ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐINH THỊ THU TRANG
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƯỜI VÀ
QUYỀN CÔNG DÂN
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn
chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất
cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa
Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đinh Thị Thu Trang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Hà NỘi - 2013........................................................................................................................1
LỜI CAM ĐOAN...................................................................................................................2
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong
Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích
dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả
các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.......................................................................................................2
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn.. 2
Tôi xin chân thành cảm ơn!....................................................................................................2
NGƯỜI CAM ĐOAN............................................................................................................2
Đinh Thị Thu Trang................................................................................................................2
Chương 1................................................................................................................................7
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN
................................................................................................................................................7
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phạm trù quyền con người qua suốt chiều dài lịch sử đã tốn không ít
giấy mực của các học giả trên toàn thế giới. Quyền con người, hay còn gọi là
“nhân quyền” - từ đồng nghĩa theo Đại từ điển Tiếng Việt là một từ hàm chứa
nhiều ý nghĩa to lớn; nó chứa đựng rất nhiều mồ hôi, nước mắt và có cả
những giọt máu đấu tranh giành quyền lợi chính đáng của cộng đồng nhân
loại trong đó. Quyền con người được nhìn nhận như là các quyền tự nhiên của
con người trong xã hội, có thể hiểu đó là những quyền của con người ở trạng
thái tự nhiên và sơ khai nhất. Đó là các quyền thiêng liêng và bất khả xâm
phạm mà mọi thể chế, nhà nước cần phải thừa nhận.
Quyền con người đã dần được thừa nhận ở mỗi quốc gia và trên toàn thế
giới là một khái niệm toàn cầu mang tính chất quốc tế, được ghi nhận trong
nhiều văn kiện – công trình nghiên cứu về quyền con người. Đây cũng là đề tài
thường nhật được bàn đến dưới nhiều góc độ: triết học, luật học, sử học, chính
trị học, ngôn ngữ học…Từ xưa, quyền con người xuất hiện đã luôn gắn bó với
từng cá thể con người cụ thể vừa với tư cách là một cá nhân vừa với tư cách là
thành viên của một xã hội nhất định. Vì thế, quyền con người vừa có tính chất
cá nhân lại vừa mang trong mình hơi thở của lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc
gia, lợi ích dân tộc. Bên cạnh đó, mang tính toàn diện thì quyền con người phải
là những đặc quyền cần thiết của mỗi cá nhân không có sự phân biệt hay kỳ thị
về tôn giáo, dân tộc, giới tính. Tự bản thân các đặc quyền tự nhiên của con
người chưa thể được gọi là quyền mà cần có yếu tố quyết định đó là yếu tố
pháp lý. Khi được chấp nhận, điều chỉnh, cưỡng chế hoặc ngăn cấm… thì
những đặc quyền nói trên mới trở thành quyền con người. Từ những phân tích
trên, có thể hiểu khái quát về quyền con người là: Quyền con người là khả năng
1
tự nhiên, khách quan của con người, với tư cách là con người và với tư cách là
thành viên xã hội, con người được đảm bảo bằng pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế về quyền con người trong các quan hệ vật chất, văn
hóa và tinh thần, các nhu cầu về tự do và phát triển.
Còn quyền công dân là các quyền con người được mỗi quốc gia thừa
nhận và thể chế hóa vào pháp luật làm cơ sở pháp lý điều chỉnh công dân của
quốc gia mình trong mối quan hệ với các đối tượng khác trong xã hội. Quyền
công dân có đặc điểm gắn với từng hệ thống nhà nước và pháp luật nhất định,
mang đặc thù và tính chất của hệ thống đó. Quyền công dân là khả năng công
dân được thực hiện những hành vi nhất định theo ý chí, theo nguyện vọng,
nhận thức, khả năng lựa chọn của chính mình mà pháp luật không cấm nhằm
đáp ứng nhu cầu, lợi ích của chính công dân đó. Hay nói khác đi, đó chính là
những việc mà công dân - tự khả năng của mình, bằng khả năng của mình
thực hiện một việc cụ thể nào đó ngoại trừ những việc mà pháp luật cấm
không được thực hiện.
Quyền con người và quyền công dân có mối quan hệ gắn bó mật thiết
nhau, không hoàn toàn đồng nhất với nhau nhưng cũng không phủ nhận nhau.
Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân là mối quan hệ biện
chứng vừa có điểm thống nhất lại vừa có nét khác biệt. Đi sâu phân tích tính
thống nhất và sự khác biệt giữa quyền con người và quyền công dân để có cơ
chế pháp lý tốt nhất bảo vệ và thực thi các quyền này trên thực tế là vấn đề
cấp thiết đặt ra trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Vấn đề quyền con người và quyền công dân trong hơn ba thập kỷ gần
đây nhận được nhiều quan tâm của học giả trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng. Nhiều cơ quan, tổ chức ở nước ta cũng đã có các công trình
nghiên cứu, tìm hiểu về quyền con người, quyền công dân cả ở mức độ tổng
2
quan lẫn cụ thể trong từng lĩnh vực. Về quyền con người và mối quan hệ với
quyền công dân đã có một số công trình như: Quyền con người, quyền công
dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, Trung tâm Thông tin Tư liệu trực
thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh, 1993; Phạm Khiêm Ích, Trần Văn Hảo,
Quyền con người trong thế giới hiện đại, Viện Thông tin khoa học xã hội,
1995; Phạm Văn Khánh, Góp phần tìm hiểu quyền con người, NXB Khoa học
xã hội, 2006; Nguyễn Đăng Dung, Tính nhân bản của hiến pháp và bản tính
của các cơ quan nhà nước, NXB Tư pháp, 2004; Nguyễn Văn Động, Các
quyền hiến định về xã hội của công dân Việt Nam, NXB Tư pháp, 2004;
Nguyễn Văn Động, Các quyền hiến định về chính trị của công dân Việt Nam,
NXB Tư pháp 2006; Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Những nội
dung cơ bản về quyền con người, NXB Tư pháp 2007;…
Các công trình trên nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân ở
mức độ tổng quan có, trong từng lĩnh vực cụ thể có. Nhìn chung, các đề tài
nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân mới chỉ dừng lại nghiên cứu
về quyền con người hoặc một khía cạnh của quyền con người có liên quan với
các phạm trù khác, chưa có nhiều đề tài đi sâu nghiên cứu mối quan hệ giữa
quyền con người và quyền công dân.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Sơ lược về lịch sử tư tưởng, nhận thức về quyền con người, quyền
công dân.
