Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt từ thực tiễn thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (758.6 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ MINH KHÁNH

HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2017


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ MINH KHÁNH

HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ
XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS TS BÙI NGUYÊN KHÁNH



HÀ NỘI, năm 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian làm luận văn tốt nghiệp, tôi đã nhận được nhiều sự
giúp đỡ, ý kiến đóng góp và chỉ bảo nhiệt tình của thầy cô, gia đình và bạn bè.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến giáo viên hướng dẫn PGS.TS
Bùi Nguyên Khánh là người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình
làm luận văn .
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Học viện Khoa Học
Xã Hội, thầy PGS.TS Luật Đinh Ngọc Vượng (Viện Từ điển học và Bách
khoa toàn thư Việt Nam) đã hướng dẫn, cung cấp cũng như truyền tải những
kiến thức chuyên ngành, giúp tôi có được cơ sở lý luận vững vàng và tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đã luôn tạo
điều kiện, động viên và ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành
luận văn tốt nghiệp.
Đà Nẵng, ngày 17 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Hồ Minh Khánh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá
nhân tôi. Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin
cậy do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp
với thực tiễn của Việt Nam. Đồng thời, Các kết quả này chưa từng được công
bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Đà Nẵng, ngày 17 tháng 8 năm 2017
Tác giả luận văn

Hồ Minh Khánh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
GIAO CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT .................................... 9
1.1.Những vấn đề lý luận về chuyển giao công nghệ .................................... 9
1.2. Khái niệm chuyển giao công nghệ ....................................................... 12
1.3. Tổng quan về hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt 19
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước
sinh hoạt ....................................................................................................... 29
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN
GIAO CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT VÀ THỰC TIỄN
GIAO KẾT VÀ THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................ 31
2.1. Thực trạng pháp luật hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh
hoạt ở Việt Nam hiện nay ............................................................................ 31
2.2 Giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh
hoạt từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng ........................................................... 44
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC
SINH HOẠT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................... 52
3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật hợp đồng chuyển giao công nghệ
xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay .................................................. 52
3.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý
nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay ........................................................... 59
KẾT LUẬN .................................................................................................... 67



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BTC

Bộ Tài chính

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CP

Chính phủ

ESCAP

Economic and Social Commision for Asia anh the Pacific

KT-XH

Kinh tế- xã hội

KHXH&NV

Khoa học xã hội và Nhân văn



Nghị định


Nxb

Nhà xuất bản

UBND

Ủy ban Nhân dân

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

UNIDO

Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc

WIPO

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1-1. Các thành phần cấu tạo công nghệ 1 ................................................ 9
Bảng 2-1. Tiến độ thực hiện chuyển giao công nghệ tại Đà Nẵng 1 .............. 49


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, sau gần 30 năm đổi mới, nền kinh tế đất nước đã phá vỡ

được sự trì trệ, phát huy năng lực lao động, sáng tạo mạnh mẽ và dồi dào của
con người Việt Nam. Nước ta đã giành được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng góp phần làm cho thế và lực của đất nước không ngừng tăng lên.
Trong sự thành công đó, không thể không kể đến tầm quan trọng của khoa
học công nghệ. Nhận thức rõ vai trò này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng đã xác định “khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong
việc phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, bảo vệ tài nguyên môi trường,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh
của nền kinh tế. Phát triển khoa học công nghệ nhằm mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức, vươn lên trình
độ tiên tiến của thế giới”. Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng, chiến lược
phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 cũng nhấn mạnh:
“Phát triển khoa học công nghệ cùng với giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo bước phát triển đột
phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước”.
Trên cơ sở những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nền
khoa học công nghệ nước nhà đã có những bước tiến tích cực, gắn bó hơn với
sản xuất và đời sống. Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới đã được
ứng dụng, góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao nǎng suất, chất lượng và
hiệu quả trong các ngành sản xuất nông nghiêp, y tế, bưu chính viễn thông,
giao thông vận tải, xây dựng, nǎng lượng, dầu khí, xây dựng và củng cố quốc

1


phòng - an ninh... Lực lượng cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành
từng bước và có nhiều cố gắng thích nghi với cơ chế mới, có khả năng tiếp

