LỜI CẢM ƠN
Lễ hội đâm trâu của người bana ở phú yên là một lễ hội đặc sắc và độc
đáo trong hệ thống lễ hội của truyền của dân tộc việt nam. lễ hội đâm trâu
được người bana gọi là x’trǎng, là một lễ hội tế thần linh, ăn mừng chiến
thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa xuân hay mừng các sự kiện
trọng đại trong năm. đây là những ngày hội thực sự mang những nét văn hóa
truyền thống, thể hiện rõ yếu tố cộng đồng, sự ngưỡng mộ thần linh, là sự kế
tục những truyền thống văn hóa thiêng liêng của người dân tộc nơi đây.
Cuốn nghiên cứu khoa học này gồm 3 chương sẽ đem lại cho người
đọc sự hiểu biết cơ bản về lễ hội đâm trâu của người bana ở phú yên . đồng
thời đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát phiển .
Mặc dù tôi đã có nhiều cố gắng biên soạn nhưng nội dung nghiên cứu
khoa học vẫn khó tránh khỏi những thiếu sót . vì vậy tôi rất mong nhận được
những ý kiến bổ sung, đóng góp của giảng viên và bạn đọc để chỉnh lý cuốn
nghiên cứu này ngày càng hoàn thiện hơn.
TÔI XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN !
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan tất cả các kiến thức trong cuốn nghiên cứu khoa học
này đều chính xác và đúng đắn . Không có sự thay đổi lịch sử. Nếu có kiến
thức sai trong nghiên cứu khoa học , nhóm chúng tôi xin chịu mọi trách
nhiệm .
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU
Cùng với sự phong phú về điều kiện tự nhiên, Việt Nam còn là một
quốc gia có bề dày về lịch sự văn hóa, trong đó lễ hội là một trong những di
sản văn hóa có giá trị gắn liền với quá trình hình thành và phát triển đất nước.
Lễ hội là một nét sinh hoạt văn hóa dân gian, đây cũng là một thành tố
quan trọng góp phần tạo nên bức tranh văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Lễ
hội là bảo tàng sống về đời sống của cha ông ta ngày xưa, về văn hóa đặc thù
của dân tộc đã được lưu truyền, kế thừa qua nhiều thế kỷ, được tái hiện lại
một cách sinh động nhất, giúp cho chúng ta – thế hệ sau này được một phần
về đời sống tinh thần của ông cha, đồng thời tác động mạnh mẽ vào tâm linh,
vào việc khuôn đúc tâm hồn và vun đắp cho tính cách, con người Việt Nam
xưa và thế hệ mai sau. Lễ hội đã tô đậm được những truyền thống tốt đẹp và
quý báu của con người Việt Nam, là dịp để tưởng nhớ tổ tiên, biết ơn những
người có công đối với đất nước.
Lễ hội đâm trâu của người Bana ở Phú Yên là một lễ hội đặc sắc và độc
đáo trong hệ thống lễ hội của truyền của dân tộc Việt Nam. Lễ hội đâm trâu
được người Bana gọi là x’trǎng, là một lễ hội tế thần linh, ăn mừng chiến
thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa xuân hay mừng các sự kiện
trọng đại trong năm. Đây là những ngày hội thực sự mang những nét văn hóa
truyền thống, thể hiện rõ yếu tố cộng đồng, sự ngưỡng mộ thần linh, là sự kế
tục những truyền thống văn hóa thiêng liêng của người dân tộc nơi đây.
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, người dân thường mải mê với việc
mưu sinh, với nhiều lo toan thường nhật mà dần quên đi những lễ hội truyền
thống, những phong tục tập quán tốt đẹp, vì thế nhiều lễ hội dần bị mai một
lãng quên. Vì vậy việc khôi phục lại những lễ hội truyền thống là một trong
những cách làm hữu hiệu nhất để giúp con người hiện nay trở về với quá khứ,
biết giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của ông cha.
Với mong muốn đó, là một sinh viên theo học ngành quản lý văn hóa,
tôi đã lựa chọn đề tài “tìm hiểu về lễ hội đâm trâu của người Bana ở Phú
4
Yên”, thông qua bài tiểu luận này tôi muốn đem một phần công sức nhỏ bé
vào việc giới thiệu và bảo tồn giá trị văn hóa lễ hội đâm trâu của người Bana.
Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo đề tài được
chia làm 03 chương:
Chương 1: Tổng quan về lễ hội và giới thiệu chung về tỉnh Phú Yên
Chương 2: Lễ hội đâm trâu của người Bana tại Phú Yên
Chương 3: Thực trạng của lễ hội đâm trâu hiện nay và một số giải pháp
bảo tồn và phát triển
5
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ LỄ HỘI VÀ GIỚI THIỆU
CHUNG VỀ TỈNH PHÚ YÊN
1.1.
Khái quát về lễ hội
1.1.1. Khái niệm lễ hội
Ở bất cứ thời điểm nào, bất cứ dân tộc nào, vào bất cứ mùa nào cũng có
những ngày lễ hội. Trong gốc từ Hán Việt, “lễ hội” được kết hợp từ hai yếu tố,
trong đó “lễ” là những quy tắc ứng xử, cách thức cúng tế, nghi thức tôn giáo;
“hội” là cuộc vui, đám vui đông người. Còn trong tiếng Latinh, “lễ hội” xuất
xứ từ từ Festum nghĩa là sự vui chơi, sự vui mừng. Theo tiếng Anh, lễ hội là
Festival, chỉ một loại diễn xướng, thu hoạch một mùa vụ đặc biệt, hay một
khoảng thời gian của một hoạt động có tính thiêng liêng và thế tục.
Theo nhà nghiên cứu M. Bakhatin: “Lễ hội là cuộc sống được tái diễn
dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động, chiến đấu của cộng
đồng dân cư. Tuy nhiên, bản thân cuộc sống không thể trở thành lễ hội được
nếu như chính nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới
của tâm linh, tư tưởng của các biểu tượng vượt lên trên thế giới của phương
tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới, là cuộc sống thứ hai thoát ly tạm thời
thực tại, đạt tới hiện thực lý tưởng mà ở đó mọi thứ đều trở nên đẹp đẽ, lung
linh, siêu việt và cao cả”.
Học giả Alessandro Falassi đã đưa ra một định nghĩa khác về lễ hội: lễ
hội là một hoạt động kỉ niệm định kì biểu thị thế giới quan của một nền văn
hóa hay nhóm xã hội thông qua hành lễ, diễn xướng nghi lễ và trò chơi truyền
thống.