Làm rõ khái niệm về quyền con người, tính chất, đặc điểm của quyền
con người
- Làm rõ khái niệm quyền công dân, đặc điểm, tính chất quyền. Khái
niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân trong hiến pháp.
3
- Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền
công dân thể hiện ở tính thống nhất và khác biệt giữa chúng.
- Thực trạng vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở Việt
Nam và một số phương hướng, giải pháp thúc đẩy và bảo vệ quyền con
người, quyền công dân ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được những mục đích đã đề ra ở trên, trong quá trình nghiên
cứu, luận văn cần giải quyết được các vấn đề sau:
- Nghiên cứu làm rõ chiều dài lịch sử tư tưởng nhận thức về quyền con
người, quyền công dân qua các thời kỳ.
- Nêu, phân tích được những khái niệm, đặc điểm, tính chất của quyền
con người và quyền công dân.
- Nêu, phân tích mối quan hệ biện chứng gần gũi mật thiết giữa quyền
con người và quyền công dân. Chỉ rõ quyền con người và quyền công dân
không hoàn toàn đồng nhất với nhau mà có tính thống nhất và cũng có những
điểm khác biệt.
- Nêu, phân tích thực trạng bảo vệ quyền con người, quyền công dân ở
nước ta hiện nay, từ đó đề ra được những giải pháp phù hợp để việc bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người hiệu quả nhất.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù lớn đã tốn nhiều
giấy mực của nhiều học giả trên thế giới, các vấn đề xoay quanh hai phạm trù
này cũng rất đa dạng nhận được nhiều sự quan tâm. Với sự giới hạn của
chương trình, thời gian, năng lực và khả năng tài chính, đề tài chỉ tập trung và
dừng lại ở phạm vi nghiên cứu về mối quan hệ giữa quyền con người và
quyền công dân, cơ chế pháp lý bảo vệ quyền con người và quyền công dân
trong pháp luật Việt Nam.
4
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để phù hợp với đề tài đã chọn, nội dung cần nghiên cứu, thời gian cho
phép, năng lực tài chính, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu
tập hợp và phân tích văn bản. Bên cạnh đó, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, có thêm một số phương pháp
được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phân tích,
tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Điểm mới của đề tài
- Nghiên cứu một cách có hệ thống từ khái niệm, đặc điểm, tính chất
của quyền con người và quyền công dân cũng như mối liên hệ khăng khít
không thể tách rời giữa quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam.
- Phát hiện những khó khăn và thách thức còn tồn tại trong thực trạng
bảo vệ quyền con người, quyền công dân tại Việt Nam, tìm ra nguyên nhân
của thực trạng đó. Đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm bảo vệ và
thúc đẩy quyền con người, quyền công dân có hiệu quả trên thực tế.
7. Nội dung nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
- Lịch sử tư tưởng về quyền con người, quyền công dân
- Khái niệm, đặc điểm quyền con người
- Khái niệm, đặc điểm quyền công dân
- Mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền công dân
- Những khó khăn và thách thức trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con
người, quyền công dân.
- Một số giải pháp đề ra để việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người,
quyền công dân hiệu quả cao trên thực tế.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về mặt lý luận: Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể
5
được khai thác, sử dụng trong công tác nghiên cứu lý luận về quyền con
người, quyền công dân và có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu về
quyền con người, quyền công dân và mối liên hệ giữa chúng ở nước ta
- Về mặt thực tiễn: Các cơ quan hành pháp, các tổ chức nhân quyền
trong nước, các cán bộ công quyền có thể khai thác, vận dụng những kết quả
nghiên cứu của luận văn để tập huấn, nâng cao chất lượng, hiệu quả trong
công tác bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn có bố cục như sau:
Chương 1: Lịch sử tư tưởng nhận thức về quyền con người, quyền công
dân
Chương 2: Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Chương 3: Thực trạng và một số phương hướng bảo vệ quyền con
người, quyền công dân.
6
Chương 1
LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG NHẬN THỨC VỀ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN
1.1. Các giai đoạn phát triển quyền con người, quyền công dân qua
các chế độ xã hội
Ở bất cứ thời kỳ nào, nhân loại cũng luôn dành sự quan tâm tới vấn đề
mang cả ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn: vấn đề quyền con người
và quyền công dân. Sự phát triển của quyền con người, quyền công dân qua
từng giai đoạn lịch sử là dấu ấn rõ nét ghi lại kết quả của các cuộc đấu tranh
giai cấp, cách mạng, xã hội. Vì cho dù xét trên khía cạnh nào thì quyền con
người, quyền công dân cũng ít nhiều thể hiện lợi ích của các tầng lớp trong xã
hội, và một khi đã liên quan tới lợi ích thì sẽ khó mà không xảy ra những
xung đột từ đó dẫn tới đấu tranh vì nó.
Ăng ghen đã nói: “Lịch sử không làm gì hết, nó không có tính phong
phú vô cùng tận nào cả, nó không chiến đấu ở những trận nào cả. Không
phải lịch sử mà chính là con người, con người thực sự, con người sống mới
là kẻ làm ra tất cả những cái đó” [4, t2, tr141].
