Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Văn xuôi viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.46 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ NHỊ HÀ

VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI
CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC TÀY

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số

:

60 22 01 21

Thái Nguyên – Năm 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN
i




ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

NGUYỄN THỊ NHỊ HÀ

VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI


CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ DÂN TỘC TÀY
Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM
Mã số

:

60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. CAO THỊ HẢO

Thái Nguyên, Năm 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – ii
ĐHTN




Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhị Hà

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – iii
ĐHTN





Lời cảm ơn!
Để hoàn thành luận văn này, em nhận được sự giúp đỡ lớn nhất từ cô
giáo hướng dẫn là PGS – TS. Cao Thị Hảo. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc. Cảm ơn cô đã cho em những chỉ dẫn khoa học quý báu
trong việc triển khai đề tài. Cảm ơn cô đã đồng hành và giúp đỡ em!
Đồng thời, trong quá trình thực hiện luận văn em đã nhận được sự giúp
đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữ văn, phòng Đào tạo trường ĐHSP Thái
Nguyên. Cảm ơn các thầy cô đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn chúng em
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và bạn bè – những người đã động
viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và làm luận văn.
Thái Nguyên, ngày 8 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Nhị Hà

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – iv
ĐHTN




MỤC LỤC
Lời cam đoan ....................................................................................................... i
Lời cảm ơn ........................................................................................................iv
MỤC LỤC .......................................................................................................... v

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................... 10
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 10
6. Đóng góp của luận văn. ................................................................................ 11
7. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 11
NỘI DUNG...................................................................................................... 12
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM VÀ
VĂN HỌC THIẾU NHI DÂN TỘC THIỂU SỐ THỜI KÌ HIỆN ĐẠI .... 12
1.1. Khái niệm văn học thiếu nhi ..................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................... 12
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của văn học thiếu nhi ...................................... 14
1.2. Diện mạo chung của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số........................... 17
1.3. Những mạch nguồn cảm hứng của các nhà văn Tày khi viết cho thiếu nhi ... 25
1.3.1. Cảm hứng bắt nguồn từ những ký ức tuổi thơ ....................................... 25
1.3.2. Cảm hứng đề cao những giá trị văn hóa truyền thống ........................... 29
CHƢƠNG 2: VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC
GIẢ DÂN TỘC TÀY NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG................ 34
2.1. Thế giới thiên nhiên miền núi dưới góc nhìn trẻ thơ ................................ 34
2.1.1. Thiên nhiên hùng vĩ kì thú ..................................................................... 34
2.1.2. Thiên nhiên hoang dã ẩn chứa những hiểm nguy .................................. 38
2.1.3. Thiên nhiên là bạn, là nguồn sống của con người ................................. 42

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – vĐHTN





2.2. Hiện thực về cuộc sống của trẻ em miền núi ............................................ 49
2.2.1. Những em nhỏ cần cù yêu lao động ....................................................... 49
2.2.2. Trẻ em miền núi yêu quê hương và gắn bó sâu sắc với nguồn cội ........ 52
2.2.3. Những em nhỏ vượt mọi khó khăn để học tập, thực hiện ước mơ ........ 56
2.2.4. Những mảnh đời bất hạnh và niềm tin vào tấm lòng nhân ái ................ 61
2.3. Thế giới loài vật thông minh, ngộ nghĩnh, đáng yêu ................................ 67
CHƢƠNG 3: VĂN XUÔI VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA MỘT SỐ TÁC
GIẢ DÂN TỘC TÀY NHÌN TỪ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ........ 72
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .................................................................. 72
3.1.1. Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình ................................. 72
3.1.2. Xây dựng nhân vật thông qua miêu tả nội tâm ...................................... 72
3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật ................................................................................. 77
3.2.1. Ngôn ngữ giàu chất trữ tình ................................................................... 78
3.2.2 Ngôn ngữ phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi .................................................. 81
3.2.3. Ngôn ngữ mang sắc thái dân tộc Tày ..................................................... 83
3.3. Giọng điệu nghệ thuật ............................................................................... 87
3.3.1. Giọng thủ thỉ tâm tình ............................................................................ 88
3.3.2. Giọng xót xa thương cảm ....................................................................... 89
3.3.3. Giọng điệu khôi hài, hóm hỉnh............................................................... 91
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 98

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu – vi
ĐHTN




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Trong cuộc sống của con người những cuốn sách tuổi thơ bao giờ cũng để
lại những dấu ấn sâu đậm cho đến khi trưởng thành, thậm chí những cuốn sách
đọc khi còn bé thơ đã phần nào tác động đến sự hình thành tính cách và tâm hồn.
Những sáng tác cho thiếu nhi không chỉ góp phần xây dựng lòng nhân ái, tình
yêu cuộc sống mà còn góp phần mở rộng những cánh cửa để các em khám phá
thế giới với bao điều kì thú. Rõ ràng rằng văn học thiếu nhi có ý nghĩa vô cùng
to lớn đối với việc nuôi dưỡng, bồi đắp tâm hồn cho những chủ nhân tương lai
của đất nước và có một vị trí nhất định trong nền văn học nước nhà.
Khi nói đến văn học thiếu nhi Việt Nam người ta thường nghĩ ngay đến
những tác phẩm thuộc hàng kinh điển như: Dế mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài),
Đất rừng phương Nam (Đoàn Giỏi), Quê nội (Võ Quảng), Chuyện hoa
chuyện quả (Phạm Hổ), Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán)…. Hay trong những
năm gần đây, người ta nói nhiều đến Kính vạn hoa và một số tác phẩm khác
của Nguyễn Nhật Ánh, Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc
Thuần. Tóm lại, trong “miền nhớ” của độc giả nhỏ tuổi Việt Nam hầu như chỉ
có các tác giả người Kinh mà đôi khi quên mất có một mảng rất quan trọng
trong văn học thiếu nhi đó là văn học viết cho thiếu nhi của các tác giả người
dân tộc thiểu số như Vi Hồng, Mã A Lềnh, Ma Trường Nguyên, Dương
Thuấn, Inrasara…
Chúng ta đều biết, cuộc sống của thiếu nhi miền núi so với thiếu nhi
miền xuôi có sự chênh lệch rất lớn. Do đặc điểm về địa hình và nhiều lí do
khác cuộc sống của trẻ em miền núi còn nhiều thiếu thốn cả về vật chất và
tinh thần. Chính vì thế rất cần những món ăn tinh thần dành riêng cho các em.
Thấu hiểu được điều đó các tác giả dân tộc thiểu số rất quan tâm đến sáng tác
cho thiếu nhi, có tác giả dành cả sự nghiệp của mình cho văn học thiếu nhi.
Văn học viết cho thiếu nhi của các tác giả dân tộc thiểu số không chỉ cung cấp