Giáo sư người Nhật Kurahayashi cũng đưa ra quan điểm rằng: “xét về
tính chất xã hội của lễ hội, lễ hội là quảng trường tâm hồn; xét về tính chất
văn nghệ, lễ hội là cái nôi snả sinh nuôi dưỡng nghệ thuật, mỹ thuật, nghệ
thuật giải trí, trò diễn và với ý nghĩa đó, lễ hội tồn tại và có liên hệ mật thiết
với sự phát triển của văn hóa.
Đó là các định nghĩa khác nhau của các học giả nước ngoài, còn tại Việt
Nam, trong cuốn “lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của tác giả
6
Dương Văn Sáu đã đưa ra khái niệm về lễ hội. “Lễ hội là hình thức sinh hoạt
văn hóa cộng đồng, diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không
gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại
đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên
nhiên – thần thánh và con người trong xã hội”.
Hay trong cuốn “Địa lý du lịch”, tác giả Nguyễn Minh Tuệ cho rằng:
“Lễ hội là một loại sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong
phú, là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt
nhọc hoặc là một dịp để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại:
ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống hoặc là để giải quyết những nỗi âu lo,
những khao khát, ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải quyết được”.
Theo Giáo sư Ngô Đức Thịnh “lễ hội là một hiện tượng văn hóa dân
gian tổng thể được hình thành trên cơ sở một nghi lễ, tín ngưỡng nào đó, được
tiến hành theo định kì, mang tính cộng đồng thường là cộng đồng làng.
Tóm lại, ta có thể rút ra được định nghĩa khái quát nhất về lễ hội là: “lễ
hội là một hệ thống sinh hoạt văn hóa, tôn giáo nghệ thuật của một cộng đồng
người gắn liền với các nghi lễ đặc thù và các cuộc vui chung nhằm đáp ứng
nhu cầu tinh thần của con người.
Như vậy, lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổng hợp bao gồm các mặt
tinh thần và vật chất, là một hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau
những ngày lao động vất vả, hoặc là một dịp để mọi người có thể tựu, tập
trung lại để cùng nhau sống cuộc sống văn hóa cộng đồng, những sinh hoạt
tín ngưỡng của nhân dân hay đơn thuần là những hoạt động có tính chất giải
trí.
-
Lễ hội có hai phần chính:
Phần lễ (hay còn gọi là nghi lễ): tùy theo tính chất của lễ hội mà nội dung của
phần lễ sẽ mang ý nghĩa riêng. Có thể phần lễ mở đầu ngày hội mang tính
tưởng niệm hướng về một sự kiện trọng đại, tưởng niêmh một vị anh hùng
dân tộc; cúng có thể phần lễ là nghi thức thuộc về tín ngưỡng tôn giáo bày tỏ
lòng tôn kính đối với các bậc thánh hiền và thần linh cầu mong điều tốt lành
trong cuộc sống. Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng chứa
7
đựng những truyền thống tốt đẹp, giá trị thẩm mĩ và triết học sâu sắc của cộng
-
đồng.
Phần hội: là cuộc vui được tổ chức chung cho đông đảo người tham dự theo
phong tục hay nhân dịp đặc biệt, đem lại lợi ích tinh thần cho các thành viên
trong cộng đồng và có nhiều trò vui. Mặc dù cũng hàm chứa những yếu tố văn
hóa truyền thống nhưng phạm vi nội dung của nó không khuôn cứng mà hết
sức linh hoạt, luôn luôn được bổ sung bởi những yếu tố văn hóa mới.
Trong cuốn “tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc
-
Thêm nhận xét về lễ hội như sau:
Phần lễ mang ý nghĩa cầu xin và tạ ơn: tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho
-
cuộc sống của mình.
Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú, phần lớn được xuất
phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nôngnghiệp.
Như vậy, lễ là để cho người dân bày tỏ lòng thành kính của mình với
những thần thánh, tổ tông… bằng các hình thức cúng tế; hội là phần vui chơi
giải trí, mà ở đó người dân có thể nhảy múa, hát ca… nhằm thỏa mãn nhu cầu
tinh thần của mình. Ngoài ra, trong hoạt động lễ hội còn bao gồm một số
thành tố khác như hệ thống các tục hèm, các trò diễn dân gian, hoạt động hội
chợ triển lãm và liên hoan văn hóa ẩm thực… Các thành tố này luôn có sự
gắn kết mật thiết, tương hỗ lẫn nhau, sự tương hỗ này luôn có một trục trung
tâm là định hướng phát triển.Các thành tố của lễ hội luôn vận hành quanh trục
trung tâm đó để đạt được những mục tiêu nhất định, những mục tiêu này
nhằm phục vụ lợi ích của cả cộng đồng chứ không chỉ phục vụ lợi ích của
riêng những người tổ chức hoạt động lễ hội.
Có nhà nghiên cứu cho rằng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam, văn hóa
làng xã, cũng như văn hóa lúa nước người ta có thể tìm hiểu qua các lễ hội
hoặc trực tiếp tham gia vào các lễ hội. Từ đó có thể thấy lễ hội là một tài
nguyên du lịch nhân văn rất quan trọng.
1.1.2. Sự ra đời của lễ hội
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, lễ hội Việt Nam hình thành rất sớm, từ
8
khi chưa hình thành nhà nước, chưa có sự phân chia giai cấp. Tuy vậy, có thể
cho rằng, lễ hội chỉ xuất hiện khi loài người đạt trình độ phát triển cao trong
tổ chức đời sống xã hội. Cũng như các mặt khác của đời sống con người, lễ
hội từng bước hình thành, không ngừng biến đổi và hoàn thiện để phù hợp với
sự phát triển của xã hội ở từng giai đoạn khác nhau của lịch sử. Từ thực tiễn
cuộc sống, có thể thấy rằng lễ hội được hình thành từ các cơ sở nguồn gốc
như sau:
Một là: do nhu cầu vui chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân trong xã
hội. Nhu cầu vui chơi giải trí luôn đặt ra với con người mỗi khi có thời gian
nhàn rỗi như sau thời kì lao động sản xuất có liên quan đến mùa vụ, hoặc các
nghề sản xuất khác. Người dân sau một thời gian sản xuất mệt nhọc, vất vả,
căng thẳng muốn nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí, đều có mong muốn giải tỏa
những ức chế, mệt mỏi trong cuộc sống thông qua việc tham gia lễ hội.
