TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
VĂN BẢN HÁN NÔM VIỆT NAM
(Dành cho Cao đẳng sư phạm Ngữ văn)
Tác giả: Nguyễn Thị Hoài An
Năm 2012
Mục lục
Trang
Lời nói đầu…………………………………………………………………… .… 3
CHƯƠNG 1. VĂN BẢN HÁN NÔM – CÁC LOẠI THỂ
VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ............................................................................................ ... 4
1.1. Văn bản Hán Nôm – Các loại thể....................................................................... ... 4
1.2. Một số biện pháp tu từ chủ yếu...........................................................................
... 7
CHƯƠNG 2. MINH GIẢI VĂN BẢN ............................................................... ...
18
2.1. Cáo tật thị chúng.................................................................................................
18
2.2. Thuật hoài............................................................................................................
28
2.3. Độc Tiểu Thanh kí..............................................................................................
31
2.4. Thơ chữ hán Hồ Chí Minh..................................................................................
38
2.5. Bach Đằng giang phú.........................................................................................
41
2.6. Bình Ngô đại cáo...............................................................................................
49
2.7.Truyện Kiều (trích đoạn)......................................................................................
54
Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….. 58
2
Lời nói đầu
Văn bản Hán Nôm Việt Nam là bài giảng được biên soạn nhằm giới thiệu
cho sinh viên một cách hệ thống những tri thức cơ bản về văn bản Hán Nôm Việt
Nam, về chữ Nôm, rèn luyện phương pháp phân tích, minh giải văn bản Hán Nôm
và mở rộng vốn từ Hán Việt.
Bài giảng gồm hai chương, được trình bày theo thứ tự từ những vấn đề khái
quát về lý thuyết đến thực hành về phân tích và minh giải văn bản với ý đồ truyền
thụ, hợp với thời lượng cho phép của môn học. Những văn bản Hán Nôm Việt
Nam được lựa chọn giới thiệu nói chung đều nằm trong chương trình phổ thông.
Đối với văn bản Hán văn, mỗi văn bản đều được giới thiệu qua bốn phần: 1/
Nguyên tác chữ Hán; 2/ Phiên âm Hán Việt; 3/ Vài nét về tác giả và bài thơ; 4/
Chú giải từ ngữ và mở rộng vốn từ Hán Việt (riêng biền văn có thêm phần ngữ
pháp); 5/ Dịch nghĩa. Riêng với các văn bản Nôm, mỗi văn bản được giới thiệu
qua ba phần: 1/ Nguyên văn chữ Nôm; 2/ Phiên âm bài khóa ra chữ Quốc ngữ theo
đúng nguyên văn; 3/ Chú giải các điển tích, điển cố, những từ khó (nếu có).
Chúng tôi hi vọng, bài giảng Văn bản Hán Nôm Việt Nam giúp người học
nâng cao vốn hiểu biết về văn bản Hán Nôm, củng cố vững chắc hơn và mở rộng
vốn từ Hán Việt qua việc tìm hiểu các thể loại văn bản Hán Nôm ở từng thời kỳ
khác nhau.
Bài giảng được biên soạn lần đầu nên không tránh khỏi sai sót, rất mong sự
góp ý kiến của các đồng nghiệp, anh chị em sinh viên để chúng tôi có thể chỉnh
sửa hoàn thiện hơn vào các lần in sau.
3
CHƯƠNG 1. VĂN BẢN HÁN NÔM – CÁC LOẠI THỂ
VÀ BIỆN PHÁP TU TỪ
1.1. Văn bản Hán Nôm – các loại thể
Trải qua bao biến động thăng trầm của lịch sử xây dựng và phát triển nền văn
hóa dân tộc, chữ Hán và chữ Nôm đã trở thành công cụ sáng tác văn chương của
bao thế hệ nhà văn, nhà thơ. Và họ đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam một
khối lượng đồ sộ những tác phẩm văn học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm có giá
trị cao về mặt lịch sử và văn học. Về mặt hình thức kết cấu, phương thức thể hiện,
kho tàng văn bản Hán Nôm được chia thành ba loại: tản văn (văn xuôi), vận văn
(văn vần) và biền văn (văn biền ngẫu). Có thể nói, sự phân chia trên chỉ mang tính
chất tương đối mà thôi, sự khu biệt giữa các thể loại hẳn đã rạch ròi vì có sự pha
lẫn xen kẽ. Ví dụ như tác phẩm Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du là văn vần
nhưng có phần tiểu dẫn viết bằng văn xuôi. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ là văn xuôi nhưng có nhiều đoạn câu chữ đối nhau theo kiều biền
ngẫu, lại có nhiều đoạn viết bằng văn vần.
Để nhận thức một cách đầy đủ giá trị của văn bản Hán Nôm, chúng ta cần tìm
hiểu đặc điểm từng loại thể. Trong kho tàng văn bản bản Hán Nôm, do sự ảnh
hưởng quá trình tiếp xúc và giao lưu văn hóa nên có nhiều văn bản Hán văn Việt
Nam đã mô phỏng các loại thể vốn có trong văn chương cổ điển Trung Quốc (thơ
cổ phong, phú cổ thể, văn biền ngẫu..) và ông cha ta cũng đã dùng chữ Nôm để
sáng tác nhiều tác phẩm thuộc nhiều loại thể của văn học Trung Quốc (Bạch Đằng
giang phú của Trương Hán Siêu, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn trãi...). Mặt khác,
có những tác phẩm có giá trị cao về cả nội dung lẫn hình thức được sáng tác bằng
những thể mang đậm đà sắc thái dân tộc, như thơ lục bát, khúc ngâm, truyện
thơ…( Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia
Thiều…)
Chính vì vậy, để tiếp nhận các văn bản Hán Nôm thuộc nhiều thể loại khác
nhau một cách thuận lợi, chúng ta đi sâu tìm hiểu các thể loại văn học cổ Trung
Quốc.
I. Vận văn (Văn vần)
Một tác phẩm được sáng tác theo thể văn vần có thể toàn bộ tác phẩm từ đầu
đến cuối đều có vần, hoặc chỉ một phần có vần, hoặc một số đoạn có vần xen kẽ
giữa một số đoạn không vần, nhưng nhìn chung thì phần văn vần đóng vai trò chủ
chốt. Loại này bao gồm:
4
1. 詩 歌 - 詞 賦 Thi ca và từ phú: thể loại này có vần từ đầu đến cuối; sau này
người ta còn đưa ra yêu câu là "câu chữ đăng đối". Người xưa cho hai loại này là
cùng một dòng. Nội dung có thể là tự sự, trữ tình, vịnh vật…
2. 頌 讚 Tụng tán: từ đầu đến cuối đều có vần hoặc phần có vần chiếm vị trí
chủ đạo. Đúng như tên gọi của thể loại, tụng tán chủ yếu nhằm ca ngợi tán dương
công đức sự nghiệp của danh nhân, chí sĩ. Chính vì vậy, câu chữ của tụng tán
thường trang trọng, điển nhã, ngắn gọn, lời hay ý đẹp những cần xác thực, không
tô vẽ khoa trương, bay bổng. Đối với thể tán còn có thể là phần tóm tắt, kết luận
ngắn gọn của một phần văn phẩm bàn về một sự việc, một nhân vật hoặc về một
vấn đề nhất định nào đó, gồm những câu có vần hoặc không vần, thường là bốn
chữ một câu.