1



cho trẻ em miền núi những tác phẩm phù hợp với các em mà nó còn hấp dẫn
cả trẻ em miền xuôi bởi nhờ đó mà các em có thể khám phá một thế giới mới
mẻ và vô cùng hấp dẫn.
Trên lĩnh vực văn chương, văn đàn Việt Nam ghi nhận sự góp mặt của
đông đảo các cây bút người Tày. Trong hai năm 2003 và 2004, Hội Văn học
Nghệ thuật các dân tộc thiểu số đã kết hợp với Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc
cho ra đời cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam - Đời và văn gồm hai tập
giới thiệu về các nhà văn người dân tộc thiểu số. Trong hai tập của cuốn sách
này, ban biên soạn đã giới thiệu đến độc giả tổng cộng 87 cây bút người dân
tộc, trong đó chúng tôi thống kê được có tới 30 cây bút người dân tộc Tày.
Trong tổng số 30 cây bút người Tày thì có 8 tác giả có tác phẩm viết cho thiếu
nhi là: Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kỳ, Hữu Tiến, Hoàng Hữu
Sang, Dương Thuấn, Đoàn Lư, Đoàn Ngọc Minh, Hoàng Tương Lai. Số
lượng tác giả, số lượng tác phẩm và cả chất lượng sáng tác đều chứng tỏ các
sáng tác cho thiếu nhi của tác giả Tày chiếm một vị trí đáng kể trong văn học
thiếu nhi dân tộc thiểu số. Trong khi đó, các sáng tác cho thiếu nhi của những
tác giả này, cho tới nay vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống.
Văn học miền núi nói chung và văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói
riêng hiện vẫn còn là một vùng đất hoang sơ và hầu như chưa được khai phá,
trong khi đây lại là một mảng văn học với nhiều đặc sắc riêng rất đáng trân
trọng. Bên cạnh đó, thiếu nhi cũng như đồng bào miền núi vẫn còn rất nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận với nguồn sách dành riêng cho mình, chưa kể
đến số lượng những sáng tác văn học dân tộc thiểu số vẫn còn khá ít ỏi so với
văn học của người Kinh, cho nên việc quan tâm nghiên cứu đến văn học dân
tộc thiểu số nói chung và văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng là cần
thiết.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn đề tài Văn xuôi
viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày làm luận văn tốt nghiệp.

2



Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi hi vọng sẽ có một cái nhìn tương đối
chính xác, có hệ thống về những đặc điểm của văn xuôi thiếu nhi dân tộc Tày
cũng như những đóng góp của mảng văn học này đối với văn học thiếu nhi
nói chung và văn học các dân tộc thiểu số nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Hiện nay, đề tài miền núi là một trong những đề tài thu hút được sự
quan tâm của cả giới nghiên cứu và sáng tác văn học. Điều này thể hiện ở đội
ngũ sáng tác ngày càng đông đảo cũng như số lượng tác phẩm dày dặn, phong
phú và chất lượng ngày càng cao. Đồng hành với lĩnh vực sáng tác nhiều công
trình nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số đã ra đời. Đặc biệt cuốn Nhà văn
dân tộc thiểu số Việt Nam – Đời và văn gồm hai tập do nhà xuất bản Văn hóa
dân tộc ấn hành trong hai năm 2003 – 2004 đã giới thiệu về 87 tác giả người
dân tộc thiểu số trong đó có những cây bút người Tày có nhiều tác phẩm khá
quen thuộc với thiếu nhi miền núi nói riêng và trẻ em Việt Nam nói chung
như Vi Hồng, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Lư, Đoàn Ngọc Minh… Sự ra đời của cuốn
sách này đem đến cho độc giả những hiểu biết toàn diện về lực lượng sáng tác
của văn học dân tộc thiểu số cũng như những tác giả người dân tộc đã và đang
dành nhiều tâm huyết sáng tác cho các thế hệ độc giả nhỏ tuổi.
Về văn học thiếu nhi, nhìn chung các công trình nghiên cứu về văn học
thiếu nhi không phải là ít và không ít nhà nghiên cứu đã dành tâm huyết cũng
như thời gian để nghiên cứu phê bình những sáng tác dành riêng cho thiếu
nhi. Tuy nhiên, so với những công trình nghiên cứu về tác phẩm viết cho
người lớn quả thật nghiên cứu văn học thiếu nhi vẫn còn rất khiêm tốn. Đặc
biệt là văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số càng ít được quan tâm nghiên cứu.
Là một tác giả tâm huyết với việc nghiên cứu văn học thiếu nhi, Lã Thị
Bắc Lý đã xuất bản cuốn Giáo trình Văn học trẻ em do nhà xuất bản Đại học
sư phạm Hà Nội ấn hành để phục vụ việc giảng dạy cho sinh viên khoa Giáo
dục mầm non. Đây là công trình nghiên cứu cung cấp khá đầy đủ, hệ thống


3


những kiến thức cơ bản về nền văn học thiếu nhi Việt Nam. Trong công trình
này, Lã Thị Bắc Lý đã giới thiệu đến cho độc giả ba nhà văn Tày có tác phẩm
viết cho thiếu nhi là Vi Hồng với Đường về với mẹ chữ, Hà Lâm Kỳ với Kỉ
vật cuối cùng và Đoàn Lư với truyện ngắn Chân trời rộng mở. Trong Truyện
viết cho thiếu nhi sau 1975, tác giả Lã Thị Bắc Lý cũng thể hiện cái nhìn
khái quát về nền văn học thiếu nhi sau chiến tranh. Tác giả đã có những tìm
kiếm, phát hiện những đổi mới trong quan niệm sáng tác, hình tượng nhân vật
và hàng loạt những vấn đề có liên quan đến mảng văn học trẻ em thời bình.
Trong công trình này tác giả tiếp tục đề cập đến một số sáng tác cho thiếu nhi
của ba nhà văn Tày Vi Hồng, Đoàn Lư, Hà Lâm Kỳ. Như vậy văn xuôi của
các tác giả người Tày viết cho thiếu nhi đã có chỗ đứng nhất định trong giới
nghiên cứu văn học. Đây là một tín hiệu vô cùng đáng mừng đối với văn học
thiếu nhi dân tộc thiểu số. Tuy nhiên đó cũng mới chỉ là sự điểm tên tác giả và
tác phẩm, chứ chưa có những nhận xét cụ thể.
Các sáng tác của Vi Hồng cho thiếu nhi đã được giới chuyên môn quan
tâm ngay từ rất sớm, trong bài viết Đôi điều về sự khởi sắc của văn học thiếu
nhi những năm 90 in trong Tạp chí Văn học số ra tháng 6 năm 1995 tác giả
Vân Thanh đã đưa ra nhận xét về truyện Người làm mồi bẫy hổ của Vi Hồng
như sau: “Người làm mồi bẫy hổ của Vi Hồng (NXB Kim Đồng, 1990); in lại
lầm thứ hai năm 1994 – tác giả là người dân tộc Tày) lại đưa các em về quá
khứ đen tối của người dân Mường Cốc Nặm. Tên tạo bản Xấn Xáng đã dùng
trẻ em làm mồi bắt hổ. Chính sự đùm bọc lẫn nhau của người dân Mường
Cốc Nặm đã cứu các em thoát khỏi hoạn nạn. Với giọng điệu riêng, Vi Hồng
đã giúp các em hiểu thêm về cuộc sống tăm tối của xã hội miền núi hẻo lánh
trước kia” [45, tr.210]. Nhận xét của nhà nghiên cứu Vân Thanh đã khái quát
được những điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Điều này

đồng thời cũng chứng tỏ rằng sáng tác cho thiếu nhi của Vi Hồng đã có chỗ
đứng nhất định trong lòng độc giả cũng như đối với giới nghiên cứu.

