tộc. Có rất nhiều bí mật nội bộ Hoàng tộc được IHA giấu kín và người dân
Nhật không được phép bàn tán, lưu truyền.
2.2.3. Hệ thống đa đảng trong văn hóa chính trị Nhật Bản
Nguồn gốc hình thành của hệ thống đa đảng bao gồm hai nhân tố chính: Thứ nhất
là nhân tố khách quan, sau thời kì hậu chiến, cùng với sự phát triển vượt bậc của các
tập đoàn kinh tế dẫn đến xu hướng cần có những đường lối chính xác thuận theo công
cuộc phát triển. Thứ hai là nhân tố chủ quan, do đất nước và con người Nhật Bản chú
trọng nguyên tắc hòa hiếu – một trong những tiền đề cho thể chế chính trị đa đảng,
tính chất đa nguyên phát triển. Đây là bước đầu cho những đảng phái mục đích chính
trị khác nhau đã được thành lập.
Hệ thống đa đảng Nhật Bản tồn tại theo 2 xu hướng: thứ nhất là điều hành dựa trên
sự chi phối quyền lực từ các chính trị gia, bao gồm những đảng Tự dân đảng, Hội duy
tân, Công minh đảng, Đảng dân chủ. Thứ hai là xu hướng độc lập chống lại quyền lực
chi phối quan liêu, quyền lực trong tay những tổ chức, đoàn thể lớn… cải cách và
đứng trên lập trường của giai cấp lao động. Bao gồm Đảng cộng sản và Đảng xã dân
(Dân chủ xã hội)
Về nguyên tắc hoạt động giữa các đảng phái:
Giống nhau
Điểm giống nhau thứ nhất là liên quan đến cơ quan trung ương (là cơ quan quyết
định cao nhất của đảng, tổ chức đại hội đảng). Giống nhau thứ hai là liên quan đến cơ
quan trung gian (đại diện cho các đảng theo hệ thống phân quyền tại địa phương, ban
bố, truyền đạt, thi hành chính sách từ trung ương). Cuối cùng điểm giống nhau thứ ba
là liên quan đến cơ quan chi bộ cấp cơ sở (là nơi hoạt động và thực hiện nghĩa vụ của