3. 箴 銘 Châm minh: châm là một thể văn dùng để khuyên răn. Minh là bài
văn khắc vào gỗ hoặc bia đá, cũng dùng để khuyên răn. Về sau ý nghĩa của châm
minh được mở rộng ra, chuyên chỉ một văn thể được ghi tạc lại nhằm khuyên răn,
khích lệ (thường là tự khuyên răn khích lệ) hoặc ca tụng tuyên dương công đức
người khác để nêu gương sáng. Châm minh viết bằng văn vần, hoặc chủ yếu là văn
vần. Thể thức ngắn gọn, câu chữ trau chuốt, ý tứ sâu sắc. Về sau, nhiều bài minh
được viết theo lối biền văn.
4. 碑 記 碑 誌 Bi chí, bi kí: gọi nôm na là văn bia; phạm vi bao quát khá rộng,
có thể chia làm hai loại: bi minh, bi kí - văn bia nói chung, bao gồm các loại văn
bia ghi công trạng, ghi sự tích, thề bồi, nguyện ước, phong thần…, bia ghi thắng
cảnh, bia ghi việc xây dựng hoặc trùng tu đền chùa, miếu mạo, chợ búa, cầu quán,
dinh dự, học đường … và mộ chí minh, tức là bia mộ (kể cả bia thần đạo).
Bi minh thường có lời mở đầu, phần tự, viết bằng văn xuôi và phần minh viết
bằng văn vần. Mộ chí minh thường có phần thuật lại những nét chủ yếu của người
quá cố, viết bằng văn xuôi và một phần kết thúc ngắn gọn viết bằng văn vần. Lưu
Hiệp coi trọng tính chất sử liệu và khả năng lưu truyền lâu dài của văn bia, cho nên
ông khuyên người viết loại văn này nên thận trọng trong việc ghi sự việc, chọn câu
chữ …
5. 哀 祭 Ai tế: bao gồm các loại văn điếu phúng người chết như: ai từ, điếu
văn, lỗi văn, tế văn (văn tế), nội dung thường bao gồm hai phần: phần thuật sự
nghiệp bình sinh, ngôn hành, đức hạnh của người qua cố và phần diễn tả nỗi xót
thương của thân thích bạn bè. Riêng tế văn (văn tế) là loại văn chuyên dùng trong
các cuộc tế lễ, lễ truy điệu … Văn tế thường được viết băng văn vần, xét về mặt thể
thức ngôn từ thì rất gần với phú (về sau này, văn tế thường được viết bằng phú
Đường luật). Tuy vậy, cũng có thể viết bằng văn xuôi, hoặc chủ yếu bằng văn xuôi
5
có xen kẽ một số câu văn vần. Theo Lưu Hiệp, loại văn vần này cần đạt tới chỗ lời
lẽ hòa quyện với ý tình, tránh tình trạng thể thức thì văn hoa trang trọng, nhưng nội
dung thì nông cạn sáo mòn.
II- Tản văn (văn xuôi) và biền văn
散 文 Tản văn (văn xuôi) nòi ở đây có loại rất gần vơi khẩu ngữ (luận thuyết,
sử truyện, tạp văn …), có loại được uốn nắn tỉa tót, gò ép vào những thể thức nhất
định, tuy là tản văn nhưng thực tế là không là loại trừ vần và đói có nghĩa là đã
nhít lại gần biền văn, hoặn tản văn pha biền văn (tặng tự, tự bạt, kí …). Biền văn
có đặc điểm câu chữ được kết cấu theo một thể thức chặt chẽ đăng đối, vồn là một
thể văn đặc thù.
1. 論 說 Luận thuyết hoặc luận biện, là một thể văn thương được dùng để
trình bày, thuyết minh, luận bàn, biện bác … Các vấn đề triết học chính trị xã hội,
sử học, văn học … Có thể chỉ là một văn phẩm ngắn gọn ghi trọn vẹn một văn bản
đơn nhất, cũng có thể một tập hợp nhiều văn bản có hữu cơ với nhau, tạo thành tác
phẩm chuyên luận lớn, chủ yếu được viết bằng văn xuôi, nhưng cá biệt cũng có khi
được diễn đạt bằng văn vần, như Đạo đức kinh - tác phẩm triết học của Lão Tử
(khoảng thế kỷ VIII - V TCN), hoặc bằng biền văn như Văn tâm điêu long của Lưu
Hiệp ( thế kỷ VI ).
2. 序 跋 Tự bạt: lời giới thiệu, lời bình tác phẩm, nói chung được viết bằng
văn xuôi. Tự (tự ngôn: lời tựa) được đặt ở đầu sách; bạt (hậu tự) đặt ở cuối sách.
Thời xưa, tự cũng như bạt đều đặt ở cuối sách, về sau riêng tư được đưa lên đầu
sách. tự bạt có khi viết bằng văn vần hoặc biền văn.
3. 贈 序 Tặng tự: thường chỉ gọi tắt là "tự" - một thể văn đặc biệt xuất hiện
vào khoảng đầu đời Đường liên quan đến một tập tục cổ xưa vốn có ý nghĩa rất cao
quý là tặng nhau những lời hay ý đẹp (tặng ngôn), thường viết bằng văn xuoi, tuy
nhiên cũng có loại trừ hiện tượng có bài xen lẫn phần văn vần và có kết cấu câu
chữ đăng đối nhau (biền văn).
4. 書 簡 Thư giản: thư từ nói chung, phạm vi bao quát khá rộng, nội dung
cũng phong phú đa dạng, có thể chỉ là thông tin thông báo tin tức, thăm hỏi nhau
có tín chất riêng tư, nhưng có thê là biện bác, tranh luận…công khai xung quanh
một vấn đề gì đó, cho nên có người xếp thể văn này dưới các mục như thuyết, thư
thuyết, từ mệnh, từ lệnh. …Thư giản nói chung đều viết bằng văn xuôi, cũng có khi
được viết bằng biền văn hoặc văn xuôi pha văn vần.
5. 史 傳 Sử truyện: ghi chép lịch sử, sự tích…nếu là tiểu sử cá nhân thì gọi
là hành trạng, hành lược, hành thuật hoặc đơn giản chỉ là truyện. Sử sác ngoài cái
6
tên thông dụng là sử ký, sử hoặc ký, chí còn có nhiều tên gọi khác cổ xưa như ngữ,
thư, xuân thu… truyện cũng được dùng chỉ các tiểu thuyết lịch sử. tiểu thuyết
truyền kỳ. Trong truyện thường có văn vần thơ ca, từ khúc hoặc biền văn.
