Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

LUẬT CHÍNH QUYỀN địa PHƯƠNG NHẬT bản QUA các THỜI kì

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.09 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập và rèn luyện tại trường Trường Đại Học Nội
Vụ Hà Nội , được sự chỉ bảo và giảng dạy nhiệt tình của quý thầy cô, đ ặc
biệt là giảng viên : Nguyễn Thu An đã đạt cho em những kiến thức về lý
thuyết về môn Pháp Luật về chính quyền địa phương. Và trong th ời tìm
hiểu em đã có cơ hội áp dụng những kiến thức của môn h ọc này ở
trường vào thực tế. Cùng với sự nổ lực của bản thân, em đã hoàn thành
bài Tiểu Luận .Từ những kết quả đạt được này, em xin chân thành cám
ơn:
Ÿ Quý thầy cô trường Trường ĐH Nội Vụ Hà Nội , đã truyền đạt cho
em những kiến thức bổ ích trong thời gian qua. Đặc biệt, là cô Nguy ễn
Thu An đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành tốt Tiểu luận này.
Ÿ Do kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót
trong cách hiểu, lỗi trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
của quý thầy cô.
Em xin trân thành cảm ơn.!


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NHẬT BẢN
1. Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội của Nhật Bản
a.Vị trí địa lý, diện tích và địa hình
Nhật Bản nằm ở phía Đông của châu Á, phía Tây của Thái Bình
Dương. Nhật Bản gồm 4 đảo chính, Honshu, Hokkaido, Kyushuy và
Shikoku, nhiều dãy đảo và khoảng 3.900 đảo nhỏ. Honshu chiếm trên
60% diện tích. Những quốc gia và lãnh thổ lân cận ở vùng bi ển Nh ật
Bản là Nga, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc; ở vùng biển Đông H ải là Trung
Quốc, Đài Loan; đi xa hơn về phía Nam là Philippines và qu ần đ ảo B ắc


Mariana.
Tổng diện tích của Nhật Bản là 377.815 km², đ ứng th ứ 60 trên th ế
giới về diện tích và chiếm chưa đầy 0,3% tổng diện tích đất toàn th ế
giới..
b.Đặc điểm về khí hậu
Các đảo Nhật Bản nằm trong vùng khí hậu ôn hòa. Ở h ầu hết các
miền của Nhật Bản đều có 4 mùa rõ rệt. Mùa hè ấm và ẩm, bắt đầu
khoảng giữa tháng 7; Mùa Xuân và mùa Thu là nh ững mùa dễ ch ịu nh ất
trong năm. Vì có mưa nhiều và khí hậu ôn hòa nên trên kh ắp qu ần đ ảo
Nhật Bản đều có những cánh rừng màu mỡ và cây cối xanh tốt.
c.Đặc điểm dân số
Dân số Nhật Bản ước tính khoảng 127,4 triệu người, ph ần lớn là
đồng nhất về ngôn ngữ và văn hóa.Tộc người chủ yếu là người Yamato
cùng với các nhóm dân tộc thiểu số như Ainu hay Ryukyuans.
Nhật Bản là một trong những nước có tuổi thọ dân số cao nh ất
thế giới, trung bình là 81,25 vào năm 2006. Tuy nhiên, dân s ố n ước này

3


đang lão hóa do hậu quả của sự bùng nổ dân số sau Thế chiến th ứ hai.
d. Kinh tế
Nhật Bản là nước rất nghèo nàn về tài nguyên, ngoại trừ gỗ và hải
sản, trong khi dân số quá đông, phần lớn nguyên nhiên li ệu ph ải nh ập
khẩu, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh. Tuy nhiên, nh ưng
với các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng ph ục h ồi
trong những năm 1945- 1954, phát triển cao độ trong nh ững năm 19551973 khiến cho cả thế giới hết sức kinh ngạc và khâm phục.
Nhật Bản là một nước có nền kinh tế-công nghiệp-tài chính
thương mại-dịch vụ-khoa học kĩ thuật lớn đứng thứ hai trên th ế gi ới
(đứng sau Hoa Kỳ). Cán cân thương mại và dự trữ ngoại tệ đ ứng hàng

đầu thế giới, nên nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài rất nhiều, là n ước cho
vay, viện trợ tái thiết và phát triển lớn nhất thế giới. Nhật Bản có nhiều
tập đoàn tài chính, ngân hàng đứng hàng đầu th ế gi ới. Đ ơn v ị tiền tệ là:
đồng Yên Nhật.
e. Tôn giáo
Đạo gốc của Nhật Bản là Thần đạo (đạo Shinto), có nguồn gốc từ
thuyết vật linh của người Nhật cổ. Qua Trung Quốc và Triều Tiên, Ph ật
giáo được du nhập từ Ấn Độ vào Nhật Bản từ khoảng giữa th ế k ỷ th ứ VI.
Khoảng 84% đến 96% dân số Nhật theo cả đạo Shinto và Ph ật giáo
g. Quốc kỳ và Quốc ca
Quốc kỳ Nhật Bản, ở Nhật Bản tên gọi chính thức là Nisshōki,
nhưng người ta cũng hay gọi là Hinomaru tức là “vầng mặt trời”, là lá cờ
nền trắng với một hình tròn đỏ lớn (tượng trưng cho Mặt Tr ời) ở trung
tâm.
Quốc ca của Nhật Bản là Kimi Ga Yo
h. Văn hoá, phong tục tập quán.

4


Người Nhật rất coi trọng sự chào hỏi, ở đâu, lúc nào và đối với bất
cứ ai họ cũng đều tỏ ra rất lịch sự và nghiêm túc trong việc chào hỏi lẫn
nhau, đó là một tập quán tốt đẹp của người Nhật.
Tặng quà là một phần trung tâm trong văn hoá kinh doanh của
người Nhật. Nói chung, người Nhật rất thích tặng quà. Hay đúng h ơn,
việc tặng quà đã trở thành một thói quen, một lễ nghi không th ể thiếu
được trong đời sống thường ngày của họ. Tặng quà đ ược xem nh ư m ột
cách thể hiện sự yêu mến và kính trọng lẫn nhau và để xác định các mối
quan hệ xã hội.
Tại các thành phố lớn tại Nhật Bản phương tiện giao thông ph ổ