Như vậy, lịch sử chỉ đóng vai trò chứng kiến, ghi lại sự phát triển của
quyền con người, quyền công dân qua từng giai đoạn như nó đã làm đối với
các sự vật hiện tượng khác vậy. Câu hỏi đặt ra là: Lịch sử đã ghi lại từng thời
kỳ phát triển của quyền con người, quyền công dân, vậy những tư tưởng này
xuất hiện từ khi nào và các giai đoạn phát triển của nó ra sao?.
Theo một số học giả, những tư tưởng về quyền con người, quyền công
dân xuất hiện và được ghi dấu ấn đầu tiên cùng với sự xuất hiện của văn minh
cổ đại. Văn kiện được chú ý nhất và được đánh giá là chứa đựng các tư tưởng
thành văn rõ nét về quyền con người, quyền công dân là Bộ luật Hammurabi
7
do nhà vua Hammurabi xứ BaBylon ban hành (thời điểm vào khoảng năm
1780 trcn). Nhà vua xứ này đã thể hiện tấm lòng thương dân của một vị vua
anh minh khi thiết lập ra đạo luật để xác định ranh giới quyền của thần dân
vương quốc mình sử dụng nó như một công cụ để “ngăn ngừa những kẻ
mạnh áp bức kẻ yếu” [11,tr226]
Có thể nói đây là văn kiện đầu tiên thể hiện những tư tưởng về quyền
con người, quyền công dân phản ánh cái nhìn của giai cấp thống trị đối với
tầng lớp thấp quyền hơn, tuy rằng mới chỉ mang tính sơ khai.
Sau bộ luật Hammurabi, nhân loại có thêm nhiều văn bản pháp luật
khác đề cập tới những giá trị cơ bản của quyền con người, quyền công dân.
Dù được thể hiện ở văn bản nào và là ý chí của nhà tư tưởng nào đi nữa thì
quyền con người, quyền công dân cũng luôn gắn bó mật thiết với lập trưởng,
lợi ích của giai cấp thống trị.
Xét cho cùng thì vẫn là vấn đề lợi ích, ở chế độ nào thì giai cấp thống trị
cũng luôn tìm mọi phương cách để xác lập quyền và lợi ích của mình đối với
tầng lớp bị trị và điều đó khiến chúng có nhiều cách giải thích khác nhau về
quyền con người, quyền công dân để hợp thức hóa và xác lập địa vị của mình.
Ở xã hội chiếm hữu nô lệ, người nô lệ là giai cấp bị trị với quyền và lợi
ích luôn bị chi phối bởi tầng lớp thống trị của chế độ này là giai cấp chủ nô.
Đúng với quy luật của lịch sử, tầng lớp bóc lột khi bị đẩy vào đường cùng thì
đấu tranh là hành động tất yếu xảy ra, và những cuộc khởi nghĩa giành lại
những quyền chính đáng đã bị giai cấp thống trị tước mất nổ ra. Xã hội chiếm
hữu nô lệ - đại diện cho chế độ xã hội phân chia giai cấp đầu tiên đã bị sụp đổ
bởi sự đấu tranh giành lại quyền làm người, quyền tự do. Sự kiện này đánh dấu
mốc rằng con người đã dần nhận thức được quyền của mình trong xã hội và bắt
đầu đứng lên bảo vệ chúng với ý thức gìn giữ giá trị quyền cơ bản chứ không
chỉ mang ý nghĩa đấu tranh vì những lợi ích kinh tế trực tiếp trong đời sống.
8
Xã hội chiếm hữu nô lệ sụp đổ là thành quả đấu tranh của tầng lớp bị trị
mà không thiếu được sự kết hợp từ quá trình đào thải của xã hội khi một chế
độ không còn phù hợp. Tưởng chừng như “con người nô lệ” sẽ được tận
hưởng những giá trị quyền mà mình đáng được có nhưng không, xã hội mới –
xã hội phong kiến cũng đi tiếp con đường mà xã hội chiếm hữu nô lệ để lại.
Trong xã hội phong kiến cũng phân chia giai cấp thống trị và bị trị rõ rệt, và
tất nhiên quyền và lợi ích được nhắc đến và bảo vệ là của tầng lớp nắm quyền
trong xã hội. Người nông dân cũng bị đàn áp và là tầng lớp “vô quyền” như
người nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước đó, có chăng chỉ khác nhau về
tên gọi và các hình thức bóc lột mà thôi. Với tính chất của chế độ xã hội như
vậy, tư tưởng về quyền con người, quyền công dân, quyền tự do của con
người – công dân trong xã hội khó mà được thể hiện rộng rãi và chính thống.
Chỉ có một số ít những văn kiện pháp lý thời kỳ này tồn tại được và để lại giá
trị nghiên cứu tới thời điểm ngày nay, trong số đó không thể không nhắc tới
Hiến chương Magra Carta do vua John của nước Anh ban hành năm 1215.
Bản Hiến Chương được các nhà nghiên cứu về quyền con người, quyền công
dân đánh giá cao về giá trị nhân văn sâu sắc. Khi có những quy định bảo vệ
quyền của tầng lớp yếu trong xã hội một cách rõ nét. Dưới sự bóc lột, chèn ép
của tầng lớp chuyên chế, giai cấp bị trị một lần nữa đứng dậy đấu tranh giành
lại những đặc quyền mà đáng lý ra con người nào cũng được hưởng chứ
không phải chỉ dành riêng cho tầng lớp “bề trên” như hiện tại.
Giai cấp tư sản với sự khôn khéo của mình đứng lên với khẩu hiệu sẽ
đem lại tự do bình đẳng cho mọi người trong xã hội để kêu gọi được người
dân trong xã hội phong kiến lật đổ chế độ chuyên chế hiện tại.