6. 雜 記 Tạp ký: văn phẩm ngắn mang tính chất tự sự (nhưng không bao gồm
những văn phẩm ghi chép cuộc đời cá nhân, đã nằm trong thể sử truyện, bi ký)
hoặc viết trên giấy tờ hoặc tạo trên đá. Chủ yếu được viết bằng văn xuôi xen lẫn
câu văn vần, thể thức đăng đối, âm điệu hài hòa nhịp nhàng.
7. 奏 凱 - 誼 對 - 章 表 Tấu khải, nghị đối, đối sách, chương biểu: ghi lời
trình bày, kiến nghị, luận bàn,… của bề tôi gửi lên nhà vua. Theo lưu Hiệp:
chương để tạ ơn; biểu để trần tình; tấu khải là đánh nhạc hát mừng; nghị là luận
bàn. Đối sách có nội dung chủ yếu là những kiến giải về chiến sự trình bày theo
yêu cầu của nhà vua.
Chiếu, chế, sắc, hịch, cáo ghi mệnh lệnh, ý chỉ hiểu dụ của nhà vua về các
công việc triều đình, khen thưởng, chinh phạt đánh dẹp…
Trong kho tàng Hán văn cổ của Việt Nam, chúng ta thấy có đủ ba loại văn thể
chủ chốt: vận văn (văn vần), biền văn (văn đối) và tản văn (văn xuôi).
Vận văn chủ yếu bao gồm thơ, phú, từ khúc. Ở ta, thơ chiếm ưu thế về mặt số luợng,
sau đó phải kể đến phú, còn từ khúc nói chung không được các nhà nho ta chuộng lắm.
Tuy vậy chúng ta đã có những khúc ngâm nổi tiếng bằng Hán văn, pha trộn một cách tài
tình từ nhiều loại từ khúc khác nhau như bản Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (thế
kỷ XVIII) và một số bài ca từ khá hay điểm xuyết cho các tập truyện, như các bài ca
trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ …
Văn xuôi chữ Hán ở Việt Nam có nét khác biệt với văn xuôi Trung Quốc.
Trước hết, nó ghi chép các sự việc ở nước ta, thể hiện đời sống, hiện thực và tâm
hồn Việt Nam do vậy mang dấu ấn dân tộc đậm nét về hình thức và cách hành văn.
Sự khác biệt này có thể nhận thấy ở ba điểm sau:
1. Cách lựa chọn từ: có thể sử dụng những từ ít thấy trong văn bản trung
quốc như chúa thượng, chúa công, ông…
2. Cách sử dụng hư từ: chỉ dùng rất ít hư từ trong số các hư từ được sử
dụng nhiều ở văn xuôi Trung Quốc.
3. Cách sử dụng mô hình cú pháp đơn giản, nếu so sánh câu văn của tản
văn Việt Nam với câu văn của tản văn Trung Quốc.
Do thời lượng cho phép của môn học, chúng ta đi vào tìm hiểu một số văn bản
(và chủ yếu là trích đoạn).
1.2. Một số biện pháp tu từ chủ yếu
7
Về mặt hình thức, các văn bản hán văn cổ được thể hiện thành sự ngắn gọn
nhưng trọn vẹn trong tổng thể, sự súc tích trong ý nghĩa, sự hài hoà trong âm
thanh và sự cân đối trong câu chữ.
Tác giả các văn bản cổ đã sử dụng hệ thống những biện pháp tu từ đa dạng và
vô cùng tinh tế như biện pháp tu từ về vần điệu, đối ngẫu và điển cố.
Trong kho tàng văn bản hán văn cổ Việt Nam, thơ là loại văn vần được sử
dụng nhiều nhất. Vần điệu là sự hài hoà nhịp nhàng âm thanh ngữ điệu, đặc biệt là
trong thơ và phú, kể cả thể chiếu. Chiếu là một thể văn không có vần. Nhưng do
chỗ các thanh trầm thanh bổng được sắp xếp xen kẽ vào các vị trí thích đáng đã
tạo nên sự liên kết giữa các câu. Ví dụ trong bài chiếu này, sự nhịp nhàng về vần
điệu là liên kết bài chiếu này một cách chặt chẽ.
遷都詔
昔商家 至盤庚五遷周室 逮成王三徙豈三代之數君俱徇己私
妄 自 遷 徙 以 其 宅 中 圖 代 為 萬 忻 世 子 孫 之 計上 謹 天 命 下 因 民 願
苟便輒改故國祚延長風俗富阜而丁黎二氏乃徇己私忽天命罔
蹈商周之跡常安厥邑于玆致世代弗長算數短促百姓耗損萬物
失宜朕甚痛之不得不徙況高王故都大羅城宅天地區域之中得
龍蟠虎踞之世正東西南北之位便江山向背之宜其地廣而坦平
厥土高而爽塏民居蔑昏墊之困萬物極蕃阜之丰 遍覽越邦斯為
勝地誠四方輻輳之要會為萬世帝王之上都朕欲因此地利以定
厥 居 卿 等 知 何?
李公蘊
1. Phiên âm Hán Việt
Thiên đô chiếu
Tích Thương gia chí bàn thiên ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ.
Khởi Tam đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ? Dĩ kỳ đồ đại trạch trung,
vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu triếp
cải, cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. nhi Đinh Lê nhị thị nãi tuẫn kỷ tư,
hốt thiên mệnh, võng đạo Thương chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế
đại phất trường, toán sổ đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm
thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạc thiên địa khu vực chi trung, Đắc
long bàn hổ cứ chi thế, chính nam bắc đông tây chi vị, tiện giang sơn hướng bội
chi nghi; kỳ địa quảng nhi thản bình,quyết thổ cao nhi sảng khải, dân cư miệt hôn
điếm chi khốn, vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng
địa. thành tứ phương bức thấu chi yếu hội, vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
8
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng dĩ vi hà như?
Các tác phẩm thơ ca Hán văn Việt Nam thường có vần chân, tức là vần gieo ở
cuối câu. Ví dụ:
“Quải hãn mạn chi phong phàm, thập hạo đăng chi hải nguyệt.
Triêu dát huyền hề ngyên tương; mộ u thám hề vũ huyệt
Cửu giang, ngũ hồ; tam ngô, bách việt, nhân tích sở chí; mị bất kinh duyệt.
Hung thôn vân mộng giả sổ bách
Nhi tứ phương tráng chí do khuyết như dã.
Nãi cử tiếp hồ trung lưu, túng tử trường chi viễn du.
Thiệp đại than khẩu, tố đông triều đầu
Để bạch đằng giang, thị phiếm thị phù
Tiếp kìng ba ư vô tế, trám diêu vĩ chi tương mâu.
Thuỷ thiên nhất sắc, phong cảnh tam thu.
Chử địch ngạn lô, sắt sắt sưu sưu.
Chiết kích trầm giang, khô cốt doanh khâu.
