1
PHẦN MỞ ĐẦU
Vi phạm hành chính là loại vi phạm xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã
hội. Nó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của nhà nước, tổ chức,
cá nhân và lợi ích chung của cộng đồng. Vì vậy, nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính nhằm duy trì trật tự,
kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Hình thức xử phạt vi phạm
hành chính có vai trò cần thiết và quan trọng. Nhà nước có đề ra các hình thức xử
phạt hợp lý mới có thể giải quyết được các trường hợp xảy ra trong thực tế đời
sống. Vậy ở Việt Nam có những hình thức xử phạt vi phạm hành chính nào, nó áp
dụng vào thực tế ra sao? Để tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề hình thức xử phạt vi phạm
hành chính, trong phạm vi bài tiểu luận này em xin chọn đề tài: “Phân tích các
quy định của pháp luật hiện hành về hình thức xử phạt vi phạm hành chính và chỉ
ra sự kế thừa, phát triển của các quy định này so với Pháp lệnh vi phạm hành
chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2007,2008)” để nghiên cứu trong bài tập
học kỳ.
PHẦN NỘI DUNG
I.CÁC KHÁI NIỆM
I.1. Khái niệm vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi
phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và
theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính. Như vậy,vi phạm
hành chính là hành vi trái pháp luật Hành chính, có lỗi, do chủ thể có năng lực
trách nhiệm hành chính thực hiện vi phạm các quy định pháp luật về quản lý nhà
nước mà không phải là tội phạm.
Vi phạm hành chính được cấu thành bởi bốn yếu tố gồm mặt khách quan,
mặt chủ quan, chủ thể, khách thể.
I.2.Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt vi phạm hành chính là người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình
thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện
hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính.
2
Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính; được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định
của Luật Hành chính. Nó được tiến hành theo những nguyên tắc, thủ tục được quy
định trong các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Kết quả của hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính phải được thể hiện ở quy định xử phạt vi phạm
hành chính do chủ thể có thẩm quyền ban hành.
II. PHÂN TÍCH CÁC QUY ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC XỬ PHẠT VI PHẠM
HÀNH CHÍNH. SỰ KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH NÀY
SO VỚI PHÁP LỆNH XLVPHC NĂM 2002
II.1. Hình thức xử phạt
Hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 21 Luật
XLVPHC
Theo quy định này có 5 hình thức xử phạt vi phạm hành chính, đó là: Cảnh
cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật vi phạm hành chính,
phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính; trục xuất. Trong 5 hình thức
phạt này có hai hình thức chỉ là hình thức phạt chính và ba hình thức phạt vừa là
hình thức phạt chính vừa là hình thức phạt bổ sung.
Hai hình thức phạt chính bao gồm cảnh cáo và phạt tiền. Hình thức phạt
chính áp dụng độc lập, một hành vi vi phạm chỉ có thể bị phạt cảnh cáo hoặc phạt
tiền mà không thể đồng thời áp dụng cả hai hình thức này. Ba hình thức phạt vừa
là hình thức phạt chính vừa là hình thức phạt bổ sung, gồm: tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn;
tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính; trục xuất. Hình thức xử phạt này là hình thức xử phạt chính khi được áp
dụng độc lập và là hình thức phạt bổ sung khi được áp dụng kèm hình thức phạt
chính.
Về cơ bản, các hình thức xử phạt được quy định và phát triển dựa trên kết
cấu các hình thức xử phạt chính và hình thức xử phạt bổ sung của Pháp lệnh
XLVPHC, trong đó, hình thức xử phạt cảnh cáo và phạt tiền vẫn giữ vai trò chủ
đạo trong hệ thống hình thức xử phạt chính để làm cơ sở cho việc giao Chính phủ
3
quy định hình thức xử phạt áp dụng đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính cụ
thể tại các nghị định. Điều này thể hiện qua việc quy định hai hình thức xử phạt
này chỉ được áp dụng là hình thức xử phạt chính.
Như vậy vẫn kế thừa các hình thức xử phạt cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền
sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật, phương tiện được sử
dụng để vi phạm hành chính và trục xuất của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002,
trong Luật XLVPHC bổ sung hình phạt mới là đình chỉ hoạt động có thời hạn.
Hình thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời
hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; hình thức xử phạt tịch thu tang vật vi
phạm hành chính, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính được quy định vừa
là hình thức xử phạt chính vừa là hình thức xử phạt bổ sung.