Với vũ khí là cam kết đem lại là một xã hội dân chủ, tự do, bình đẳng;
mọi người được sống, được hưởng những quyền và lợi ích chính đáng, giai
cấp tư sản đã giành được niềm tin của người dân. Thời kỳ này, nhiều tư tưởng
9
về quyền con người, quyền công dân được đề cập và nhắc đến như những học
thuyết thực sự. Trong các thế kỷ XVII – XVIII, nhiều nhà triết học mà tiêu
biểu là Thomas Hobbes (1558 – 1679), John Locke (1632 – 1704), Thomas
Paine (1731 – 1809), Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831), Henry
David Thoreau (1817 – 1862)…đã đưa ra những luận giải về rất nhiều vấn đề
lý luận cơ bản của quyền con người, đặc biệt là về các quyền tự nhiên và
quyền pháp lý, mà vẫn còn có ý nghĩa quan trọng với việc bảo vệ và thúc đẩy
các quyền con người trong thời đại ngày nay. Các nhà tư tưởng học trên
hướng sự nghiên cứu của mình tới quan điểm con người tự nhiên, ở đó con
người có quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do, quyền được chiếm hữu
tài sản…Quyền của con người theo quan điểm này là những quyền tự nhiên
nhất có từ khi con người sinh ra nhưng nó cũng mang cả ý nghĩa về mặt pháp
lý và được coi là nền tảng của quyền lực nhà nước.
Giai cấp tư sản đã đạt được điều mà nó muốn là lật đổ chế độ chuyên
chế phong kiến dưới sự giúp sức to lớn của tầng lớp bị trị trong xã hội. Khi
đã đạt được mục đích thì ít nhiều giai cấp tư sản cũng cần thực hiện những
cam kết về quyền cho giai cấp bị bóc lột. Vì lẽ đó, các quyền con người,
quyền công dân đã được ghi nhận và thể hiện tập trung ở chế định về quyền
– địa vị pháp lý – vị trí xã hội của công dân trong Hiến pháp và pháp luật
của nhà nước. Với hành động này thì dù biết rằng giai cấp thống trị nào
cũng chỉ chăm chăm xác lập, bảo vệ quyền lợi của giai cấp mình nhưng
cũng không thể phủ nhận giai cấp tư sản đã ghi một dấu mốc khá quan
trọng trong lịch sử: đưa quyền con người, quyền công dân tiến lên một nấc
thang mới đó là được thừa nhận trong văn kiện có giá trị pháp lý lớn nhất
của quốc gia: Hiến pháp và luật.
Điểm sáng nổi bật của giai cấp tư sản nắm quyền đó là đã xác lập và
thừa nhận quyền con người, quyền công dân tại hai bản Tuyên ngôn quan
10
trọng trong lịch sử tư tưởng về quyền con người, quyền công dân đó là Tuyên
ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ năm 1776; Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của cách mạng Pháp năm 1789. Hai bản tuyên ngôn này được đánh giá
là những văn kiện quan trọng trong chiều dài phát triển của tư tưởng quyền
con người, quyền công dân, chúng được coi là bản cương lĩnh chính trị và là
hình thức pháp lý thành văn rõ rệt nhất để khẳng định và bảo vệ quyền của
giai cấp tư sản.
Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 là văn bản chính trị tuyên bố ly
khai khỏi Anh của 13 nước thuộc địa Bắc Mỹ được tuyên bố vào tháng 7 năm
1776. Nội dung chính của bản Tuyên ngôn được xây dựng dựa trên những
quan điểm và tư tưởng của một triết học gia người Anh John Locke. Theo nhà
triết học này thì ba quyền cơ bản của loài người mang tính tự nhiên nhất
không đối tượng nào có thể tước bỏ được đó là quyền sống, quyền tự do và
quyền có tài sản. Quyền sở hữu tài sản được Jefferson nói tới trong Tuyên
ngôn đó là quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên bố dõng dạc trong Tuyên ngôn:
“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [38,tr152] đã ghi một dấu ấn
đậm trong lịch sử nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân.
Nếu ở Mỹ có cuộc cách mạng của 13 thuộc địa ở phía Bắc để tuyên bố
độc lập với đế chế Anh thì không lâu sau đó ở Pháp cũng đã nổ ra cuộc cách
mạng thứ hai của tầng lớp thợ thuyền, trí thức và một số thị dân đứng lên lật
đổ nền quân chủ chuyên chế. Tuyên ngôn được công bố ngày 14/7/1789 bao
gồm 17 điều khoản. Văn kiện này khẳng định quyền tự do bình đẳng của con
người. Chủ quyền thuộc về nhân dân, quyền lực của nhà vua cùng chế độ
đẳng cấp trong xã hội phong kiến bị bãi bỏ; xác lập quyền sở hữu tài sản tư
nhân, quyền tự do dân chủ… Các nội dung cơ bản của Tuyên ngôn đã phản
11
ánh ý chí nguyện vọng của cộng đồng nhân dân Pháp thời kỳ này và là bước
cụ thể hóa các ý tưởng của khẩu hiệu: “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Cho tới bản
Tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân này thì những quyền cơ
bản của con người không chỉ được gọi tên chung chung như trong bản Tuyên
ngôn của Mỹ năm 1776 nữa mà đã được cụ thể hóa thành các quyền nhất
định, ví dụ: quyền được tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền được sở
hữu tài sản, được đảm bảo an ninh và chống áp bức… Cho dù có thể thấy rõ
điểm tiến bộ của văn kiện này so với các học thuyết khác thì nó cũng có điểm
chưa làm được đó là: bản Tuyên ngôn đã chưa hề đề cập tới địa vị của người
phụ nữ cũng như người nô lệ - hai đối tượng được coi là “kẻ yếu” trong xã
hội.