Thảm nhiên bất lạc, trữ lập ngưng mâu.
Niệm hào kiệt chi dĩ vãng, thán tùn tích chi không lưu”.
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
Vần là những âm thanh hòa với nhau trong hai hoặc một câu thơ trong bài thơ
Đường luật tạo nên sự tương thích về âm thanh. Thơ Đường thường gieo vần bằng.
Đối là cách đặt hai câu thơ đi sóng đôi với nhau sao cho ý và chữ của hai câu thơ
đối nhau (đối ý, đối chữ, đối về từ loại). Niêm 粘 là sự liên lạc về âm vận, phân
phối thanh theo chiều dọc để kết nối câu thơ trong bài thơ Đường luật. Nguyên tắc
kết dính bắt đầu từ chữ thứ nhì của các cặp câu thơ. Theo yêu cầu của luật thi thì
vần bằng niêm với vần bằng, vần trắc niêm với vần trắc. Trong bài thơ thất ngôn
bát cú Đường luật, câu thơ 1 niêm với câu thơ 8, câu 2 niêm với câu 3, câu 4 niêm
với câu 5, câu 6 niêm câu 7 tạo thành một kết cấu vòng tròn liên kết chặt chẽ. Luật
thơ là cách sắp xếp thanh bằng và thanh trắc trong các câu thơ của một bài thơ thất
ngôn bát cú Đường luật. Nếu như niêm là sự kết dính theo chiều dọc các liên thơ,
9
còn luật là sự điều tiết âm thanh theo chiều ngang của một dòng thơ. Luật thơ được
tính từ chữ thứ hai của câu thứ nhất.
Phép đối là một đặc tính của văn chương xưa (chữ nho là đối ngẫu, đối: sóng
nhau; ngẫu: chẵn . đôi): không những là văn vần (như thơ, phú) theo phép ấy, mà
các biền văn (câu đối, từ lục, kinh nghĩa) và đến cả văn xuôi nhiều khi cũng đặt
thành hai câu đối nhau, hoặc hai đoạn trong một câu đối nhau.
Thế nào là đối?- Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy
cân xứng với nhau. Vậy trong phép đối, vừa phải đối ý vừa phải đối chữ.
A) đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
B) Đối chữ thì phải xét về hai phương diện: thanh của chữ và loại chữ.
1) Về thanh thì bằng đối với trắc, trắc đối với bằng. tùy thể văn, có khi cả các chữ
trong câu đều phải đối thanh (như thể thơ), có khi chỉ một vài chữ theo lệ đã định
phải đối thanh (như thể phú).
Về loại thì hai chữ phải cùng một loại mới đối nhau được. Ngày xưa các cụ
chia các chữ ra làm thực tự hay chữ nặng như: trời, đất, cây, cỏ và hư tự hay chữ
nhẹ như: thế, mà, vậy, ru. Khi đối thì thực tự phải đối với thực tự, hư tự phải đối
với hư tự. Cho nên, Đối ngẫu phải cân xứng theo loại (sống đôi và cân xứng về
hình thức và ý nghĩa) nhằm tăng thêm hiệu quả biểu đạt.Biện pháp tu từ này được
sử dụng rộng rãi trong các loại thể văn thơ Hán văn và đối từng loại đều có những
thể thức riêng. Ví dụ trong bài thơ Tahng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh
Quan”
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ cữ lâu đài bóng tịch dương”
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn chau mặt với tang thương”
Các biện pháp tu từ về vần điệu và đối ngẫu nếu được vận dụng thích đáng sẽ
tạo nên vẻ đẹp hài hoà trong âm thanh, cân đối trong câu chữ cho các laoij văn bản
cổ. Nhưng để đạt tới độ ngắn gọn súc tích, các tác giả xưa còn sử dụng điển cố văn
học: có thể dùng nguyên điển cố hoặc một phần điển cố.
Dùng nguyên điển cố là cách sử dụng nguyên vẹn từ nguồn gốc, câu nói,
những địa danh, tên gọi trong lịch sử và văn học cổ - trung đại Trung Quốc tạo nên
sự trang trọng, hàm súc, mang tính chất tầm chương tích cú. Đó là những địa danh,
nhân vật, câu chữ mẫu mực được trích dẫn được dùng nguyên ý nghĩa vốn có. Đặc
biệt, nhà thơ Lê Thánh Tông vận dụng nhiều điển cố về địa danh, sự kiện lịch sử,
10
nhân vật lịch sử trong sáng tác thơ chữ Hán. Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông gắn liền
với chính trị nên việc dùng điển cố liên quan đến sử liệu tạo tính minh họa cụ thể
cho tư tưởng nhà thơ. Mục đích của việc dùng nguyên điển cố văn học trong thơ
chữ Hán Lê Thánh Tông nhằm khẳng định lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn và
phẩm chất kẻ sĩ. Tác giả lấy các sự kiện lịch sử và tấm gương người xưa để khuyên
răn bản thân và kẻ sĩ.
莊公忘孝慕
母作穎城人
Trang Công vong hiếu mộ
Mẫu tác Dĩnh thành nhân
“Vua Trang Công đã quên lòng hiếu thảo,
Nên bà mẹ trở thành người thành Lâm Dĩnh”
(Lâm Dĩnh, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Theo Tả truyện, thời Chiến Quốc, vua Trang Công nước Trịnh là ông vua hiếu
đễ. Thế nhưng, do em trai là Cung Thúc Đoạn được mẹ dung túng, có mưu đồ làm
phản. Việc bại lộ, Đoạn tự tử; mẹ bị Trang Công đưa đi giam lỏng ở Lâm Dĩnh.
Trang Công thề rằng bao giờ xuống suối vàng mới gặp mẹ. Sau ông hối hận về
hành động bất hiếu đó nhưng không biết làm thế nào. Nhờ có bề tôi Dĩnh Khảo
Thúc bày kế đào hầm cho hai mẹ con gặp nhau. Trang Công xin lỗi mẹ, đưa mẹ về
đô phụng dưỡng. Điển cố trên được Lê Thánh Tông đưa vào thơ chữ Hán như bài
học cho cách đối nhân xử thế đối với người thân trong hoàng tộc. Ông tự khuyên
bản thân luôn sáng suốt trong công việc và phân minh trong tình cảm gia đình. Lê
Thánh Tông là người con hết sức có hiếu với mẹ. Dù thân chinh đi đánh gặc xa xôi
nhưng trong lòng luôn nhớ về mẹ với hình ảnh thơ chan chứa tình cảm tha thiết.
目 斷 慈圍 萬 里 程
Mục đoạn từ vi vạn lý trình
“Mòn mỏi con mắt nhớ tới mẹ hiền nơi xa xôi vạn dặm”
(Chinh Tây kỷ hành, bài 8)
Điển cố trong thơ chữ Hán Lê Thánh Tông với hình thức dùng nguyên điển cố
thường lấy những sự việc được ghi chép trong lịch sử Trung Hoa. Trong đó, ông
nhấn mạnh về câu chuyện tấm lòng người xua như Án Tử, Chu Công, Bá Di, Tổ
11
Địch, Lưu Côn…Mỗi bài thơ trong Cổ tâm bách vịnh thi là một câu chuyện kể cô
đọng và hàm súc.
