Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tìm hiểu về tục cưới xin của người bru vân kiều ở quảng trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.35 KB, 28 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Văn hóa thông tin và xã hội trường Đại
Học Nội Vụ Hà Nội cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng dạy và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Trần Thị Phương Thúy người
đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn ban quản lý đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành bài tiểu
luận.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của tôi còn có rất
nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cám ơn!


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đấy là tiểu luận của riêng tôi, tất cả các kết quả nghiên
cứu được nêu trong tiểu luận là hoàn toàn trung thực
Ký tên


MỤC LỤC


1.

LỜI MỞ ĐẦU
Cộng đồng ngườiViệt Nam có 54 dân tộc khác nhau. Trong đó dân tộc
Kinh chiếm gần 90% tổng số dân cả nước, hơn 10% là dân số của 53 dân tộc.
Trải qua bao thế kỷ, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã gắn bó với nhau trong
suốt quá trình lịch sử đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ bờ cõi, giành tự
do, độc lập và xây dựng đất nước. Mỗi dân tộc hầu như có tiếng nói, chữ viết và


bản sắc văn hoá riêng. Bản sắc văn hoá của các dân tộc thể hiện rất rõ nét trong
các sinh hoạt cộng đồng và trong các hoạt động kinh tế, trang phục, ăn, ở, quan
hệ xã hội, các phong tục tập quán trong cưới xin, ma chay, thờ cúng, lễ tết, văn
nghệ, vui chơi.
Người Bru- Vân Kiều là một dân tộc thiểu số có địa bàn cư trú tập trung ở
tỉnh miền núi của các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Đắc Lắc và Thừa Thiên Huế.
Dân tộc này có những nét văn hóa đặc sắc riêng góp phần làm giàu thêm bản sắc
văn hóa các dân tộc Việt Nam. Cũng như các tộc người khác, trong chu kỳ đời
người của dân tộc Bru - Vân Kiều ở tỉnh Quảng Trị thì việc dựng vợ, gả chồng là
công việc quan trọng của mỗi người, mỗi gia đình, dòng họ và cả cộng đồng.
Các nghi thức, nghi lễ trong hôn nhân chứa đựng nhiều quan niệm, phong tục
tập quán, biểu hiện tâm lý, tình cảm của tộc người và bản sắc của dân tộc đó.
Khi xã hội ngày càng phát triển, theo thời gian nhiều nét văn hóa của
người dân tộc Bru Vân Kiều đang dần bị mai một, lãng quên. Vì vậy việc nghiên
cứu về tục cưới xin của người Bru Vân Kiều và những thay đổi của nó trong xã
hội hiện đại được đặt ra như một nhiệm vụ cấp thiết. Với mong muốn đó, là một
sinh viên theo học ngành quản lí văn hóa tôi đã lựa chọn đề tài “ Tìm hiểu về tục
cưới xin của người Bru -Vân Kiều ở Quảng Trị”, qua bài tiểu luận này tôi muốn
đem một phần kiến thức nhỏ bé của mình vào việc giới thiệu và bảo tồn những
giá trị truyền thống từ tục cưới xin của người Bru Vân Kiều.

2.

Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo tiểu luận được
chia làm 03 chương:

-

Chương I: giới thiệu chung về tỉnh Quảng Trị và dân tộc Bru-Vân Kiều

4


-

Chương II: Tục cưới xin của dân tộc Bru-Vân Kiều tại Quảng Trị
Chương III: Tác động của sự thay đổi và một số giải pháp bảo tồn tục cưới hỏi
của người Bru-Vân Kiều.

5


CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TỈNH QUẢNG TRỊ VÀ DÂN
TỘC BRU-VÂN KIỀU
1.1.
1.1.1.

Giới thiệu chung về tỉnh Quảng Trị
Vị trí địa lí:
Quảng Trị là một tỉnh thuộc Bắc Trung Bộ - Việt Nam; kéo dài từ 16018’
-170 10’ vĩ Bắc và 106 độ 32’-107 độ 24’ kinh độ Đông. Đi từ Bắc vào Nam
Quảng Trị nằm ở đoạn thắt, có thể được ví như điểm tỳ vai của chiếc đòn gánh
trĩu nặng hai đầu của một giang san hùng vĩ hình chữ S. Phía Bắc giáptỉnh
Quảng Bình, với địa danh nỗi tiếng Động Phong Nha- Kẽ Bàng, phía Nam giáp
tỉnhThừa Thiên- Huế với những lăng tẩm và di tích của một thời cố đô nhà
Nguyễn. PhíaTây giáp các tỉnh Savannakhet, Saravan của nước Cộng hoà dân
chủ nhân dân Lào vàphía Đông giáp biển Đông. Hình thể Quảng Trị tựa lưng

1.1.2.


vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển lớn
Điều kiện tự nhiên
Tổng diện tích tự nhiên Quảng Trị (theo điều tra năm 2008) là 474.699,11
ha; được phân bố đa dạng theo không gian và có sự đan xen giữa vùng gò đồi,
thung lũng, miềnnội đồng và cồn cát ven biển với 5 vùng đặc trưng, đó là: Vùng
núi, vùng gò đồi và núithấp, vùng đồng bằng, vùng thung lũng và vùng cát ven
biển. Tài nguyên khoáng sảnQuảng Trị tương đối đa dạng; đến cuối năm 2000
đã đánh giá, thống kê được trên 74mỏ, đới quặng, điểm khoáng sản.
Khí hậu Quảng Trị nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa và là vùng
chuyển tiếpgiữa hai miền khí hậu Bắc- Nam, có sự phân hoá của địa hình
nghiêng dần từ Tây sangĐông cùng với vị trí địa lý và quy định đặc thù khí hậu
Quảng Trị. Quảng Trị có 12 con sông lớn tập trung thành 3 hệ thống chính, đó
là: Sông Bến Hải,sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu với trên 60 phụ lưu khác có
chiều dài trên 10 km. Theotính toán lý thuyết mạng lưới sông ngòi Quảng Trị có
thể cung cấp nguồn điện năngkhoảng 3 tỷ kw/h. Trong đó có công trình thuỷ
điện, thuỷ lợi Quảng Trị nằm trên sôngRào Quán đang xây dựng dự định sẽ phát
điện vào cuối năm 2007. Quảng Trị có quốc lộ 1A và đường xe lửa xuyên Việt đi
qua; có Quốc lộ 9 xuyên Á,có cảng Cửa Việt (Do Linh); bãi tắm Mỹ Thuỷ (Hải
6


Lăng), bãi tắm Cửa Tùng, có Cửa khẩuquốc tế Lao Bảo, La Lay. Cách bờ biển
Mũi Lay (Vĩnh Linh) khoảng 30 km là Đảo Cồn Cỏ rộng 4 km2.
1.1.3.