biến nhất là tàu điện và tàu điện ngầm. Tàu điện và tàu điện ng ầm r ất
thuận tiện và đúng giờ. Bên cạnh đó, một số người cũng sử dụng xe
buýt. Tuy nhiên xe buýt không tiện lợi so với các ph ương tiện trên do có
số lượng chuyến không nhiều và có khả năng không đúng gi ờ vào nh ững
giờ cao điểm. Giá dịch vụ taxi ở Nhật tương đối đắt. Cước phí đ ược tính
theo km và thay đổi theo giờ; buổi tối đắt hơn giá ban ngày. Ngoài ra, xe
đạp là phương tiện khá tiện lợi và kinh tế.
2.Khái quát về tình hình chính trị của Nhật Bản
Được thành lập dựa trên nền tảng của một thể chế quân chủ lập
hiến và cộng hòa đại nghị (hay chính thể quân chủ đại nghị) theo đó Thủ
tướng giữ vai trò đứng đầu nhà nước và chính đảng đa số. Quy ền hành
pháp thuộc về chính phủ. Lập pháp độc lập với chính phủ và có quyền
bỏ phiếu bất tín nhiệm với chính phủ, trong trướng h ợp xấu nhất có th ể
tự đứng ra lập chính phủ mới. Tư pháp giữ vai trò tối quan trọng và đối
trọng với chính phủ và hai viện quốc hội (the Diet) gồm thượng viện và
hạ viện). Hệ thống chính trị Nhật được thành lập dựa trên hình mẫu
cộng hoà đại nghị của Anh quốc và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ các

5


nước dân luật ở châu Âu, cụ thể là hình mẫu của nghị viện Đ ức
Bundestag. Vào 1896 chính quyền Nhật thành lập bộ luật dân sự Minpo
dựa trên mô hình của bộ luật dân sự Pháp. Mặc dù có thay đ ổi sau Th ế
chiến II nhưng bộ luật cơ bản còn hiệu lực đến nay.
Hoàng gia Nhật do Thiên hoàng đứng đầu. Theo Hiến pháp Nhật
Bản thì "Thiên hoàng là biểu tượng của quốc gia và cho s ự th ống nh ất
của dân tộc". Thiên hoàng sẽ tham gia vào các nghi lễ của quốc gia nh ưng
không giữ bất kì quyền lực chính trị nào, thậm chí trong các tình hu ống
khẩn cấp của quốc gia. Quyền lực này sẽ do Thủ tướng và các thành viên

nghị viện đảm nhận. Hiến pháp đóng vai trò tối cao đối với người Nhật,
đặc biệt trong công tác xây dựng luật pháp. Vai trò chính tr ị của Thiên
hoàng hiện vẫn còn nhiều bí ẩn, ví dụ như trong các dịp ngoại giao quan
trọng của Nhật, Thiên hoàng sẽ là người đảm nh ận các nghi th ức quan
trọng như là một người đứng đầu quốc gia (chào cờ hay tham gia lễ
duyệt binh). Hiện tại Nhật Bản là quốc gia quân ch ủ duy nh ất trên th ế
giới mà hoàng đế (Emperor) là nguyên thủ quốc gia [cần dẫn nguồn] hay nói
cách khác Nhật Bản là Đế chế duy nhất còn lại trên th ế gi ới. Tuy nhi ều
quốc gia khác vẫn tồn tại chế độ quân chủ nhưng nhà vua chỉ x ưng
vương: quốc vương, nữ vương (king, queen).
Nhánh hành pháp
Hành pháp có trách nhiệm báo cáo các vấn đề th ường niên lên
quốc hội. Đứng đầu nội các là Thủ tướng, được chỉ định bởi hoàng đế về
hình thức dưới sự giới thiệu của quốc hội. Bắt buộc là công dân Nh ật
Bản và là thành viên của một trong hai viện quốc h ội. Nội các đ ược Th ủ
tướng và một vài bộ trưởng đứng đầu chỉ định và chịu trách nhiệm
trước quốc hội. Thủ tướng phải là thành viên nghị viện được s ự tín
nhiệm của hạ viện và có quyền bổ nhiệm và cách chức các bộ tr ưởng và

6


là người đứng đầu đảng đa số tại hạ viện. Đảng bảo th ủ t ự do LDP
đương quyền từ 1955, ngoại trừ có một thời gian phải tiến hành chia sẻ
quyền lực với đảng đối lập vào 1993; đảng đối lập lớn nhất hiện tại là
Đảng Dân chủ Nhật Bản-JDP.
Nhánh lập pháp
Theo quy định hiến pháp, nghị viện gồm hai viện là cơ quan quy ền
lực nhất trong ba nhánh lập pháp hành pháp và tư pháp. Ngh ị viện sẽ
giới thiệu cho Nhật hoàng để chỉ định người đứng đầu hành pháp ( thủ

tướng) và tư pháp (chánh án tối cao).

7


Nhánh tư pháp
Tư pháp Nhật Bản độc lập với hai nhánh hành pháp và lập pháp.
Thẩm phán tối cao sẽ được chỉ định bởi Nhật hoàng theo giới thi ệu của
quốc hội. Tư pháp Nhật được định hình từ hệ thống luật tục (customary
law), dân luật và thông luật, bao gồm vài cấp bậc toà án trong đó cao
nhất là Tối cao pháp viện. Hiến pháp Nhật được công bố 3/11/1946 và
có hiệu lực từ 3/5/1947 gồm cả Bản tuyên ngôn nhân quyền giống nh ư
của Hoa Kỳ và quyền xét xử lại của Tối cao pháp viện. Nh ật không có
ban bồi thẩm trong các phiên tòa xét xử, và không có Tòa hành chính
(bảo vệ quyền lợi công dân trước cơ quan hành chính nhà n ước) và Toà
tiểu án.
Công tác làm luật
Dù có sự gia tăng không ngừng về các vấn đề trong n ước và quốc
tế, công tác làm luật không có gì thay đổi k ể t ừ th ời kì sau th ế chi ến II.
Mối quan hệ chồng chéo của đảng đương quyền với quan ch ức cao c ấp
và các nhóm hưởng lợi gây ra khó khăn trong việc xác định ai là ng ười ra
các quyết định chính cho công tác làm luật.
Nhân tố quan trọng đối với các cá nhân tham gia công tác làm luật
là sự thuần nhất giữa những đóng góp tích cực của họ trong môi tr ường
chính trị và kinh doanh. Những người này thường là nhóm nhỏ xuất s ắc
nhất tốt nghiệp từ các trường đại học danh tiếng như Đại học tổng hợp
Tokyo hay Waseda.
Bằng cách đó họ có thể đem đến cảm giác tin tưởng cho c ộng
đồng (trong và ngoài tổ chức) cũng như các cuộc hôn nhân giữa nh ững
chính trị gia tương lai với gia đình các nhà tài phi ệt Zaikai. Ngh ỉ h ưu khi