晏子心機險
深圖去亂臣
Án Tử tâm cơ hiểm
Thâm đồ khử loạn thần
“Án Tử bụng dạ sâu hiểm,
Bày mưu sâu để trừ bọn loạn thần”
(Thang Âm lý, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Án Tử trong điển cố trên là Án Anh. Theo Thông chí, Án Anh là người nước Tề
thời Xuân Thu, tự là Bình Trọng, làm quan đại phu, nổi tiếng tiết kiệm, siêng năng
lo việc nước. Lê Thánh Tông luôn coi trọng và đề cao những bậc trung thần phụng
sự đất nước. Những người ngày đêm sát cánh cùng vua chăm lo xây dựng đất
nước.
周公待旦小心危
得聖之清古伯夷
Chu Công đãi đán tiểu tâm nguy
Đắc thánh chi thanh cổ Bá Di
“Chu Công đợi trời sáng, tấm lòng cẩn mật đau đáu
Bá Di xứng đáng bậc thánh thanh cao của đời xưa”
(Quỳnh uyển cửu ca, bài 5)
Chu Công tên thật là Cơ Đán, là công thần có công lớn trong việc khai quốc của
nhà Chu. Bá Di là tên của ẩn sĩ thời Ân, được Mạnh Tử khen là “Thánh chi thanh”,
nghĩa là bậc thánh thanh cao. Bá Di và Thúc Tề nổi tiếng với lòng trung thành và
cốt cách thanh cao. Bậc lương tướng còn là những người có chí lớn bay bổng
muôn dặm, hành đạo giúp đời. Trong văn học trung đại, điển cố “tang bồng hồ thỉ”
thường để chỉ những người có chí lớn như vậy.
桑弧蓬矢志
逸氣鶚橫秋
12
Tang hồ bồng thỉ chí,
Dật khí ngạc hoành thu.
“Có lý tưởng tang bồng hồ thỉ,
Có chí khí phiêu dật như chim đại bàng bay ngang giữa trời thu”.
(Hồ Đầu sơn, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
“Tang bồng hồ thỉ” là cây cung bằng gỗ dâu, mũi tên bằng cỏ bồng. Khi xưa,
sinh con trai người ta bắn mũi tên đi bốn phương với ước mong rằng đứa con sau
này sẽ có chí tung hoành bốn phương. Từ này về sau dùng trong văn thơ để chỉ
người có chí lớn. Trong lịch sử Trung Hoa, nhiều bậc anh kiệt cùng chí hướng,
sống rèn luyện theo nghiệp phụng vua bảo vệ đất nước được sử sách lưu danh.
雞聲鳴半夜
待旦小心危
Kê thanh minh bán dạ
Đãi đán chẩm qua tâm
“Tiếng gà gáy vang lúc nửa đêm,
Không ngủ được nằm gối lên chiếc giáo chờ sáng”
(Tư Châu, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Theo sách Thông chí: Lưu Côn là người đời Tấn, tự Việt Thạch, có công với nhà
Tấn trong việc đánh dẹp các cuộc nổi loạn. Ban đầu, ông cùng Tổ Dịch làm chủ bạ
đất Tư Châu, cùng ngủ chung một giường, nửa đêm nghe gà gáy, cho là điềm lành
bèn thức nhau dậy múa kiếm. Khi Ngũ Hồ làm loạn Trung Hoa, vua Nguyên Đế
phong cho Côn làm tướng. Côn nói: “Ta gối giáo đợi sáng, chỉ muốn diệt lũ giặc
bạo ngược, nhưng chỉ sợ Tổ Địch dậy sớm ra roi trước ta mà thôi”. Lê Thánh Tông
mượn điển cố này để khuyên răn và động viên kẻ sĩ không ngừng tu thân phò vua
giúp nước. Đất nước phong kiến mà vua Lê Thánh Tông và các đại thần đang ngày
đêm lo lắng xây dựng phát triển cần những bậc trung thần nghĩa sĩ như vậy. Khi
loạn lạc, quân của bậc đế vương thương dân đánh kẻ có tội, bảo vệ lãnh thổ đất
nước.
吊民伐罪帝王兵
“Điếu dân phạt tội đế vương binh”
13
“Đánh kẻ có tội, cứu vớt dân lành, ấy là quân của bậc đế vương”
(Chinh Tây kỷ hành, bài 8)
Trong sách Thượng thư, điển cố “điếu dân phạt tội” dùng với ý “quân thương
dân trừng phạt kẻ có tội”. Lê Thánh Tông cũng dùng điển này với dụng ý quân đội
của triều Lê là đội chính nghĩa, ra trận chiến đấu vì dân vì nước. Ngoài những điển
cố nói về các bậc minh quân lương tướng, Lê Thánh Tông còn sử dụng các điển cố
về cảm quan cuộc sống, thế sự và công danh.
世上功名都是夢
Thế thượng công danh đô thị mộng
“Công danh trên đời đều như giấc mộng ”
(Đề Hồ Công Động, Châu cơ thắng thưởng thi tập)
回首英雄一夢間
Hồi thủ anh hùng nhất mộng gian
“Ngoảnh lại, anh hùng trôi qua như giấc mộng”
(Đề Dục Thúy Sơn, Châu cơ thắng thưởng thi tập )
功名槐夢醒
Công danh hòe mộng tỉnh
“Khi tỉnh ngộ thì công danh chỉ là giấc mộng cành hòe”
(Ba Viên, Cổ tâm bách vịnh thi tập)
Điển cố “giấc mộng cành hòe” còn gọi là giấc mộng Nam Kha. Nói về giấc
mộng làm thái thú ở quận Nam Kha của Thuần Vu Phần. Trong văn học cổ, điển
cố này dùng để chỉ cuộc đời là vô thường, khác nào giấc mộng, danh lợi như mây
nổi mà thôi. Chính vì vậy, khi bàn về vấn đề này, Lê Thánh Tông đã lấy điển tích
giấc mơ Hòe An để làm rõ ý thơ của mình.
Việc dùng điển cố trong sáng tác văn chương là điều phổ biến trong văn học
trung đại. Tác phẩm văn học, đặc biệt là văn vần sử dụng điển cố khéo chứng tỏ sự
điêu luyện của nhà thơ. Nhà thơ Lê Thánh Tông sáng tác thơ bằng chữ Hán và sử
dụng nguyên điển cố về mặt nội dung lẫn ý nghĩa đã làm cho thơ có tính chất quan
phương, trang trọng. Trong sáu tập thơ khảo sát, số lượng điển cố được Lê Thánh
Tông sử dụng phần lớn tập trung ở tập thơ Cổ tâm bách vịnh, Quỳnh uyển cửu ca
14
và Châu cơ thắng thưởng. Khi bàn về tấm lòng người xưa, Lê Thánh Tông vận
dụng nguyên điển cố là hợp lý. Điều này đảm bảo cho phương thức diễn đạt ngắn
gọn trong bố cục của bài thơ Đường luật.