Hai là: do phong tục tập quán truyền thống của địa phương truyền lại.
Những phong tục tập quán được hình thành từ bao đời, giữ gìn qua bao
thế hệ và được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp, luôn thể hiện mộ phần đạo lí
“uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, đây cũng là cơ sở hình
thành chủ yếu của các lễ hội truyền thống Việt Nam. Trong dân gian có câu:
“Trống làng nào làng ấy đánh, Thánh làng nào làng ấy thờ” điều này vừa phản
ánh, thể hiện yếu tố bản địa, mang tính địa phương, vừa tạo sự phong phú đa
dạng của bức tranh văn hóa dân tộc.
1.2.
-
Phân loại lễ hội
Căn cứ vào không gian tổ chức:
Đây là hình thức phân loại theo quy mô, mức độ và phạm vi ảnh
hưởng, chi phối, tác động của lễ hội. Theo tác giả Dương Văn Sáu, căn cứ vào
không gian, có thể chia lễ hội theo các hình thức sau đây
- Lễ hội mang tính quốc tế: là những lễ hội được du nhập từ bên ngoài
vào trong đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của người Việt Nam, được cả
người Việt Nam và thế giới tổ chức như ngày Quốc tế lao động 1/5, ngày
Quốc tế phụ nữ 8/3… Lễ hội mang tính quốc tế thường được tổ chức vào các
9
dịp kỉ niệm về các nhân vật, sự kiện lịch sử, có liên quan, ảnh hưởng, chi phối
tới ý thức hệ tư tưởng chính trị của giai cấp cầm quyền.
- Lễ hội mang tính quốc gia: là những lễ hội mà nhân vật, hoặc sự kiện
được thờ cúng có liên quan ảnh hưởng sâu sắc, rộng lớn tới cả dân tộc và đất
nước. Những lễ hội đó thường được gọi là “quốc hội”, “quốc lễ”, “quốc tự”
như lễ hội Đền Hùng (10/3 âm lịch), lễ hội Chùa Hương… Hoặc các lễ hội
hiện đại, phản ánh các sự kiện lịch sử, có vai trò to lớn, tác động và ảnh
hưởng sâu sắc đến trình độ phát triển của lịch sử dân tộc như các lễ hội chào
mừng Quốc khánh mồng 2/9, lễ hội mừng ngày sinh nhật chủ tịch Hồ Chí
Minh
- Lễ hội mang tính vùng miền: là những ngày lễ hội mà nhân vật hoặc sự
kiện được thờ khá nổi tiếng. Khi tổ chức lễ hội được sự tham gia, có mặt của
đông đảo nhân dân trong vùng, ví dụ như: Lễ hội Phủ Giầy (3/3 âm lịch), lễ
hội Đền Kiếp Bạc (20/8 âm lịch)…
- Lễ hội làng: là hình thức phổ biến rộng rãi, với số lượng nhiều, có nội
dung phong phú, da dạng và sinh động nhất. Hội làng truyền thống đã góp
phần tạo dựng và vun đắp lối sống phong cách và văn hóa Việt. Lễ hội làng là
lễ hội chủ đạotrong đời sống văn hóa của các tầng lớp dân cư. Đây trở thành
hạt nhân, nền tảng cho kho tàng lễ hội của dân tộc tồn tại, phát sinh, phát triển
-
trong suốt tiến trình lịch sử.
Căn cứ vào thời gian tổ chức:
Căn cứ vào thời gian tổ chức, có thể chia lễ hội làm hai dạng: Lễ hội
truyền thống và Lễ hội hiện đại.
- Lễ hội truyền thống bao gồm: lễ hội dân gian và lễ hội cung đình
Lễ hội dân gian: Đó là kho di sản văn hóa đặc sắc của người Việt
Nam, mang dấu ấn những giai đoạn phát triển của các địa phương và cả dân
tộc trong tiến trình lịch sử. Kho €oil lễ hội dân gian truyền thống chủ yếu bao
gồm các “lễ hội làng”, đây chính là những lễ hội nông nghiệp, gắn với cuộc
sống lao động sản xuất của các tầng lớp cư dân ở các địa phương khác nhau.
Về thời gian, những lễ hội này xuất hiện và tồn tại trước 1945. Với số lượng
10
đồ sộ và nội dung vô cùng phong phú tạo lên những giá trị lớn lao trong kho
€oil văn hóa quý báu của dân tộc ta.
Lễ hội cung đình: gắn liền với văn hóa cung đình của các triều đại
phong kiến mà đỉnh cao và sự phong phú là các lễ hội cung đình triều Nguyễn
như lễ tế Nam Giao, tế Xã tắc, lễ Truyền lô.
- Lễ hội hiện đại ra đời từ sau cách mạng tháng Tám 1945, lễ hội hiện
đại bao gồm: Lễ hội kỷ niệm và lễ hội văn hóa thể thao – du lịch
Lễ hội kỷ niệm: là những hoạt động văn hóa mang giá trị kỷ niệm,
tuởng niệm các danh nhân, các anh hùng dân tộc, các sự kiện chính trị - quân
sự - văn hóa xã hội trong đời sống tinh thần của nhân dân. Những sự kiện lịch
sử quan trọng có vai trò to lớn, mang tính quyết định trong tiến trình phát
triển của lịch sử dân tộc, ví dụ như: Lễ hội kỷ niệm 1000 năm Thăng LongHà Nội, Lễ hội Kỷ niệm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh…
Lễ hội văn hóa thể thao – du lịch: Đây là những hoạt động văn hóa xã
hội mang nặng yếu tố kinh tế, phản ánh trình độ và khả năng cùng các yếu tố
đặt ra cảu nền kinh tế đất nước trong giai đoạn mới của quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước, ví dụ như: lễ hội hoa Đà Lạt, lễ hội pháo hoa Đà
-
Nẵng
Căn cứ vào mục đích thờ cúng:
Căn cứ vào mục đích thờ cúng, có thể chia lễ hội thành các dạng sau:
Lễ hội gắn liền với hoạt động sản xuất:
Việt Nam là một nước nông nghiệp, nên những lễ hội gắn liền với
hoạt
động sản xuất nông nghiệp chiếm số lượng lớn trong kho oil lễ hội của đất
nước. Đó là các lễ hội có liên quan đến các nghi thức thờ cúng, tế lễ trong đó
có sử dụng các nghi thức để cầu mùa, cầu nước, cầu mưa, tạ ơn…Trong nội
dung và hình thức của lễ hội nông nghiệp thường chứa đựng những yếu tố về
đời sống của cư dân nông nghiệp thông qua các hoạt động diễn ra trong đời
sống xã hội như các hình thức và phương pháp canh tác truyền thống, kinh
nghiệm làm ăn…
Đối với cư dân Việt lao động trong các ngành nghề khác, có thể kể
11
tên các lễ hội thờ Thánh sư – Tổ nghề với ngành Thủ công nghiệp, thờ Cá
Ông hay thờ Nam Hải thần vương, Lão Hải đại vương, Long vương… của
những cư dân làm nghề ngư nghiệp…
Lễ hội tôn vinh các anh hùng dân tộc: Là những lễ hội được tổ chức
nhằm tôn vinh, tưởng niệm các danh nhân văn hóa lịch sử, các anh hùng dân
tộc – những con người có đóng góp và ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát
triển của đời sống xã hội, của lịch sử địa phương hay của quốc gia dân tộc. Đó
cũng là những người thường được thần thánh hóa, trở thành những đố tượng
được sung bái, có vi trí quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân
Việt Nam, chẳng hạn như Chử Đồng Tử, Trần Quốc Tuấn, Đinh Bộ Lĩnh, Hai
Bà Trưng… Nhiều trong số các lễ hội tôn vinh các anh hùng dân tộc này còn
đồng nhất với hệ thống lễ hôi có liên quan đến tín ngưỡng thờ Thành hoàng
làng.