4


Trong bài giới thiệu cuốn Đường về với Mẹ Chữ nhà thơ Dương Thuấn
đã viết: “Con đường từ nhà đến trường dài hơn ba trăm cây số cheo leo hiểm
trở đầy thú dữ hùm beo đã không ngăn cản được bước chân của các cậu học
trò người Tày đi học chữ. Nhà văn Vi Hồng đã kể lại câu chuyện ngày nhỏ đi
học của mình rất cảm động” [7]. Với mục đích giới thiệu sách cho nên Dương
Thuấn chỉ đưa ra những nhận xét khái quát, chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu
một cách cụ thể, nhưng nhận xét ngắn gọn đó cũng đã hé lộ những thú vị hấp
dẫn đang chờ đón bạn đọc nhỏ tuổi trong tác phẩm này.
Năm 2004, Vi Hà Nguyên (Đại học Sư phạm Thái Nguyên) đã bảo vệ
thành công khóa luận tốt nghiệp với đề tài Hình tượng nhân vật thiếu nhi
trong truyện viết cho thiếu nhi của Vi Hồng. Khóa luận nghiên cứu sáng tác
cho thiếu nhi của Vi Hồng về hình tượng nhân vật chứ chưa phải là một cái
nhìn tương đối toàn diện về các sáng tác cho thiếu nhi của ông.
Như vậy tác phẩm viết cho thiếu nhi của Vi Hồng đã bước đầu được
quan tâm nghiên cứu, nhưng mới chỉ là những nhận xét bước đầu chứ chưa
được nghiên cứu toàn diện.
Hà Lâm Kỳ cũng là một tác giả viết cho thiếu nhi được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm. Điểm qua các bài nghiên cứu về các sáng tác cho thiếu
nhi của Hà Lâm Kỳ ta có thể kể đến các bài viết như: Ra đời dưới ánh đèn
bão (đăng trên báo Văn nghệ dân tộc và miền núi năm 1996). Tác giả Nguyễn
Quỳnh đã đưa ra những nhận định về nhà văn Hà lâm Kỳ như sau: “Hà Lâm
Kỳ là một trong số rất ít tác giả viết nhiều về thiếu nhi dân tộc thiểu số. Anh
có vốn sống khá phong phú nên hầu hết các tác phẩm viết cho thiếu nhi của
anh mang được sắc thái văn hóa dân tộc”[10, tr.537]. Tác giả bài viết đã đánh

giá cao văn xuôi viết cho thiếu nhi của Hà Lâm Kỳ ở khía cạnh mang đậm
bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong bài viết Nhà văn của thiếu nhi tác giả Diệu Thuần nhận xét về
sáng tác của Hà Lâm Kỳ như sau: “Có thể nói rằng, sự nâng niu, quý trọng và

5


những trải nghiệm trong cuộc sống đã gắn bó Hà Lâm Kỳ với tuổi thơ vùng
cao miền núi. Anh hiểu sâu sắc về những con người được sinh ra và lớn lên từ
những câu chuyện cổ tích, thần thoại, từ dòng suối mát trong và từ những gì
thân thương nhất của núi rừng. Cũng chính vì vậy mà trong suốt quá trình
sáng tác văn học, anh luôn cố gắng tìm chất dân gian để đưa vào tác phẩm của
mình, bởi theo anh, đó là yếu tố quan trọng tạo nên sự gần gũi, dễ hiểu và hấp
dẫn đối với thiếu nhi dân tộc thiểu số” [10, tr.553]. Những nhận xét của Diệu
Thuần rất đúng và rất trúng với những đặc điểm trong sáng tác của nhà văn Hà
Lâm Kỳ. Tuy nhiên giới hạn trong khuôn khổ một bài viết tác giả chưa thể đi
sâu nghiên cứu một cách cụ thể.
Trong kịch bản phim tài liệu Nhà văn của thiếu nhi miền núi của Đài
Phát thanh Truyền hình Yên Bái, tác giả Ngọc Chấn cũng nhấn mạnh đến chất
dân gian trong các sáng tác của Hà Lâm Kỳ: “Truyện của Hà Lâm Kỳ mang
đậm chất dân gian từ mỗi con người trong cuộc sống đời thường mà ta bắt
gặp khi trở thành nhân vật trong truyện của anh đều có cá tính bởi cách nghĩ,
cách nói của người dân tộc thiểu số. Lòng sao, viết vậy văn Hà Lâm Kỳ như
ngọn núi mà anh leo lên, như dòng suối mà anh đã tắm, không cầu kì tô vẽ
nhưng người đọc vẫn bị cuốn hút bởi tình cảm sâu nặng của người viết đối
với từng nhân vật” [10, tr.561]. Nhìn chung tác giả bài viết đã có một cái nhìn
tổng quát đối với toàn bộ sáng tác cho thiếu nhi của Hà Lâm Kỳ và nhận ra
hơi thở riêng trong những trang văn của ông. Những sáng tác của Hà Lâm Kỳ
bình dị nhẹ nhàng nhưng sâu lắng để lại nhiều dư âm trong lòng độc giả.

Các bài viết nghiên cứu về sáng tác của Hà Lâm Kỳ cho thiếu nhi đã
được tập hợp lại và in chung trong phần hai của cuốn Văn xuôi Hà Lâm Kỳ.
Những bài viết này là nguồn tư liệu quý giá giúp độc giả có cái nhìn toàn diện
về sáng tác cho thiếu nhi của nhà văn họ Hà, đồng thời gợi mở cho bạn đọc
hướng tiếp cận đúng đắn khi đọc sáng tác của ông. Nhìn chung, các bài viết
đều nhìn nhận Hà Lâm Kỳ là cây bút khá quen thuộc và có uy tín đối với các

