Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tiểu luận Kinh tế VN trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.37 KB, 8 trang )

Kinh tế Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Khái niệm con người và nguồn lực con người
1.1. Con người
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đường lối lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”. Con người
là vốn quý của xã hội nên con người giữ vai trò vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm
của tiến trình cải biến tự nhiên và xã hội. Điều đó khẳng định, con người chính
là mục tiêu cao nhất của mọi qúa trình phát triển tự nhiên, xã hội, đồng thời
cũng là động lực của quá trình phát triển đó.
Với ý nghĩa nêu trên, con người đã trở thành nhân tố then chốt và là nhân
tố quyết định của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì, chỉ có con người mới có
trí tuệ và năng lực sáng tạo theo chiều hướng tiến bộ. Nói một cách khác, nhân
tố con người là một tiềm năng vô tận của sự phát triển. Điều đó đồng nghĩa với
việc nhân tố con người là cơ sở để hình thành nên nguồn lực con người, nhất là
nguồn lực con người có chất lượng cao.
1.2. Nguồn lực con người
Nguồn lực con người được xem xét ở các tiêu chí: số lượng và chất
lượng con người (bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng
lực và phẩm chất); là tổng thể sức dự trữ, những tiềm năng, những lực lượng
thể hiện sức mạnh và sự tác động của con người trong việc cải tạo tự nhiên và
xã hội; là sự kết hợp sức lực và thể lực tạo nên năng lực sáng tạo, chất lượng,
hiệu quả hoạt động và triển vọng phát triển mới của con người; là kinh nghiệm
sống, đặc biệt là kinh nghiệm được tích luỹ qua sự nếm trải trực tiếp của con
người tạo thành thói quen, kỹ năng tổng hợp của mỗi người, của cộng đồng.
Điều kiện để nguồn lực con người đạt tới các tiêu chí đó khi: người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa
học, công nghệ hiện đại.

1




2. Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
2.1. Những ưu thế của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế
Cơ cấu dân số Việt Nam hiện nay cũng được coi là “dân số vàng” mang
lại rất nhiều cơ hội phát triển. Tuy nhiên trên thực tế, ta chưa biết coi trọng
nguồn lực con người.
Thứ nhất, nguồn lao động động dồi dào. Chẳng hạn, năm 2013, Việt
Nam có 90 triệu dân. Nếu tỷ lệ “Nhóm lao động” như năm 1979, tức là 55%
thì nước ta chỉ có gần 49,5 triệu người , nhưng trên thực tế, “Nhóm lao động”
chiếm đến 69% tổng dân số nên con số này lên đến 62,1 triệu, tức là tăng tới
gần 12,6 triệu người. Đây là dư lợi rất lớn về lao động của “cơ cấu dân số
vàng”.
Nguồn nhân lực Việt Nam được cấu thành chủ yếu là nông dân, công
nhân, trí thức, doanh nhân, dịch vụ và nhân lực của các ngành, nghề. Trong đó,
nguồn nhân lực nông dân có gần 62 triệu người, chiếm hơn 70% dân số; nguồn
nhân lực công nhân là 9,5 triệu người (gần 10% dân số); nguồn nhân lực trí
thức, tốt nghiệp từ đại học, cao đẳng trở lên là hơn 2,5 triệu người, chiếm
khoảng 2,15% dân số; nguồn nhân lực từ các doanh nghiệp khoảng 2 triệu
người, trong đó, khối doanh nghiệp trung ương gần 1 triệu người…. Sự xuất
hiện của giới doanh nghiệp trẻ được xem như một nhân tố mới trong nguồn
nhân lực, nếu biết khai thác, bồi dưỡng, sử dụng tốt sẽ giải quyết được nhiều
vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, lao động nước ta trẻ với hơn một nửa dưới 34 tuổi. Đây là độ
tuổi dễ học tập để chuyển đổi từ khu vực nông nghiệp sang các khu vực công
nghiệp và dịch vụ có năng suất cao hơn. Điều này rất cần thiết cho phát triển,
khi nước ta vẫn còn tới gần 50% lao động nông nghiệp.
Thứ ba, dân số đông cũng mang lại lợi thế rất lớn cho nền kinh tế là thị
trường tiêu thụ lớn.
2