Lễ hội liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng, văn hóa: bao gồm các loại
như:
Lễ hội của tín ngưỡng thờ nhiên thần (các vị thần tự nhiên): thường diễn
ra ở các nơi thờ tự các thần tự nhiên như Sơn thần, Thổ thần, Thuỷ thần, Mộc
thần hoặc thờ các lực lượng trong tự nhiên là các vị thần Mây- MưaSấmChớp.
Lễ hội của tín ngưỡng phồn thực: là tín ngưỡng tôn thờ những hiện vật
mang biểu tượng về sinh thực khí âm dương và những nghi lễ biểu đạt hành
động tính giao để cầu mong sự sinh sôi nảy nở, no đủ và phát triển. Đây là
một lễ hội đặc sắc, thu hút sự quan tâm chú ý của đông đảo các tầng lớp nhân
dân trong xã hội.
Lễ hội của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên: Ở phương diện quốc gia, lễ hội
Đền Hùng được coi là lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên lớn
nhất của người Việt, tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch hàng năm.
Lễ hội của tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng làng: những lễ hội này
phổ biến rộng khắp mọi miền đất nước, ở nhiều thời điểm khác nhau trong
12
năm và chiếm số lượng nhiều nhất trong tất cả các loại hình lễ hội. Đây không
chỉ là sinh hoạt văn hóa mà còn là “tài sản văn hóa” của các địa phương góp
phần vào sự phát triển của từng vùng.
Lễ hội của tín ngưỡng thờ Mẫu: Lễ hội thờ mẫu Liễu Hạnh diễn ra ở
các phủ điện thờ mẫu như phủ Tây Hồ (Hà Nội), Phủ Giầy (Nam Định)…vào
những ngày đầu tháng 3 âm lịch hàng năm.
Lễ hội Kitô giáo: thường là những hình thức nghi lễ tôn giáo mang tính
toàn cầu và được thực hiện nghiêm túc, thống nhất. Khi hành lễ, Linh mục là
người thay mặt Chúa rao giảng Kinh phúc ân và làm các phép bí tích rửa tội,
giải tội… Những nghi lễ tôn giáo đó thường chỉ là một trong những biểu hiện
của sinh hoạt tôn giáo ở bất kỳ một giáo xứ nào, ví dụ như lễ phục sinh, lễ
chúa nhật, lễ chúa hiển linh…
Lễ hội của Phật giáo: Phật giáo là một tôn giáo du nhập sớm nhất vào
Việt Nam và có ảnh hưởng sâu rộng nhất trong các tầng lớp dân chúng trong
nước.
1.3.
Đặc điểm của lễ hội
Tính thiêng: Muốn hình thành một lễ hội, bao giờ cũng phải tìm ra được
một lý do mang tính “thiêng” nào đó. Đó là người anh hùng đánh giặc ngã
xuống mảnh đất ấy, đó là nơi người anh hùng bỗng dưng hiển thánh bay về
trời;
cũng có khi đó chỉ là một bờ sông, nơi có xác người chết đuối đang trôi bỗng
nhiên dừng lại không trôi nữa được người dân vớt lên chôn cất và thờ
phụng…song những nhân vật đó bao giờ cũng được “thiêng hóa”, trở thành
“thần thánh” trong tâm trí của người dân. Nhân dân tin tưởng những người đó
đã trở thành thần thánh không chỉ để phù hộ cho họ về sản xuất, chữa bệnh,
đánh giặc… mà còn có thể giúp họ vượt qua những khó khăn phức tạp của
đời sống. Chính tính “thiêng” ấy đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho nhân dân
trong những thời điểm khó khăn, cũng như tạo cho họ những hi vọng vào điều
tốt đẹp sẽ đến.
13
Tính cộng đồng: Lễ hội được sinh ra, tồn tại và phát triển khi nó trở
thành nhu cầu tự nguyện của một cộng đồng. Cộng đồng lớn thì phạm vi của
lễ hội càng lớn, bởi thế mới có lễ hội của một họ, một làng, một huyện, một
vùng hoặc cả nước.
Tính địa phương: Lễ hội sinh ra và tồn tại đều gắn với một vùng đất
nhất định, bởi thế lễ hội ở vùng nào mang sắc thái của vùng đó. Tính địa
phương của lễ hội chính là điều chứng tỏ lễ hội gắn bó rất chặt chẽ với đời
sống của nhân dân, nó đáp ứng nhu cầu tinh thần và văn hóa của nhân dân
không chỉ ở nội dung của lễ hội mà còn ở phong cách của lễ hội nữa. Phong
cách đó thể hiện ở lời văn tế, ở trang phục, kiểu lọng, kiểu kiệu, kiểu cờ, lễ
vật dâng cúng…
Tính cung đình: Đa phần các nhân vật được suy tôn thành thần linh
trong các lễ hội của người Việt đều là những nhân vật đã giữ các chức vị trong
triều đình xưa. Bởi thế những nghi thức diễn ra trong lễ hội từ tế lễ, dâng
hương đến rước kiệu đều mô phỏng sinh hoạt cung đình. Sự mô phỏng đó thể
hiện ở cách bài trí, trang phục, động tác đi lại. Điều này làm cho lễ hội trở nên
trang trọng hơn, lộng lẫy hơn. Mặt khác lễ nghi cung đình cũng làm cho
người tham gia cảm thấy được nâng lên một vị trí khác với ngày thường, đáp
ứng những tâm lý, nguyện vọng của ngýời dân.