Dùng một phần điển cố là cách mượn chữ và ý từ người xưa để diễn đạt ý tương
tự. Vì vậy, tác giả có thể điểm xuyết từ, tách từ trong điển cố của thơ xưa để sáng
tạo nên những vần thơ tương tự về ý. Nói về lý tưởng xã hội thời Nghiêu Thuấn,
Lê Thánh Tông lấy ý từ câu thơ Đỗ Phủ
洗兵無路挽天河
Tẩy binh tín thủ vãn thiên hà
“Tiện tay kéo sông Ngân xuống rửa sạch giáp binh”
(Chinh Tây kỷ hành, bài 11)
Câu thơ trên, nhà thơ lấy ý từ thơ Đỗ Phủ “An đắc tráng sĩ vãn thiên hà/Tẩy tận
giáp binh trường bất dụng” (Mong có người tráng sĩ kéo sông Ngân xuống, rửa
sạch hết vũ khí cất, không bao giờ dùng tới). Lê Thánh Tông dùng điển này để nói
rằng phương Nam sau khi dẹp xong lũ giặc sẽ được yên ổn, người Việt, người
Chiêm sẽ chung sống hòa bình. Khát vọng về sự thống nhất đất nước thể hiện ở
nhiều ý thơ trong các sáng tác chữ Hán của nhà vua Lê Thánh Tông.
混一書車共幅絹
Hỗn nhất thư xa cộng bức quyên
“Gộp một mối thư xa về một bức dư đồ”
(Hải Vân hải môn lữ thứ, Minh lương cẩm tú thi tập)
Trong câu thơ trên, Lê Thánh Tông lấy từ câu trong sách Trung dung “Xa đồng
quỹ, thư đồng văn”, nghĩa là “bánh xe cùng một cỡ, chữ cùng một lối”. Nhà thơ
dùng điển này cũng chỉ quốc gia thống nhất, trăm sông hợp về một mối. Lê Thánh
Tông luôn đặt sự an nguy đất nước lên trên hết. Tấm lòng vì nước vì dân của vua
Lê Thánh Tông “đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.
夙夜勤婁戰兢
Túc dạ cần cần lũ chiến căng
“Sớm khuya chăm chỉ chính sự, nơm nớp lo lắng việc nước”
(Quỳnh uyển cửu ca, bài 1)
15
Hình ảnh ông vua hết lòng vì nước ẩn hiện trong hình ảnh thơ giàu chất tạo
hình. Nhà thơ lấy chữ trong Kinh Thi “Nơm nớp lo sợ, như đi trên băng mỏng, như
sa xuống vực sâu”. Lê Thánh Tông luôn đề cao vấn đề dân tộc.
肅肅飛鴻汕汕魚
Túc túc phi hồng sán sán ngư
“Có cảnh chim hồng bay hối hả, thì sau mới có cảnh cá bơi lội tung tăng”
(Chinh Tây kỷ hành, bài 4)
Tác giả dùng điển cố từ hai bài thơ Hồng nhạn & Nam hữu gia ngư của Kinh
Thi, dùng để ví với cảnh loạn ly và cảnh thái bình thịnh trị. Vì vậy, lúc loạn lạc hay
hưởng cảnh thái bình, Lê Thánh Tông đều hết sức phòng bị cẩn thận.
戶牖綢繆固
Hộ dũ trù mâu cố
“Cửa tổ ràng rịt cho thật chắc chắn”
(Ngô Khê, Cổ tâm bách vịnh)
Câu thơ này, tác giả lấy ý từ “trù mậu dũ hộ” (cửa tổ ràng rịt) trong bài thơ Chi
liêu thuộc Mân Phong, Kinh Thi. Ý là khuyên người ta giữ gìn, lo xa từ lúc tai họa
còn chưa xảy ra. Việc binh không cho phép khinh suất nên vua Lê Thánh Tông
luôn đề cao cảnh giác. Không những vậy, Lê Thánh Tông còn thân chinh đem đội
quân chính nghĩa dẹp yên quân gây nhiễu loạn ở vùng biên giới.
君王萬里一戎衣
Quân vương vạn lý nhất nhung y
“Nên bậc quân vương phải vượt muôn dặm xa xôi tới dẹp yên”
(Chinh Tây kỷ hành, bài 6)
Điển cố một cỗ nhung y (nhất nhung y) được Lê Thánh Tông mượn chữ và ý từ
câu “nhất nhung y nhi thiên hạ đại định” là cụm từ xuất hiện trong thiên Vũ Thành
của sách Kinh thư, dùng để ca ngợi võ công diệt vua Trụ - tên vua vô đạo của nhà
Thương. Lê Thánh Tông là vị vua đề cao tư tưởng trọng dụng hiền tài cho sự
nghiệp xây dựng đất nước. Và bề tôi hiền không phụ lòng của bậc đế vương.
後樂先優濟世心
16
Hậu lạc tiên ưu tế thế tâm
“Lo trước vui sau là một lòng giúp nước”
(Ngự chế Thần tiết thi, Quỳnh uyển cửu ca thi tập)
Trong cách sử dụng điển cố trên, Lê Thánh Tông mượn chữ và ý từ câu nói nổi
tiếng của Phạm Trọng Yêm Đời Tống: 先 天 下 之 憂 而 憂 後 天 下 之 樂 而 樂
“Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc” (Lo trước cái lo của thiên
hạ, vui sau cái vui của thiên hạ). Việc sử dụng điển cố thể hiện tầm hiểu biết, thông
thạo kinh sử, văn học của tác giả. Điển cố là phương thức chuyển tải hiệu quả nội
dung tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ. Tùy hoàn cảnh và đề tài sáng tác, các tác giả
xưa đã vận dụng linh hoạt điển cố nghệ thuật. Nhà thơ sử dụng hợp lý điển cố khi
dùng nguyên, có lúc chỉ mượn một phần tạo sự cô đọng, súc tích cho ý thơ và bố
cục bài thơ.
17
CHƯƠNG 2. MINH GIẢI VĂN BẢN
2.1. Cáo tật thị chúng
2.1.1. Nguyên tác chữ Hán
告疾示眾
春去百花落
春去到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅
滿覺禪師
2.1.2. Phiên âm Hán Việt
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Mãn Giác thiền sư
2.1. 3. Vài nét về tác giả và bài thơ
Mãn Giác Thiền Sư tên thật là Lý Trường (1052 - 1096) thuộc dòng vương
triều nhà Lý, học vấn uyên thâm, nổi tiếng trong dòng thiền Quán Bích, được vua
Lý Nhân Tông trọng đãi. Mãn Giác là pháp hiệu của ông.