II.2. Điều 22. Cảnh cáo
Hình thức xử phạt cảnh cáo được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 và
cụ thể tại Điều 22 Luật XLVPHC
Hình thức này được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính
không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ và theo quy định thì bị áp dụng hình
thức xử phạt cảnh cáo hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quy định
bằng văn bản. Hình thức xử phạt hành chính cảnh cáo là hình thức xử phạt cảnh
cáo đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính, đối tượng bị áp dụng hình thức
xử phạt cảnh cáo không coi là có án tích và không bị ghi vào lý lịch tư pháp.
Hình thức xử phạt cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân từ đủ 16 tuổi trở
lên hoặc tổ chức vi phạm hành chính có đủ các điều kiện sau đây:
Hành vi vi phạm mà cá nhân, tổ chức thực hiện được văn bản pháp luật quy
định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Nếu loại vi phạm mà cá nhân,
tổ chức đó thực hiện mà pháp luật quy định chỉ bị áp dụng hình thức phạt tiền thì
không được phép áp dụng hình thức phạt cảnh cáo.
Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân, tổ chức vi phạm
hành chính hành chính chỉ được thực hiện khi đó là vi phạm lần đầu và có tình tiết
giảm nhẹ theo quy định của Điều 9 Luật XLVPHC.
4
Hình thức phạt cảnh cáo vẫn giữ nguyên quy định giống như trong Pháp
lệnh XLVPHC năm 2002. Tuy nhiên, Luật XLVPHC có bổ sung quy định làm rõ
thêm việc cá nhân, tổ chức vi phạm thực hiện hành vi vi phạm hành chính là vi
phạm không nghiêm trọng, có tình tiết giảm nhẹ thì bị áp dụng hình thức xử phạt
cảnh cáo khi có quy định về việc áp dụng hình thức xử phạt này. Do đó, quy định
này sẽ giải quyết được vướng mắc trong thực tiễn, làm cơ sở để giải quyết khiếu
nại về việc người có thẩm quyền không quyết định áp dụng hình thức xử phạt
cảnh cáo trong trường hợp người vi phạm có đầy đủ các yếu tố để có thể áp dụng
hình thức xử phạt cảnh cáo như vi phạm lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ... nhưng
nghị định lại không quy định hình thức xử phạt cảnh cáo.
II.3. Điều 23. Phạt tiền
Hình thức phạt tiền được quy định tại Điều 23 và mức phạt tiền tối đa
trong các lĩnh vực được quy định cụ thể tại Điều 24 Luật XLVPHC
Phạt tiền là việc nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm
hành chính bị xử phạt vi phạm hành chính phải nộp một khoản tiền nhất định vào
ngân sách nhà nước. Kế thừa quy định về mức phạt tiền đối với các hành vi vi
phạm hành chính, Điều 23 Luật XLVPHC quy định mức phạt tiền trong xử phạt
vi phạm hành chính từ 50.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng với cá nhân, từ
100.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng với tổ chức, trừ các lĩnh vực thuế; đo
lường; sở hữu trí tuệ; an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; chứng
khoán; hạn chế cạnh tranh mức phạt tiền tối đa theo quy định tại các luật tương
ứng. Như vậy, so với Pháp lệnh XLVPHC thì Luật XLVPHC đã nâng mức phạt
tiền tối thiểu từ 10.000 đồng lên 50.000 đồng; nâng mức phạt tiền tối đa từ
500.000.000 đồng lên 1.000.000.000 đồng đối với cá nhân, đến 2.000.000.000
đồng đối với tổ chức. Đồng thời, quy định cơ chế đặc thù về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, môi trường, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội đối với khu vực nội thành của các thành phố trực thuộc trung ương
nhằm đảm bảo hiệu quả của việc xử phạt vi phạm hành chính, đáp ứng yêu cầu
phòng, chống vi phạm hành chính trong giai đoạn hiện nay.