thu, làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trên một số ngành và lĩnh vực
kinh tế góp phần tập hợp, có thêm điều kiện để phát huy khả nǎng và công
hiến cho sự nghiệp chung.
Tuy nhiên trong bối cảnh trái đất ngày càng nóng dần lên, không khí
ngày càng ô nhiễm dẫn đến biến đổi khí hậu, một vấn đề khác cũng quan
trọng không kém chính là nguồn nước tinh khiết ngày càng trở nên khan hiếm
trên toàn cầu. Và chắc hẳn, Việt Nam cũng rơi vào trường hợp tương tự, phần
lớn dân cư sống ở vùng nông thôn đang trong tình trạng thiếu nước sạch.
Thực tế hiện nay cho thấy, trong số 80% dân số sống ở nông thôn thì chỉ có
60% hộ dân được sử dụng nước sạch. Nước sử dụng cho sinh hoạt bao gồm:
nước mặt (chiếm 70%) và nước ngầm (chiếm 30%), nhưng nguồn nước ngầm
và nước mặt nước ta phân bố không đồng đều và phụ thuộc vào lượng mưa
hàng tháng nên đa phần khu vực miền núi, miền Trung thiếu nước, đặc biệt
vào mùa khô. Người dân được tiếp cận với nguồn nước sạch chỉ trên 28%.
Nhiều nguồn nước bị nhiễm phèn, nhiễm mặn không thể sử dụng để sinh hoạt
được nữa, vì thế việc sử dụng công nghệ để lọc nước tạo ra nguồn nước sạch,
tinh khiết trong sử dụng là vô cùng cần thiết. Để làm được điều này, cần phải
tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt trong quá trình lọc nước. Theo cách
truyền thống trước đây, nguồn nước vẫn chưa được lọc đi hẳn các tạp chất
bẩn như phèn, sắt... Do đó, với guồng quay phát triển của khoa học kỹ thuật
hiện nay, chúng ta cần phải áp dụng các công nghệ xử lý nước sinh hoạt tiên
tiến trên thế giới để có thể tạo ra nguồn nước sạch cho xã hội. Thực tế cho
thấy, nền khoa học và công nghệ nước ta vẫn còn khoảng cách khá xa so với
các nước phát triển, chưa tạo ra được những năng lực khoa học và công nghệ
cần thiết để thực sự trở thành nền tảng và động lực cho tiến trình công nghiệp

2


hóa, hiện đại hóa đất nước. Trình độ công nghệ thấp, chậm đổi mới trong

ngành, tình trạng nhập khẩu các thiết bị, máy móc lạc hậu, không đồng bộ,
kém hiệu quả ảnh hưởng xấu đến nǎng xuất lao động. Đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ tuy tǎng về số lượng, nhưng tỷ lệ trên số dân còn thấp so
với các nước trong khu vực, chất lượng chưa cao, còn thiếu nhiều cán bộ đầu
ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Quan trọng
nhất, khoảng cách từ việc nghiên cứu đến ứng dụng trong thực tiễn còn lớn,
việc tiếp nhận công nghệ tiên tiến của nước ngoài chưa có bước phát triển
xứng tầm. Trước bối cảnh đó, việc phát triển thị trường, dịch vụ chuyển giao
công nghệ là một nhu cầu tất yếu và khách quan.
Chuyển giao công nghệ là một khái niệm mới xuất hiện trong mấy thập
niên gần đây, nhưng đã nhanh chóng trở thành vấn đề thời sự, được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trên
toàn cầu, đặc biệt là đối với những nước đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá như nước ta. Việc nghiên cứu, hoạch định chính sách, chiến lược làm
như thế nào để nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận và ứng dụng công nghệ
tiên tiến nước ngoài vào sản xuất trong nước cũng như việc triển khai đưa
công nghệ trong nước vào thực tiễn sản xuất ở từng ngành, từng lĩnh vực và
từng khâu trong quy trình hoạt động sản xuất được coi là khâu then chốt bảo
đảm sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Nhưng hiện tại, tình trạng
chuyển giao công nghệ và trang thiết bị xử lý nước sinh hoạt ở nước ta vẫn
còn nhiều bất cập. Các dự án này còn quá ít, chính sách mở cửa đối với nhà
đầu tư chưa thật thông thoáng và hấp dẫn, chiến lược kinh doanh cụ thể còn
chưa thực sự chú trọng đến công tác chuyển giao công nghệ tiên tiến, các nhà
doanh nghiệp chưa ý thức được đầy đủ vị trí, vai trò của công nghệ xử lý
nước sinh hoạt trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng

3



này chủ yếu là do những hạn chế trong việc phát triển thị trường khoa học
công nghệ, mà một trong những thành phần cốt lõi của nó là dịch vụ chuyển
giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt vẫn còn rất sơ khai.
Trong khuôn khổ của chương trình đào tạo cao học luật và tính cấp
thiết của các vấn đề như đã trình bày ở các phần trên, tác giả đã chọn đề tài
“Hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đã có một số công trình nghiên cứu liên quan
đến chuyển giao công nghệ nói chung, trong đó có các công trình liên quan
đến chuyển giao công nghệ trong xử lý nước sạch sinh hoạt. Có thể kể đến
các công trình sau:Trần Văn Hải. (2014) Báo cáo đề dẫn, Tổ chức và hoạt
động chuyển giao công nghệ tại một số quốc gia: kinh nghiệm cho Việt Nam.
Kỷ yếu Hội thảo, Tổ chức và hoạt động chuyển giao công nghệ: Kinh nghiệm
của Australia và đề xuất cho Việt Nam. Hội thảo do Trường Đại học Khoa
học xã hội và nhân văn tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 30/12/2014.;
Nguyễn Quỳnh Mai, Nguyễn Thúy Quỳnh Loan. (2008) Bài giảng chuyển
giao công nghệ. Đại học Bách khoa thành phố Hồ Chí Minh.; Đỗ Thị Bích
Ngọc. (2014) Luật Chuyển giao công nghệ và những vướng mắc cần sửa đổi.
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, số 22 năm 2014, ISSN 1859 –
4794; GS. Nguyễn Văn Quý, GS. Nguyễn Thiện Thanh: Tính chất của cuộc
cách mạng khoa học – công nghệ đương đại, Nxb ĐH KHXH&NV TP.HCM,
2000, pp.29-35; Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Mạnh Hùng. (2008) Xu hướng
phát triển ngành dịch vụ trên thế giới hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với
sự phát triển của ngành dịch vụ Việt Nam.; Trần Tịnh. (2011) Sự phát triển
của CGCN Trung Quốc và chính sách chung.
Các công trình này đã nghiên cứu về hợp đồng chuyển giao công nghệ

4



xử lý nước sinh hoạt, đặc biệt là trong bối cảnh hội nguồn nước sạch khan
hiếm như hiện nay là một vấn đề khá cấp bách. Tuy nhiên, tính đến thời điểm
hiện tại chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách toàn diện về hợp
đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt theo các quy định mới và
tình hình thực tiễn ở Đà Nẵng nói riêng, Việt Nam nói chung. Trên cơ sở định
hướng nghiên cứu và tiếp tục kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tác giả
trước đó, người viết trình bày một số quan điểm khoa học của mình nhằm góp
phần hệ thống hóa các quan điểm khoa học về công nghệ xử lý nước sinh
hoạt, phân tích và làm rõ khái niệm và những đặc trưng cơ bản của hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt. Từ đó có thể chỉ ra và phân tích
được những ưu điểm và thiếu sót trong các quy định pháp luật hiện hành.
Ở Việt Nam, nếu tính từ Quyết định số 175-CP ngày 29/04/1981 về ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế trong nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ
thuật, đã có rất nhiều các văn bản pháp quy được ban hành điều chỉnh các vấn
đề về chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt, đặc biệt là về hợp đồng
chuyển giao công nghệ này, ví dụ, Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ xử lý
nước sinh hoạt từ nước ngoài vào Việt Nam ngày 05/12/1981, Bộ luật Dân sự
1995, Nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 01/07/1998, Nghị định 11/2005/NĐCP ngày 2/02/2005 v.v..., bước đầu đã tạo ra được môi trường pháp lý thuận
lợi cho sự phát triển của hoạt động đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt nói riêng.
Bên cạnh đó đã có những tài liệu hướng dẫn về chuyeenrgiao công
nghệ: Trường Nghiệp vụ quản lý khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học và
Công nghệ. (2007) Tài liệu tập huấn đổi mới công nghệ và quản lý đổi mới
công nghệ; Trường Nghiệp vụ quản lý khoa học và công nghệ, Bộ Khoa học
và Công nghệ. (2008) Tài liệu tập huấn đổi mới công nghệ và quản lý đổi mới
công nghệ.Các văn bản pháp luật trên, bên cạnh việc quy định điều chỉnh các

5



vấn đề có tính nguyên tắc về chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt, đều
luôn dành những điều khoản điều chỉnh các vấn đề liên quan hợp đồng
chuyển giao công nghệ nước sinh hoạt như nội dung hợp đồng, các vấn đề
liên quan đến đăng ký, phê chuẩn hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý
nước sinh hoạt v.v..., tạo cơ sở pháp lý bảo đảm các quyền và lợi ích của các
bên có liên quan trong giao dịch .Có thể khẳng định rằng, trong một thời gian
dài, Luật Chuyển giao công nghệ được ban hành vào ngày 19/06/2006 đã định
hình khung pháp lý cho chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao
công nghệ xử lý nước sinh hoạt nói riêng
Tuy nhiên, do thực tiễn và yêu cầu vào thời điểm ban hành các văn bản
pháp quy nói trên đã có nhiều thay đổi và không còn phù hợp với hiện tại. Kế
thừa và khắc phục các thiếu sót của các quy định pháp luật trước đó, Luật
chuyển giao công nghệ số 07/2017/QH14 được ban hành ngày 19 tháng 06
năm 2017 đã đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu đặt ra từ thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là luận giải những vấn đề lý luận về hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt; phân tích, đánh giá thực trạng
pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt
Nam hiện nay; thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công
nghệ xử lý nước sinh hoạt từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng; để từ đó đề xuất
những giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ xử
lý nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
được xác định cụ thể gồm:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng chuyển giao công nghệ