6


em thiếu nhi và các sáng tác của ông đều mang đậm dấu ấn của bản sắc văn
hóa của dân tộc Tày.
Tác giả Đoàn Lư là một trong những cây bút có uy tín đối với các em
thiếu nhi. Vốn là một bác sĩ chuyển sang viết văn cho nên Đoàn Lư được đánh
giá như “một sự lạ” trong làng văn. Trong bài viết Đoàn Lư – Một sự lạ, Chu
Văn Pản viết: “Người ta tọc mạch đọc những cuốn sách của Đoàn Lư. Họ ngạc
nhiên bởi những trang viết toát ra những kiến thức văn hóa tâm linh, văn hóa
âm nhạc dân tộc, văn hóa ẩm thực, văn hóa du lịch, võ thuật cổ truyền, chăn thả
gia súc, nuôi trồng và chăm sóc cây con… của anh thật sâu sắc” [43, tr.273].
Nhận xét này cho thấy trong sáng tác của Đoàn Lư có một kho kiến thức rất dồi
dào, phong phú mà độc giả sẽ được tiếp nhận. Và có lẽ cũng vì thế mà tác giả
Phạm Thị Quyên trong luận văn thạc sĩ với đề tài Văn xuôi viết cho thiếu nhi
của Đoàn Lư (bảo vệ tại trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, năm 2014) đã
dành một chương để khai thác “kho kiến thức hấp dẫn và những bài học có ý
nghĩa đối với tuổi thơ trong văn xuôi viết cho thiếu nhi của Đoàn Lư”. Nếu như
trước đây nhà văn Đoàn Lư và những sáng tác của ông chỉ được giới thiệu đó
đây trong các bài viết nhỏ lẻ hoặc chỉ được điểm tên trong một số công trình
nghiên cứu thì với luận văn này, lần đầu tiên sáng tác cho thiếu nhi của Đoàn Lư
được nghiên cứu một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Luận văn nghiên cứu sáng
tác văn xuôi cho thiếu nhi ở các phương diện như: cảm hứng nghệ thuật, kho

kiến thức bổ ích mà tác giả đem đến cho các em nhỏ từ trang viết của mình và
một số phương diện nghệ thuật tiêu biểu trong các sáng tác của Đoàn Lư. Sự
xuất hiện của luận văn cho thấy văn xuôi của các tác giả người Tày viết cho
thiếu nhi đã bắt đầu giành được sự chú ý không chỉ đối với độc giả tiếp nhận mà
còn đối với giới nghiên cứu văn học. Đồng thời luận văn cũng gợi mở cho chúng
tôi ham muốn được tiếp tục khai thác các sáng tác văn xuôi cho thiếu nhi của các
tác giả dân tộc Tày vốn rất đa dạng, hấp dẫn và ẩn chứa nhiều thú vị.

7


Đoàn Ngọc Minh là cây bút sáng tác đồng thời cả thơ và văn xuôi, viết
cho cả người lớn và trẻ em. Nhìn chung mảng sáng tác của Đoàn Ngọc Minh
dành cho người lớn dành được sự quan tâm nhiều hơn. Nhưng trên thực tế,
những sáng tác văn học thiếu nhi của Đoàn Ngọc Minh đã và đang được các
em thiếu nhi miền núi đón nhận và yêu thích. Về các sáng tác của bà cho lứa
tuổi thiếu nhi, trong bài viết Văn xuôi dân tộc thiểu số - hành trình cùng bè
bạn của tác giả Cao Duy Sơn đăng trên trang baovannghe.vn có giới thiệu về
Đoàn Ngọc Minh với tác phẩm Núi Bó Phạ trở về. Tác giả Vũ Thị Thanh
Huyền trong bài viết Đoàn Ngọc Minh “cất nỗi buồn vào trang viết” đăng
trên trang vietvan.vn cũng giới thiệu hai cuốn sách cho thiếu nhi của tác giả
Đoàn Ngọc Minh là tập truyện ngắn Cánh chim và cuốn Phía sau đỉnh Khau
Khoang.
Trong bài Phía sau đỉnh Khau Khoang – một tập truyện thiếu nhi đặc
sắc đăng trên trang web.cema.gov.vn, tác giả Nông Quốc Lập viết: “Câu
chuyện ngày hè của Tiếu được gói gọn trong gần 100 trang sách. Mở đầu là
lúc mẹ con Tiếu lên đường về quê ngoại, kết thúc khi ba người trở lại thị trấn
Mục Mạ với chiến công, phần thưởng rất ý nghĩa, hai đứa trẻ, hai tâm hồn
với những cá tính đối lập nhưng lại rất ăn ý với nhau để cùng khám phá
những điều mới lạ của núi rừng. Đó là những ngày hè đáng nhớ nhất của Bưu

và Tiếu. Tác giả Đoàn Ngọc Minh, người đã đạt nhiều giải thưởng của Trung
ương và địa phương đã viết “Phía sau đỉnh Khau Khoang” rất nhẹ nhàng,
dung dị, không lên gân, lên cốt. Mọi diễn biến tâm lý đều diễn ra một cách tự
nhiên, có đoạn đối thoại, có đoạn độc thoại và có đoạn các nhân vật có suy
nghĩ đấu tranh tư tưởng và hành động theo cảm tính. Đọc “Phía sau đỉnh
Khau Khoang” giúp các em yêu thiên nhiên, hiểu được tình người miền núi.
Đây là cuốn truyện có ích với các em thiếu nhi trong kỳ nghỉ hè” [11]. Cũng
với mục đích giới thiệu sách, Nông Quốc Lập đã đưa ra những nhận xét ngắn

8


gọn về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Những nhận xét ấy đủ để cuốn hút
độc giả, tạo nên tâm thế đón đợi cho bạn đọc.
Qua khảo sát sơ bộ, chúng tôi nhận thấy các sáng tác của nhà văn dân
tộc Tày cho thiếu nhi đã ghi được dấu ấn không chỉ trong lòng độc giả mà
bước đầu đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu. Tuy nhiên hiện
vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về sáng tác cho
thiếu nhi của các tác giả người Tày. Vì thế chúng tôi lựa chọn đề tài Văn xuôi
viết cho thiếu nhi của một số nhà văn dân tộc Tày với hi vọng sẽ đem đến
một cái nhìn hệ thống về sáng tác cho thiếu nhi của các tác giả người Tày.
Tuy nhiên trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi không tham
vọng khảo sát được tất cả các sáng tác cho thiếu nhi của toàn bộ tác giả người
Tày mà chỉ giới hạn chủ yếu nghiên cứu các sáng tác của bốn nhà văn với số
lượng tác phẩm tương đối dày dặn và dành được sự yêu mến của đông đảo
bạn đọc là Vi Hồng, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Lư và Đoàn Ngọc Minh
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Văn xuôi viết cho thiếu nhi
của một số tác giả dân tộc Tày.
- Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của

luận văn chủ yếu là các sáng tác văn xuôi viết cho thiếu nhi của bốn tác giả
dân tộc Tày tiêu biểu: Vi Hồng, Hà Lâm Kỳ, Đoàn Lư và Đoàn Ngọc Minh.
Cụ thể là:
Tác giả Vi Hồng với ba tập: Người làm mồi bẫy hổ, (truyện vừa), Nxb
Kim Đồng (1990); Thách đố, (truyện vừa) Nxb Kim Đồng (1995); Đường về
với mẹ chữ, (truyện ký) Nxb Kim Đồng (1998);
Với tác giả Hà Lâm Kỳ chúng tôi sử dụng văn bản toàn bộ truyện viết
cho thiếu nhi của ông được tập hợp và in chung trong cuốn Văn xuôi Hà Lâm
Kỳ, Nxb Kim Đồng (2014).
Tác giả Đoàn Lư với các tác phẩm: Miếng hiểm cuối cùng, (tập truyện),
Nxb Kim Đồng (1995); Tướng cướp hoàn lương, (tập truyện), Nxb Kim Đồng