Cáo tật thị chúng là bài thơ bài kệ duy nhất của ông đê lại cho hậu thế. Bài kệ
thể hiện tư tưởng uyên thâm của giáo lý đạo thiền, nêu lên quy luật sinh hóa vô
18
thường của cuộc đời, đồng thời thể hiện một tinh thần lạc quan bất tận, vì trong cái
tàn lụi vẫn nảy sinh cái mầm của sự sống, của tương lai, của bài ca bất tận.
2.1.4. Chữ nghĩa văn bản và mở rộng vốn từ Hán Việt
告 Cáo: thông báo cho biết; nghỉ ngơi;khởi việc kiện tụng
告 病 cáo bệnh: (bệnh: đau ốm) tin cho biết về việc đau ốm
告 別 cáo biệt: ( 別 biệt: từ giã): đến chào nói mấy lời trước khi ra đi
告 終 cáo chung: ( 終 chung: xong xuôi, chấm dứt): tỏ rõ là công việc hoặc
một thời kỳ nào đó đã chấm dứt
告 密 cáo mật: ( 密 mật: những điều kín đáo): tin cho biết những điều bí mật
告 官 cáo quan: (官quan: kẻ điều hành việc nước): nghỉ ngơi việc quan
Đồng âm
誥 Cáo: người trên nói với kẻ dưới; lời vua ra lệnh cho quan hoặc phong tặng
cho ai.
誥 封 Cáo phong ( 誥 cáo là lời vua ban tặng cho ai; 封 phong: ban đất hay
tước lộc).
誥命 cáo mệnh (mệnh: sai khiến): là tờ chiếu mà triều đình ban tặng tước vị
cho ai.
誥 贈 Cáo tặng (tặng: cho): triều đình dùng cáo mệnh mà tặng tước vị.
疾 tật: bệnh, đau ốm; độc hại
疾 病 tật bệnh: (tật đồng nghĩa với bệnh.bệnh: đau ốm): tật và bệnh (tật
ta dùng theo nghĩa trong cơ thể có bộ phận nào hư hỏng: đui, què, cà lăm,
điếc.., hoặc chữ tật dùng để đệm cho chữ bệnh).
疾 疫 tật dịch (dịch: truyền nhiễm): bệnh truyền nhiễm.
疾 苦 tật khổ: cực khổ, bệnh tật
疾 行 tật hành (tật: gấp): đi gấp
疾 風 tật phong: gió mạnh
Đồng âm
嫉 tật: hại người hiền.
19
嫉 妒 tật đố (đó: ghen): ghen ghét.
嫉 恨 tật hận (hận: giận): ghét giận.
嫉 視 tật thị (thị: nhìn): nhìn bằng cặp mắt ganh ghét
示 Thị: bảo cho mà biết, tỏ bày
示 眾 thị chúng: bảo cho mọi người đều biết.
示 恩 thị ân: làm ơn cho ai nhưng cố ý tỏ bày cho mọi người biết.
示 懲 thị trừng (trừng: răn dạy): răn bảo cho biết.
示 威 thị uy (uy: oai): bày tỏ cho kẻ khác biết mình có oai quyền.
Đồng âm
視 thị: nhìn; xem xét, bắt chước.
視 覺 thị giác (giác: biết): cảm giác do mắt tiếp xúc với ngoại cảnh mà
sinh ra.
視 察 thị sát (sát: xét): xem xét
是 thị: phải
是 非 thị phi (phi: trái): phải trái
氏 Thị: Họ
氏 族 thị tộc (họ: tộc): nhiều họ họp chung lại ở chung với nhau.
侍 thị: nuôi dưỡng, hầu hạ
侍 僕 thị bộc: (bộc: đầy tớ): người đầy tớ theo hầu
侍 衛 thị vệ: (vệ: giữ gìn): một chức quan hầu cận để vua sai phái và
cũng để bảo vệ vua. thị vệ chia làm năm bậc, từ nhất phẩm xuống ngũ đẳng
thị vệ.
侍 臣 thị thần: những ông quan theo hầu vua.
嗜 thị: thích, ham muốn
嗜 好thị hiếu (thị: ham muốn; hiếu: ưa thích): lòng ưa thích cái gì.
巿 thị: chợ, thành phố
20
巿 民 thị dân (thị: thành phố; dân: người ở trong một làng, một nước):
dân ở trong thành phố.
巿 鎮 thị trấn (thị: thành phố; trấn: địa phương có từ năm vạn người trở
lên): thành phố dân cư đông đúc.
巿 場 thị trường (thị: chợ; trường: chỗ đông đúc người hội tụ): nới đông
đúc dân chúng trao đổi hàng hóa.
恃 thị: nhờ cậy; ỷ vào
恃 雄 thị hùng ( hùng: mạnh): cậy mạnh mà làm dữ.
恃 富 輕 貧 thị phú khinh bần (khinh: coi nhẹ; phú: giàu có; bần:nghèo)
cậy giàu có mà khinh người nghèo.
恃 勢 thị thế (thế: thế lực): cậy mình có thế lực
眾 chúng: ttất cả, đông đúc, mọi người, chỉ đồ đệ. 示 眾 thị chúng: trình
bày ý nghĩ của mình cho mọi người được biết.
眾 民 chúng dân: tất cả người dân.
眾 人 chúng nhân: nhiều người.
眾 生 chúng sanh (sanh: sống): có sinh mạng thì gọi là chúng sanh (theo
ngôn ngữ Phật giáo).
春 xuân: mùa xuân
春 榜 xuân bảng (bảng: tấm bảng ghi tên những người thi đậu): bảng ghi
chép tên những người thi đậu Tiến sĩ vì thi Hội tổ chức vào mùa xuân.
春不 再 來 xuân bất tái lai ( xuân: biểu hiện cho tuổi trẻ; bất: chẳng; tái:
lại; lai: đến): tuổi trẻ không trở lại, ý nói đời người ngắng ngủi, yuôỉ trẻ
không trở lại với ta nữa.
春 景 xuân cảnh: phong cảnh mùa xuân.
春 臺 xuân đài (đài: nhà làm cao để có thể trông xa được): cảnh mùa
xuân đẹp nên thường lên đài cao để nhìn ra xa, tâm hồn thoải mái. Nghĩa
bóng; tả cảnh thịnh trị.
Đồng âm
21
椿 xuân: tên một loại cây sống rất lâu ví với người cha để cầu chúc sống
lâu. Tương truyền đời thượng cổ có cây xuân sống 8000 năm.
椿 庭 xuân đình ( đình: sân): chữ dùng để gọi ông cha.
椿 齡 xuân linh (linh: tuổi): tuổi cây xuân
去 khứ: đi, những gì đã đi qua
去 回 khứ hồi (hồi: về): đi và về.
去 年 khứ niên ( niên: năm): năm ngoái
去 官 khứ quan: bỏ chức vụ mà đi, không làm nữa.
去 國 khứ quốc: bỏ nước mà đi.