Tính đương đại: Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội trong quá
trình vận động của lịch sử cũng dần tiếp thu những yếu tố đương đại, những
trò chơi mới, những cách bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như
rađiô, video, tăng âm, micrô…đã tham gia vào lễ hội giúp cho việc tổ chức lễ
hội được thuận lợi hơn đáp ứng được nhu cầu mới.
1.4.
Vai trò của lễ hội.
Thứ nhất, lễ hội thực hiện giá trị liên kết cộng đồng: dù dưới hình thức
nào lễ hội vẫn là một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân, là “cuộc vui chơi
đông người” được tổ chức sau thời gian lao động, sản xuất hay nhân dịp một
sự kiện xã hội quan trọng liên quan đến sự tồn tại của một cộng đồng hoặc để
14
quần chúng tìm đến một điều gì đó mà họ mong ước. Người đi hội không cảm
thấy mình là người ngoài cuộc, chính điều đó đã đem lại niềm an ủi, sự xúc
động thật sự và là nguồn động viên sâu sắc cho những thân phận nhỏ bé ngày
thường trong xã hội phong kiến xưa.
Thứ hai, lễ hội dù truyền thống hay hiện đại đều có giá trị phản ánh,
bảo lưu và truyền bá các giá trị văn hóa của dân tộc. Thông qua lễ hội, văn
hóa dân tộc được hồi sinh, tái tạo và truyền giao qua các thế hệ, cũng như
được giới thiệu sâu rộng đến bạn bè quốc tế bốn phương.
Thứ ba, lễ hội còn thể hiện giá trị đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần,
tâm linh, giải quyết những khát khao, những ước mơ của cộng đồng các dân
tộc ở địa phương như lễ hội Cầu Ngư (Bình Thuận), Chùa Bà (Bình Dương),
Núi Bà Đen (Tây Ninh)… Thông qua đó, lễ hội tạo cho con người niềm lạc
quan yêu đời, yêu chân lý, trọng cái thiện và làm cho tâm hồn, nhân cách mỗi
con người như được sưởi ấm tính nhân đạo, nhân văn để rồi thẩm thấu vào
cuộc sống đời thường, đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh
về giao lưu, làm cho đời sống có ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.
Thứ tư, lễ hội còn có giá trị tạo ra môi trường hưởng thụ và giải trí cho
người dân: Đến với lễ hội truyền thống ngoài sự “hòa nhập” hết mình trong
các hoạt động của lễ hội, được “hóa thân” trong đúng một vai trong hội hay
“nhập thân” vào một trò chơi, tất cả mọi người đều được hưởng những lễ vật
mà mình dâng cúng, đều được tham gia vào các hoạt động vui chơi, giải trí
trong quá trình tổ chức hoạt động lễ hội. Trong lễ hội truyền thống, người dân
không chỉhưởng thụ mà còn là người sáng tạo văn hóa, là chủ nhân thực sự
trong đời sống văn hóa của chính bản thân mình.
Cuối cùng, lễ hội còn có giá trị hướng về nguồn: Thông qua việc tái
hiện lịch sử, đề cao, tôn thờ những phẩm chất tốt đẹp của thần linh, xem đó là
chuẩn mực của cộng đồng, từ đó tạo cho lễ hội một chức năng vô cùng quan
trọng chức năng giáo dục đối với các thế hệ mai sau.
1.5.
Giới thiệu về tỉnh Phú Yên
Điều kiện tự nhiên – xã hội: Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên
15
hải Nam Trung bộ, có tọa độ địa lý: Điểm cực Bắc: 13 041'28"; Điểm
cực Nam: 12042'36"; Điểm cực Tây: 108040'40" và điểm cực Đông:
109027'47".
Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 5.060 km2, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định,
phía Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phía
Đông giáp biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận
lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Tỉnh có 09 đơn vị hành chính gồm các huyện: Đồng Xuân, Đông Hòa,
Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông Cầu và thành
phố Tuy Hòa.
Dân số trung bình của tỉnh Phú Yên (tính đến năm 2011) là 871.949
người, mật độ dân số năm 2010 là 172 người/km2.
Phú Yên có địa hình khá đa dạng, đồng bằng đồi núi, cao nguyên,
thung lũng xen kẽ nhau và thấp dần từ Tây sang Đông, phần lớn có độ dốc
lớn. Phú Yên có 03 mặt là núi, dãy Cù Mông ở phía Bắc, dãy Vọng Phu - Đèo
Cả ở phía Nam, phía Tây là rìa Đông của dãy Trường Sơn. Ở giữa sườn Đông
của dãy Trường Sơn có một dãy núi thấp hơn đâm ngang ra biển tạo nên cao
nguyên Vân Hòa; là ranh giới phân chia hai đồng bằng trù phú do sông Ba và
sông Kỳ Lộ bồi đắp. Diện tích đồng bằng toàn tỉnh 816 km 2, trong đó riêng
đồng bằng Tuy Hòa đã chiếm 500km2, đây là đồng bằng màu mỡ nhất do nằm
ở hạ lưu sông Ba chảy từ các vùng đồi bazan ở thượng lưu đã mang về lượng
phù sa màu mỡ. Phú Yên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm.
Tài nguyên thiên nhiên: Tài nguyên đất Phú Yên khá đa dạng về nhóm,
các loại đất phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo ra những tiểu
vùng sinh thái nông – lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt
là cây trồng lâu năm vùng đồi núi. Có 8 nhóm đất chính: Nhóm đất đỏ vàng:
Là nhóm đất có diện tích lớn nhất. 336.579 ha, chiếm tỷ lệ 66,71%; Nhóm đất
cát biển: 15.009 ha chiếm 2,97%. Nhóm đất mặn, phèn: 7.899 ha, chiếm
16
1,57%. Nhóm đất Phù sa: 55.752 ha, chiếm 11.05%. Nhóm đất xám: 39.552
ha, chiếm 7,84%, Nhóm đất đen: 18.831 ha, chiếm 3,73%. . Nhóm đất vàng
đỏ trên núi: 11.300 ha, chiếm 2,5%. Nhóm đất thung lũng dốc tụ: 1.246
ha; Các loại đất khác: 21.192 ha, chiếm tỷ lệ 4,21%.