Đạo luật cao nhất của một quốc gia là Hiến pháp dù là được hình thành
trong chế độ xã hội nào: các nước tư bản, các nước đang phát triển, các nước
XHCN… thì cũng đều có điểm chung là xây dựng chế định về quyền con
người, quyền công dân. Điều này chỉ ra rằng, gia cấp thống trị bằng những
cách nào đó, luôn nêu lên mục tiêu hướng tới là đảm bảo quyền con người,
quyền công dân và cũng là để đảm bảo hợp thức hóa được sự thống trị của
chúng. Bên cạnh đó thì quyền con người, quyền công dân cũng luôn luôn là
vấn đề được tầng lớp nắm quyền quan tâm và sử dụng như một phương tiện
để thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Không nằm ngoài quy luật như giai cấp thống trị ở các thời kỳ xã hội
khác; giai cấp tư sản cũng chỉ đảm bảo quyền và lợi ích phần nhiều cho
chúng. Còn quyền con người, quyền công dân đích thực và đầy đủ như chúng
rêu rao thì hoàn toàn không được thừa nhận một cách toàn diện mà chỉ trong
giới hạn đảm bảo đủ quyền và vị thế thống trị của giai cấp chúng mà thôi.
Cụ thể là, vào cuối thế kỷ 19, giai cấp tư sản đã lộ dần bản tính tham
lam của mình khi có ý đồ xâm chiếm lãnh thổ mở rộng quyền cai trị hơn nữa.
12
Để bành trướng được thuộc địa thì không thủ đoạn nào mà giai cấp cầm
quyền lại không làm: áp bức bóc lột, chiến tranh vũ trang, nô dịch dân tộc bị
chiếm đóng,...; với những hành động đó có thể thấy xét ở khía cạnh nào thì
giai cấp tư sản cũng đã phát động những cuộc đấu tranh chống lại loài người,
lúc này quan niệm về quyền con người, quyền công dân mà chúng tạo nên đã
dần lung lay.
Trải qua ba hình thái xã hội thì chế định về quyền con người, quyền
công dân đều đã bộc lộ những khiếm khuyết, cuối cùng hình thái nhà nước lý
tưởng của các giai cấp xã hội cũng đã xuất hiện – hình thái nhà nước xã hội
chủ nghĩa. Sự xuất hiện của chủ nghĩa xã hội phần nào đã đáp ứng được mong
đợi của các nhà tư tưởng học vì đã cải thiện được những hạn chế của các chế
độ xã hội trước đó trong việc giải quyết vấn đề quyền con người, quyền công
dân. Trên thực tế, chủ nghĩa xã hội cũng ghi nhận và bảo đảm được quyền con
người, quyền công dân ở phạm vi rộng rãi hơn.
Trong xã hội chủ nghĩa, các quyền con người và quyền công dân được
thể hiện rộng rãi trong các quyền về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa; đặc
biệt còn được ghi nhận trong các quyền độc lập và tự quyết của dân tộc.
Chủ nghĩa xã hội đã khiến quyền con người và quyền công dân được
ghi nhận rộng rãi trong các văn bản pháp lý của các quốc gia. Mỗi quốc gia có
hệ thống văn bản pháp luật riêng của mình để thể hiện chủ quyền độc lập, qua
đó khẳng định tư tưởng nhất định về quyền con người và quyền công dân.
Về phương diện pháp lý, các nước xã hội chủ nghĩa đã có hệ thống các
văn bản pháp luật quy định rộng rãi các quyền công dân; đặc biệt là trong Hiến
pháp – đạo luật cao nhất của mỗi quốc gia. Các quyền con người, quyền công
dân đã thể hiện tính ưu việt hơn so với cũng các quyền này trong xã hội tư bản.
Ví dụ cụ thể như các quyền: quyền bầu cử được áp dụng rộng rãi cho tất cả các
đối tượng công dân trong xã hội khi đáp ứng một số điều kiện cơ bản; những
13
người lao động bình thường trong xã hội tham gia vào các cơ quan quyền lực
nhà nước chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều trong các chế độ xã hội trước đó.
Tuy nhiên, cũng như các chế độ xã hội khác, chủ nghĩa xã hội cũng có
những nhược điểm nhất định trong việc quy định và công nhận quyền con
người, quyền công dân. Một trong những nhược điểm đó là sự hạn định của
các điều kiện kinh tế - xã hội; những hạn chế của cơ chế quản lý chính trị;
quyền con người, quyền công dân ở các nước xã hội chủ nghĩa vẫn mang tính
hình thức. Quyền và tự do của người dân chưa được tôn trọng triệt để. Đó
cũng là một trong các nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ
nghĩa Liên Xô và Đông Âu trong lịch sử.
Chủ nghĩa xã hội ra đời dưới con mắt của giai cấp không nắm quyền
thế trong tay cũng như của các nhà phân tích thì đều được coi là hình thái xã
hội tiến bộ và ưu việt hơn các nhà nước trước đó. Vậy, với hình thái xã hội
chủ nghĩa thì quyền con người, quyền công dân đáng lẽ sẽ có nền tảng vững
chắc để phát triển cả về phương diện lý luận và thực tiễn chế không phải vẫn
tồn tại những nhược điểm. Vấn đề đặt ra ở đây là sự mâu thuẫn về phương
diện lý luận và thực tiễn của mục đích hoạt động mà chủ nghĩa xã hội đề ra.
Chủ nghĩa xã hội với phương châm đề ra là vì con người, vì hạnh phúc và các
quyền lợi chính đáng của con người mà đấu tranh và hoạt động cũng trên
phương châm đó. Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích đã chỉ ra rằng, trước đây
trong nhiều thập kỷ đầu của chủ nghĩa xã hội thì khái niệm quyền con người
dường như bị phủ nhận. Thời điểm này, thuyết pháp luật tự nhiên từng đưa ra
quan điểm rằng con người là sản phẩm của giới tự nhiên, bản thân con người
khi sinh ra đã mang các quyền tự nhiên vốn có. Xét về mặt ưu điểm thì học
thuyết này đã rất tiến bộ so với các học thuyết trước đây khi công khai thừa
nhận quyền tự do và các quyền lợi chính đáng khác mà con người được
hưởng. Bên cạnh ưu điểm đó thì học thuyết cũng có nhược điểm đó là đã
14
tuyệt đối hóa “tính tự nhiên” của quyền con người mà không đặt nó vào một
khuôn khổ pháp lý để được thừa nhận.