Điều kiện văn hóa – xã hội:
Quảng Trị là một vùng đất có bề dày lịch sử, văn hoá. Những bằng chứng
khảo cổ họcđã chứng tỏ người Quảng Trị đã tồn tại với tộc người Việt Nam từ
thời cổ đại, khi VuaHùng lập quốc. Quảng Trị thuộc đất Bộ Việt Thường, một
trong 15 bộ của nước Văn Lang, Âu Lạc. Dư địa chí Nguyễn Trãi đã ghi "Xưa là

Bộ Việt Thường Thị, đây là phên dậu thứ tư về phương Nam" Tên Quảng Trị
xuất hiện từ năm 1801 (thời Gia Long). Dưới thời Minh Mạng dinh Quảng Trị
đổi thành tỉnh Quảng Trị. Cuối tháng 7/1954, theo Hiệp định Giơnevơ, sông
Hiền Lương được chọn làm giớituyến quân sự tạm thời. Sau khi giải phóng hoàn
toàn miền Nam, nước nhà thống nhất,năm 1976, tỉnh Quảng Trị và khu vực Vĩnh
Linh được sáp nhập với tỉnh Quảng Bình,Thừa Thiên Huế thành tỉnh Bình Trị
Thiên. Tháng 7/1989, tỉnh Quảng Trị trở về với têngọi chính mình.
Hiện nay, tỉnh Quảng Trị có 10 đơn vị hành chính cấp huyện.Tổng số dân
tỉnh Quảng Trị vào cuối năm 2010 vào khoảng 63 vạn; trong đó, người Kinh
chiếm trên 90% dân số, tiếp đến là người Vân Kiều, Pa Côvà một số dân tộc
khác như: Hoa, Mường, Tày, Thái, Cà Tu, Ba Na, Ê Đê, Nùng, Stiêng,Xêđăng,
Dao. Dân số Quảng Trị thuộc lọai trẻ. Quảng Trị có nguồn nhân lực khá dồidào;
trình độ tay nghề, chất lượng đào tạo được nâng lên một bước. Quá trình hội
nhập, Quảng Trị có lợi thế nằm ở vị trí đầu cầu về phía Việt Nam trên tuyến
Hành lang kinh tế Đông-Tây nối với các nước Lào, Thái Lan, Myanma... qua
cửakhẩu Lao Bảo; là điểm giữa của "Con đường di sản miền Trung" và "Con
đường huyền thoại". Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, con người trên mảnh đất
này với truyềnthống lao động, cần cù, chịu khó, truyền thống đấu tranh anh dũng
kiên cường đã làmnên những kỳ tích hào hùng, để lại nhiều di tích lịch sử vô
cùng quý giá như: Địa đạoVịnh Mốc, chiến khu Ba Lòng, Thành Cổ Quảng Trị,
Sân bay Tà Cơn, nhà đày LaoBảo... Quảng Trị còn có nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp như: Trằm Trà Lộc, Rú Lịnh,suối nước nóng Klu.... Chính các yếu tố
này là điều kiện thuận lợi mời gọi du khách trong nước cũng nhưngoài nước đến
7


với những điểm du lịch đặc sắc, hấp dẫn và kỳ bí trên dải đất miềnTrung huyền
thoại [ảnh 1; 2 trang 21].
1.2.


Dân tộc Bru-Vân Kiều
Quảng Trị là nơi cư trú chủ yếu của dân tộc Vân Kiều, Pa Cô, trong đó
đông nhất là dân tộc Vân Kiều, cư trú tập trung tại huyện Hướng Hóa, Đakrông,
thị trấn Lao Bảo. Người Vân Kiều còn có tên gọi khác như Tri, Khùa, Ma
Coong, còn tên tự gọi là Bru. Cộng đồng dân tộc Vân Kiều ở Quảng Trị có
truyền thống đoàn kết xây dựng quê hương. Trong kháng chiến người Vân Kiều
một lòng một dạ đi theo cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh và họ tự hào lấy
họ Hồ làm họ của mình.
Từ bao đời nay, người Vân Kiều sinh sống chủ yếu bằng canh tác ruộng,
rẫy. Họ thường tìm đất canh tác ở nơi có rừng già, nhiều cây cối, ít gió, bảo đảm
cho việc sản xuất. Người Vân Kiều cấy lúa, ngoài ra trồng thêm sắn, ngô, khoai,
bầu, bí và chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà. Người Vân Kiều định cư lâu đời men theo
dọc quốc lộ 9, còn phần đông họ sống biệt lập trên những quả đồi hoặc lưng
chừng núi. Các nhà trong làng thường được xếp đặt theo chiều dài của các khúc
sông, hoặc con suối, có nơi làng được bố trí theo hình bầu dục, tròn. Mỗi làng có
một hoặc nhiều dòng họ cư trú. Gia đình Vân Kiều là gia đình phụ quyền, người
đàn ông cao tuổi trong gia đình là người làm chủ gia đình. Khi người chủ gia
đình chết, mọi quyền hành và tài sản được giao cho người con trai cả.
Người Vân Kiều vốn có nền văn hóa, văn nghệ dân gian rất phong phú.
Họ dùng nhiều loại nhạc cụ như cồng, chiêng, đàn ta lư, kê amam, kèn pi, đàn
môi, trống, sáo. Người Vân Kiều có nhiều truyện cổ truyền miệng kể về sự tích
loài người, dòng họ, nguồn gốc tổ tiên. Ông Nguyễn Hữu Thắng, Giám đốc Sở
văn hóa thể thao và du lịch tỉnh Quảng Trị, cho biết các làn điệu dân ca của
người Vân Kiều cũng đặc sắc và có nhiều nét riêng: “Kho tàng văn hóa của các
dân tộc Vân Kiều có những nét rất độc đáo. Ví dụ như dân ca có các làn điệu
mang bản sắc riêng, thanh niên nam nữ trong những mùa yêu nhau dùng những
làn điệu riêng trong giao lưu. Thứ 2 là những làn điệu mừng lúa mới, mừng nhà
8