5
Kế thừa quy định tại Điều 14 của Pháp lệnh XLVPHC năm 2002; khoản 1,
2 Điều 24 Luật XLVPHC đã quy định rất rõ ràng 10 mức phạt tiền tối đa cho các
hành vi vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể và có sự
phân biệt về mức phạt tiền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức: Phạt tiền đến
30.000.000 đồng: hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; bạo lực gia đình; lưu trữ;
tôn giáo; thi đua khen thưởng; hành chính tư pháp; dân số; vệ sinh môi trường;
thống kê….Phạt tiền đến 75.000.000 đồng: quốc phòng, an ninh quốc gia; lao
động; dạy nghề; giao thông đường sắt; giao thông đường thủy nội địa; bảo hiểm y
tế; bảo hiểm xã hội…. Phạt tiền đến 500.000.000 đồng: xây dựng; quản lý rừng,
lâm sản; đất đai….Phạt tiền đến 1.000.000.000 đồng: quản lý các vùng biển, đảo
và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quản lý hạt nhân
và chất phóng xạ, năng lượng nguyên tử; tiền tệ, kim loại quý, đá quý, ngân hàng,
tín dụng; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi
trường. Mức phạt tiền tối đa trong lĩnh vực quản lý nhà nước quy định đối với tổ
chức bằng 02 lần mức phạt tiền đối với cá nhân.
Như vậy, có thể thấy mặc dù Luật XLVPHC tiếp tục kế thừa Pháp lệnh
XLVPHC về việc quy định khống chế mức phạt tiền tối ta với các hành vi vi
phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước nhưng các lĩnh vực quản lý
nhà nước đều được nâng mức phạt tiền tối đa cho phù hợp với tính chất, mức độ
vi phạm của hành vi trong các lĩnh vực đó (lĩnh vực an ninh, trật tự nâng từ
30.000.000 đồng lên 40.000.000 đồng, lĩnh vực giao thông đường sắt; giao thông
đường thủy nội địa từ 40.000.000 đồng lên 75.000.000 đồng…). Luật XLVPHC
còn bổ sung thêm mức phạt cho rất nhiều lĩnh vực mới như hôn nhân và gia đình;
bình đẳng giới; bạo lực gia đình; tôn giáo; phòng chống HIV/AIDS; giáo dục; văn
hóa; thể thao; du lịch;…Việc quy định cụ thể, chi tiết mức phạt tối đa cho nhiều
lĩnh vực sẽ giúp những người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tốt hơn việc
xử phạt vi phạm hành chính và bảo đảm lợi ích cho nhân dân.
Ngoài ra, Luật XLVPHC cũng quy định: “…đối với khu vực nội thành của
thành phố trực thuộc trung ương thì mức phạt tiền có thể cao hơn, nhưng tối đa
không quá 02 lần mức phạt chung áp dụng đối với cùng hành vi vi phạm trong
6
lĩnh vực giao thông đường bộ; bảo vệ môi trường; an ninh, trật tự, an toàn xã
hội”. Việc phân hóa mức phạt tiền giữa khu vực đô thị và các khu vực khác vừa
thể hiện sự đánh giá của nhà nước về tính chất, mức độ nguy hiểm của vi phạm
hành chính cao hơn ở khu vực này, vừa phù hợp với sự khác biệt về mức sống
giữa đô thị và các khu vực khác. Quy định mức phạt cao cũng là biện pháp nhằm
phòng ngừa, đấu tranh với các vi phạm hành chính đang gia tăng, gây cản trở đến
sự phát triển lành mạnh tại các đô thị.
Theo khoản 3 Điều 24 Luật XLVPHC, để bảo đảm tính thống nhất với quy
định của các luật đặc thù có quy định mức xử phạt tiền tính theo số lần giá trị
hàng hóa, tang vật vi phạm hành chính. Luật quy định mức phạt tiền tối đa trong
các lĩnh vực thuế; đo lường; sở hữu trí tuệ; an toàn thực phẩm; chất lượng sản
phẩm, hàng hóa; chứng khoán; hạn chế cạnh tranh theo quy định tại các luật
tương ứng. Ngoài ra, để bảo đảm sự linh hoạt và bao quát, không bỏ sót các hành
vi vi phạm hành chính mới xuất hiện, đối với các lĩnh vực mới chưa được quy
định trong Luật thì giao cho Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy
ban thường vụ Quốc hội và mức phạt tiền tối đa đối với các lĩnh vực mới không
được vượt quá mức phạt tối đa đã được Luật quy định là 2.000.000.000 đồng. Đây
là những quy định mới so với Pháp lệnh XLVPHC. Những quy đinh này giúp cho
các chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính tiến hành xử phạt mà không
bị mâu thuẫn với các luật khác cũng như giải quyết được các vi phạm trong các
lĩnh vực mới chưa được quy định.