- Phú Yên có hệ thống sông ngòi phân bổ tương đối đều trên toàn tỉnh,
các sông đều bắt nguồn từ phía Đông của dãy Trường Sơn, chảy trên địa hình
đồi, núi ở trung và thượng lưu, đồng bằng nhỏ hẹp ở hạ lưu rồi đổ ra biển.
Phú Yên có trên 50 con sông lớn nhỏ, đáng chú ý là 3 con sông chính: sông
Kỳ Lộ, Sông Ba, Sông Bàn Thạch với với tổng diện tích lưu vực là
16.400km2, tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m3, phục vụ nước tưới cho nông
nghiệp, thủy điện và sinh hoạt của người dân Phú Yên. Nguồn nước
mặt: Mạng lưới sông suối ở Phú Yên phần lớn bắt nguồn từ dãy núi Trường
Sơn ở phía Tây, dãy Cù Mông ở phía Bắc và dãy đèo Cả ở phía Nam. Sông
suối của tỉnh thường ngắn, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn. Nguồn nước sông
Ba có trữ lượng lớn nhất tỉnh, lượng nước đổ ra biển hàng năm là 9,7 tỷ m 3.
Nguồn nước sông Bàn Thạch với tổng lượng dòng chảy của sông 0,8 tỷ
m3/năm. Sông Kỳ Lộ là con sông lớn thứ 2 trong tỉnh, diện tích lưu vực sông
Kỳ Lộ là 1.950 km2, trong đó phần trong tỉnh là 1.560 km2. Nguồn nước
ngầm: Trữ lượng động tự nhiên khai thác tiềm năng nguồn nước ngầm của
tỉnh khoảng 1,2027 x 106m3/ngày. Nước khoáng: Nguồn tài nguyên nước
khoáng ở Phú Yên khá phong phú, trên địa bàn tỉnh có 4 điểm nước khoáng
nóng ở Sơn Thành (huyện Tây Hòa), Phước Long ở xã Xuân Long, Triêm
Đức (huyện Đồng Xuân) và Phú Sen (huyện Phú Hòa).
- Toàn tỉnh có 3 kiểu rừng chính là rừng kín lá rộng thường xanh, đây là
kiểu rừng phổ biến ở Phú Yên chiếm 96,5% diện tích rừng tự nhiên; rừng
rụng lá (khộp), kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 3,5% diện tích rừng tự nhiên toàn
tỉnh; rừng trồng, hiện có 20.963,0 ha rừng trồng và khoảng 8,4 triệu cây phân
tán (tương đương 4.200 ha), gồm các loại cây chủ yếu như keo tai tượng, xà
cừ, phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gõ đỏ, muồng đen, giáng hương và một số
17
loại khác. Hệ động thực vật rừng Phú Yên khá phong phú có 43 họ chim với
114 loài (trong đó có 7 loài quý hiếm). Thú có 20 họ với 51 loài (trong đó có
21 loài quý hiếm), Bò sát có 3 họ với 22 loài (trong đó có 2 loài quý hiếm).
Phú Yên có sinh thái rừng đặc sắc, như Khu bảo tồn thiên nhiên, rừng
đặc dụng Krông Trai. Đây là điều kiện rất thuận lợi để phát triển đa dạng dịch
vụ du lịch sinh thái rừng.
- Phú Yên còn có lợi thế cạnh tranh trong sản xuất, kinh doanh vật liệu
xây dựng, với nguồn khoáng sản phong phú với nhiều loại khác nhau như:
Diatomit, đá Granit, Vàng sa khoáng, Nhôm (Bôxít), Sắt, Fluorit, Titan…
được phân bố rải rác ở nhiều vùng của địa phương.
- Với bờ biển dài 189 km, có nhiều vịnh, bãi, vũng, đầm phá, gành còn
mang vẻ đẹp hoang sơ tạo nên những cảnh quan sinh thái phong phú, đa dạng
là tiềm năng rất lớn cho du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái.
Bên cạnh đó, Phú Yên có nhiều vùng bãi triều nước lợ, cửa sông, đầm phá,
vịnh rất thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đây là tiềm
năng, lợi thế để Phú Yên phát triển kinh tế biển.
Điều kiện văn hóa: Phú Yên có nền văn hóa truyền thống đầy bản sắc
được kế thừa và không ngừng phát triển làm phong phú và đa dạng đời sống
tinh thần của 31 dân tộc anh em trong Tỉnh. Phú Yên còn là một vùng đất có
bề dày lịch sử và chiều sâu văn hóa, nét đặc sắc của văn hóa Phú Yên là sự
đan xen, giao thoa và hòa hợp của nền văn hóa Việt-Chăm như Tháp Nhạn,
Thành Hồ và đặc biệt là nền Văn hóa Đá, với các di tích danh thắng quốc gia
Chùa Đá Trắng, núi Đá Bia gắn liền với huyền thoại Vua Lê Thánh Tông một
thời mở cõi, đặc biệt là bộ kèn đá có niên đại cách ngày nay khoảng 2.000
năm.
Nhiều di tích Lịch sử - Cách mạng - Văn hóa và danh lam thắng cảnh ở
Phú Yên như: Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên ở Phú Yên; Hội trường
Mùa Xuân, nhà thờ Bác Hồ. Vụ thảm sát Ngân Sơn - Chí Thạnh; chiến thắng
đường Năm, Tàu Không số Vũng Rô; mộ và đền thờ Lê Thành Phương,
18
Lương Văn Chánh; Mũi Điện, Tháp Nhạn; đầm Ô Loan; gành Đá Dĩa, chùa
Đá trắng đã được Nhà nước công nhận và xếp hạng là các di tích lịch sử cách mạng - văn hóa và danh lam thắng cảnh cấp quốc gia [ảnh 1, trang 31]
Phú Yên có nhiều lễ, hội truyền thống mang đậm bản sắc văn hóa dân
tộc. Nhiều hoạt động văn hóa đã trở thành truyền thống như: lễ hội Lương
Văn Chánh, lễ hội Lê Thành Phương, lễ hội đâm trâu, hội thơ Nguyên Tiêu,
hội đua thuyền đầm Ô Loan, hội đua thuyền sông Chùa,...