mới, cũng có những làn điệu rất riêng như lễ hội đâm trâu, lễ hội vào mùa.
Chúng tôi thông qua những hội diễn để lưu giữ những làn điệu này và phong
trào truyền dạy dân ca cũng đang được triển khai tốt”.
Theo truyền thống, người Vân Kiều coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, ngoài
ra còn thờ các thần linh như thần lúa, thần bếp, thần núi, thần đất, thần sông
nước. Người Vân Kiều nhận thức về thế giới quan cho rằng vạn vật hữu linh. Vì
vậy thần lúa, thần sông được sắp xếp thứ tự để thờ trong nhà và ngoài rừng với
mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt. Đặc biệt là thần lúa
được nâng lên cao nhất, được sùng bái với nhiều lễ thức quan trọng. Người Vân
Kiều khi thu hoạch phải có sự đồng ý của Kăn Tro tức là mẹ lúa. Trước và sau
thu hoạch họ cúng mẹ lúa mừng cơm mới. Với người Vân Kiều, thờ họ hàng bên
gia đình nhà vợ cũng là nghĩa vụ và bổn phận của người con rể.
Trang phục người Vân Kiều rất đa dạng, đàn ông mặc áo chù hoe rộng,
gần vai có viền hai sợi chỉ màu đỏ, vàng hoặc xám có đeo từ hai đến bốn hàng
tiền “bạc trắng” ở hai bên hông. Váy áo có nhiều hoa văn đen sẫm hoặc có pha
màu đen, đỏ. Đàn ông cũng như đàn bà Vân Kiều xưa kia đều búi tóc, con gái
chưa chồng búi tóc bên trái. Về sau phụ nữ thường đội khăn vuông trắng. Người
Vân Kiều không biết trồng bông dệt vải, họ thường lấy vỏ cây sui đập ra, còn lại
lớp sợi trắng đem nhuộm làm khố áo.
Trong sinh hoạt cộng đồng, người Vân Kiều cởi mở, chân thật và quý
trọng khách. Họ quan niệm gia đình nào có khách ngủ lại, gia đình đó trong năm
gặp nhiều may mắn, làm ăn phát đạt. Mỗi khi có khách đến nhà, cả làng, cả bản
đều thân thiện có khi cùng chung nhau tiếp khách. Tập tục ăn uống của người
Vân Kiều chủ yếu là sản phẩm từ tự nhiên như lúa nếp sắn khoai, các loại rau.
Cách chế biến đơn giản, tươi sống, tổng hợp, các nguồn thức ăn dự trữ thì làm
mắm, hơ bếp lửa hoặc xông khói. Hàng năm đồng bào thường tổ chức uống
rượu cần, mở hội múa hát vào các dịp cúng mùa, lúa mới, lễ phong trần. Ông Hồ
Thanh Bình, người Vân Kiều ở Lao Bảo, Quảng Trị cho biết: “Ngày lễ vẫn giữ
9



gìn các loại nhạc cụ của dân tộc vân Kiều. Trong lúc cúng phải có cồng chiêng
nổi lên. Người tập trung cúng để mùa được tốt, con người phải vui vẻ mà vui vẻ
thì phải nhảy, múa, hát hò”.
Nhà ở của người Vân Kiều chủ yếu là nhà sàn. Nhà của người Vân Kiều
có quy mô nhỏ, là nơi sinh hoạt cho từng gia đình, nhà làm theo kiểu hai mái
tròn hoặc mái vuông hai đầu. Chiều dài của một ngôi nhà dài hoặc ngắn tùy
thuộc vào lượng người sống trong gia đình, có khi phụ thuộc vào kinh tế gia
đình. Hai bên đầu hồi có những hình trang trí bằng gỗ theo kiểu sừng trâu hay
đôi chim vừa để khỏi tốc mái vừa mang tính thẩm mỹ. Cách bố trí trong nhà
tuân theo một trật tự nhất định. Kể từ phải sang trái buồng đầu tiên là chỗ tiếp
khách, tiếp đến là các buồng ở, thứ tự người già, vợ chồng, con cái và cuối cùng
là gian để đồ đạc…Mỗi buồng cách nhau tấm liếp, có cửa ra vào nhưng không
có cánh cửa. Trong nhà thường xuyên có bếp lửa để nấu nướng, mùa đông có
bếp phụ ở gian phòng khách để nam giới và khách nam sưởi ấm. So với người
Thái, Tày thì kỹ thuật làm nhà sàn của người vân Kiều đơn giản hơn rất nhiều,
vật liệu chủ yếu lấy từ rừng. Khi nhà đã hoàn thành và chuẩn bị chuyển lên ở,
người Vân Kiều thực hiện đầy đủ các nghi lễ bắt buộc như: chọn ngày giờ cúng
ma nhà mới, tạ ơn giàng, trình báo với gia tiên, cảm ơn dân làng đã giúp đỡ gia
đình trong thời gian dựng nhà... Trong cách thức dựng nhà sàn xưa của người
Vân Kiều luôn tuân theo những quy tắc riêng rất chặt chẽ. Tạo sự thoáng mát
vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông, không có những điềm xấu xảy ra trong suốt
quá trình ở. Ngày nay dù cuộc sống có thay đổi nhưng người Vân Kiều ở Quảng
Trị vẫn giữ lại nhiều nghi lễ, nét sinh hoạt đặc trưng của dân tộc mình [ảnh 4;
trang 22].

10


CHƯƠNG II: TỤC CƯỚI XIN CỦA DÂN TỘC BRU-VÂN KIỀU TẠI

QUẢNG TRỊ
2.1.