9


(1997); Kỉ niệm về một dòng sông, (truyện kí), Nxb Trẻ (1997); Ngựa hoang lột
xác, (tập truyện), Nxb Văn hóa dân tộc (1998); Quái cẩu Pi – tơ – chun (truyện
vừa), Nxb Kim Đồng, (1999); Bên dòng Quây Sơn, (truyện dài), Nxb Kim
Đồng (2000); Những giấc mơ thời thơ ấu, (tập truyện), Nxb Thanh Hóa (2001);
Lêna Kítti – Cô bé siêu nhân, (tiểu thuyết), Nxb Văn học, 2009; Lêna – Kítti –
Thiên thần của tình yêu, (tiểu thuyết), Nxb Thanh niên, 2010; Lêna – Kítti - Ảo
thuật gia của sự hồi sinh, (tiểu thuyết), Nxb Dân Trí, 2012; Li kì Xuyên Sơn,
Nxb Kim Đồng, 2013.
Tác giả Đoàn Ngọc Minh với ba cuốn:Cánh chim, (tập truyện),Nxb
Kim Đồng(2000); Núi Bó Phạ trở về, (truyện dài), Nxb (2003); Phía sau
đỉnh Khau Khoang, (truyện dài), Nxb Kim Đồng (2003).
Ngoài ra chúng tôi cũng chú ý đến những sáng tác viết cho thiếu nhi của
các tác giả khác để so sánh đối chiếu khi cần thiết nhằm làm nổi bật vấn đề
nghiên cứu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn đưa ra một cái nhìn khái quát về quá trình phát triển của văn
học thiếu nhi Việt Nam và văn xuôi viết cho thiếu nhi của các tác giả dân tộc
Tày. Khẳng định vị trí của văn xuôi viết cho thiếu nhi của các tác giả dân tộc
Tày trong dòng chảy của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số cũng như văn học
thiếu nhi Việt Nam.
Luận văn đi sâu nghiên cứu những đóng góp của văn xuôi viết cho
thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày từ góc độ nội dung như: Sự phản
ánh thế giới thiên nhiên, tâm hồn trẻ em. Đánh giá về ý nghĩa, tác dụng của
các tác phẩm văn xuôi viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày đối
với đời sống tinh thần của trẻ em.
Luận văn nghiên cứu và tìm hiểu một số phương diện nghệ thuật nổi
bật, chỉ ra những thành công và hạn chế về nghệ thuật trong sáng tác văn xuôi
viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi đã sử dụng chủ yếu các phương pháp
nghiên cứu cơ bản sau đây: Phương pháp khảo sát, thống kê; Phương pháp so
sánh đối chiếu; Phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp nghiên cứu
theo đặc trưng thể loại.

10


6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về văn học thiếu nhi dân tộc Tày
trong một cái nhìn hệ thống để chỉ ra những đóng góp và vị trí của các tác giả
dân tộc Tày cho văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng và văn học thiếu
nhi Việt Nam nói chung.
Ở nước ta hiện nay, những công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi
chưa nhiều, các công trình nghiên cứu về văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số
thì lại càng ít ỏi hơn. Vì vậy, luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo

quan trọng bổ khuyết thêm cho những nghiên cứu về văn học thiếu nhi, góp
phần đem lại cái nhìn toàn diện hơn về văn học thiếu nhi nước nhà cũng như
văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Qua kết quả nghiên cứu, luận văn cũng góp một tiếng nói về sự cần
thiết phải có sự tham gia tích cực hơn của các cây bút dân tộc thiểu số vào
sáng tác dành riêng cho thiếu nhi người dân tộc. Bởi không ai có thể viết thay
họ về chính con em họ với những đặc trưng riêng về cả hiện thực cuộc sống
cũng như đời sống tinh thần. Ngoài ra, thông qua luận văn này chúng tôi cũng
nhen nhóm một hi vọng cả cộng đồng hãy chú ý hơn đối với việc đưa văn học
dân tộc thiểu số nói chung, văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số nói riêng đến
với miền núi, vùng sâu vùng xa cũng như mọi vùng miền khác trong cả nước,
để độc giả có thể hiểu hơn về những giá trị văn hóa tinh thần của mảng văn
học này.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và Thư mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về văn học thiếu nhi Việt Nam và văn học thiếu
nhi dân tộc thiểu số thời kì hiện đại.
Chương 2: Văn xuôi viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày
nhìn từ phương diện nội dung
Chương 3: Văn xuôi viết cho thiếu nhi của một số tác giả dân tộc Tày
nhìn từ phương diện nghệ thuật

11


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC THIẾU NHI VIỆT NAM
VÀ VĂN HỌC THIẾU NHI DÂN TỘC THIỂU SỐ THỜI KÌ HIỆN ĐẠI
1.1. Khái niệm văn học thiếu nhi

1.1.1. Khái niệm
Từ lâu nay, trên thế giới đã có một bộ phận sáng tác dành riêng cho lứa
tuổi thiếu nhi. Những cuốn sách đầu tiên của loại này là những cuốn sách về các
quy tắc ứng xử, chúng nhằm mục đích uốn nắn cho các em những chuẩn mực
đạo đức trong môi trường xã hội đương thời. Ở châu Âu thể loại sách này xuất
hiện đầu tiên vào khoảng thế kỉ XIV. Ở Việt Nam trong thời phong kiến không
tồn tại bộ phận văn học viết dành cho thiếu nhi. Nhưng vào thời bấy giờ, trẻ em
Việt Nam có may mắn là được tiếp thu một nền văn học dân gian phong phú qua
những lời ru của mẹ, qua những câu chuyện kể của bà. Đến đầu thế kỉ XX ở
nước ta bắt đầu xuất hiện những tác phẩm viết cho thiếu nhi, mà môt trong
những tác giả của buổi ban đầu ấy chính là Tản Đà với Lên sáu lên tám (1921).
Sau khi cách mạng thành công được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, văn học
thiếu nhi Việt Nam mới chính thức ra đời. Vậy văn học thiếu nhi là gì? Những
tác phẩm nào có thể được xếp vào mảng văn học này?
Trong bài viết Từ cuộc sống hôm nay, văn học chuẩn bị bản lĩnh và lòng
tin cho con em chúng ta bước vào thế kỷ thứ XXI tác giả Hà Xuân Trường đã
nêu lên những suy nghĩ của mình về khái niệm văn học thiếu nhi: “Nếu hiểu một
cách đầy đủ, theo tôi nghĩ, văn học thiếu nhi gồm ba bộ phận: văn học về thiếu
nhi, văn học cho thiếu nhi và văn học của thiếu nhi; hai bộ phận sau có những
đặc điểm riêng biệt, mà văn học cho thiếu nhi là bao trùm” [45,tr.438]. Từ đó tác
giả đề xuất lấy bộ phận chủ yếu “văn học cho thiếu nhi” để chỉ nền văn học viết
cho các em và viết về các em.
Các tác giả cũng còn nhiều băn khoăn về cách gọi văn học thiếu nhi.
Một số tác giả gọi văn học dành cho lứa tuổi thiếu nhi là văn học trẻ em. Tác
giả Lã Thị Bắc Lý trong cuốn Giáo trình Văn học trẻ em đã dùng cụm từ văn