đến 50 tuổi và sau đó giữ các chức vụ cao cấp tại các công ty công và t ư
cũng là một trong hình thức phổ biến của nhà làm luật ở Nh ật. T ừ cuối

8


những năm 80 hầu hết Thủ tướng hậu chiến tranh của Nhật đều có một
quá khứ trong ngành dân chính.
Thời kì sau chiến tranh
Đảng phái chính trị nhanh chóng được phục hồi gần nh ư ngay khi
bắt đầu thời kì bị chiếm đóng. Phe cánh tả như Đảng xã hội Nh ật và
Đảng Cộng sản Nhật nhanh chóng được thành lập trở lại cùng v ới s ự ra
đời của nhiều Đảng bảo thủ khác. Seiyokai và Rikken Minseito cũng
nhanh chóng quay lại, tình hình tương tự với Jiyuto và Shimpoto. Cuộc
tổng tuyển cử đầu tiên sau chiến tranh vào năm 1948 đã có sự tham gia
của nữ giới (được trao quyền vào năm 1947) với kết quả đ ưa phó ch ủ
tịch Jiyuto Yoshida Shigeru lên làm thủ tướng 1878-1967. Đợt bầu cử
1947 phe chống Yoshida rời bỏ Jiyuto gia nhập Shimpoto và thành l ập
Minshuto. Nhờ sự chia rẽ trong tầng lớp bảo thủ này, phe cánh tả đã
chiếm được đa số ở nghị viện và được thành lập nội các nh ưng ch ỉ tồn
tại chưa đến một năm. Sau cùng phe xã hội cánh tả dần suy y ếu và m ột
lần nữa, Yoshida trở lại nắm quyền 1948 và tiếp tục cương v ị Thủ t ướng
đến 1954.
Công việc phục chức cho 80, 000 công ch ức ph ục v ụ trong th ời kì
chiến tranh đã được chính phủ tiến hành ngay cả trước khi người Nh ật
nhận lại quyền điều hành đất nước đầy đủ từ lực lượng chiếm đóng,
những người này sau đó được xem xét và phần đông quay l ại ph ục vụ ở
các vị trí trước đây. Tranh cãi nổ ra về mức giới hạn chi tiêu quân đ ội và
quyền lực của Nhật hoàng gián tiếp gây nên thất bại của cuộc bầu c ử
tháng 10/1952. Sau vài lần tổ chức lại lực lượng vũ trang, năm 1954 C ục

phòng vệ Nhật được thành lập như một cơ quan phụ trách các v ấn đề
về công dân (một lực lượng như cảnh sát hơn là quân đội), đặc biệt h ạn
chế dùng các thuật ngữ quân đội ("xe tăng" chỉ được gọi là "phương tiện

9


chuyên dụng" trên giấy tờ). Chiến tranh lạnh cũng đưa đến nhiều thay
đổi cho chính trị Nhật, cuộc chiến Triều Tiên tác động đến chính sách tái
thiết kinh tế của Hoa Kỳ cho Nhật, sự dè dặt v ới chính tr ị gia c ộng s ản,
cùng chính sách hạn chế phạm vi hoạt động của các công đoàn t ại Nh ật
Bản.
Sự rạn nứt không ngừng của phe cánh hữu và thành công của phe
xã hội nắm quyền đưa đến thỏa hiệp liên minh của phe bảo thủ chủ
trương tự do kinh tế Jiyuto với Minshuto và m ột nhóm nh ỏ còn l ại c ủa
Đảng Dân Chủ cũ cùng thành lập Đảng Dân Chủ Tự Do (LDP) - Jiyu
Minshuto vào tháng 11/1955. Đảng này sau đó nắm quyền từ 1955-1993
khi bị thay bởi phe thiểu số trong chính phủ. LDP có m ột th ời gian dài
thành công do sự lãnh đạo thu hút các mối ủng hộ t ừ thành ph ần chính
trị gia chứng kiến từ thời Nhật bại trận và bị chiếm đóng, Đảng này cũng
giành được nhiều hậu thuẫn từ các cựu quan chức,lãnh đạo địa ph ương,
thương gia, nhà báo và nhiều thành phần khác. Được ủng hộ không kém
là Đảng Komeito, được lập vào 1964 như một nhánh khác của Đảng Soka
Gakkai. Komeito nhấn mạnh đến các giá trị truyền thống của Nh ật Bản
và đã thu hút được nhiều sự chú ý của thành ph ần dân nghèo thành th ị
cũng như nông thôn đặc biệt là với phụ nữ. Giống các Đảng xã h ội tr ước
đây về chính sách cải cách từng bước và dần xoá bỏ Hiệp ước hỗ trợ
phòng thủ Mỹ-Nhật.
Quan hệ quốc tế
Nhật Bản hiện là thành viên Liên hiệp quốc và là thành viên không

thường trực của Hội đồng bảo an; một trong các thành viên "G4" tìm sự
chấp thuận cho vị trí thành viên thường trực.
Hiến pháp hiện tại không cho phép dùng sức mạnh quân sự để
phát động chiến tranh chống một nước khác mặc dù v ẫn cho phép duy

10


trì Lực lượng phòng vệ gồm các đơn vị lục, không và hải quân. Nhật đã
triển khai lực lượng không chiến đấu đến phục vụ cho công cu ộc tái
thiết Iraq trong cuộc chiến vừa qua, một ngoại lệ đầu tiên kể từ sau
Chiến tranh thế giới thứ II.
Hiện Nhật là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế gồm G8, Diễn
đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và Hội nghị thượng
đỉnh Đông Á (EAS) và là một nước hào phóng trong các công tác c ứu tr ợ
và các nỗ lực phát triển các dự án quốc tế chiếm khoảng 0,19% Tổng
thu nhập quốc dân (GNI) năm 2004.
Tranh chấp với Nga khu vực đảo Kuril phía Bắc, khu đảo Liancourt
("Dokdo" ở Hàn Quốc, "Takeshima" ở Nhật), với Trung Quốc và Đài Loan
với loạt đảo Senkaku, với riêng Trung Quốc về tình trạng hiện tại của
Okinotorishima. Hầu hết các tranh chấp này đi kèm với việc sở h ữu
nguồn lợi thủy sản và tài nguyên xung quanh trong đó có c ả d ầu và khí
đốt.
3.Khái quát về chính quyền địa phương của Nhật bản
Chính quyền địa phương ở Nhật Bản bắt đầu hình thành từ thời
kỳ Minh Trị duy tân. SauChiến tranh thế giới thứ hai, chính quy ền địa
phương trở nên có quyền tự chủ cao. Gần đây, họ được phân công thêm
nhiều trách nhiệm và được hưởng thêm nhiều quyền hạn.
Quyền tự chủ của địa phương
Khái niệm tự chủ của bộ máy chính quyền địa phương ở Nhật Bản

mang hàm nghĩa rằng, cấp cơ sở và cấp trung gian giữa cơ sở v ới trung
ương có quyền tự quyết và quản lý các chính sách công c ộng theo sáng
kiến riêng một cách tương đối tự do [1]. Từ năm 1947, Hiến pháp của
Nhật Bản dành hẳn một chương (Chương 8: T ự trị địa ph ương) về chính
quyền địa phương. Cũng năm đó, Luật Tự chủ địa phương đ ược ban