2.2. Những hạn chế của nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế
Hiện nay ở Việt Nam đang hình thành 2 loại hình nhân lực: nhân lực phổ
thông và nhân lực chất lượng cao. Nhân lực phổ thông hiện tại vẫn chiếm số
đông, trong khi đó, tỷ lệ nhân lực chất lượng cao lại chiếm tỷ lệ rất thấp. Cái
thiếu của Việt Nam hiện nay không phải là nhân lực phổ thông, mà là nhân lực
chất lượng cao. Theo số liệu thống kê năm 2010, trong số 20,1 triệu lao động
đã qua đào tạo trên tổng số 48,8 triệu lao động đang làm việc, thì chỉ có 8,4
triệu người có bằng cấp, chứng chỉ do các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước.
Số người từ 15 tuổi trở lên được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật rất thấp,
chiếm khoảng 40%. Cơ cấu đào tạo hiện còn bất hợp lý được thể hiện qua
các tỷ lệ: Đại học và trên Đại học là 1, trung học chuyên nghiệp là 1, 3 và công
nhân kỹ thuật là 0, 92; trong khi trên thế giới, tỷ lệ này là 1- 4 - 10.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu
so với nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam,
nhất là để tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt
Nam trong chuỗi giá trị đó. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới. Mặt khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của
Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong
khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia. Theo đánh giá của Ngân hàng
Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình độ tay nghề, công
nhân kỹ thuật bậc cao và chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam cũng thấp hơn
so với nhiều nước khác. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của
Việt Nam chỉ đạt 3, 79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng
của WB) trong khi Hàn Quốc là 6, 91; Ấn Độ là 5, 76; Malaysia là 5,59; Thái
Lan là 4,94...
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình
độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về
năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công

nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu
quả.
3


Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng
ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế.
Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá
thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân,
ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người
lao động chưa cao.
Báo chí nước ngoài thường bình luận người Việt Nam thông minh, rất
nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng nguồn nhân lực
này lại chưa được khai thác đầy đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng
đến chất lượng nhân lực và ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế – xã hội Việt
Nam.
Theo các chuyên gia, để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trước mắt
và lâu dài cần phải tính đến yếu tố chất lượng sinh đẻ và yếu tố bồi dưỡng sức
dân. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sinh ra những đứa trẻ còi
cọc, ốm yếu. Không thể nói đến phát triển nguồn nhân lực khi sức dân không
được bồi dưỡng. Vấn đề này liên quan đến hàng loạt các yếu tố khác như chính
sách xã hội, chính sách y tế, chính sách tiền lương, chính sách xây dựng cơ sở
hạ tầng…. Các vấn đề này hiện vẫn chưa được giải quyết một cách cơ bản.
Không thể nói đến nhân lực chất lượng cao khi chất lượng giáo dục đại học còn
thấp; kết cấu hạ tầng còn rất thấp kém; tỷ lệ lao động mới qua đào tạo mới chỉ
có từ 30 đến 40%; trình độ ngoại ngữ, khả năng sử dụng máy tính, công nghệ
thông tin kém…
2. Một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
2.1. Học hỏi kinh nghiệm một số nước về đào tạo nguồn nhân lực

Tại Mỹ, với một chiến lược dài hạn, kinh phí cho giáo dục đại học của
Mỹ đến từ các nguồn khác nhau, như các công ty, tổ chức nhà nước, các tổ
chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo, nhà từ thiện... Nguồn kinh phí dồi dào

4


mang lại cho các trường khả năng xây dựng cơ sở vật chất hiện đại, thuê giảng
viên giỏi cũng như xây dựng quỹ hỗ trợ sinh viên. Trong giáo dục đại học ở
Mỹ, tính cạnh tranh giữa các trường rất khốc liệt. Nếu sinh viên vào được các
trường đại học tốt, nổi tiếng và học giỏi, cơ hội có việc làm sẽ tăng lên rất
nhiều.
Để phát triển nguồn nhân lực, Mỹ rất coi trọng môi trường sáng tạo và
khuyến khích phát triển nhân tài, bồi dưỡng và thu hút nhân tài trong nhiều lĩnh
vực. Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho nước Mỹ - nước duy nhất trên
thế giới, cơ hội thu hút nguồn chất xám rất lớn, đó là rất nhiều các nhà khoa
học, nhà nghiên cứu giỏi từ Châu Âu và nhiều nước khác đã nhập cảnh vào Mỹ.
Thực tế này trả lời cho câu hỏi, tại sao hiện nay Mỹ là một trong những nước
có nhiều nhà khoa học hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực.
Tại Cộng hòa Séc, để đón trước cơ hội và thúc đẩy hội nhập thành công
vào Liên minh châu Âu (EU), nước này đã xây dựng và hoàn thành Chiến lược
phát triển nguồn nhân lực (tháng 12-2000). Chiến lược này là một bộ phận cấu
thành của Chương trình Thị trường lao động và phát triển nguồn nhân lực.
Ở châu Á, Nhật Bản là một trong những nước đi đầu trong phát triển
nguồn nhân lực. Xuất phát từ việc xác định rằng, nước Nhật nghèo tài nguyên
thiên nhiên, để phát triển, chỉ có thể trông chờ vào chính mỗi người dân Nhật
Bản, Chính phủ nước này đã đặc biệt chú trọng tới giáo dục - đào tạo, thực sự
coi đây là quốc sách hàng đầu. Theo đó, chương trình giáo dục đối với cấp tiểu
học và trung học cơ sở là bắt buộc; tất cả học sinh trong độ tuổi từ 6 đến 15 tuổi
được học miễn phí. Kết quả là, tỷ lệ học sinh thi đỗ vào các trường đại học, cao