12


học trẻ em thay vì dùng cụm từ văn học thiếu nhi vốn vẫn quen thuộc và được

nhiều người sử dụng. Trong bài viết Nghĩ về nghề tác giả Vũ Ngọc Bình cũng
thiên về cách gọi là Văn học trẻ em. Ông viết: “Gọi là thiếu nhi thì hơi chữ
nghĩa,“hơi tàu”. Gọi là trẻ con thì lại khinh thị. Gọi là trẻ em thì vừa nôm na,
lại vừa rất trúng” [45, tr.327]. Nhưng nhìn chung, hiện nay bạn đọc và đông
đảo các nhà nghiên cứu vẫn quen dùng cụm từ văn học thiếu nhi để chỉ bộ
phận văn học dành cho tuổi nhỏ.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học khái niệm văn học thiếu nhi được
định nghĩa như sau: “Theo nghĩa hẹp, văn học thiếu nhi gồm những tác phẩm
văn học hoặc phổ cập khoa học dành riêng cho thiếu nhi. Tuy vậy khái niệm
văn học thiếu nhi cũng thường bao gồm một phạm vi rộng rãi những tác
phẩm văn học thông thường (cho người lớn) đã đi vào phạm vi đọc của thiếu
nhi, như Đôn Ki - hô - tê của M. Xéc - van - tex, Rô - bin - xơn Cơ - ru - xô
của Đ. Đi - phô, Gu - li - vơ du kí của Gi. Xuýt - tơ, Túp lều bác Tôm của H.
Bi - sơ – Xtâu” [39, tr.412 - 413]. Khái niệm văn học thiếu nhi trong Từ điển
thuật ngữ văn học cho đến nay vẫn là một khái niệm được nhiều người biết
đến và sử dụng. Nó cũng là khái niệm được dùng trong các cuốn giáo trình
giảng dạy về văn học thiếu nhi mà cuốn Giáo trình văn học trẻ em của Lã
Thị Bắc Lý là một ví dụ.
Theo Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, văn học thiếu nhi là:
“Những tác phẩm văn học được mọi nhà văn sáng tạo ra với mục đích giáo dục,
bồi dưỡng tâm hồn, tính cách cho thiếu nhi. Nhân vật trung tâm của nó là thiếu
nhi nhiều khi cũng là người lớn, hoặc một cơn gió, một loài vật, một cái cây… Tác
giả không chỉ là chính các em, mà cũng là nhà văn thuộc mọi lứa tuổi” [46, tr.6].
Như vậy Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam xem xét khái niệm văn học
thiếu nhi ở nhiều góc độ: chủ thế sáng tác, đối tượng tiếp nhận, nhân vật trung
tâm, mục đích sáng tác.
Tóm lại, hiểu một cách chung nhất thì văn học thiếu nhi là những sáng tác
của cả trẻ em và người lớn dành cho đối tượng là các thế hệ thiếu nhi và có nội

13



dung hướng đến việc giáo dục nhân cách, bồi dưỡng tâm hồn cho thế hệ trẻ.
Những tác phẩm này được các em thiếu nhi say mê thích thú vì các em tìm thấy
trong đó cả một thế giới được quan sát dưới “lăng kính” hồn nhiên, trong trẻo
của trẻ thơ.
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản của văn học thiếu nhi
1.1.2.1. Văn học thiếu nhi kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính giáo dục với tính
giải trí
Văn học thiếu nhi có vai trò quan trọng trong việc giáo dục toàn diện nhân
cách trẻ em, cả về đạo đức, trí tuệ và thẩm mĩ. Trong bài Mấy suy nghĩ về đặc
trưng và chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi Võ Quảng viết: “Chức
năng giáo dục là chức năng hàng đầu của văn học thiếu nhi. Đó là điều khẳng
định, không cần bàn cãi. Người viết cho thiếu nhi phải có hai tư cách, tư cách
người viết văn và tư cách người làm cha mẹ muốn cho con mình nên. Câu
chuyện phải rõ ràng, tư tưởng chủ đề phải trong sáng. Khi diễn tả tránh mọi
hình tượng có thể đưa lại những ý nghĩ không tốt cho các em. Quan điểm sư
phạm và văn học thiếu nhi là hai anh em sinh đôi. Văn học thiếu nhi không có lí
do đứng được, nếu không phát huy được chức năng giáo dục” [45, tr.302].
Tuy nhiên, để thực hiện tốt chức năng giáo dục, nhà văn không thể nói
với các em bằng những lời thuyết giáo, răn dạy khô khan mà phải bằng hình
tượng nghệ thuật sinh động, bằng ngôn ngữ nghệ thuật hấp dẫn phù hợp với
tuổi thơ. Chức năng giáo dục của văn học thiếu nhi phải được chứa đựng
trong một tác phẩm mà khi đọc lên, các em thấy lôi cuốn. Trong bài Nghĩ về
tính hấp dẫn trong văn học thiếu nhi, tác giả Hải Hồ viết: “Nhà trường có
quyền bắt các em học đủ các môn trong chương trình giáo khoa. Không thích
cũng phải học. Còn quyển sách của nhà văn thì hoàn toàn phụ thuộc vào sự
lựa chọn của các em. Sách viết về những điều tốt lành đấy, nhưng không hấp
dẫn, các em vẫn ngán và bỏ dở giống như ngại uống thuốc bổ. Bổ nhưng
đắng và khó nuốt lắm! Các nhà y tế đã biết rõ điều đó và thường bọc đường