6



xử lý nước sinh hoạt;
- Phân tích thực trạng pháp luật về thực hiện hợp đồng chuyển giao
công nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay;
- Đánh giá thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng chuyển giao công
nghệ xử lý nước sinh hoạt từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng;
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các tư liệu về giao kết và thực hiện
hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam nói chung
và thành phố Đà Nẵng nói riêng. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của luận văn
còn có các văn kiện của Đảng, Nhà nước liên quan đến chuyển giao công
nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam, các báo cáo tổng kết hoạt động thực
tiễn của các cơ quan chức năng có liên quan đến chuyển giao công nghệ nói
chung và đến chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt nói riêng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật Việt Nam về giao kết và thực
hiện hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt từ thực tiễn thành
phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi
mới, luận văn tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp so sánh luật học. Các


7


phương pháp này được vận dụng trong nhiều phần khác nhau của luận văn
như phân tích làm rõ sự khác biệt giữa hợp đồng chuyển giao công nghệ xử lý
nước sinh hoạt với các hợp đồng chuyển giao công nghệ khác.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Ngoài ra, luận án còn được nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh tính
phổ biến của pháp luật và thông lệ quốc tế về giao kết và thực hiện hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu và làm sáng tỏ bản chất các vấn đề liên quan đến hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt - loại hợp đồng có đối tượng rất
đặc thù là công nghệ xử lý nước sinh hoạt dưới cả góc độ pháp lý và thực tiễn
sẽ góp phần làm sáng tỏ nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt, đồng thời có những đề
xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề này, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chuyển giao
công nghệ xử lý nước sinh hoạt nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được thực hiện theo cơ cấu 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng chuyển giao công nghệ
xử lý nước sinh hoạt
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng chuyển giao công nghệ
xử lý nước sinh hoạt và thực tiễn giao kết và thực hiện tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật hợp đồng
chuyển giao công nghệ xử lý nước sinh hoạt ở Việt Nam hiện nay

8



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG CHUYỂN GIAO CÔNG
NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC SINH HOẠT
1.1. Khái niệm và đặc điêm của công nghệ
Khái niệm công nghệ (technology) bắt nguồn từ hai thuật ngữ Hy Lạp
cổ: techne + logos, trong đó: techne là kỹ năng hoặc cách thức cần thiết để
làm một cái gì đó, logos mang ý nghĩa khoa học, kiến thức hay sự nghiên cứu
về một điều gì đó.
Như vậy, công nghệ có thể được hiểu là việc ứng dụng những kỹ năng
có được từ sự nghiên cứu, khám phá.
Hiện nay khái niệm công nghệ đã được rất nhiều nhà khoa học, học giả
tiếp cận theo các cách khác nhau. Theo Ủy ban kinh tế xã hội châu Á - Thái
Bình Dương của Liên hợp quốc (Economic and Social Commision for Asia
anh the Pacific - ESCAP) định nghĩa như sau: “Công nghệ là hệ thống kiến
thức về quy trình kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin (bao gồm tất
cả các kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất,
chế tạo, dịch vụ, quản lý và thông tin)” (Nguyễn Đức Bình, 2003). Trong đó,
công nghệ bao gồm bốn thành phần:
Bảng 1-1. Các thành phần cấu tạo công nghệ 1
Thành phần

Nội dung

Kỹ thuật

Máy móc, thiết bị, công cụ và phương tiện kỹ thuật.

(Techno)


Là thành phần cốt lõi của công nghệ, nó giúp con người
tăng được cả sức mạnh cơ bắp và trí tuệ trong hoạt động
sản xuất.

Con người

Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng nhờ học hỏi, tích

9


(Human)

lũy được từ đời sống, bao gồm cả khả năng sáng tạo, sự
khôn ngoan, khả năng phối hợp, đạo đức, kỷ luật của
người lao động tham gia vào hoạt động sản xuất.

Thông tin
(Info)

Dữ liệu về kỹ thuật, con người và tổ chức; các thông
số về đặc tính của thiết bị, số liệu về vận hành thiết bị để
duy trì và bảo dưỡng, dữ liệu để nâng cao và dữ liệu để
thiết kế các bộ phận của phần kỹ thuật. Đây là tổng hợp tất
cả các tri thức trong công nghệ.