Cơ sở lí luận chung

2.1.1. Khái niệm phong tục

Phong tục toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình
thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa
nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo
nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong tục không mang tính cố
định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy nhiên nó cũng không tuỳ tiện, nhất
thời như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương
đối bền vững.
Phong tục của một dân tộc, một địa phương, một tầng lớp xã hội, thậm chí
của một dòng họ và gia tộc, thể hiện qua nhiều chu kì khác nhau của đời sống
con người. Hệ thống các phong tục liên quan tới vòng đời của con người như
phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão; phong tục
tang ma, cúng giỗ... Hệ thống cácphong tục liên quan đến chu kì lao động của
con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ làm đất gieo hạt, cấy hái đến thu
hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá... Hệ thống các phong tục liên quan
11


tới hoạt động của con người theo chu kì thời tiết trong năm, phong tục mùa
xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông.
Phong tục là một bộ phận của văn hoá, có vai trò quan trọng trong việc
hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí
chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ
theo quy định của luật tục hay hương ước. Người vi phạm có thể bị phạt vạ.

Cùng với sự phát triển của xã hội, một số phong tục không còn phù hợp với thời
đại mới, bị đào thải, trong khi một số phong tục mới được hình thành.
Ở Việt Nam, cuộc vận động xây dựng gia đình, xóm làng, phường, khu
dân cư văn hoá mới nhằm loại trừ các phong tục lỗi thời, duy trì và phát triển
các phong tục tốt đẹp, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực trong việc
xây dựng đời sống văn hoá mới của các tầng lớp nhân dân.
2.1.2.

Hôn nhân (Cưới hỏi)
Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn ông và một người đàn bà dựa
trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện. Cơ sở của sự tự nguyện là tình yêu chân
chính giữa nam và nữ. Hôn nhân là sự liên kết bình đẳng giữa người đàn ông và
đàn bà. Bình đẳng giữa vợ và chồng là bình đẳng về địa vị xã hội, về kinh tế và
về văn hóa. Hôn nhân là sự liên kết giữa người đàn ông và người đàn bà theo
quy định của pháp luật. Việc đăng kí kết hôn phải được tuân thủ theo quy định
của pháp luật để được công nhận hợp pháp và pháp luật bảo vệ.
Người Vân Kiều ở Quảng Trị quan niệm, tình yêu và hôn nhân là bước
đánh dấu sự trưởng thành thực sự của mỗi con người, là khi con người đã tự ý
thức và quyết định cuộc đời mình. Nam nữ trước khi tính đến chuyện hôn nhân
phải trải qua quãng thời gian tìm hiểu, trong quá trình tìm hiểu có giai đoạn rất
quan trọng chính là đi Sim. Sau khi hai bên đã thấy tâm đầu ý hợp sẽ về báo với
cha mẹ. Sau khi hai bên gia đình thống nhất, đám cưới sẽ được tiến hành theo
nghi thức truyền thống. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng còn phải làm lễ cưới lần thứ 2
khi có điều kiện về kinh tế, gọi là lễ Khơi, để người vợ chính thức được coi là
thành viên dòng họ nhà chồng. Hiện tại, gia đình một vợ, một chồng ngày nay
12


của người Vân Kiều phần lớn đã được xây dựng trên sự cảm thông và tình yêu
của đôi nam nữ. Tình yêu và hôn nhân của người Vân Kiều ở Quảng Trị hết sức

đặc biệt, tuy nhiên nó cũng rất hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển của đời
sống tiên tiến.
2.2.
2.2.1.

Một số phong tục cưới hỏi của người Bru-Vân Kiều tại Quảng Trị
Tục “đi sim”
Tục đi sim tiếng Bru-Vân Kiều gọi là Poọc là những đêm tìm hiểu nhau
của các chàng trai, cô gái đang đến tuổi trưởng thành. Hoà chung với những nét
đẹp văn hoá của những dân tộc trên đất nước ta, thanh niên nam nữ Vân Kiều ở
miền núi tỉnh Quảng Trị với tục đi Sim đã làm nên nét bản sắc đặc biệt cho dân
tộc mình. Con trai, con gái Vân Kiều khi đến tuổi trưởng thành họ tìm đến bên
nhau để bày tỏ tình yêu. Việc tìm hiểu và bày tỏ tình yêu nam nữ theo tiếng gọi
của dân tộc Vân Kiều là đi Sim. Đi Sim là một tập tục có từ lâu đời, là nét đẹp
văn hoá, là khát vọng tự do yêu đương của nam nữ thanh niên dân tộc Vân Kiều
miền núi Quảng Trị.
Diễn biến mùa đi Sim:

-

Mùa Trăng – thời điểm lý tưởng cho những buổi đi Sim:
Tục đi Sim thường diễn ra vào các mùa trăng, nhất là những đêm trăng
sáng. Vì thế mùa trăng được xem là thời điểm lí tưởng nhất cho những buổi đi
Sim là thời điểm mà những chàng trai, cô gái Vân Kiều luôn trông ngóng, đợi
chờ. Hết mùa trăng này đến mùa trăng khác, nam nữ thanh niên Vân Kiều ở
Quảng Trị vẫn giữ lấy tục đi Sim. Họ cảm thấy điều đó như một lẽ tự nhiên
không thể thiếu trong đời sống văn hoá tinh thần của mình. Trải qua bao biến
động đổi thay của lịch sử, các thế hệ người Vân Kiều nơi đây vẫn luôn trân trọng
gìn giữ nét đẹp truyền thống này.


-

Núi rừng, sông suối – không gian tình yêu của những đêm Sim
Các đôi trai gái Vân Kiều thường hẹn hò với nhau bên những bờ sông con
suối, hay ở những ngôi nhà Xu giữa cảnh núi rừng thiên nhiên thơ mộng, để rồi
nên vợ nên chồng. Núi rừng, sông suối chính là những người bạn đồng hành
thân thiết với những đêm tình yêu của con trai, con gái Vân Kiều. Núi rừng,
13


sông suối bản làng người Vân Kiều từ bao đời nay đã làm chứng cho biết bao
mối nhân duyên như thế. Từ thế hệ này sang thế hệ khác núi rừng, sông suối vẫn
là người bạn đồng hành thuỷ chung với người Vân Kiều trong cuộc sống nói
chung và trên con đường đi tìm tình yêu, hạnh phúc nói riêng.
-