Việc lựa chọn, áp dụng mức phạt tiền đối với người vi phạm phải trong
khung phạt cụ thể được văn bản pháp luật quy định cho loại vi phạm được thực
hiện theo cách: khi phạt tiền mức phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành
chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó;
nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm
quá mức tối thiểu của khung tiền phạt; nếu có tình tiết tăng nặng thì mức phạt tiền
có thể tăng lên nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
Việc lựa chọn, áp dụng mức phạt tiền đối với người chưa thành niên vi
phạm hành chính có những nét đặc thù riêng biệt đã được pháp luật quy định, cụ
7
thể: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi vi phạm hành chính chỉ bị phạt cảnh
cáo, không bị phạt tiền; Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính
bị phạt tiền thì có thể áp dụng đối với họ không được quá một phần hai mức phạt
đối với người thành niên, trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ
hoặc người giám hộ phải nộp phạt thay.
II.4. Điều 25. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn
hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn
Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là giấy tờ do cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền cấp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật để cá nhân, tổ
chức đó kinh doanh, hoạt động, hành nghề hoặc sử dụng công cụ, phương tiện.
Giấy phép, chứng chỉ hành nghề không bao gồm giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, chứng chỉ gắn với nhân thân người được cấp không có mục đích cho phép
hành nghề.
Dựa trên sự kế thừa hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề được quy định tại Điều 13 Pháp lệnh XLVPHC năm 2002, tại Điều 25
Luật XLVPHC đã quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn về hình thức xử phạt
tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn đồng thời bổ
sung thêm hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn là hình
thức xử phạt được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng các
hoạt động được ghi trong giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Người có thẩm quyền
xử phạt giữ giấy phép, chứng chỉ hành nghề trong thời hạn tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Hình thức xử phạt này chỉ được áp dụng khi có
đủ hai điều kiện sau: Văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính quy định
có thể áp dụng biện pháp xử phạt này đối với vi phạm hành chính cụ thể; cá nhân,
tổ chức đã có hành vi trực tiếp vi phạm hành chính quy tắc sử dụng giấy phép,
chứng chỉ hành nghề. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề, cá nhân, tổ chức không được tiến hành các hoạt động ghi trong giấy
phép, chứng chỉ hành nghề.
8
Đình chỉ hoạt động có thời hạn là hình thức xử phạt được áp dụng đối với
cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp sau: Thứ nhất, gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây hậu quả nghiêm trọng đối với tính
mạng, sức khỏe con người, môi trường của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
mà theo quy định của pháp luật phải có giấy phép thì bị đình chỉ một phần hoạt
động đó trong thời hạn nhất định. Thứ hai, thực hiện động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ hoặc hoạt động khác mà theo quy định của pháp luật không cần phải có
giấy phép hoạt động đã gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có khả năng thực tế gây
hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng, sức khỏe con người, môi trường và trật
tự, an toàn xã hội thì bị đình chỉ toàn bộ hoặc một phần hoạt động đó trong thời
hạn nhất định.
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc đình
chỉ hoạt động có thời hạn là một hình thức xử phạt rất nghiêm khắc do ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi ích vật chất, uy tín của người vi phạm hành chính. Do đó, hình
thức xử phạt này mang lại hiệu quả lớn và ngăn ngừa vi phạm hành chính.
Pháp lệnh XLVPHC chỉ quy định hình thức xử phạt tước quyền sử dụng
giấy phép, chứng chỉ hành nghề đối với hành vi vi phạm nghiêm trọng. Quy định
này gây khó khăn cho việc xử lý nhiều tình huống thực tế bởi có nhiều tổ chức, cá
nhân hoạt động, kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không quy
định điều kiện hoạt động, kinh doanh là phải có giấy phép, chứng chỉ hành nghề.
Do đó khi cá nhân, tổ chức đó vi phạm ở mức độ nghiêm trọng, gây hậu quả nặng
nề cho môi trường, con người,…thì không có chế tài xử phạt tương xứng. Vì lý do
này, Luật XLVPHC đã bổ sung hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn
bên cạnh hình thức tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Ngoài
ra, Luật cũng đưa ra hình thức xử phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn được áp
dụng trong trường hợp hành vi vi phạm phát sinh từ hoạt động, vận hành của một
quy trình, bộ phận nhất định chứ không phải toàn bộ doanh nghiệp, nhà máy đó,
không cần thiết phải tước giấy phép hoạt động để tránh việc gián đoạn hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các bộ phận khác trong doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp
hạn chế ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cũng như
việc làm và thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp.