Tổ chức
(Orga)


Hoạt động tổ chức và quản lý sản xuất, là nhân tố
kết nối các thành phần khác của công nghệ lại với nhau.
(Nguồn: Nguyễn Văn Quý, 2000)

Ngoài ra, thuật ngữ này cũng được định nghĩa theo nhiều hướng khác
nhau bởi Tổ chức Sở hữu Trí tuệ thế giới (WIPO), Tổ chức phát triển công
nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) và cả các nhà khoa học Việt Nam. Dưới giác
độ pháp lý, công nghệ được đề cập đến trong Bộ luật Dân sự 2005 thông qua
việc đưa ra những đối tượng của hoạt động chuyển giao công nghệ tại Điều
755 Bộ luật Dân sự. Theo đó, đối tượng chuyển giao công nghệ bao gồm: bí
quyết kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật về công nghệ dưới dạng phương án công
nghệ, các giải pháp kỹ thuật, công thức, thông số kỹ thuật, bản vẽ, sơ đồ kỹ
thuật, chương trình máy tính, thông tin dữ liệu được chuyển giao, giải pháp
hợp lý hóa sản xuất, đổi mới công nghệ, cấp phép đặc quyền kinh doanh và
các đối tượng khác do pháp luật về chuyển giao công nghệ quy định. Chính vì
vậy, khái niệm công nghệ chỉ được đề cập cụ thể trong những văn bản pháp
luật chuyên ngành điều chỉnh hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Luật
Chuyển giao công nghệ 2006, khái niệm công nghệ được xác định một cách
cụ thể, rõ ràng tại khoản 2, Điều 3 của Luật này như sau: Công nghệ là giải

10


pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm. Nội dung này cũng
được khẳng định trong Điều 2, khoản 2, Luật chuyển giao công nghệ 2017.
Đây là một khái niệm tuy ngắn gọn, súc tích nhưng rất đầy đủ. Từ khái
niệm công nghệ nêu trên, có thể rút ra một số nhận định mang tính lý luận về
các đặc trưng cơ bản của công nghệ, cụ thể:
 Tính hệ thống của công nghệ :

Hệ thống được hiểu là sự liên kết chặt chẽ của nhiều thành tố để đạt
được kết quả nhất định. Không thể nhìn nhận công nghệ như những thành tố
riêng rẽ, bởi công nghệ chỉ phát huy tác dụng của nó nếu có sự phối hợp và
liên hệ chặt chẽ giữa các thành tố khác nhau của công nghệ.
Trên thực tế, việc chuyển giao từng thành tố của công nghệ không phủ
nhận bản chất của công nghệ phải là tập hợp cần và đủ các thành tố tương ứng
tạo nên. Kinh nghiệm cho thấy không ít trường hợp, sự tách rời của từng
thành tố công nghệ vẫn có thể được chấp nhận nếu như bên ứng dụng công
nghệ có khả năng tự mình đáp ứng được những thành tố còn lại.
 Tính ứng dụng của công nghệ:
Công nghệ phải có tính ứng dụng trên thực tế nhằm giải quyết những
vấn đề nhất định nhằm phục vụ lợi ích của con người, thể hiện ở chỗ: việc
tuân theo công nghệ sẽ làm cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao hơn như
tăng năng suất, giảm chi phí, gia tăng tính năng của sản phẩm hoặc để phát
triển những công nghệ mới, sản phẩm mới. Khả năng ứng dụng của công
nghệ là động lực để phát triển công nghệ, chuyển giao công nghệ và hình
thành thị trường công nghệ.
 Tính trao đổi của công nghệ:
Đặc trưng này cho thấy bản thân công nghệ có thể được tiếp nhận, dịch
chuyển từ nơi này sang nơi khác và giữa các cá nhân, tổ chức khác nhau. Sự

11


trao đổi công nghệ là vô cùng quan trọng nhằm đạt hiệu quả cao trong việc
biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm. Tính trao đổi của công nghệ là thuộc
tính gắn liền với tính ứng dụng của công nghệ. Công nghệ có khả năng ứng
dụng thì mới nảy sinh nhu cầu tiếp nhận cũng như chuyển giao. Việc trao đổi
công nghệ sẽ cho phép bên chuyển giao có thể tiếp tục phát triển công nghệ
mới, còn bên nhận chuyển giao sẽ được ứng dụng công nghệ tiên tiến với chi

phí thấp hơn.
 Tính giới hạn của công nghệ:
Tính giới hạn của công nghệ được hiểu là bản thân công nghệ đang áp
dụng hoặc chưa áp dụng cũng có thể sẽ nhanh chóng bị lạc hậu và được thay
thế bởi những công nghệ mới tiên tiến hơn. Tính giới hạn của công nghệ đòi
hỏi công nghệ phải luôn được đổi mới, bắt kịp sự đòi hỏi của nền kinh tế xã
hội. Chính vì công nghệ có tính giới hạn, mà việc triển khai áp dụng nhanh
công nghệ và phổ biến rộng rãi công nghệ sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh
tế, tăng cường khả năng ứng dụng của công nghệ trong cuộc sống, đồng thời
đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu công nghệ. Điều này đòi hỏi cần có những
chính sách và pháp luật phù hợp để có thể khuyến khích nghiên cứu, phát
triển hoặc tiếp nhận những công nghệ mới và nhanh chóng ứng dụng công
nghệ để tạo ra những sản phẩm hàng hóa có giá trị cao.
Từ việc xem xét, phân tích những đặc trưng trên của công nghệ, có thể
nhận thấy rằng, việc đưa ra khái niệm mẫu mực về công nghệ là một thách
thức không đơn giản. Mỗi một cách tiếp cận khái niệm công nghệ đều có
những ưu điểm và hạn chế nhất định, phù hợp với mục tiêu của việc sử dụng
khái niệm ấy mà thôi.
1.2. Khái niệm chuyển giao công nghệ
Trong cuộc sống, chúng ta vẫn hay nhầm lẫn giữa: chuyển giao công
nghệ và chuyển nhượng thương mại.