11


hành,quy định chính quyền địa phương của Nhật Bản gồm hai c ấp:
chính quyền cấp tỉnh (都都都都) và chính quyền cấp hạt (都都都). Thực ra có
một số hạt lớn được hưởng qui chế đặc biệt gọi là đô thị quốc gia (都都都都
都); mặt khác có một số đơn vị cấp hạt nông thôn ( 都都) có thể liên kết với
nhau tạo thành các đơn vị gọi là gun ( 都) hoặc shichoh ( 都都); tuy nhiên
những trường hợp thế này không phổ biến. Luật Tự chủ địa phương còn
quy định cơ cấu, thành phần và quyền hạn của các cơ quan lập pháp và
của người lãnh đạo được bầu ra tại địa phương. Cục T ự trị đ ịa ph ương
có trách nhiệm xúc tiến tinh thần của Hiến pháp và của Luật T ự ch ủ đ ịa
phương.
Đặc điểm
Hệ thống chính quyền địa phương của Nhật Bản sau chiến tranh
chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tinh thần tự chủ kiểu Mỹ- trái với hệ thống
mang tính tập quyền trung ương theo mô hình kiểu Phổ thời kỳ trước
chiến tranh. Hạt là địa phương cấp cơ sở ở Nhật Bản, chịu trách nhiệm
chính trong việc cung ứng các hàng hóa công cộng thiết yếu đối với đời
sống của nhân dân như điện nước, giáo dục cơ sở, công trình dân sinh
phúc lợi, v.v... Cuối thập niên 1990, Nhật Bản có trên ba ngàn h ạt. T ỉnh là
địa phương cấp trung gian duy nhất giữa chính quyền trung ương v ới
chính quyền cơ sở, chịu trách nhiệm chuyển tải các chính sách của trung
ương về địa phương, thực hiện trách nhiệm chi đối với các kế hoạch

phát triển tầm toàn vùng và cung ứng các hàng hoá công c ộng quan
trọng mà quy mô tác động của chúng vượt ra khỏi phạm vi một h ạt nh ư
đường giao thông, bảo vệ môi trường, v.v… Nhật Bản có 47 tỉnh.
Nếu như trách nhiệm phân công cho chính quyền các tỉnh giống
nhau, thì trách nhiệm phân công cho chính quyền các h ạt l ại không nh ư
nhau tùy theo dân số của mỗi hạt. Hạt càng đông dân thì chính quyền

12


hạt càng được phân công nhiều trách nhiệm. Các hạt có quy mô dân s ố
rất lớn có thể được trung ương quyết định là các thành ph ố ch ỉ định
quốc gia và được phân công rất nhiều trách nhiệm, có th ể t ương đ ương
với trách nhiệm của chính quyền tỉnh mà hạt đó nằm trong. Các thành
phố trung tâm vùng ( 都都都) cũng được phân công nhiều trách nhiệm. Các
trách nhiệm được quy định rất rõ ràng bởi pháp luật.

13


CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG NHẬT
BẢN QUA CÁC THỜI KÌ.
1. Quy định của luật chính quyền địa phương Nhật Bản trước
Chiến tranh thế giới lần thứ II
Hệ thống chính quyền địa phương hiện đại của Nhật Bản được
thành lập sau thời kì phục hưng của Hoàng đế Minh Trị năm 1868. Việc
ban hành ba luật mới (Luật tổ chức và hoạt động của các c ơ quan hành
chính cấp quận, huyện, thị trấn; Luật tổ chức hội đồng cấp tỉnh; Luật
thuế địa phương) vào năm 1878 đã đánh dấu sự ra đời của hệ th ống
chính quyền địa phương hiện đại. Theo Luật tổ chức và hoạt động của

các cơ quan hành chính cấp quận, huyện, thị trấn, đơn vị hành chính cấp
tỉnh (Ken - Prefectures) được chia thành gun (huyện, th ị xã) và ku
(quận), shi (thành phố thuộc tỉnh); gun được chia thành cho và son
(phường, xã). Ku, cho và son có những đặc điểm của chính quy ền đ ịa
phương cũng như là đơn vị hành chính quốc gia. Theo Luật tổ ch ức h ội
đồng cấp tỉnh, các hội đồng chính quyền địa ph ương c ấp t ỉnh đ ược
thành lập theo số lượng của cử tri, chẳng hạn v ới các t ỉnh có trên 3 tri ệu
cử tri có thể thành lập hai hội đồng địa phương. Theo Luật thuế đ ịa
phương, hội đồng địa phương (bao gồm cả cấp tỉnh và cấp quận, huy ện)
đã có hình ảnh của cơ quan công quyền ở địa ph ương, có th ẩm quy ền
thu thuế và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khi cần thiết, b ước đầu có
quyền đặt ra các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thu thu ế m ột
cách nhanh gọn, hiệu quả. Những luật này đã quy định cơ bản về chính
quyền địa phương, tuy nhiên nó cũng chỉ dừng lại m ức đ ộ sơ khai và ở
bước chuyển đổi. Khi Nghị định của Hoàng gia quy định việc thành l ập