Từ các quan điểm của thuyết tự nhiên, có thể thấy rằng chỉ khi quan
niệm quyền con người là thuộc tính chính đáng và vốn có của con người được
thừa nhận và bảo vệ trong xã hội pháp lý để hình thành nên quyền công dân
mới là quan điểm đúng đắn trong xã hội chủ nghĩa.
1.2. Lịch sử quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam
Nước ta không phải là nơi sản sinh ra thuật ngữ nhân quyền nhưng rất
giàu truyền thống nhân đạo, nhân văn và khái nhiệm nhân quyền đi liền với
tinh thần nhân đạo, tình cảm yêu thương con người, tính nhân nghĩa, nhân ái.
Nhân dân Việt Nam yêu chuộng hòa bình và các giá trị nhân văn, cởi mở với sự
đa dạng và dung hợp trong tiếp nhận giá trị từ bên ngoài. Tư tưởng nhân quyền
ở Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần nhân đạo. Điều này đã tồn tại từ rất sớm
trong lịch sử thành văn của dân tộc. Quyền con người, quyền công dân ở nước
ta cũng trải qua các thời kỳ tương tự như lịch sử phát triển các quyền này trên
thế giới: Từ tư tưởng nhân quyền nhen nhóm trong văn học xưa, đến tư tưởng
nhân quyền được cụ thể hóa trong các tập quán và bộ luật thời phong kiến, đến
tư tưởng nhân quyền cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (thời Pháp thuộc) và tư
tưởng nhân quyền từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 tới nay.
Bầu ơi thương lấy bí cùng.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Ở hiền thì lại gặp lành
Ở dữ gặp ác tan tành như tro
Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày
[14, tr121,122]
Tư tưởng về quyền con người ở nước ta đã được thể hiện từ rất sớm
15
qua các câu ca dao, tục ngữ. Bên cạnh các thành ngữ, ca dao, tục ngữ cũng có
một số sự tích nói lên quyền tự do của con người cho dù chỉ là manh nha như
sự tích về Mai An Tiêm nêu lên quyền và khát vọng tồn tại của người Việt cổ,
sự tích về Tiên Dung và Chử Đồng Tử nói lên quyền tự do luyến ái của nam
nữ. Nhiều truyện cổ tích, thần thoại hay truyền thuyết khác đều có nội dung
ca ngợi quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người.
Đến thời kỳ trung đại, tư tưởng nhân quyền đã được nhắc đến trong
nhiều thể loại tác phẩm và có dạng thành văn hơn so với thời kỳ trước. Các
danh nhân và tác phẩm để lại của họ cũng đã mang đậm tính nhân quyền sâu
sắc. Tiêu biểu thời kỳ này có thể kể đến một số tác giả nổi bật như: Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…
Nguyễn Trãi – một anh hùng tân tộc của Việt Nam, một danh nhân văn
hóa thế giới - với tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” năm 1428. Tác phẩm này đã
thể hiện rõ ý chí độc lập, tự cường của dân tộc Việt cũng như việc lấy dân làm
gốc. Cáo bình Ngô được nhiều học giả coi như bản “Tuyên ngôn độc lập” thứ
hai của nước ta (sau bài Nam quốc sơn hà).
Tác phẩm “Văn tế thập loại chúng sinh” hay còn gọi là Văn chiêu
hồn (chưa rõ thời điểm sáng tác) của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du thể
hiện rõ nét tính nhân ái và cái “tình trong” tác phẩm. Tấm lòng nhân ái bao
la của đại thi hào chủ yếu hướng tới các thân phận bé nhỏ trong xã hội, tác
giả khóc cho những người đã khuất qua đó bàn về đời sống và khổ đau của
chúng sinh thời bấy giờ.
Hồ Xuân Hương cũng là một văn sĩ nổi tiếng với nhiều tác phẩm thể
hiện rõ quan điểm về các quyền con người thời kỳ này. Từ cuộc đời tài hoa
nhưng nhiều bất hạnh của bà, bà đã có cái nhìn sâu sắc về thân phận người
phụ nữ trong xã hội, về những bất công họ phải chịu đựng và các quyền
chính đáng mà họ đáng được nhận. Bà sống gần gũi với những người dân
16
lao động nghèo khổ, tiếp xúc với nhiều phụ nữ bị áp bức trong xã hội. Một
số bài thơ đặc sắc của bà thể hiện tiếng nói phản kháng trật tự xã hội phong
kiến bấy giờ và mang đậm tính nhân văn như: Lấy chồng chung, Thân phận
đàn bà, Bánh trôi nước….
Ở xã hội phong kiến, tư tưởng nhân quyền đã được thể hiện trong tập
quán và pháp luật thời kỳ này rõ nhất thông qua các bộ luật: Quốc Triều hình
luật (thế kỷ XV), Hoàng Việt luật lệ (năm 1843), Lệ làng
Quốc Triều hình luật hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức (thế kỷ XV). Là
bộ luật được ban hành để trừng trị những người có tội bằng những đạo luật hà
khắc, tuy nhiên bộ luật này cũng chứa đựng nhiều quy định rất nhân văn. Bộ
luật đã có quy định về ân xá cho người phạm tội (Tại điều 15 chương Danh
Lệ); quy định xử phạt bằng tiền thay cho hình phạt hà khắc cho người già và
trẻ em dưới 15 tuổi nếu họ phạm những tội không phải tội thập ác; con cháu
mà chịu tội thay cho bố mẹ, ông bà thì được giảm một bậc…
Hoàng Việt luật lệ hay còn gọi là Hoàng triệu Luật lệ hay Quốc triều
Điều luật là bộ luật chính thức của Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn do Bắc
thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành soạn thảo và vua Gia Long cho ban
hành năm 1813. Bộ luật gồm 22 quyển và 398 điều. Bộ luật này chứa đựng
nhiều phần và quy định mang đậm tính nhân bản. Bộ luật có quy định bảo
vệ thường dân cơ hàn bệnh tật qua luật về quan lại công chức, nếu biết dân
bị bệnh tật khổ sở mà không báo cáo thì quan lại ấy bị cách chức, nếu đã
báo cáo lên trên mà trên vẫn không xem xét thì quan trên ấy cũng bị cách
chức. Bộ luật cũng có quy định nhân đạo ở chỗ nếu hai anh em trai trong
gia đình đều bị phạm tội tử thì một người sẽ được ở lại để chăm cha mẹ sau
khi đã tâu lên vua.