12


Nhượng quyền thương mại (franchising) được các tổ chức quốc tế và
pháp luật nhiều quốc gia (trong đó có Việt Nam) coi là một hình thức chuyển
giao công nghệ, nhưng thường không được quy định trong các luật về chuyển
giao công nghệ mà thường quy định trong luật thương mại. Đối tượng của
nhượng quyền thương mại là quyền thương mại, tức là quyền tiền hành kinh

doanh hàng hóa, dịch vụ theo cách thức của bên nhượng quyền quy định,
cùng với đó là việc sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết
kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền. Như
vậy, phạm vi đối tượng chủ yếu chung của cả nhượng quyền thương mại và
chuyển giao công nghệ là các đối tượng sở hữu công nghiệp.
Tuy nhiên, nhượng quyền thương mại và chuyển giao công nghệ lại có
những điểm khác biệt:
Thứ nhất, nhượng quyền thương mại là phương thức mở rộng quy mô
sản xuất kinh doanh thông qua việc cho phép một doanh nghiệp khác được
sản xuất kinh doanh trên cơ sở uy tín, tên thương mại, công nghệ... của bên
nhượng quyền (ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy nhượng quyền thương mại
đã được thực hiện rất thành công tại việc kinh doanh cafe Trung Nguyên và
Phở 24). Trong khi đó, chuyển giao công nghệ đơn thuần là việc chuyển giao
các công nghệ để ứng dụng vào quá trình sản xuất.
Thứ hai, trong nhượng quyền thương mại, bên nhận quyền chỉ được sử
dụng các công nghệ mà mình nhận được để sản xuất, cung ứng các loại dịch
vụ có cùng chất lượng, hình thức và dưới nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại
của bên nhượng quyền. Bên cạnh đó, bên nhận quyền còn phải tuân theo sự
bày trí cửa hàng, cung cách phục vụ khách hàng, phương pháp xúc tiến.
Trong khi đó, một đơn vị nhận chuyển giao công nghệ có quyền ứng dụng
công nghệ đó để sản xuất ra sản phẩm dưới bất kỳ thương hiệu, kiểu dáng, tên
thương mại mà họ mong muốn, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.

13


Thứ ba, nhượng quyền thương mại có phạm vi đối tượng không chỉ tập
trung tại quy trình sản xuất (như trong chuyển giao công nghệ) mà còn cả các
quy trình sau sản xuất nhằm đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng, quy trình
quản lý - không chỉ giới hạn ở cơ cấu tổ chức kinh doanh, kiểm toán, nhân sự,

thậm chí cả tiêu chuẩn thiết kế, trang trí cửa hàng, nhà xưởng.
Thứ tư, trong nhượng quyền thương mại, sự hỗ trợ kiểm soát của bên
nhượng quyền đối với bên nhạn quyền là một nội dung không thể thiếu nhằm
đảm bảo tính thống nhất của toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Trong khi đó,
sau khi chuyển giao công nghệ xong, bên chuyển giao thông thường không hỗ
trợ cũng như không thực hiện quyền kiểm soát đối với bên nhận chuyển giao.
Theo quy định tại khoản 8, điều 3 của Luật CGCN năm 2006 cũng đã
quy định chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng một phần hoặc toàn bộ công nghệ từ bên có quyền CGCN sang bên
nhận công nghệ. Nội dung này cũng được khẳng định trong Điều 2, khoản 7,
Luật chuyển giao công nghệ 2017.
Do đó chuyển giao công nghệ có thể hiểu theo nghĩa đơn giản nhất là
việc đưa công nghệ từ nơi có công nghệ đến nơi có nhu cầu nhận công nghệ,
từ nơi có trình độ công nghệ cao đến nơi có trình độ công nghệ thấp hơn một
cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của các bên tham gia hoặc là sự dịch chuyển
toàn bộ hoặc một phần công nghệ từ nhóm người này sang nhóm người khác.
Đến nay, việc chuyển giao công nghệ hết sức phát triển và phổ biến, được
thực hiện trong tất cả các ngành sản xuất vật chất. Chuyển giao công nghệ
không còn diễn ra một chiều, từ những nước phát triển đến những nước đang
phát triển mà ngược lại, các nước đang phát triển cũng hoàn toàn có khả năng
chuyển giao công nghệ cho các nước phát triển ở một số lĩnh vực có thế
mạnh. Hiểu theo nghĩa rộng, chuyển giao công nghệ xảy ra khi một hoặc
nhiều thành tố của công nghệ được mở rộng phạm vi áp dụng (chuyển dịch về