Hát giao duyên - khát vọng tự do yêu đương của nam nữ thanh niên người Vân
Kiều
Đã bao đời nay, đồng bào Vân Kiều miền núi Quảng Trị vẫn lưu truyền
một loại hát đối – một nét đẹp trong văn hoá ứng xử đầy chất thơ trữ tình, đằm
thắm đã và đang tôn vinh vẻ đẹp văn hóa truyền thống, đặc sắc của dân tộc
mình. Đó là làn điệu hát giao duyên dành cho thanh niên nam nữ đến tuổi trưởng
thành, họ hát với nhau trong những lần hò hẹn – đi Sim. Cứ mỗi độ xuân về,
những đôi trai làng, gái bản áo quần rực rỡ, sau khi đi thăm người thân, bạn bè
chiều lại kéo nhau ra bờ sông, bờ suối để hát đối. Đấy là cơ hội để trai làng gái
bản có dịp gặp nhau trao đổi tâm tình, ngỏ lời yêu thương.
Người Vân Kiều có rất nhiều điệu hát dân ca, nhưng những làn điệu dân
ca được dùng để hát giao duyên trong những buổi đi sim thì có ba loại chính đó
là : Cha chấp, Oát, Xanớt. Cha chấp là loại hình đối đáp dành cho thanh niên
nam nữ trong những buổi đầu hò hẹn. Với nhạc điệu ấm áp và ca từ trữ tình họ

hát không phải để thử tài mà chỉ để bày tỏ nỗi lòng, thông tin cho nhau thân
phận, hoàn cảnh và cảm nhận của mình về đối tượng. Bước qua giai đoạn đầu bỡ
ngỡ còn nhiều nghi ngại, họ dần trở nên thân thuộc. Làn điệu Oát giúp những
đôi bạn trẻ xích lại gần nhau hơn. Tình yêu của họ lớn dần lên qua những lời ca,
điệu hát. Những câu hát Oát như trở thành người mai mối dẫn dắt họ mạnh dạn
tìm đến bên nhau. Xà Nớt là làn điệu dân ca để bày tỏ mong ước kết đôi của hai
người yêu nhau. Đó là khi họ tự thấy được niềm khát khao yêu đương của lòng
mình, là khi họ thấy không thể thiếu được người mình yêu dấu trong đời.

-

Những nhạc cụ truyền thống tiêu biểu đi kèm với các làn điệu dân ca
Kèn Amam đi kèm với làn điệu Cha chấp. Trong những lần đi Sim và hát
giao duyên, con gái là người giữ kèn Amam. Đây là loại kèn phải có hai người
thổi và hát lên làn điệu Cha chấp để trao đổi tình cảm, giọng kèn trầm và âm
14


vang. Còn làn điệu Oát thì phải đi kèm với kèn Tariền. Loại kèn này được làm
bằng ống trúc, có dùi năm lỗ tạo ra sau thanh âm trầm bổng. Kèn Tariền dành
cho các chàng trai thổi ở các nhà Xu để thổ lộ tâm tình với bạn gái.
Các chàng trai vừa thổi vừa hát Oát để nói lên nỗi lòng thầm kín với
người mình yêu. Âm thanh của tiếng kèn Tariền vì thế mà tha thiết, rạo rực.
Tiếng kèn Khui thì vang lên cùng với làn điệu Xà nớt. Kèn Khui là loại kèn thổi
dọc có lưỡi gà làm bằng nứa rung tự nhiên. Về cấu tạo, nó là 1 ống nứa dài 30
cm, đường kính 0,5 cm. Điểm đặc biệt là cả hai người cùng thổi 1 ống. Khi hai
người cùng thổi Khui và hát Xà nớt tức là họ đã trở thành một đôi tâm đầu ý
hợp.
-


Những luật tục đi sim
Những luật tục được phép: Con trai con gái Vân Kiều đến tuổi trưởng
thành, có thể đi Sim để tìm bạn đời, con trai Vân Kiều được phép qua nhà con
gái chơi bất cứ lúc nào dù nửa đêm khuya khoắt mà không sợ làm phiền bố, mẹ
cô gái. Khi đã phải lòng nhau, nếu không ngủ ở nhà xu thì đôi trai gái có thể rủ
nhau ra rừng ngủ. Cô gái mang theo 1 cái chăn, 1 cái gối, bẻ lá khô lót làm
chiếu. Đến sáng người con gái phải dậy sớm để về đâm lúa, múc nước, bẻ bắp
cho gia đình.Tục lệ của người Vân Kiều còn cho phép nếu chàng trai đã phải
lòng với cô gái nào thì khi màn đêm buông xuống họ tìm đến nơi cô gái nằm, rẽ
vách bật tín hiệu. Đồng ý, cô gái sẽ mở cửa cho vào rồi họ lại dắt nhau ra rừng,
ra chòi canh rẫy để tìm hiểu nhau.
Những điều tối kỵ: Khi đi Sim, luật lệ đầu tiên mà đám thanh niên phải
học là không được ép buộc con gái yêu mình, không được tranh người yêu và
phải nhường cho người đến trước.Theo tục lệ của người Vân Kiều đôi trai, gái
vào rừng ngủ không được đem chiếu, không được bẻ lá tươi lót làm chiếu.Nam
nữ trước khi tính đến chuyện hôn nhân phải trải qua quãng thời gian tìm hiểu,
khi tình cảm và sự chọn lựa đã chín muồi, phải được sự mai mối của ông bà
mối, được sự đồng ý của hai gia đình, hai dòng họ trước. Trong luật tục cũng
như quan niệm của đồng bào Vân Kiều, khi chưa là vợ chồng của nhau thì tuyệt
đối không được quan hệ tình dục với nhau, nếu vi phạm sẽ bị trừng phạt.
15


Thông qua những mùa đi sim các cô gái tìm được cho mình người bạn đời
khỏe mạnh, dung cảm, ứng đối nhanh, còn các chàng trai tìm cho mình những
cô gái siêng năng, biết lo toan chuyện gia đình, hiền hậu. Tuy được tự do tìm
hiểu nhưng để đi đến kết hôn các đôi trai gái vẫn phải thông qua ông mối của hai
bên, đó là luật tục từ lâu đời. Khi các chàng trai cô gái xác định với ông mối bên
2.2.2.