đẳng ở nước này ngày càng nhiều. Và Nhật Bản đã trở thành một trong những
cường quốc giáo dục của thế giới.
Về sử dụng và quản lý nhân lực, Nhật Bản thực hiện chế độ lên lương và
tăng thưởng theo thâm niên. Nếu như ở nhiều nước phương Tây, chế độ này
chủ yếu dựa vào năng lực và thành tích cá nhân, thì ở Nhật Bản, hầu như không
có trường hợp cán bộ trẻ tuổi, ít tuổi nghề lại có chức vụ và tiền lương cao hơn
người làm lâu năm.

5


Tại Hàn Quốc, chính sách giáo dục được xây dựng phù hợp với đòi hỏi
của nền kinh tế. Năm 1950, Chính phủ Hàn Quốc chủ trương xóa mù chữ cho
toàn dân. Những năm sau đó, hệ thống giáo dục dần được đẩy mạnh như: phát
triển giáo dục hướng nghiệp trong các trường trung học (năm 1960); các trường
dạy nghề kỹ thuật (năm 1970); Năm 1992, Hàn Quốc thực hiện cải cách giáo
dục với mục tiêu tái cấu trúc hệ thống giáo dục hiện có thành một hệ thống giáo
dục mới, bảo đảm cho người dân được học suốt đời…
Tại Trung Quốc, Chính phủ đang hết sức quan tâm đến việc đào tạo và
sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực hiện có trong nước, nhằm nâng cao chất
lượng nguồn lực này khi chuyển dần sang kinh tế tri thức. Năm 2003, Trung
Quốc đã đề ra Chiến lược tăng cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo
nhân tài nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả được đề ra
trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nội dung của chiến lược
là: lấy nhân tài chấn hưng đất nước, xây dựng đội ngũ đông đảo nhân tài có
chất lượng cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động, trí thức,
tôn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát triển làm xuất phát điểm cơ
bản của công tác nhân tài, điều chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng
năng lực làm điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài, kiên trì
đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá và sử dụng nhân tài một

cách khoa học...
Singapore áp dụng linh hoạt chính sách giáo dục và luôn hướng đến khả
năng, sở thích cũng như năng khiếu của từng học sinh nhằm giúp các em phát
huy cao nhất tiềm năng của mình. Bên cạnh việc ứng dụng các tiến bộ của khoa
học - công nghệ mới vào giảng dạy, chương trình đào tạo của Singapore luôn
chú trọng vào giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc. Để thu hút
sinh viên quốc tế đến học tập, Chính phủ Singapore miễn xét thị thực cho du
học sinh quốc tế, không đòi hỏi phải chứng minh tài chính, chi phí học tập vừa
phải, môi trường học tập hiện đại, các ngành nghề đào tạo đa dạng...

6


2.2. Các giải pháp cụ thể
Từ thực tiễn trong nước và kinh nghiệm của thế giới có thể thấy rằng,
việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực phù hợp với điều kiện thực tế của
nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng và cũng là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 cũng nêu rõ cần tập trung tạo
đột phá “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản nền giáo dục quốc dân, gắn kết chặt chẽ
phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để
xây dựng đội ngũ nhân lực có chất lượng cao, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp:
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển
nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu
quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Xây dựng chiến lược phát
triển nguồn nhân lực gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế. Vấn đề hiện nay là cần
hiện thực hóa Chiến lược bằng các biện pháp, hành động cụ thể. Kinh nghiệm
của nhiều nước cho thấy rõ, coi trọng và quyết tâm thực thi chính sách giáo dục

- đào tạo phù hợp là nhân tố quyết định tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao
cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đây cũng là những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, rất
cần được tiếp tục phát huy trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhất là đối với thế
hệ trẻ.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát
triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của
người dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực
tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể
thao; Cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân
lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách mạnh để doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực nói chung và đào
7


tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng ưu đãi cho
các cơ sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại học,
cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước
ngoài cho phát triển nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào
tạo, bệnh viện, trung tâm thể thao..).
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt
Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Hoàn thiện hệ
thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân tầng, phân luồng,
khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức lại mạng
lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô đào
tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả

nước, vùng, miền và địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào
tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định,
đánh giá theo kết quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao
chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào
tạo. Đặc biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính
sách đối với các trường sư phạm.

8



×