14


địa lý hoặc chủ thể sở hữu, sử dụng…). Theo nghĩa hẹp, chuyển giao công
nghệ được hiểu là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng (một phần
hoặc toàn bộ) công nghệ từ bên có quyền giao công nghệ sang bên nhận công

nghệ. Xét dưới khía cạnh pháp lý, chuyển giao công nghệ là một giao dịch
dân sự, và do tính đặc thù của nó, nên Bộ luật Dân sự 2005 đã có hẳn một
phần riêng để điều chỉnh giao dịch này (Bộ luật Dân sự 2015 đã không còn
phần riêng để quy định về giao dịch này)
Chuyển giao công nghệ được thực hiện trên nguyên tắc bình đẳng, thỏa
thuận và được xác lập thông qua cơ chế hợp đồng, gọi là hợp đồng chuyển
giao công nghệ. Như vậy, một cách khái quát, khái niệm chuyển giao công
nghệ được hiểu như sau: Chuyển giao công nghệ là một giao dịch dân sự,
được thực hiện qua cơ chế hợp đồng mà theo đó, bên có quyền chuyển giao
công nghệ sẽ chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng công nghệ cho
bên tiếp nhận theo phương thức và các điều kiện do các bên thỏa thuận.
 Tiêu chí đánh giá hiệu quả chuyển giao công nghệ
Ở phần này, tác giả sẽ đề cập đến thêm một khái niệm mới liên quan
đến chuyển giao công nghệ - li xăng. Li xăng chuyển quyền sử dụng đối
tượng SHCN (Li-xăng): là việc tổ chức, cá nhân nắm độc quyền sử dụng một
đối tượng sở hữu công nghiệp (Bên chuyển quyền sử dụng - thường được gọi
là bên giao) cho phép tổ chức cá nhân tổ chức khác (Bên nhận quyền sử dụng
- thường được gọi là Bên nhận) sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp đó.
Trên cơ sở nghiên cứu và tìm hiểu các vấn đề có liên quan trong nước,
trên thế giới và tình hình chuyển giao công nghệ tại Việt Nam hiện nay. đề tài
đã đưa ra 5 nhóm tiêu chí để đánh giá hiệu quả của hoạt động chuyển giao
công nghệ như sau:
 Tài sản trong chuyển giao công nghệ phải là tài sản trí tuệ:
Li - xăng công nghệ chỉ diễn ra khi một trong các bên sở hữu những tài

15


sản vô hình có giá trị, đó là tài sản trí tuệ. Đây là một khái niệm rộng bao gồm
nhiều tài sản vô hình khác nhau như bằng độc quyền sáng chế, quyền tác giả

(các tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả như: tài liệu hướng dẫn ký thuật,
phần mềm máy tính, bản mô tả kỹ thuật, công thức, sơ đồ hoặc tư liệu,…), bí
quyết (kỹ năng, kỹ xảo của thợ thủ công, năng lực đào tạo, sự hiểu biết cách
thức vận hành đối tượng nào đó), bí mật thương mại (công thức hoặc phương
pháp được bảo hộ, danh sách khách hàng hoặc thông tin kỹ thuật không được
tiết lộ,…), nhãn hiệu (logo, tên gọi, thương hiệu), kiểu dáng công nghiệp
(cách thức trang trí độc đáo của sản phẩm, hình dáng máy tính),…
Cần xác định được li - xăng công nghệ thuộc loại nào:
Xác định này giúp đánh giá chi tiết hiệu quả của hoạt động chuyển giao
công nghệ. Li - xăng có thể chia thành ba loại phổ biến sau:
 Li-xăng công nghệ thuần túy.
 Li-xăng sản phẩm công nghệ.
 Li-xăng các tiêu chuẩn công nghệ.
 Li-xăng được cấp cho các quyền sở hữu trí tuệ cần thiết để sản
xuất và đưa ra thị trường một sản phẩm có tiêu chuẩn hoặc đặc
điểm kỹ thuật nhất định.
Các điều khoản trong hợp đồng li-xăng công nghệ được quy định rõ
ràng và chi tiết:
Các quy định phải phù hợp trong khuôn khổ quan hệ kinh doanh của
doanh nghiệp. Chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau, sự thay đổi của quy
định này sẽ ảnh hưởng đến những quy định kế tiếp. Chẳng hạn, một hợp đồng
phát triển sản phẩm, nhưng không nêu rõ nội dung ai sẽ được cấp li-xăng để
sản xuất cũng như bên phải trả với mức giá bao nhiêu cho việc mua sản phẩm,
điều này có thể sẽ làm nảy sinh những bất cập trong quá trình kinh doanh.
Các nhà đàm phán trong li-xăng công nghệ hiểu rõ những lợi ích mà cả