14


Nghị viện Quốc gia năm 1880, Chính phủ trung ương đã cố gắng bổ sung
hệ thống chính quyền địa phương đầy đủ với mục đích làm quen d ần
với việc tiếp cận nền dân chủ hiện đại. Năm 1888, Luật về tổ ch ức
chính quyền địa phương cấp quận, huyện đã được ban hành. Lu ật này
tuy dựa vào luật chính quyền địa phương của nước Phổ nh ưng vẫn gi ữ
được nét truyền thống mang đậm văn hoá Nhật Bản. Theo đó, hội đ ồng
cấp quận, huyện được thành lập với tư cách là cơ quan lập pháp ở địa
phương, bao gồm những thành viên có nghề nghiệp được tôn trọng và
được bầu ra bởi cư dân địa phương. Ngoài ra, Luật cũng quy đ ịnh vi ệc
thành lập cơ quan hành pháp của cấp quận, huyện mà người đ ứng đầu
cơ quan này được bầu ra trong số những đại biểu của hội đồng (trong

trường hợp của cho và son) hoặc được chỉ định bởi Bộ trưởng Bộ n ội vụ
từ danh sách được đề nghị bởi Hội đồng (trong trường h ợp c ủa shi).
Trước khi hệ thống này ra đời, đã có nhiều sự h ợp nhất của các đ ơn v ị
quận, huyện và số lượng các chính quyền địa phương đã gi ảm xu ống là
1/5. Năm 1890, Luật về tổ chức chính quyền cấp tỉnh và Luật về t ổ ch ức
chính quyền cấp thị xã đã được ban hành. Có 46 đơn vị cấp tỉnh (3 Fu và
43 Ken) vào thời điểm ban hành Luật này, con số này vẫn duy trì cho đ ến
ngày nay. Khoảng thời gian kể từ khi các luật trên được ban hành đến
năm 1919 đánh dấu một kỉ nguyên phát triển của hệ thống chính quyền
địa phương ở Nhật Bản. Quá trình cải cách hệ th ống bầu c ử chính
quyền địa phương Nhật Bản được bắt đầu từ năm 1921 và kéo dài đ ến
năm 1926. Quyền ban hành các quy định lập pháp chính th ức đ ược trao
cho cấp tỉnh năm 1929 và quyền lực được trao ngày càng tăng cho các
hội đồng cấp tỉnh. Thẩm quyền của hội đồng cấp tỉnh cũng tr ở nên phù
hợp đối với thẩm quyền cấp quận, huyện. Chức năng của cấp huy ện, th ị
xã (gun) trở nên không phù hợp và cuối cùng đã bị huỷ bỏ năm 1926.

15


Sau năm 1929, khi việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp nh ằm ph ục v ụ
cho chiến tranh có sự gia tăng đột biến, các cơ quan đ ịa ph ương đã lo ại
bỏ ngày càng nhiều các quyền của họ trong việc tự quản lí đ ịa ph ương.
Các quyền lực đó trở nên tập trung hơn nhằm đáp ứng các yêu cầu chi ến
tranh của quốc gia. Tập trung hoá đặc biệt được nhấn mạnh sau năm
1943 và chỉ có một số ít các quyền tự quản còn được duy trì ở chính
quyền địa phương.
2. Hệ thống quy định của luật chính quyền địa phương Nh ật
Bản từ năm 1946 đến nay
2.1 Giai đoạn từ năm 1946 đến năm 1956

Đây là giai đoạn xoá bỏ hệ thống chính quy ền đ ịa ph ương cũ và
thiết lập hệ thống chính quyền địa phương mới ở Nhật Bản. Sự thay
đổi đầu tiên của hệ thống chính quyền địa phương bắt đầu t ừ năm 1946
với sự ra đời của Hiến pháp hậu chiến năm 1947 cùng v ới Lu ật t ự tr ị đ ịa
phương được ban hành phù hợp với nguyên tắc do Hiến pháp quy đ ịnh.
Việc ban hành Luật tự trị địa phương đã đánh dấu sự thành lập của hệ
thống chính quyền địa phương mới. Điểm đáng lưu ý là trong giai đoạn
này, pháp luật của Nhật Bản chịu nhiều ảnh hưởng của pháp lu ật Anh Mỹ đặc biệt trong lĩnh vực dân sự, hình sự, kinh doanh. Tuy nhiên, trong
lĩnh vực luật hành chính và tố tụng hành chính, Nh ật Bản vẫn gi ữ đ ược
nét truyền thống riêng biệt và điều này đã được luật gia Sugai và th ẩm
phán Tòa án tối cao Sonobe đánh giá là sự thất bại của quá trình Mỹ hoá
Luật hành chính Nhật Bản trong giai đoạn này.(1) So sánh v ới hệ th ống
cũ, hệ thống chính quyền địa phương theo quy định của Luật t ự tr ị đ ịa
phương có những đặc điểm sau đây: Thứ nh ất, ph ạm vi quy ền l ực c ủa
chính quyền địa phương mới được mở rộng hơn, cụ thể là đã trao nhiều
quyền hơn cho hội đồng địa phương và giảm thiểu việc giám sát và ch ỉ

16


đạo của chính quyền trung ương. Thứ hai, hệ thống chính quy ền đ ịa
phương mới được bầu cử trực tiếp bởi cư dân, chẳng hạn các cư dân
được trực tiếp bầu các chức danh như chủ tịch cấp tỉnh, cấp quận,
huyện, trực tiếp bầu các thành viên của hội đồng địa phương và các
chức danh khác. Thứ ba, để đảm bảo cho việc bầu cử và quản lí hành
chính địa phương công bằng và hiệu quả hơn, các địa phương đã thành
lập các uỷ ban quản lí bầu cử và uỷ ban kiểm toán. Luật cảnh sát, Luật
phòng cháy chữa cháy và Luật về uỷ ban giáo dục đã đ ược ban hành năm
1947 và 1948. Theo đó, các vấn đề về cảnh sát, phòng cháy, giáo dục
trước đây hoàn toàn được xem là nhiệm vụ của chính quyền trung ương

đã được chuyển giao thẩm quyền cho cơ quan địa ph ương. Lu ật tài
chính địa phương ban hành năm 1948 quy định rõ ràng nguyên tắc tài
chính công ở địa phương và những giới hạn của trách nhiệm về tài chính
giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Năm 1949, c ải
cách lớn về hệ thống thuế của địa phương đã được thực hiện và hệ
thống phân bổ ngân sách bình đẳng đối với chính quy ền đ ịa ph ương đã
được tạo ra. Vấn đề hành chính công đã bắt đầu được quan tâm và th ảo
luận trong các chương trình nghị sự và trình dự án luật, kết quả là sự ra
đời của Luật dịch vụ công ở địa phương năm 1950 và Luật về doanh
nghiệp công ở địa phương năm 1952. Tuy nhiên, điểm đáng l ưu ý là h ệ
thống cảnh sát đã được thay đổi năm 1954, theo đó h ệ th ống c ảnh sát
cấp quận, huyện bị huỷ bỏ và thay vào đó là hệ thống cảnh sát cấp tỉnh.
Năm 1956 đã có sự sửa đổi hệ thống uỷ ban giáo dục, trong đó quy đ ịnh
việc huỷ bỏ hệ thống bầu cử công cộng đối với các thành viên c ủa u ỷ
ban giáo dục. Năm 1953, Luật về thúc đẩy sự phát triển của các làng, xã
được ban hành và trong đó có các quy định về tổ ch ức l ại các đ ơn v ị
quận, huyện. Kết quả là số lượng các đơn vị quận, huyện đã giảm đi 1/3