Tiềm năng phát triển du lịch của Phú Yên rất đa dạng. Khả năng khai
thác để phát triển du lịch: Ở khu vực Đông Bắc phát triển du lịch biển, nghỉ
dưỡng kết hợp với tham quan thắng cảnh. Ở khu vực Đông Nam có điều kiện
thuận lợi để phát triển du lịch thể thao, vui chơi giải trí cao cấp kết hợp với du
lịch sinh thái và tham quan thắng cảnh. Ở khu vực phía Tây là khu bảo tồn
thiên nhiên Krông Trai, là nơi phát triển du lịch sinh thái kết hợp với du lịch
tham quan các làng bản dân tộc, các công trình thuỷ điện, thủy lợi...Với
những đặc điểm, tiềm năng, lợi thế như vậy, Phú Yên hội tụ đầy đủ điều kiện
để phát triển kinh tế - xã hội với thế mạnh của từng vùng.
Đến với Phú Yên, ngoài việc thưởng ngoạn các danh lam thắng cảnh,
du khách sẽ còn được thưởng thức hương vị tuyệt vời từ những món ăn bình
dân đến các món đặc sản cao cấp như: bánh tráng thịt luộc, bánh xèo, chả
giông, sò huyết Ô Loan, cá ngừ đại dương, ghẹ đầm Cù Mông, gỏi sứa, bún
mực,,.
Nhiều món ăn nổi tiếng gắn với những địa danh sinh ra chúng như cốm
nếp Phong Hậu (Tuy An), bánh tráng Hòa Đa( Tuy An), sò huyết Ô Loan (Tuy
An), ghẹ, ốc nhảy, sò điệp, cá mú Sông Cầu, tôm hùm Vũng Rô,bánh hỏi cháo
lòng Hòa Đa…Nói đến văn hóa ẩm thực Phú Yên không thể không nói đến
nước mắm Sông Cầu, cà phê Tuy Hòa, một trong những thứ nước chấm và
thức uống mang đậm bản chất của người dân đất Phú: đậm hương, đậm vị.
[ảnh 2,trang 31]
19
20
CHƯƠNG II: LỄ HỘI ĐÂM TRÂU CỦA NGƯỜI BANA
TẠI PHÚ YÊN
2.1. Tổng quan về lễ hội đâm trâu của người Bana
2.1.1. Lịch sử hình thành
Dân tộc Ba-na phân bố tập trung ở vùng thung lũng sông BLa thuộc
tỉnh Kon Tum, ngoài ra còn ở các tỉnh Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Định, Phú Yên.
Dân tộc Ba-na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn- Tây
Nguyên, đã kiến lập nên nền văn hoá lâu đời độc đáo ở đây.
Kinh tế chủ yếu của người Ba-na là làm nương rẫy và ruộng khô, trồng
trọt ngô, lúa và các loại hoa màu. Cùng với nông nghiệp là chăn nuôi, các
nghề thủ công như dệt vải, nghề rèn, nghề gốm và đan lát cũng thịnh hành.
Dân cư sống thành buôn làng gọi là Plây, rải rác trên các sườn đồi, núi
có suối nước; quanh Plây có rào gỗ bao bọc, mở cổng ra vào, mỗi Plây
thường có 30 - 40 nóc nhà, gọi là Nam, theo kiểu nhà sàn; giữa Plây có một
nhà công cộng gọi là nhà Rông, là trung tâm của các sinh hoạt chính trị, văn
hoá, phong tục, nghi lễ của mỗi Plây. Dân tộc Ba-na có bản sắc văn hoá dân
tộc độc đáo và phong phú với nhiều biểu hiện truyền thống, chẳng hạn: quyền
thừa kế tài sản bình đẳng giữa các con. Trai gái tự do tìm hiểu trong hôn nhân,
khi lập gia đình, vợ chồng luân phiên sinh sống ở cả nhà trai và nhà gái, dựng
nhà riêng khi sinh con đầu lòng; trẻ em được nuông chiều, mọi thành viên
trong gia đình bình đẳng, thuận hoà. Về văn hoá phục sức, xưa kia người Bana có tục "cà răng căng tai", đeo nhiều vòng trang sức rực rỡ; đàn ông đóng
khố cởi trần, đàn bà lấy vải cuốn làm váy và áo không tay. Trong ngày hội áo
váy đều sặc sỡ hơn ngày thường. Đàn ông thường đeo gươm dài có vỏ đẹp
hay mang ná với nhiều ống tên bao quanh thắt lưng.
Người Ba-na thờ nhiều thần linh, mỗi vị có tên riêng. Người chết hoá
thành ma, lúc đầu ma ở mộ và sau lễ "bỏ mả", ma về với tổ tiên, vĩnh biệt
người sống. Sinh hoạt văn hoá dân gian của người Ba-na rất phong phú, nhiều
làn điệu dân ca, nhiều điệu múa trình diễn trong các hội lễ và nghi lễ tôn giáo;
21
nhạc cụ đa dạng, gồm những bộ cồng chiêng (đúc bằng đồng), những đàn Tơ
rưng, Brọ, Klông pút, Kơ ni, Khinh Khung,... và nhiều loại kèn. Nét kiến trúc
biểu hiện là ngôi nhà Rông và tượng nhà Mồ bằng gỗ. Lễ hội đâm trâu là lễ
hội tiêu biểu nhất của dân tộc Ba-na cũng như các dân tộc khác sinh sống ở
phía Đông Trường Sơn.
Hình ảnh con trâu từ lâu đã trở nên vô cùng quen thuộc và gắn bó với
cuộc sống của cư dân nông nghiệp, đặc biệt là cư dân nông nghiệp trồng lúa
nước. Theo nghiên cứu của GS Trần Quốc Vượng, trâu là loài sinh vật thích
nghi với hệ sinh thái đầm lầy-ấm-ẩm, vốn sinh sống thành bầy đàn. Trâu rừng
là tổ tiên của loài trâu nhà, vốn sinh sống ở vùng đầm lầy Đông Nam Á nhiệt
đới gió mùa thấp ẩm. Kể từ thời đại vua Hùng dựng nước, con trâu đã là một
nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước “con
trâu là đầu cơ nghiệp”.
Đối với người dân Bana, con trâu gắn liền với tín ngưỡng đa thần của
cư dân bản địa. Con trâu xuất hiện hầu gần như trong suốt các cuộc vui, dịp
trọng đại của dân làng. Từ thuở ban sơ, do không lí giải được các hoạt động
đơn sơ, người dân tộc thiểu số nói chung và người Bana nói riêng đều tiến
hành các nghi lễ thờ phụng, cúng bái tổ tiên để được yên ổn và may mắn
trong sản xuất, đời sống.