16


hai bên đạt được:

Việc đàm phán về li-xăng công nghệ, giống như mọi cuộc đàm phán
khác, liên quan đến lợi ích khác nhau của các bên, nhưng trong chưng mực
nào đó những lợi ích này phải trùng nhau. Khó có thể đàm phán thành công
một li-xăng nếu bạn muốn nhận được quyền sử dụng công nghệ nhưng các
được mang ra để đánh đổi lại là quá ít. Một cách lý tưởng là cả hai bên tham
gia đàm phán đều đưa ra những yếu tố có giá trị khác nhau, bao gồm, chẳng
hạn nhân viên có kỹ năng, thị trường có thể khai khác với quy mô thương
mại, bí quyết kỹ thuật, các cơ sở và hoạt động nghiên cứu và một số đối tượng
quyền sở hữu trí tuệ khác. Cơ sở để đánh giá một li-xăng công nghệ hiệu quả
là tìm ra được sự cân bằng lợi ích thỏa đáng để cả hai bên cùng có lợi.
Các điều khoản trong hợp đồng được giữ nguyên đến mức nào:
Một li-xăng công nghệ thành công khi đạt được hợp đồng về một loạt
các điều khoản hoàn chỉnh mà mỗi điều khoản trong đó đều có một số giải
phát nhất định.
Mối quan hệ giữa các bên liên quan trong hợp đồng chuyển giao công nghệ
Hợp đồng chuyển giao công nghệ có ba đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, hợp đồng chuyển giao công nghệ là có đối tượng là công nghệ,
với tư cách là một loại "tài sản" đặc thù. Tài sản đặc thù này đã được đề cập
đến phần trên. Do đặc trưng của công nghệ là tính hệ thống, nên việc hợp đồng
chuyển giao công nghệ cũng phải có những nội dung để đảm bảo tính hệ thống
của công nghệ được chuyển giao, theo đó, mục tiêu cao nhất là đảm bảo bên
tiếp nhận công nghệ phải có được những lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ
(có khả năng tiếp nhận, làm chủ công nghệ), nhưng đồng thời phải đảm bảo
những quyền lợi hợp pháp cho bên chuyển giao công nghệ theo thỏa thuận.
Thứ hai, hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được lập dưới hình thức
văn bản. Trong điều kiện hiện nay, khái niệm "văn bản" được hiểu khá rộng,

17



nghĩa là ngoài văn bản truyền thống (bản giấy, bản khắc…), những dạng thức
khác của quá trình ghi chép ký tự cũng được coi là văn bản như điện báo,
telex, fax, hoặc các thông điệp dữ liệu khác. Hợp đồng chuyển giao công nghệ
bằng văn bản là công cụ pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền lợi chính đáng của
các bên nếu xảy ra tranh chấp.
Thứ ba, hợp đồng chuyển giao công nghệ gắn với một số hạn chế liên
quan đến các thủ tục đăng ký hoặc cấp phép. Với vai trò to lớn của công nghệ,
hầu hết các quốc gia đều phải đối mặt với một vấn đề: làm thế nào để khuyến
khích phát triển công nghệ thông qua hoạt động chuyển giao công nghệ,
nhưng không thể trở thành một "bãi rác công nghệ". Chính vì vậy, các quốc
gia thường có những chính sách nhằm khuyến khích chuyển giao hoặc nhận
chuyển giao một số dạng công nghệ, đồng thời hạn chế và ngăn cấm một số
công nghệ khác thông qua những quy định về đăng ký hợp đồng chuyển giao
công nghệ, cấp phép chuyển giao công nghệ.
Từ những phân tích trên đây, có thể xây dựng khái niệm hợp đồng
chuyển giao công nghệ như sau: Hợp đồng chuyển giao công nghệ là sự thỏa
thuận bằng văn bản phù hợp với những thủ tục do pháp luật quy định giữa bên
có quyền chuyển giao công nghệ và bên tiếp nhận công nghệ mà theo đó, bên
chuyển giao có nghĩa vụ chuyển giao một phần hoặc toàn bộ công nghệ, gắn
hoặc không gắn với đối tượng sở hữu công nghiệp cho bên tiếp nhận, bên tiếp
nhận phải thực hiện các cam kết tương ứng với quyền nhận công nghệ.
Như vậy, trong hợp đồng chuyển giao công nghệ có hai bên là bên
chuyển giao và bên nhận chuyển giao.
Bên chuyển giao công nghệ là tổ chức hoặc cá nhân có quyền chuyển
giao công nghệ. Những điều kiện đối với bên chuyển giao công nghệ là những
ràng buộc pháp lý mà bên chuyển giao công nghệ phải tuân thủ nhằm đảm
bảo tính có hiệu lực của hợp đồng chuyển giao công nghệ.

18



×