17


(từ 400 thành phố, 3.477 thị trấn và làng đã giảm xuống còn 286 thành
phố, 2.582 thị trấn và làng
2.2 Giai đoạn từ năm 1957 đến năm 1974
Giai đoạn từ năm 1955 đến 1960 được xem là giai đoạn sửa đ ổi
vấn đề tài chính công ở địa phương. Giai đoạn từ năm 1961 đến năm
1964 là giai đoạn phát triển khu vực và tăng tr ưởng kinh t ế nhanh, giai
đoạn từ năm 1965 đến năm 1974 là giai đoạn của cuộc sống h ưng th ịnh
của cư dân. Năm 1954, khi tình hình tài chính của chính quy ền đ ịa
phương giảm sút với khoảng 1/3 cơ quan địa phương bị thâm h ụt ngân

sách, để giải quyết tình trạng này, Luật về các giải pháp đặc biệt đối v ới
việc xây dựng lại chế độ tài chính ở địa phương đã đ ược ban hành vào
năm 1955. Đến cuối năm 1960, việc xây dựng lại hệ thống tài chính công
đã có bước phát triển tốt. Nhờ sự phát triển kinh tế, tăng doanh thu và
các nguồn thu thuế, các cơ quan địa phương bị thâm hụt ngân sách đã
giảm đi đáng kể. Giai đoạn từ 1961 đến năm 1964 là giai đoạn phát
triển kinh tế mạnh mẽ ở Nhật Bản. Sự tập trung công nghiệp hoá và dân
số ở thành phố lớn tăng một cách đáng kể. Để đảm bảo sự phát triển
cân bằng, cần phải điều chỉnh sự vượt trội ở những khu đô th ị lớn đồng
thời thúc đẩy sự phát triển của những khu vực khác nhằm khuy ến khích
sự phát triển đồng đều giữa các vùng, địa ph ương. V ới m ục đích này,
Luật về xây dựng các thành phố công nghiệp được ban hành năm 1964.
Các chính quyền địa phương đã chú trọng tới việc phát tri ển các trung
tâm công nghiệp đồng thời chú trọng việc h ợp tác trong qu ản lí hành
chính giữa các địa phương, mở rộng sang nhiều lĩnh vực. Để đáp ứng nhu
cầu quản lí ở diện rộng, các cơ quan hợp tác khu v ực c ủa các qu ận,
huyện đã được thành lập theo các lĩnh vực quản lí hành chính từ thành
thị cho đến nông thôn.

18


Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1974 là giai đoạn mà nh ững v ấn
đề về ô nhiễm môi trường được quan tâm đặc biệt bởi s ự tăng tr ưởng
kinh tế nhanh kéo theo những mặt hạn chế đối với chất lượng sống và
môi trường đã trở thành những vấn đề mang tính quốc gia. Điều này đặt
ra tính cấp thiết phải thay đổi chính sách trong việc phát tri ển kinh t ế
kết hợp với vấn đề bảo vệ môi trường và nâng cao chất l ượng cu ộc
sống của người dân.
2.3 Giai đoạn từ năm 1974 đến năm 1993

Sau năm 1975, kinh tế của Nhật Bản phát triển chậm h ơn bởi
cuộc khủng hoảng dầu khí năm 1973. Điều này đã gây ra l ạm phát tài
chính lớn ở chính quyền trung ương và địa phương từ năm 1975. Để giải
quyết vấn đề khủng hoảng, Chính phủ đã vay khoản tiền khổng lồ t ừ
nước ngoài và điều này đã gây ra sự suy giảm về cấu trúc tài chính. Giai
đoạn từ năm 1975 đến năm 1980 là giai đoạn chính quy ền đ ịa ph ương
phải đối mặt với những vấn đề lớn như tăng trưởng kinh tế chậm và
lạm phát tài chính lớn. Tuy nhiên, giai đoạn này lại đánh d ấu s ự kh ởi
đầu kỉ nguyên phát triển của địa phương khi mà vai trò của chính quy ền
địa phương ngày càng trở nên quan trọng. Mục tiêu chủ y ếu của chính
sách đối nội là hướng tới chính sách cư dân hợp nhất, tập trung phát
triển khu vực, kế hoạch phát triển thành phố đồng đều v ới m ức s ống
cao hơn của cư dân địa phương.
Để đáp ứng với sự thay đổi và sự đa dạng xét về mặt bản chất c ủa
các quyền lực công, chính quyền địa phương đã chuy ển từ việc phát
triển dịch vụ từ số lượng sang chất lượng, từ phần cứng sang ph ần
mềm. Đồng thời, các cơ quan địa phương đã bắt đầu cố gắng thúc đẩy
sự phát triển văn hoá khu vực vừa mang tính hợp nhất vừa mang bản
sắc riêng. Vấn đề quan trọng đối với cả chính quyền trung ương và đ ịa

19


phương trong những năm 80 là việc xây dựng lại chế độ tài chính và cải
cách hành chính. Chính quyền trung ương đã thành lập các h ội đ ồng t ư
vấn đặc biệt đối với việc thi hành cải cách hành chính (lần 1, l ần 2, l ần
3) ở địa phương, đặc biệt là sự hợp tác tích cực của chính quy ền trung
ương và địa phương trong việc tiến hành tổng thể quá trình cải cách
hành chính và tài chính. d. Giai đoạn từ năm 1994 đ ến nay Theo đu ổi
chính sách phân quyền của Chính phủ được xem là v ấn đề quan tr ọng t ừ

sau Chiến tranh thế giới lần thứ II và sự phân quy ền này ngày càng nh ận
được nhiều sự quan tâm của chính quyền trung ương và địa ph ương k ể
từ năm 1993. Năm 1995, Luật về phân được thành lập.
Theo Luật này, mối quan hệ giữa chính quy ền trung ương và đ ịa
phương đã thay đổi một cách đáng kể. Luật về thúc đẩy s ự phát tri ển th ị
trấn và làng xã đã được sửa đổi năm 1995. Trong lần s ửa đ ổi này, v ấn đ ề
đánh giá chất lượng của các hội đồng địa phương đã đ ược đặt ra, cùng
với đó sự trợ giúp về tài chính từ Chính phủ trung ương đã đ ược bổ
sung.
Thông qua việc thúc đẩy sự phát triển của thị trấn và làng xã, các
yêu cầu về quản lí hành chính của liên thành phố đã được quy đ ịnh lại
và quá trình phân quyền được thúc đẩy ngày một m ạnh mẽ h ơn.