Lệ làng Việt Nam được coi là tập quán pháp luật tồn tại song song với
hệ thống pháp luật của nhà nước. Ở nước ta có câu “phép vua thua lệ làng”,
17
đây được coi là văn bản phản ánh nếp sống, suy nghĩ, quan hệ giữa con người
trong phạm vi làng xã cổ truyền, mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Lệ làng
mỗi nơi mỗi khác, tuy nhiên nói chung đều có các quy định về việc người
đánh được kẻ gian thì được trọng thưởng; người nào chứa chấp kẻ gian dung
túng cho phường cướp bóc thì sẽ bị trừng trị; trong làng người nào không tuân
theo Lệ làng thì sẽ bị phạt…
Giai đoạn cuối thế kỳ XIX đầu thế kỷ XX hay còn gọi là giai đoạn Pháp
thuộc là giai đoạn nhân dân cả nước bất khuất kiên cường, biến đau thương
thành hành động chống lại đế quốc xâm lược Pháp. Trong bối cảnh chiến
tranh đó, tư tưởng về dân chủ, nhân quyền đã được nhiều nhà cách mạng yêu
nước kế thừa từ truyền thống văn hóa trong nước và tiếp thu nước ngoài. Tư
tưởng nhân quyền được phổ biến như là một vũ khí đấu tranh, một phương
tiện vận động nhân dân đứng lên giành và giữ độc lập dân tộc, bảo vệ chủ
quyền đất nước, bảo vệ phẩm giá cho con người Việt Nam. Tiêu biểu trong
thời kỳ này có thể kể đến các tổ chức và các tác phẩm nổi tiếng như: Đông
Kinh nghĩa thục với tác phẩm “Văn minh tân học sách” năm 1907; Phan Bội
Châu với “Nam quốc dân tu tri” năm 1926; Phan Châu Trinh với “Đầu Pháp
chính phủ thư”, “Tây Hồ thi tập”; Nguyễn An Ninh; và tiêu biểu là Nguyễn
Ái Quốc với tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”
Một phần là tiếp thu truyền thống văn hóa từ thời kỳ trước, một phần là
ảnh hưởng của tiến bộ cách mạng Pháp; trong thời kỳ này một số quyền tự do
cá nhân có thể kể đến như: quyền bình đẳng nam – nữ, quyền tự do ngôn luận,
quyền bình đẳng trước tòa án, quyền được bào chữa trong tố tụng ... đã được
thừa nhận và thực hiện.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm những người Việt Nam
yêu nước tại Pháp đã soạn và gửi yêu sách của nhân dân Việt Nam tới nghị
viện pháp và tất cả các đoàn tham gia Hội nghị Véc xây (Pháp), Nội dung tác
18
phẩm tố cáo thực dân Pháp dùng mọi thủ đoạn khốc liệt bắt "dân bản xứ" phải
đóng "thuế máu" cho chính quốc... để "phơi thây trên chiến trường Châu Âu";
đày đoạ phụ nữ, trẻ em "thuộc địa"; các thống sứ, quan lại thực dân độc ác
như một bày thú dữ, v.v. Tác phẩm hướng các dân tộc bị áp bức đi theo con
đường Cách mạng Tháng Mười Nga, tiêu diệt hai cái vòi của con đỉa đế quốc
– một vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc, một vòi bám vào nhân dân
thuộc địa. Tác phẩm đề ra cho nhân dân Việt Nam con đường đấu tranh giải
phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin. Bản án đã lên án chế độ cai trị
thuộc địa tàn bạo, vô nhân đạo của thực dân Pháp và đòi các quyền độc lập, tự
quyết cho các dân tộc thuộc địa.
Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho tới nay. Điểm
nổi bật trong giai đoạn này cần nhắc tới đó là bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ
tịch Hồ Chí Minh soạn và đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945. Bản
tuyên ngôn trích dẫn những luận điểm bất hủ về quyền con người, quyền công
dân từ hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ. Sau đó là những tư tưởng quyền
con người trong Hiến pháp 1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Ưu
điểm nổi bật của bản hiến pháp này là mặc dù được soạn thảo và thông qua
trong những năm đầu của chính quyền nhân dân còn non trẻ mà đang phải tập
trung rất nhiều các công việc đối nội đối ngoại nhưng vẫn mang đậm dấu ấn
nhân văn. Thể hiện rõ nhất trong Hiến pháp đó là Chương II “Nghĩa vụ và
quyền lợi công dân”. Hiến pháp 1946 đã xác lập về mặt pháp lý thân phận của
người dân Việt Nam từ thân phận của những người nô lệ dưới chế độ đô hộ
thành công dân – người chủ của một quốc gia và trao cho họ những quyền và
lợi ích chính đáng.
Đến giai đoạn từ năm 1954-1975, người dân cả nước chịu cảnh chia cắt
hai miền với hai chế độ xã hội khác nhau dẫn tới cách tiếp cận về quyền con
người mang hai dấu ấn khác nhau. Ở miền Bắc các quyền tập thể được đề cao
19
còn một số quyền cá nhân bị hạn chế, ngược lại so với ở miền Nam quyền cá
nhân lại được coi trọng hơn do chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp quyền từ
các nhà nước tư bản.