mình là đồng ý thì hai bên sẽ bắt đầu tiến hành các nghi thức tiếp theo.
Lễ cưới hỏi
Với người dân tộc Bru-Vân Kiều ở Quảng Trị, việc tổ chức lễ cưới là
chuyện quan trọng của cả làng bản chứ không chỉ của riêng một gia đình nào.
Trong đám cưới có nhiều nghi lễ gắn với tập quán sinh hoạt của đồng bào
Người Bru-Vân Kiều thường chọn các ngày 6,8,10,16,18 trong các tháng
đầu năm và cuối năm để làm lễ cưới đặc biệt là các tháng 11,12 khi thu hoạch
mùa vụ xong, rất thuận tiện cho nhà có đám cưới. Dù là tháng nào thì người dân
Bru-Vân Kiều vẫn kiêng chọn các ngày cuối tháng vì sợ ốm đau, bệnh tât. Trước
khi đến rước dâu, nhà trai đứng dưới sàn nhà gái và hai bên đối đáp những câu
mà qua bao nhiêu thế hệ không thay đổi.
Nhà gái sẽ hỏi nhà trai rằng: Các ông, các bà đi đâu?
Nhà trai sẽ từ tốn thưa: Chúng tôi đi rước con gái ông bà về làm dâu.
Nhà trai lại hỏi: các công bà cần gì?
Sau đó, nhà trai phải nộp đầy đủ những lễ vật mà nhà gái thách cưới rồi
hẹn ngày giờ để tổ chức hôn lễ. Tùy theo kinh tế của từng gia đình nhà trai mà
nhà gái đưa ra mức đòi hỏi phù hợp. Việc thách cưới chỉ do những người có vai
vế trong gia đình, dòng họ bàn bạc với nhau, trong đó, cậu của cô dâu đóng vai
trò quyết định, cô dâu chú rể tuyệt đối không được góp ý vào. Thông thường nhà
gái yêu cầu: trâu, bò, dê, lợn, bạc trắng và những chuỗi hạt đeo cổ được làm
bằng đá quý tặng riêng cho cô dâu.
Khi chú rể và những người đại diện bên nhà trai sang nhà gái đón dâu,
ngoài một số lễ vật mang sang bên nhà gái theo yêu cầu từ trước thì thanh kiếm,
chiếc nồi đồng và đồng bạc trắng là ba thứ không thể thiếu trong lễ đón dâu.
Sau nghi lễ vái lạy tổ tiên, bố mẹ hai bên và người mai mối, nghi thức trao
kiếm bắt đầu. Chú rể tuốt thanh kiếm ra khỏi bao, đặt lên miệng chiếc nồi đồng,
bên cạnh đó có thêm miếng bạc nén. Xuất xứ của miếng bạc nén có từ thời Pháp
16



thuộc. Trong lòng bản làng Bru-Vân Kiều xuất hiện một vài nghệ nhân chuyên
gia công loại khuôn đúc bạc nén, bằng cách nung chảy đồng bạc Đông Dương
(tức xu bạc “hoa xòe” là đơn vị đếm cơ bản của đơn vị tiền tệ mà “mẫu quốc”
Pháp phát hành và cho lưu thương tại ba nước Đông Dương từ năm 1885-1954),
sau đó múc đổ vào khuôn thành hình miếng bạc nén phục vụ phong tục hỏi cưới
của đồng bào mình. Theo đó, nếu nhà trai có điều kiện thì trong ngày cưới con,
họ sẽ tặng nhà nữ bao nhiêu nén bạc tùy ý.
Tiếp đến, cô dâu sẽ tiếp nhận sính lễ của nhà nam và đưa tất cả cho mẹ
của mình. Mẹ cô dâu sẽ bắc chiếc nồi đồng lên bếp, cho 1 ít nước vào nồi cùng
với đồng bạc trắng, cuối cùng bà sẽ đâm mũi kiếm xuống bên cạnh chiếc nồi
đồng đang đặt trên bếp. Thủ tục trao kiếm như trên coi như đã hoàn tất, lúc này
cô dâu có thể theo nhà trai về nhà chồng.
Tục lệ trao kiếm trong lễ cưới đã có từ lâu và có ý nghĩa vô cùng quan
trọng. Thanh kiếm biểu hiện cho sự gắn bó khăng khít giữa vợ và chồng vì
người Bru- Vân Kiều quan niệm chuôi kiếm và lưỡi kiếm là hai bộ phận không
thể rời nhau, đôi vợ chồng cũng không thể thiếu nhau. Thanh kiếm còn tượng
trưng cho sức mạnh của chàng trai, chính vì vậy trong 1 gia đình Bru Vân Kiều
sinh được bao nhiêu con trai thì sẽ chuẩn bị bấy nhiêu thanh kiếm.
Khi đã trao thanh kiếm cho nhà gái rồi thì thanh kiếm đó trở thành thứ tài
sản quý giá của gia đình cô gái. Những gia đình khó khăn chỉ cần 1 thanh kiếm
làm bằng sắt đơn giản là được. Quý nhất là thanh kiếm có bao kiếm được bọc
bằng bạc trắng, đầu, thân và đuôi kiếm được chạm khắc hoa văn cầu kỳ và tinh
xảo. Cùng với thanh kiếm là chiếc nồi đồng và bạc trắng thể hiện sự giàu có, no
đủ của gia đình. Nồi đồng càng to càng thể hiện sự giàu có và sự tôn trọng của
gia đình nhà trai đối với gia đình nhà gái. Khi về nhà chồng, cô dâu phải trải qua
2 tục lệ nữa là tục rửa chân, tục lệ ăn cơm chung và tục lệ đạp bếp. Nhưng tục
trao kiếm vẫn là tục lệ thiêng liêng nhất đối với người Vân Kiều trong lễ cưới.
Đón dâu thường được tổ chức vào buổi chiều. Theo quan niệm của người
17