9
II.5. Điều 26. Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc sung vào ngân
sách nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm
hành chính, được áp dụng đối với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý
của cá nhân, tổ chức. Hình thức này chỉ được áp dụng cho cá nhân, tổ chức trong
trường hợp đã thực hiện vi phạm hành chính nghiêm trọng do cố ý và vật, tiền,
hàng hóa, tang vật phải là tang vật trực tiếp của vi phạm hành chính hoặc được sử
dụng trực tiếp để vi phạm hành chính mà nếu không có chúng thì vi phạm hành
chính không thể thực hiện được.
Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính là việc người có thẩm
quyền xử phạt quy định áp dụng biện pháp tịch thu để sung vào công quỹ nhà
nước các tài sản, vật dụng, hàng hóa, tiền bạc,…dùng để thực hiện hành vi vi
phạm hành chính hoặc do vi phạm hành chính mà có. Khi áp dụng hình thức này
cần lưu ý đối với vật, tiền bạc, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính thuộc
các hình thức sở hữu hợp pháp bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt
một cách bất hợp pháp hoặc sử dụng trái phép thì không được tịch thu mà phải trả
lại cho chủ sở hữu. Trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu, người
quản lý, sử dụng hợp pháp hoặc những người này không đến nhận thì tang vật,
phương tiện sẽ được xử lý theo quy định của pháp luật.
Điểm thay đổi lớn trong quy định về hình thức xử phạt tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính là quy định rõ hình thức này được áp dụng đối
với vi phạm hành chính nghiêm trọng do lỗi cố ý của cá nhân, tổ chức để tránh
việc lạm dụng, áp dụng việc tịch thu đối với cả những vi phạm không nghiêm
trọng.
II.6. Điều 27. Trục xuất
Kế thừa quy định tại Điều 15 Pháp lệnh XLVPHC, Luật XLVPHC vẫn quy
định trục xuất là hình thức xử phạt áp dụng đối với người nước ngoài vi phạm
hành chính trong lãnh thổ Việt Nam.
10
Trục xuất là hình thức xử phạt buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm
hành chính tại Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Chính phủ quy định chi tiết việc áp dụng hình thức xử phạt trục xuất.
Theo Luật Quốc tịch 2014 “Người nước ngoài cư trú ở Việt Nam là công
dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở Việt Nam”.
Hình thức xử phạt trục xuất chỉ áp dụng đối với người nước ngoài cư trú trên lãnh
thổ Việt Nam. Với mục đích là trừng phạt, răn đe người nước ngoài vi phạm pháp
luật và ngăn ngừa một cách triệt để khả năng vi phạm pháp luật mới của người
nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam. Trục xuất là một hình thức xử phạt vi phạm
hành chính được áp dụng linh hoạt trên thực tiễn bởi trong từng trường hợp cụ thể
nó có thể là hình thức phạt chính hoặc hình thức phạt bổ sung. Người nước ngoài
vi phạm pháp luật Việt Nam có thể bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, đồng thời bị trục
xuất, trong trường hợp này trục xuất là hình phạt bổ sung. Cũng có thể họ bị trục
xuất mà không bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, trong trường hợp này trục xuất
được áp dụng là hình phạt chính.
PHẦN KẾT LUẬN
Qua việc phân tích các quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính
và chỉ ra sự kế thừa, phát triển của các quy định này so với Pháp lệnh XLVPHC
năm 2002, có thể thấy rằng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính của nước ta
hiện nay đã được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ và toàn diện hơn. Luật
XLVPHC tiếp tục kế thừa những quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành
chính đã được thực tiễn kiểm nghiệm và bổ sung thêm những hình thức mới,
những quy định mới đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời đại mới. Hiểu rõ và áp dụng đúng các hình thức xử phạt vi phạm hành
chính sẽ bảo đảm dân chủ trong hoạt động xử phạt vi phạm hành chính; bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn có nhiều
hiện tượng cơ quan, người có thẩm quyền làm ngơ không xử lý vi phạm hành
chính hoặc người vi phạm không chấp hành quyết định xử phạt hoặc nộp tiền phạt
song không chấp hành hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả, do đó
11
nhà nước cần đề ra các quy định chặt chẽ hơn nữa để hoạt động xử lý vi phạm
hành chính ngày càng có ý nghĩa hơn.