20


CHƯƠNG III: MỘT SỐ CẢI CÁCH QUY ĐỊNH CHÍNH QUYỀN ĐỊA
PHƯƠNG HIỆN NAY VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM.
1.Thực trạng chính quyền địa phương Nhật Bản hiện nay
Chính quyền địa phương của Nhật Bản được tổ ch ức và hoạt
động theo nguyên tắc tự trị địa phương. Đây được xem là nguyên tắc
pháp lí cơ bản và nội dung của nguyên tắc này được quy định trong
chương VIII từ Điều 92 đến Điều 95 Hiến pháp Nhật Bản năm 1947.
Theo GS. Muroi Tsutomu, chính quyền địa phương là các tổ chức được
thành lập ở các khu vực đặc biệt trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, số
lượng các thành viên được quyết định bởi cư dân ở trong vùng và có
chức năng cơ bản là điều hành hoạt động hành chính trong ph ạm vi lãnh
thổ mình quản lí, phù hợp với lợi ích của cư dân, d ựa trên c ơ s ở quy ền
tự trị địa phương được thừa nhận bởi Chính phủ trung ương.(2) Theo
Hiến pháp Nhật Bản, chính quyền địa phương mang những đặc điểm

sau đây: Thứ nhất, chính quyền địa phương đ ược tổ ch ức d ựa trên
nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Chính quy ền đ ịa
phương là hình thức tự quản của các cộng đồng dân cư địa ph ương. Th ứ
hai, chính quyền địa phương được tổ chức theo nguyên tắc tự trị địa
phương, bao gồm hai hình thức: tự quản của tổ chức và tự quản của dân
cư. Tự quản của tổ chức là tự quản của các hội đồng và các c ơ quan khác
ở địa phương mang tính độc lập với Chính phủ trung ương, quan h ệ gi ữa
Nhà nước với các tổ chức tự quản không phải là quan h ệ c ấp trên v ới
cấp dưới, quan hệ giám sát mà là quan hệ bình đẳng, h ợp tác và độc l ập.
Tự quản của cư dân là khái niệm để chỉ sự quyết định của chính cư dân
địa phương đối với các vấn đề chung của vùng lãnh thổ nh ất đ ịnh. Th ứ

21


ba, chính quyền địa phương có quyền quản lí tài sản, công việc c ủa đ ịa
phương và ban hành các quy định riêng trong khuôn khổ pháp lu ật quy
định.(3) Khi đánh giá về thực trạng chính quyền đ ịa ph ương Nh ật B ản
hiện nay, các nhà phân tích đã tổng kết một số các vấn đề t ồn t ại ch ủ
yếu. Trong phạm vi giới hạn của bài viết này, tác giả tập trung nêu ra
một vài điểm đáng chú ý sau đây: Thứ nhất, nguyên tắc t ự quản địa
phương trên thực tế bị vi phạm đặc biệt trong lĩnh vực thuế. Mối quan
hệ giữa nhà nước với các cơ quan tự quản địa ph ương v ẫn là quan h ệ
trên, dưới, quyền lực phục tùng. Các chính quy ền địa ph ương (đ ặc bi ệt ở
cấp shi và ku, thành phố thuộc tỉnh và quận), trên th ực tế th ực hiện
chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chứ không chỉ thực hiện hoạt động
tự quản địa phương. Thứ hai, hoạt động giải quy ết khiếu n ại, tố cáo, x ử
lí tranh chấp của chính quyền địa phương vẫn chưa bảo đảm ph ương
thức thực hiện dân chủ của cư dân một cách hiệu quả. Người dân vẫn e
ngại với cách giải quyết của cơ quan công quy ền địa ph ương, v ới tâm lí

mặc cảm và sợ sệt đối với quyền lực hành chính. Đây có th ể xem là vấn
đề thuộc tâm lí Á Đông, có thể chia sẻ những điểm t ương đ ồng v ới Vi ệt
Nam, chẳng hạn như tâm lí ngại va chạm với công quy ền, tâm lí cho và
nhận hơn là thái độ sẵn sàng được phục vụ từ phía cán bộ, công ch ức
vốn được xem là công bộc của nhân dân.
Thứ ba, quyền tự quản của cư dân với tư cách là ph ương th ức
thực hiện dân chủ trực tiếp không liên quan đến Nhà nước trên thực tế
vẫn luôn bị vi phạm và chỉ là khái niệm mang tính hình th ức. Ho ạt đ ộng
của một số cơ quan chính quyền địa phương đôi khi ch ưa ph ản ánh
đúng nguyện vọng của cư dân. Thứ tư, xu h ướng tập quy ền (h ệ th ống
tập quyền theo Hiến pháp Minh Trị năm 1890) đang d ần xuất hiện tr ở
lại, xuất phát từ chỗ Nhà nước vẫn duy trì nh ững quy ền h ạn r ộng l ớn

22


trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quy ền địa ph ương.
2. Một số nội dung về cải cách chính quyền địa phương hiện
nay
Ở Nhật Bản Uỷ ban lâm thời về cải cách hành chính lần th ứ 2
được thành lập từ những năm 80 của thế kỉ trước(4) đã đ ưa ra nh ững
đề xuất cụ thể dựa trên hai nội dung chủ yếu là tăng c ường ch ức năng
phối hợp giữa các cơ quan công quyền (giữa Chính ph ủ trung ương và
chính quyền địa phương, giữa các cơ quan công quy ền đ ịa ph ương v ới
nhau) và đơn giản hoá bộ máy chính quyền. Cuộc cải cách theo h ướng
phi tập trung hoá đã bắt đầu diễn ra từ nh ững năm 80 v ới s ự t ư nhân
hoá ba công ti nhà nước, trong đó có Công ti đ ường s ắt Nh ật B ản. Đây
được xem là dấu mốc quan trọng cho sự phát triển của chính sách tư
nhân hoá và phi tập trung hoá. Luật phi tập trung hoá Chính ph ủ đã
được ban hành năm 1995, cùng năm đó Uỷ ban về phi tập trung hoá c ủa