Vân Kiều, đây là thời khắc linh thiêng nhất vì là lúc các vị thần linh, Giàng
sông, Giàng suối về với dân bản. Họ nhà trai sẽ ở lại vui cùng nhà gái suốt đêm.
Việc bố trí khách mời của họ nhà gái đều do Thâu kê – người có uy tín ở
bản đứng ra đảm nhiệm. Trước khi con về nhà chồng, nhà gái thiết đãi nhà trai
một bữa cơm thân mật từ lễ vật chiều hôm trước. Trong đám cưới ngoài thịt lợn,
gà và rượu, còn có hai loại bánh không thể thiếu đó là bánh Beng và bánh Dày
làm từ một loại nếp rẫy. Đây là một loại bánh không thể thiếu trong những ngày
lễ, tết trở thành món ăn đặc biệt khó quên cho những ai đã từng dự đám cưới hay
các lễ hội của đồng bào Vân Kiều. Trong lễ cưới của người Bru-Vân Kiều khi
nhà trai nộp đủ lễ vật thách cưới cho nhà gái thì phía nhà gái cũng phải trả lại lễ
vật cho nhà trai. Lễ vật nhà gái trả lại là những chiếc bánh Dày và những tấm
váy xấn của phụ nữ. Đồng bào Vân Kiều quan niệm, bánh Dày là dành cho
khách nhà trai ăn trên đường đón cô dâu về, những tấm váy xấn gửi cho phụ nữ,
những người không có điều kiện dự tiệc cưới, nhằm thể hiện mới quan hệ tình
cảm thông gia giữa hai gia đình.
Lúc đưa dâu: nhà gái chỉ cho phép những thanh niên chưa lập gia đình
cùng đi, còn bố mẹ, người thân của cô dâu đã có vợ có chồng thì không được đi
theo.
Khi cô dâu về nhà chồng: ngay giữa cầu thang, người Vân Kiều đặt sẵn
một phiến đá và khi cô dâu nước vào nhà, mẹ chồng cầm gáo nước dội nhẹ vào
bàn chân của cô dâu. Đây là một nghi lễ quan trọng trong việc đón dâu, bởi họ
quan niệm, dội nước vào chân của cô dâu để xóa đi những khó khăn vất vả và
cầu cho vợ chồng hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong cuộc sống. Sauk hi thực
hiện nghi lễ dội nước vào chân, cô âu được giao cho một cái A noạc (vật dụng
xúc cá) ra suối xúc cá. Theo tập tục của người Vân Kiều nếu cô dâu nào bắt
được cá hoặc cua thì gia đình đó sẽ làm ăn phát đạt [ảnh 5; 6 trang 23].
2.2.3.

Lễ lại mặt

Sau ba ngày nhà trai và đôi vợ chồng trẻ phải sang nhà gái làm lễ lại mặt
với các lễ vật như lợn, gà, rượu, xôi….để cúng tạ thần linh, tổ tiên nhà gái và hai
gia đình liên hoan vui vẻ [ảnh 7; trang 24].
18


2.2.4. Lễ khơi

Lễ này được tiến hành khi đôi vợ chồng sinh con cái làm nên gia thất
riêng, họ chọn ngày lành tháng tốt để làm lễ khơi tạ ơn ông bà, cha mẹ. Khi chưa
thực hiện lễ khơi, đôi vợ chồng khi sang nhà vợ không được bước lên nhà,
không được ăn chuối, củ kiệu, trâu bò của hai gia đình không được chăn thả
cùng một nơi. Vì những ràng buộc khá khắt khe nên các cặp vợ chồng dù cực
khổ bao nhiêu thì cũng cố dành dụm tiền để thực hiện bằng được lễ khơi sau khi
tổ chức đám cưới trong thời gian ngắn nhất. Lễ khơi tốn kém hơn lễ cưới lần 1
nhiều nên thời gian thường không nhất định, khi nếp đầy kho, trâu bò đầy
chuồng, gà vịt đầy sân thì làm. Ngày nay, khi đời sống khấm khá hơn, nếp sống
mới đã có nhiều ảnh hưởng đến các bản làng nên lễ khơi không còn là nỗi ám
ảnh của mỗi đôi vợ chồng như trước.

CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA SỰ THAY ĐỔI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
BẢO TỒN TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI BRU-VÂN KIỀU

3.1. Tác động của sự biến đổi hôn nhân
Cùng với sự phát triển của xã hội, tục cưới hỏi của đồng bào dân tộc BruVân Kiều đã có nhiều thay đổi, ảnh hưởng tới gia đình, xã hội theo cả hướng
tích cức và tiêu cực
3.1.1. Mặt tích cực
Nếu như trước đây tiêu chuẩn chọn người bạn đời đối với nam giới là
ngoại hình cân đối, có sức khỏe, có nhiều kinh nghiệm trong lao động, dung
cảm; đối với nữ giới là siêng năng, chăm làm, hiền lành, nết na, có tài nội trợ, có

ngoại hình cân đối, hát hay múa giỏi. Ngày nay, bên cạnh những tiêu chí đó đã
19


có thêm những tiêu chí mới như: phải có nghề nghiệp, có trình độ học vấn đối
với cả nam và nữ. Sự biến đổi trong hôn nhân còn thể hiện ở chỗ đồng bào BruVân Kiều đã từng bước làm quen với những chính sách của nhà nước về độ tuổi
kết hôn, đã tuân thủ nguyên tắc kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã trước khi tiến
hành lễ cưới.
Hiện tượng đòi lễ vật thách cưới, hôn nhân gả ép, hôn nhân mua bán hầu
như không còn diễn ra. Ngày nay, thanh niên nam nữ được chủ động trong hôn
nhân của mình.
3.1.2. Mặt tiêu cực
Bên cạnh những mặt tích cực như trên, sự biến đổi trong nghi lễ cưới hỏi
của người Bru - Vân Kiều cũng không tránh khỏi những mặt tiêu cực. Ví như
tục đi sim - một hình thức tìm hiểu tỏ tình của các đôi trai gái hết sức nhẹ nhàng,
lãng mãn, đến nay đã không còn được duy trì nữa; giờ đây bị giới trẻ lạm dụng
trở thành mối lo ngại cho cộng đồng, làng bản, cho các bậc làm cha, làm mẹ.
Trong hôn nhân, nếu như trước đây nam nữ thường tặng cho nhau vòng bạc,
chuỗi cườm, bạc trắng ; thì ngày nay đã xuất hiện các vật dụng mới dùng để làm
quà như đồng hồ, kẹp tóc, các loại trang sức bằng bạc, vàng đắt tiền, không chỉ
làm mất đi những giá trị văn hóa vật thể truyền thống của đồng bào mà còn làm
thương mại hóa lễ vật trong hôn nhân.
Trong lễ cưới hiện nay trang phục truyền thống, tục lệ uống rượu cần,
nam nữ hát đối đáp trao duyên dần thay bằng trang phục cả sản phẩm yèng, cả
quần bò áo phông, cả rượu cần, rượu trắng, bia, múa hát với những bài hát hiện
đại, âm thanh sôi động.
Lễ cưới hiện nay cũng diễn ra nhẹ nhàng, đơn giản hơn thường trong
vòng 1 ngày chứ không diễn ra 2-3 ngày như trước.
Sự biến đổi theo xu hướng đơn giản các lễ vật, lễ nghi trong tục cưới hỏi
của người Bru-Vân Kiều một mặt làm cho các nghi lễ bớt đi tính rườm rà tốn