vào những viên thuốc bổ để các em uống thuốc mà thấy ngon như ăn kẹo. Vừa

14


ngọt vừa thơm! Tính hấp dẫn của quyển truyện thiếu nhi chính là cái chất
ngọt thơm quyện vào trang sách” [45, tr.346]. Một cuốn sách có nội dung
giáo dục có sâu sắc nhưng nếu không hấp dẫn được bạn đọc thì không thể
thực hiện được chức năng giáo dục đó. Do đó bên cạnh tính giáo huấn, văn
học thiếu nhi còn phải có tính giải trí. Sau những giờ học tập căng thẳng, hay
sau những buổi lao động mệt mỏi, các em thiếu nhi rất cần khoảng thời gian
thư giãn thoải mái, được thỏa sức thả trí tưởng tượng bay bổng đi khắp nơi
cùng với những cuốn sách yêu thích của mình.
1.1.2.2. Thế giới hiện thực được quan sát bằng lăng kính của trẻ thơ
Một quyển sách người lớn đọc thấy hay, trẻ em đọc chưa chắc thấy hay,
đó là do sự khác biệt về nhận thức, về cách nhìn nhận thế giới giữa trẻ em và
người lớn. Do đó, không thể viết sách cho thiếu nhi bằng tư duy của người lớn,
bằng cách nhìn nhận và quan sát thế giới của người lớn. Võ Quảng – một nhà
văn được rất nhiều thế hệ độc giả yêu mến nhận định: “Nội dung của văn học
thiếu nhi cũng là các vấn đề về chủ đề, đề tài, về phương pháp thể hiện, cũng là
các vấn đề thể loại, về phong cách, về ngôn ngữ… Nhưng ở đây, tất cả những
cái đó phải được thể hiện thế nào cho phù hợp với “đôi mắt” và “con tim” của
mỗi lứa tuổi” [45, tr.300 - 301]. Cách thể hiện phù hợp đó chính là những sáng
tác cho thiếu nhi phải dùng chính cặp mắt trẻ thơ của các em để quan sát và
cảm nhận cuộc sống.
Đặt mình vào thế giới của trẻ thơ, hóa thân vào trẻ thơ để nhìn nhận
cuộc sống, khiến cho những sáng tác văn học thiếu nhi có được cái nhìn hồn
nhiên, trong trẻo về cuộc sống và con người, và phù hợp với đối tượng tiếp
nhận là các em thiếu nhi. Ví dụ như trong bài Con bê lông vàng [28, tr.45] Võ
Quảng viết:

Con bê lông vàng
Cổ loang màu nắng
Bước đi liến thoắng
Miệng cứ: bê…ê…!

15


Chỉ trong cặp mắt của trẻ thơ, thì mới có một chú bê con có cái cổ
“loang màu nắng” như vậy, và cũng chỉ trong cặp mắt của trẻ thơ thì bước đi
của con vật mới được diễn đạt bằng từ “liến thoắng” như thế. Rõ ràng rằng,
lăng kính trẻ thơ đã giúp cho Võ Quảng viết nên những câu thơ hồn nhiên, vui
tươi phù hợp với tâm lý của đối tượng tiếp nhận. Và phải làm được điều đó thì
những câu chuyện, những vần thơ mới chinh phục được những bạn đọc nhỏ
tuổi.
Như tác giả Phong Thu đã nói “Sống với cuộc sống của trẻ em để có thể
viết được những trang viết cho các em, đối với tôi, là một yêu cầu, một cách để
viết không thể nào lảng tránh, nếu như tôi muốn tiếp tục “chơi” với các em
bằng những dòng chữ của mình” [45, tr.381]. Kinh nghiệm sáng tác và cũng là
chìa khóa thành công của Phong Thu đã khẳng định rằng văn học thiếu nhi đã
và sẽ luôn phải quan sát cuộc sống, nhìn nhận sự vật, hiện tượng bằng lăng
kính của trẻ thơ thì mới có thể trở thành người bạn đồng hành với các em trong
hành trình thơ ấu.
Đặc điểm này của văn học thiếu nhi dẫn tới một hệ quả hết sức thú vị.
Đó là thế giới loài vật trở thành đề tài yêu thích của các nhà văn sáng tác cho
thiếu nhi. Đồng thời các tác phẩm viết về các con vật luôn được bạn đọc nhỏ
tuổi đón nhận một cách thích thú. Chỉ riêng trong nền văn học thiếu nhi Việt
Nam đã có rất nhiều tác phẩm viết về thế giới loài vật. Những cây bút viết
nhiều và viết hay về các con vật có thể kể đến như Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm
Hổ… gần đây tác giả Nguyễn Nhật Ánh cũng có nhiều sáng tác viết về các

loài vật với cái nhìn mới mẻ hiện đại, bên cạnh đó các cây bút người dân tộc
thiểu số như Hà Lâm Kỳ, Mã A Lềnh, Đoàn Lư… cũng có những tác phẩm
khá lí thú viết về thế giới các con vật.
1.1.2.3. Giọng điệu dí dỏm vui tươi là giọng điệu chủ đạo của văn học thiếu nhi
Tuổi thơ hồn nhiên, nghịch ngợm rất yêu tiếng cười, những câu chuyện
dí dỏm, những vần thơ ngộ nghĩnh. Do đó, giọng điệu dí dỏm, vui tươi trở
thành giọng điệu ưa thích của các nhà văn sáng tác cho thiếu nhi.
Trong Giáo trình văn học thiếu nhi, tác giả Lã Thị Bắc Lý khẳng định:
“giọng điệu tinh nghịch, hóm hỉnh, mang tính đặc thù của văn học thiếu nhi.
Chất hóm, nghịch gây cho người đọc những tiếng cười sảng khoái được vận
dụng như một phương tiện giúp các em tiếp nhận tác phẩm một cách vui vẻ,

16


thoải mái” [25, tr.20]. Còn tác giả Phong Thu cũng đã tâm sự: “Tôi có cái thú
viết xong cái gì là đem ngay cho các bạn nhỏ gần tôi đọc. Khi là em, khi là
con, khi là cháu… Lúc các cô bé, chú bé ấy đọc, tôi ngồi tránh ra, theo dõi.
Hễ đôi mắt kia chớp nhanh, đôi lông mày kia nhướn lên, cái miệng tủm tỉm,
rồi bật ra tiếng cười, là tôi yên trí lắm. Coi như là bài ấy đã có được một sự
thành công nào đấy” [45, tr.323].
Các sáng tác văn học cho thiếu nhi, dù là thuộc thể loại nào, viết về đề tài
gì, thì trong đó bạn đọc cũng dễ dàng tìm thấy những chi tiết hài hước, những
đoạn văn vui vui, ngộ nghĩnh, đáng yêu. Quả thực, nếu tác phẩm văn học thiếu
nhi thiếu đi giọng điệu dí dỏm thì tác phẩm sẽ trở nên vô cùng nặng nề với đầu
óc còn non nớt, với tư duy còn đơn giản của các em thiếu nhi. Tất nhiên, giọng
điệu dí dỏm này được các tác giả khai thác sao cho phù hợp với đối tượng tiếp
nhận. Cái hài hước dí dỏm trong sáng tác cho lứa tuổi đang học cấp I sẽ phải
khác với cái dí dỏm hài hước trong sáng tác cho lứa tuổi học cấp II.
Xuyên suốt quá trình phát triển của văn học thiếu nhi, giọng điệu dí

dỏm hài hước vẫn luôn được các nhà văn vận dụng triệt để trong sáng tác và
cũng luôn được bạn đọc nhỏ tuổi đón nhận một cách vô cùng hào hứng.
1.2. Diện mạo chung của văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số
Văn học dân tộc thiếu số nước ta mới chỉ được hình thành từ sau Cách
mạng tháng Tám, tức là cùng thời điểm hình thành của văn học thiếu nhi nước
nhà và văn xuôi thiếu nhi dân tộc thiểu số mới thực sự được bạn đọc biết đến
từ những năm 90 của thế kỉ XX với sự ra đời của tác phẩm Người làm mồi
bẫy hổ (Vi Hồng). Bài viết Đôi điều về sự khởi sắc của văn học thiếu nhi
những năm 90 in trong Tạp chí Văn học số ra tháng 6 năm 1995 tác giả Vân
Thanh đã đưa ra nhận xét về truyện Người làm mồi bẫy hổ của Vi Hồng như
sau: “Người làm mồi bẫy hổ của Vi Hồng (NXB Kim Đồng, 1990); in lại lầm
thứ hai năm 1994 – tác giả là người dân tộc Tày) lại đưa các em về quá khứ
đen tối của người dân Mường Cốc Nặm. Tên tạo bản Xấn Xáng đã dùng trẻ
em làm mồi bắt hổ” [45, tr.210]. Lần đầu tiên, văn học thiếu nhi dân tộc thiểu
số đã được giới nghiên cứu văn học quan tâm.