Chính phủ cũng đã được thành lập. Luật về phi tập trung hoá toàn di ện
đã được thông qua và có hiệu lực vào năm 2000. Vấn đ ề cải cách chính
quyền địa phương ở Nhật Bản hiện nay vẫn được xem là vấn đề thu hút
rất nhiều sự quan tâm của các nhà làm luật, các nhà nghiên c ứu trong và
ngoài Nhật Bản. Nội dung về cải cách chính quy ền địa phương của Nhật
Bản cũng rất đa dạng và có thể xem xét dưới nhiều góc đ ộ. Tác gi ả bài
viết, với cách tiếp cận của luật hành chính và từ th ực tiễn Việt Nam,
khái quát một vài nội dung cơ bản về cải cách chính quy ền địa ph ương ở
Nhật Bản hiện nay như sau: Một là các nhà cải cách chú trọng việc thúc
đẩy quá trình phân công chức năng, nhiệm vụ giữa chính quy ền trung
ương và địa phương với hai khẩu hiệu: “từ trung ương về đ ịa ph ương”
và “ từ quan chức về người dân”.(5) Vai trò của Nhà nước chỉ giới hạn
trong các công việc liên quan đến sự tồn vong của quốc gia hay c ộng

23


đồng; các công việc liên quan đến những hoạt động khác nhau c ủa
người dân theo chuẩn mực quốc gia, thực hiện các chính sách quản lí
doanh nghiệp có quy mô quốc gia.

Hai là cơ chế chính quy ền địa

phương thực hiện các chức năng quản lí vĩ mô của Nhà n ước đ ược thay
thế bằng cơ chế mới trong đó đảm bảo chính quyền địa phương th ực sự
là các tổ chức công quyền mang tính tự quản ở địa ph ương. Các ho ạt
động của cơ quan công quyền địa phương chia làm hai nhóm: các vấn đề
địa phương và các vấn đề được uỷ quyền lập pháp. Ba là nh ững quy đ ịnh
mới được ban hành liên quan đến mối quan hệ gi ữa các c ơ quan chính
quyền địa phương và Nhà nước. Quyền của chính quy ền địa ph ương

trong việc ban hành quy phạm pháp luật và giải thích pháp luật đã đ ược
mở rộng. Bốn là song song với việc ban hành và th ực hiện Luật phi tập
trung hoá toàn diện, chính sách hợp nhất các chính quyền thành ph ố và
sắp xếp lại các tỉnh đã được Chính phủ thông qua và ban hành “H ướng
dẫn về việc đẩy mạnh hợp nhất” vào năm 1999. Mục tiêu Chính phủ đ ề
ra là sáp nhập 3.200 chính quy ền thành phố hiện có thành 2.000 chính
quyền thành phố trong vòng 5 năm. Ngày 27/11/2006, Uỷ ban phi t ập
trung hoá đã trình lên Thủ tướng Nhật Bản báo cáo “Th ực tr ạng và gi ải
pháp xây dựng chính quyền địa phương từ nay về sau”. Tháng 3/2007,
Uỷ ban phi tập trung hoá đã thảo luận về các giai đo ạn c ải cách chính
quyền địa phương tiếp theo, trong đó đưa một số đề xuất như sau: Th ứ
nhất, sắp xếp lại các tỉnh thành những cơ quan tự quản trên cơ sở rộng
rãi. Bãi bỏ một số tỉnh và thành lập các vùng, các tiểu bang. Đ ề xu ất đ ưa
ra là nên hợp nhất các tỉnh hiện có thành 7 đến 9 tiểu bang. Th ứ hai, làm
rõ hơn nữa mối quan hệ giữa Chính phủ trung ương và chính quy ền đ ịa
phương, đặc biệt là vấn đề uỷ quyền lập pháp đối với chính quy ền đ ịa
phương, việc ngừng chuyển giao các hoạt động kinh doanh cho các t ỉnh,

24


việc tách biệt giữa chuyển giao các hoạt động kinh doanh của đ ịa
phương với an ninh tài chính quốc gia. Thứ ba, cuộc cải cách đã m ở r ộng
quyền tự quản của tổ chức nhưng vẫn chưa chú trọng đến quy ền tự
quản của người dân, do đó cần cải cách quyền tự quản này đi vào th ực
chất chứ không chỉ là hình thức. Thứ tư, tiếp tục th ực hiện dân chủ hoá
nền chính trị quốc gia, mối quan hệ giữa lãnh đạo dân chủ và tập quy ền
của một số cơ quan hành chính nhà nước cần được xem xét và xử lí thoả
đáng. Thứ năm, đổi mới các cơ quan tự quản. Nhà n ước ch ủ tr ương
khuyến khích thị trường hoá và tư nhân hoá các ch ức năng qu ản lí nhà

nước của cơ quan tự quản với khẩu hiệu: “Hãy để khu vực t ư nhân làm
những gì họ có thể làm”. Thứ sáu, thành lập các tổ ch ức công c ộng đ ộc
lập trong mỗi tỉnh và liên tỉnh nhằm xử lí các công việc chung m ột cách
hiệu quả và đơn giản hoá. Chuyển đội ngũ cán bộ quản lí từ quy chế
công chức sang quy chế người lao động trong khu vực tư nhân. Th ứ bảy,
cải cách chính quyền địa phương đảm bảo các nguyên tắc, yêu c ầu của
Hiến pháp trong đó chính quyền địa phương phải th ực sự là các t ổ ch ức
bảo vệ và thực thi có hiệu quả các quyền con người và quy ền t ự do c ơ
bản của người dân. Nhà nước có nghĩa vụ đảm bảo cuộc s ống h ưng
thịnh cho người dân, bảo đảm tối thiểu sự tồn vong của người dân đ ể
giải quyết những hạn chế của vấn đề kinh tế, sự phát triển không đồng
đều giữa các địa phương và sự tách biệt giữa các vùng lãnh th ổ./.
3.Hạn chế của chính quyền địa phương ở Nhật Bản
Mặc dù mô hình chính quyền 2 cấp ở địa phương của Nhật Bản
hoạt động khá hiệu quả, song các chuyên gia của Nhật cho biết, đất
nước họ cũng đang phải đối mặt với nguy cơ không xác định rõ vai trò,
trách nhiệm của chính quyền trung ương với chính quy ền địa ph ương;
cơ chế tự trị của người dân trong nhiều trường hợp không hiệu qu ả; s ự

25


×