20


kém về tiền bạc công sức và thời gian của người dân, nhưng mặt khác làm cho
những phong tục tập quán mang đậm tính nhân văn dần bị mai một, lãng quên
và tất yếu đời sống văn hóa của đồng bào mặt nào đó càng trở nên “ nghèo” đi.
Đây là một bài toán khó cho Đảng và Nhà nước ta trong việc đổi mới và xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
3.2. Giải pháp bảo tồn giá trị truyền thống văn hóa qua tục cưới hỏi
của Bru-Vân Kiều tại Quảng Trị.
Để có thể bảo tồn được những giá trị văn hóa truyền thống mang đậm tính
nhân văn thể hiện qua các nghi lễ cưới hỏi của người Bru-Vân Kiều, chúng ta
cần làm tốt những biện pháp như sau:
Thứ nhất, phải tiếp tục nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho đồng bào
các dân tộc Bru - Vân Kiều. Tạo điều kiện cho các đồng bào dù ở vùng xa xôi,
hẻo lánh vẫn có thể tiếp cận được với các phương tiện thông tin hiện đại. Tiếp
tục đưa các hoạt động thông tin, tuyên truyền về tận thôn làng, nhằm giáo dục
nâng cao nhận thức của người dân, xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn
hóa, làng văn hóa. Tuy nhiên, việc vận động đồng bào phải nắm vững nguyên
tắc tự nguyện, tránh trường hợp bà con bị cưỡng ép mệnh lệnh. Bởi vì phong
tục, tập quán là những vấn đề liên quan đến cộng đồng, ăn sâu trong tiềm thức
con người khó thay đổi. Chỉ khi nào tư tưởng của người dân nâng cao, nhận thức
được những thủ tục lạc hậu và chỉ khi đó cuộc vận động mới đem lại kết quả tốt.
Thứ hai, phải làm tốt việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống bằng cách xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở làm công tác tuyên truyền, giáo
dục rộng rãi cho đồng bào về ý thức giữ gìn văn hóa truyền thống, nên sử dụng
trang phục cổ truyền vốn rất đẹp của đồng bào, hay cần loại bỏ những việc ăn
uống linh đình, say sưa trong lễ cưới. Những quy tắc về hôn nhân cũng cần được
vận động để đổi mới theo xu hướng mở rộng quan hệ hôn nhân giữa các dân tộc,
các vùng miền, đảm bảo cho thanh niên nam nữ tìm hiểu yêu đương và lựa chọn

bạn đời.
Thứ ba, nâng cao trình độ dân trí của đồng bào dân tộc Bru - Vân Kiều.
Đây là một biện pháp cực kỳ quan trọng nếu không nói là quan trọng nhất, bởi lẽ
21


trình độ nhận thức ảnh hưởng quyết định đến việc tiếp thu cái mới, cái tiến bộ.
Bên cạnh đó, việc nâng cao dân trí của người dân phải đi liền với hoạt động
truyền thông phổ biến đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đẩy mạnh phổ biến luật hôn nhân – gia đình, nâng cao nhận thức về sức khỏe
sinh sản, giảm bớt những lễ nghi rườm rà tốn thời gian, tiền bạc cuả nhân dân…

KẾT LUẬN
Tục cưới hỏi là tập tục, tập quán có từ lâu đời, là nét đẹp văn hóa, khát
vọng tự do yêu đương của nam nữ thanh niên dân tộc Bru-Vân Kiều. Đây là một
hoạt động văn hóa mang tính truyền thống, nó nhắc nhở người Vân Kiều luôn
hướng về nguồn cội, giữ gìn những thành quả sáng tạo mà cha ông để lại. Hôn
nhân cũng là nhịp cầu để bà con trong bản xích lại gần nhau hơn.
Cuộc sống hiện đại đã làm mất đi một số giá trị truyền thống văn hóa tục
cưới hỏi của người dân tộc Bru-Vân Kiều. Hy vọng rằng, với những chính sách
quan tâm của đảng và nhà nước, sự nỗ lưc, ý thức giữ gìn của chính bà con Vân
22


Kiều sẽ giúp cho những giá trị truyền thống này luôn được bảo tồn.
Với những kiến thức còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận của tôi không tránh
khỏi những sai sót, vì vậy, tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp từ phía thầy
cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn, góp phần làm nguồn tư liệu cho những
người quan tâm đến tục cưới hỏi của người dân tộc Bru-Vân Kiều tại Quảng Trị.


23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Tác giả Nguyễn Xuân Hồng , hôn nhân-gia đình-ma chay của người Tà Ôi, Cơ
Tu, Bru-Vân Kiều ở Quảng Trị-Thừa Thiên Huế , Sở văn hóa thông tin Quảng

2.

Trị-xuất bản năm 1998.
Tác giả Trần Ngọc Bình , Văn hóa các dân tộc Việt Nam ,NXB Thanh niên , năm

3.

2008.
Tác giả Nông Quốc Chấn, Dân tộc và văn hóa, NXB Văn hóa dân tộc, năm

4.
5.

1999.
www.tinquangbinh.com, sính lễ đặc biệt của người Bru-Vân Kiều.
www.vovworld.vn – dân tộc Bru-Vân Kiều

24


Ảnh 1:Thành cổ Quảng Trị - được thế giới biết đến và kính phục bởi cuộc đấu

tranh anh dũng để bảo vệ Thành Cổ suốt 81 ngày đêm của các chiến sĩ giải
phóng quân và nhân dân Quảng Trị.

Ảnh 2:Địa đạo Vịnh Mốc - là một công trình quân dân sự trong Chiến
tranh Việt Nam. Địa đạo được xây dựng nhằm chống lại các cuộc tấn công từ
phía quân Việt Nam Cộng hòa và đế quốc Mỹ.

25


×