17


Nếu hiểu văn học dân tộc thiểu số là sáng tác của các cây bút người dân
tộc thiểu số thì văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số là sáng tác của các tác giả
người dân tộc thiểu số (cả sáng tác của trẻ em và người lớn) hướng về đối tượng
bạn đọc là thiếu nhi đặc biệt là thiếu nhi dân tộc. Do những hạn chế mà cuộc
sống vùng cao đem lại, trẻ em miền núi có nhiều thiệt thòi trong việc tiếp xúc
với các tác phẩm văn học. Khi điều kiện mua sách đọc là rất hạn chế thì nguồn
sách chủ yếu mà các em tiếp cận được chính là thư viện các trường tiểu học,
trường trung học cơ sở. Nắm được điều đó, Đảng và Nhà nước đã kịp thời mang
đến nguồn sách cho các em từ dự án Sách Nhà nước tài trợ cho thiếu nhi các
trường cấp I – II miền núi – vùng sâu – vùng xa. Chương trình được thực hiện
suốt từ năm 1993 đến nay đã đem lại cho tuổi thơ miền núi khắp cả nước niềm

vui được đón đọc những cuốn sách hay và bổ ích. Đơn vị chịu trách nhiệm biên
soạn những cuốn sách trong chương trình này là nhà xuất bản Kim Đồng đã có
công rất lớn trong việc lựa chọn và giới thiệu đến bạn đọc nhỏ tuổi các nhà văn
dân tộc thiểu số cùng những sáng tác của họ.
Thấu hiểu những thiệt thòi và khó khăn của trẻ em miền núi, các nhà
văn dân tộc thiểu số khá quan tâm đến việc sáng tác cho thiếu nhi. Có thể kể
đến các nhà văn dân tộc Tày (Vi Hồng, Ma Trường Nguyên, Hà Lâm Kỳ,
Đoàn Lư, Đoàn Ngọc Minh, Hoàng Hữu Sang, Hữu Tiến); dân tộc Dao (Triệu
Kim Văn); dân tộc Thái (La Quán Miên, Kha Thị Thường); dân tộc Mường
(Hà Thị Cẩm Anh, Bùi Thị Tuyết Mai); dân tộc Chăm (Inrasara), dân tộc Hoa
(Hồ ZDếnh); dân tộc H‟ Mông (Mã A Lềnh). Như vậy, đội ngũ sáng tác của
văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số đang dần trở nên đông dảo hơn. Tất nhiên,
so với những cây bút người Kinh, số lượng các cây bút người dân tộc thiểu số
vẫn còn quá ít ỏi, nhưng đó cũng là một tín hiệu đáng mừng đối với văn học
thiếu nhi dân tộc thiểu số.
Trước hết, tiếp cận văn học thiếu nhi dân tộc thiểu số, chúng ta có thể
thấy, thiên nhiên miền núi mang vẻ đẹp riêng là một trong những đề tài luôn
được các tác giả quan tâm. Trong con mắt trẻ thơ miền núi, thiên nhiên có khi

18


đầy kì bí, phi thường với “những vòm cây nghiến, cây cáng lò, cây mạy piao
sum suê cao sừng sững vỏ sần sùi mốc thếch có lẽ đã hàng trăm tuổi [29,
tr.18]. Đó cũng là nơi tiềm ẩn những mối nguy hiểm đe dọa chết người mà
các em vẫn phải đối mặt mỗi ngày với những đàn rết “một con to bằng mái
chèo và hàng trăm con to bằng chiếc đũa cả” [7, tr.64] sẵn sàng san phẳng và
tiêu diệt tất cả mọi vật ở nơi mà chúng tràn qua. Và “thi thoảng có cả tiếng hổ
động đực gầm rú. Cái tiếng hổ gào mới rùng rợn làm sao. Chúng gào cách ta
ba đèo bảy núi mà tiếng vang vẫn rung tim gan ta như chúng đang gào ngay

sau lưng ta” [7, tr.28].
Hình ảnh những cánh rừng đại ngàn, những loài động vật hoang dã,
những dòng sông, con suối vùng cao được tái hiện trong sáng tác của các nhà
văn dân tộc thiểu số luôn khiến bạn đọc nhỏ tuổi thích thú say mê. Trong con
mắt của trẻ thơ, khung cảnh tươi đẹp của vùng cao giống như một thế giới của
những điều kì diệu: “Không biết còn có dòng sông ngọn suối nào ở thế gian
này có nhiều bướm như ở ven bờ Quây Sơn. Mùa xuân, bướm trắng, bướm
vàng, bướm hoa kéo về thành bầy đàn, chúng đậu sát mép sông trên những mô
đá, chúng kéo đàn kéo lũ bay thành hàng theo sông chẳng khác gì rồng bay,
chúng tụ tập lại đùa giỡn như rừng hoa với đủ muôn màu sắc, bướm hòa nhập
vào sương sớm lảng bảng ven sông” [17, tr.9]. Hay đó là những hồi tưởng lung
linh kì ảo đầy phép màu nhiệm và đôi khi còn cả những li kì, rùng rợn của
những tâm hồn ngây thơ về rừng xanh - nơi các em được sinh ra, gắn bó và
trưởng thành trong Kí ức rừng xanh của Kim Nhất. Trong con mắt trẻ thơ
miền núi, thế giới đó không bao giờ hiện lên một cách trần trụi mà luôn linh
thiêng, kì ảo như những câu chuyện cổ tích. Tác phẩm đã gián tiếp nuôi
dưỡng tâm hồn và giáo dục cho trẻ em miền núi ý thức bảo vệ rừng xanh.
Không chỉ có vậy, thiên nhiên còn hiện lên trong veo, thuần khiết và thơ
mộng, luôn gắn bó hài hoà với cuộc sống con người vùng cao được biểu hiện
sinh động qua bức tranh bốn mùa với thế giới cây quả, hoa lá, thế giới loài vật
phong phú đa dạng (Ba hạt sương, Hạt dẻ, Nắng nhỏ…Dương Thuấn,

19


×