Từ năm 1975 cho tới nay, các tư tưởng về nhân quyền ở nước ta có một
bước phát triển mới khi Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc năm 1977 và bắt
đầu tham gia nhiều điều ước quốc tế về quyền con người trong đó có cả hai
công ước cơ bản là Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR)
và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR)
Giai đoạn bắt đầu công cuộc đổi mới từ năm 1986 tới nay, nước ta có
nhiều nỗ lực hơn trong việc bảo vệ và phát triển quyền con người, quyền công
dân qua các Nghị quyết của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Thời kỳ này Nhà nước
ta cũng chú trọng hoàn thiện hơn các chế định pháp luật về quyền con người,
quyền công dân. Điều này được thể hiện qua sự tiến bộ về quy định các quyền
trên qua các Hiến Pháp từ Hiến pháp 1959 đến Hiến pháp 1980, Hiến pháp
1992 sửa đổi bổ sung 2001 và sắp tới đây sẽ tiếp tục sửa đổi Hiến pháp 1992.
1.2.1. Lý thuyết về quyền con người
Khái niệm về quyền con người
Lịch sử phát triển quyền con người cho thấy, quyền con người là một
giá trị nhân văn và tiến bộ gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người, trở
thành tiếng nói cho tự do, bình đẳng và công bằng xã hội. Xét về bản chất,
quyền con người vẫn là động lực và mục tiêu đấu tranh của quần chúng nhân
dân lao động bị áp bức, bóc lột; của các phong trào giải phóng, của các lực
lượng dân chủ, tiến bộ và hòa bình trên thế giới.
Quyền con người có một số thuộc tính cơ bản mà đa số học giả trên thế
giới đều thừa nhận:
- Quyền con người luôn gắn bó chặt chẽ với từng con người vừa với tư
cách là một cá nhân vừa với tư cách là thành viên của xã hội. Vì thế, nó vừa
mang tính tự do cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, cộng đồng, dân tộc.
20
- Quyền con người phải là sự cần thiết cho từng cá nhân, không phân
biệt sắc tộc, tôn giáo, giới tính…
- Quyền con người phải được pháp luật ghi nhận.
Từ những đặc tính cơ bản của quyền con người như trên sẽ rút ra được
khái niệm về quyền con người mà theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy
LHQ thì khái niệm này được công nhận rộng rãi nhất. Quyền con người là
những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm,
những sự cho phép và tự do cơ bản của con người. Như vậy, quyền con người
đều có khi con người vừa được sinh ra, bởi họ là con người và quyền đó được
công nhận trên phạm vi toàn cầu.
Quyền con người là khả năng tự nhiên, khách quan của con người, với
tư cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, con người được đảm
bảo bằng pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế về quyền con
người trong các quan hệ vật chất, văn hóa và tinh thần, các nhu cầu về tự do
và phát triển.
Khái niệm quyền con người là sản phẩm của quá trình lịch sử và sự
phát triển của tư duy nhân loại kể từ khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối
kháng. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất trong việc xác định
nội hàm của khái niệm này một cách chính xác, do chỗ, vấn đề quyền con
người luôn gắn bó mật thiết với lập trường lợi ích của các giai cấp thống trị,
mỗi giai cấp thống trị có cách giải thích riêng nội dung của quyền con người
để phù hợp với việc xác lập và củng cố địa vị thống trị của giai cấp mình.
Cho đến Tuyên ngôn về nhân quyền năm 1948 đã khẳng định rằng:
“Quyền con người là quyền bẩm sinh vốn có, bình đẳng với tất cả mọi người.
Nó không thể bị tước đoạt hay hạn chế tùy tiện bởi bất cứ ai, Nhà nước nào,
nó không thể phân chia và hạn chế bất cứ một phần hay toàn bộ các quyền
con người nào” [36,tr48]. Như vậy, quyền con người là phạm trù mang tính
21
chất quốc tế, vượt ra ngoài lãnh thổ một quốc gia nhất định và được toàn thể
cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Một số tính chất của quyền con người
Trong quan niệm của Mác – Ăngghen, quyền con người là một thực thể
thống nhất, thực thể sinh học – xã hội. Do đó, quyền con người là sự thống
nhất biện chứng giữa quyền tự nhiên và quyền xã hội – là sự chế định bằng
các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Sự thống nhất
giữa hai yếu tố này có thể tìm thấy trong lý luận Mác – Ăngghen về quyền
con người. Các ông cho rằng, con người là sản phẩm cao nhất của tiến trình
vận động và phát triển của lịch sử, một mặt là sản phẩm của những điều kiện
xung quanh trong suốt cuộc đời, và do đó lại là sự thống nhất giữa mặt tự
nhiên và mặt xã hội. Trong mọi trường hợp, con người luôn là động vật xã
hội. Từ đó, việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ có thể là đúng khi đặt
nó trong quan hệ xã hội, bởi vì, chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới
có những phương tiện đẻ phát triển toàn diện những năng khiếu của mình, chỉ
có trong cộng đồng mới có tự do cá nhân.
Như vậy, Mác – Ăngghen đã xuất phát từ quan niệm khoa học về quyền
con người để có cách hiểu đúng đắn về quyền con người. Con người là “con
người – xã hội”, trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng
hòa những quan hệ xã hội, do đó quyền con người thể hiện sâu sắc các giá trị
của các quan hệ xã hội và hiển nhiên là mang bản chất đó.
Quyền con người vừa mang tính phổ biến vừa mang tính cộng đồng;
tính không thể chuyển nhượng; không thể phân chia; tính lịch sử đậm nét. Do
đó, không nên nhấn mạnh quyền tự do chính trị hoặc quyền cá nhân riêng rẽ,
hay cũng không thể chỉ nhìn thấy tính đặc thù dân tộc và các mối quan hệ
kinh tế - xã hội giữa các nước và các cộng đồng để xác định khái niệm quyền
22