去 邪 khứ tà (tà: cong, không ngay thẳng): bỏ con đường sai trái
去 世 khứ thế (thế: đời): bỏ cuộc đời mà đi (chết).
百 bách: một trăm, hoặc dùng để chỉ số nhiều.
百 步 bách bộ (bộ: bước): đi bộ qua, lại nhiều lần.
百 穀 bách cốc (cốc: loại thực vật có thể dùng làm thức ăn. Về sau, người
ta thu hẹp nghĩa lại để chỉ các thứ hạt: đạo, lương, túc, mạch, tắc - nếp thơm,
kê đậu, lúa mì, một thứ kê khác). Theo sách vật lý học thì có ba thứ cốc,mối
thứ hai mươi loại, cộng lại 60 loại. Trái cây và laọi rau để ăn những khi
thiếu lúa ( trợ cốc) mối thứ 20, cộng lạo là 100.
百 戰 百 勝 bách chiến bách thắng (chiến: trận giặc; thắng: hơn): đánh
trăm trận hơn cả trăm. Nghĩa bóng: khen ngợi người làm việc gì cúng thành
công.
百 科 詞 典 bách khoa từ điển (khoa: sự vật thành môn loại): một bộ từ
điển mà trong đó có tất cả các môn loại được trình bày chuẩn mự sắp xếp the
thứ tạ a. b,c…
百 聞 不 如 一 見 Bách văn bất như nhất kiến (bách: trăm; văn: nghe;
kiến; thấy): trăm nghe không bằng một thấy.
Đồng âm
迫 Bách: gần, bức ép.
逼 迫 Bức bách (bức: gần một bên, cưỡng ép): thúc giục, ép phải theo.
22
到 đáo: đến
到 底 đáo để (để: đáy): đến nơi cuối cùng. Chỉ "cuối cùng, cùng độ, ghê
gớm, đanh đá".
到 期 Đáo kỳ: đến thời điểm ấn định trước
到 里 Đáo lý: hết mọi lý lẽ
到 任 Đáo nhiệm: đến nơi làm việc, bắt đầu nhận chức
落 lạc: rơi, rụng
落 泊 lạc bạc (lạc: rơi rụng; bạc: đậu): lang thang không có chỗ nhất định
落 題 lạc đề (đề: chỉ đầu bài): rơi khỏi đề bài, tức diễn tả sai ý mà đề bài
nói đến.
落 後 lạc hậu (hậu: sau): rơi lại phía sau, không theo kịp người trước
Đồng âm
樂 lạc: vui vẻ, yên ổn
樂 業 lạc nghiệp (lạc:vui vể; nghiệp: nghề): vui vể với nghề nghiệp của
mình.
樂 觀 lạc quan (quan: xem, nhìn): nhìn đời bằng con mắt vui vẻ, tin yêu.
洛 Lạc: tên con sông
洛 陽 Lạc Dương: ngày nay là huyện, thuộc tỉnh Hà Nam - Trung Quốc,
thời nhà Chu là Lạc Ấp Đông Đô, đến thời chiến quốc đổi thành Lạc Dương.
駱 駝 lạc đà: con lạc đà - một con vâth hiền lành, trên lưng có bướu,
dùng vào việc chở đồ nặng khi đi trên sa mạc
開 khai: mở, làm cho thông suốt, giải thoát, kể rõ.
開 幕 Khai mạc (khai: mở; mạc: cái màn): trước khi hát hay diễn kịch,
người ta thường kéo màn lên.
開 講 Khai giảng (khai: mở đầu; giảng: chỉ việc dạy học): bắt đầu giảng
dạy.
開 拓 khai thác: (khai: mở mang; thác:mở mang): mở mang đất đai,
nguồn lợi thiên nhiên, sử dụng chúng một cách triệt để.
23
事 sự: việc , biến cố.
事 sự tích: (tích: cái gì người trước hay đời trước lưu lại): những việc
người trước lưu truyền lại.
事 件 sự kiện: (kiện: một việc gì): một sự việc cụ thể.
事 親 sự thân (sự: thờ; thân: ba mẹ): thờ ba mẹ.
事 亡 sự vong: thờ người đã chết.
逐 trục: đuổi
逐 出 trục xuất (xuất: ra): đuỏi ra khỏi một nơi nào đó.
逐 客 trục khách: đuổi khách.
逐 利 trục lợi: đuổi theo mối lợi nào đó
逐去trục khứ: đuổi đi
眼 nhãn: con mắt.
眼 前nhãn tiền: trước mắt
眼 瞳 nhãn đồng: con ngươi trong mắt
眼 觀 nhãn quan: những gì mắt trông thấy
眼 科nhãn khoa: môn học về mắt
過 quá: trôi qua, vượt qua, sang, thắng, lối lầm.
過 半 quá bán: hơn một nữa
過 當quá đáng (đáng: nên, vừa phải): vượt sự vừa phải, thích hợp
過 去 quá khứ: những gì đã đi qua.
老 lão: già, thành thạo
老 幼 lão ấu (ấu: người trẻ): người già và người trẻ
老 病 lão bệnh: bệnh già
老 練 lão luyện (lão: thành thạo; luyện: tập nhiều lần): luyện tập đến mức
thành thạo.
從 tòng, tùng: theo, thuận theo, từ đó.
24
從 古 Tòng cổ: giữ nề nếp xưa
從 征 Tòng chinh (chinh: đánh giặc): đi theo những người khác để đánh
giặc
Đồng âm
松 Tùng: cây thông
松 林 tùng lâm: rừng thông
松 香 tùng hương: mùi thơm của nhựa thông.
叢 Tùng: hợp, bụi rậm
頭 đầu: cái đầu, trước hết.
頭 黨 đầu đảng (đảng: tổ chức nhiều người hoạt dộng chung mục đích):
người đứng đầu tổ chức.
頭 腦 đầu não (não: khối não của con người): nghĩa rộng: cơ quan lãnh
đạo.
Đồng âm
投 đầu: hợp nhau, ném vào, vứt bỏ, hướng vào.
投機 đầu cơ (đầu: hợp nhau; cơ: điều làm cho sự việc biến đổi): gặp cơ
hội thích hợp để làm việc gì.
投 降 đầu hàng (đàu: chịu phục; hàng: xin thua mà phục tùng theo): chịu
phục, không chống cự nữa.
投胎 đầu thai (đầu: hướng vào; thai: đứa con còn nằm trong bụng mẹ):
linh hồn của một người đã chết nhập vào cái thai người đàn bà để tái sinh
trên dương thế.
上 thượng: trên, vua, ưa chuộng, đi lên.
上 等 thượng đẳng (đẳng: thứ bậc): thứ bậc ở trên hết
上 帝 thượng đế : ông trời, người coi cả vũ trụ
上 客 thượng khách: người khách mà mình tômn kính
上 疏 thượng sớ: (thượng: dâng lên; sớ: tờ tâu với vua về việc gì): dâng
sớ lên vua.
25