Từ đó, ta có thể khẳng định lễ đâm trâu đã có từ rất lâu đời, gắn liền với
quá trình thuần dưỡng con trâu ở khu vực Đông Nam Á và cũng gắn liền với
đời sống tín ngưỡng, tâm linh và sinh hoạt sản xuất tại nhiều đồng bào dân tộc
Việt Nam.
Lễ hội đâm trâu được người Bana gọi là x'trǎng, là một lễ hội tế thần
linh, ăn mừng chiến thắng, mừng mùa màng bội thu, mừng lễ hội mùa xuân
hay mừng các sự kiện trọng đại trong năm. Tuỳ theo hoàn cảnh ở từng địa
phương mà bà con tổ chức lễ đâm trâu. Lễ hội là nét văn hóa độc đáo của
người dân tộc thiểu số nói chung và người dân Bana ở Phú Yên nói riêng.
22
2.1.2. Thời gian và địa điểm tổ chức
Thời gian: Không giống như lễ hội đâm trâu ở các khu vực khác, lễ hội
của người Bana không phải năm nào cũng tổ chức.
Lễ đâm trâu thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ tháng Chạp
cho đến tháng 3 âm lịch. Đó là là khi mùa màng thu hoạch xong, thóc đã được
đưa vào bồ, các gia đình được nghỉ ngơi. Người Bana tổ chức lễ đâm trâu là
để tạ ơn thần linh, đón mừng năm mới, cầu mong sức khỏe cho mọi người và
cầu chúc cho một năm mới mùa màng tươi tốt.Lễ đâm trâu thường diễn ra
trong 3 ngày đêm. Để chuẩn bị cho lễ đâm trâu, người Bana phải chuẩn bị
hàng tháng trời.
Địa điểm: Các buôn làng của người Bana thường được dựng lên bên
các bờ suối, bờ sông. Ở chính giữa mỗi buôn làng, đồng bào thường dựng lên
một cái nhà Rông:đây là nơi tập trung tinh hoa văn hóa của cả buôn làng.
Nhìn và nhà Rông, chúng ta có thể đánh giá được khả năng hội họa và điêu
khắc cùng với sự giàu nghèo của buôn làng đó. Nhà Rông là nơi chứng kiến
những cuộc họp để bàn việc chung của buôn làng, là nơi dạy nghề và mọi
người đến đây để sinh hoạt văn nghệ.
Do vị trí quan trọng của nhà Rông trong tâm thức người dân tộc Bana
nên lễ đâm trâu thường được họ tiến hành ở trước sân nhà Rông – nơi có
không gian rộng, có thể quy tụ đầy đủ người dân trong buôn.
2.1.3. Các hoạt động của lễ hội [ảnh 4, trang 32]
Tùy theo mục đích của buổi lễ, mà phần nghi thức có thể thêm hoặc bớt
một phần nào đó, nhưng về cơ bản, lễ hội đâm trâu được tiến hành hai bước:
trước ngày lễ và trong ngày lễ.
Trước ngày lễ, gia chủ phải tích lũy, sắm sửa cho đủ lễ vật như: lúa gạo,
vài con heo thiến, vài con bò, vài chục con gà, có đủ vài chục ché rượu cần;
đặc biệt là phải mua một con trâu đực (con vật hiến sinh chính của buổi lễ)
chưa vực cày, chưa theo trâu cái.
Khi có được trâu đực như qui định, gia chủ làm một con heo cúng báo
23
cho Yàng (Trời) biết gia đình đã có trâu. Sau đó giết tiếp một con heo khác và
nhắc 3 chén rượu cần để cúng ông bà tổ tiên, chứng nhận con trâu đó sẽ được
cúng, trả nợ cho Yàng. Con trâu được nuôi dưỡng, chăm sóc riêng, với chế độ
đặc biệt, không ai được cỡi lên lưng, không ai được đánh đập.
Trước khi tổ chức lễ, gia chủ cử người nhà mang một chai rượu trắng
đến nhà chủ làng, nhờ ông báo cho những người đàn ông khỏe mạnh, khéo tay
trong làng đến giúp. Những người đàn ông trong buôn được cử vào rừng chọn
những cây mây vàng bóng để bện thành sợi dây vững chãi buộc trâu trong
ngày lễ; những cây gỗ Pơlang thẳng, đẹp nhất để làm cột Gưn mà người Ba
Na gọi cây cột này là gưng sakapô. Đây là một cây cột gỗ cao trên 5 mét,
được trang trí hoa văn, hoa rừng và cờ rất đẹp. Trên đỉnh cột thường đặt một
biểu trưng hình chim Phượng hoàng bằng gỗ. Họ cũng báo cho người đàn bà
có uy tín nhất trong làng, để bà báo tin cho các gia đình có con gái đến giúp
việc giã gạo, lấy củi.
Thường thì lễ đâm trâu tế Giàng (Thần linh) được tổ chức vào sáng
sớm, lúc mặt trời vừa lên. Dân làng chọn một con trâu khỏe mạnh làm vật
hiến sinh, con trâu này được coi như vị sứ giả chuyển lời cầu khấn, ý nguyện
của bà con tới các vị thần.
Vào ngày lễ, trâu được đưa đi tắm rửa sạch sẽ và cho ăn uống no nê rồi
đem buộc bằng dây mây vào. Đúng ngày lễ, dân làng tổ chức trồng trụ hiến
sinh, 4 cây nêu, trên đó được trang trí hoa văn và những sợi dây dài “Kông
Têk” đan bằng tre, sơn màu đen, đỏ; trên đó gắn hình vòng tròn, chiếc thuyết
hoặc các con vật: chim, bướm. Khoảng 4 giờ chiều, con trâu được buộc dây
“lơ ngoa” vào cổ. Cùng lúc, dân làng làm thịt một con bò, nhắc 4 chén rượu
cúng yàng rừng, yàng núi, yàng đất… chứng kiến lễ tiễn con trâu về hầu yàng
trời. Chủ lễ là già làng, người có uy tín nhất cộng đồng đọc lời khấn trời đất,
cầu chúc mưa thuận gió hòa, dân làng khỏe mạnh, hoa trái mùa màng tốt
tươi… Khấn Giàng xong, con trai, con gái nhảy múa vòng tròn theo nhịp
cồng chiêng rộn rã, âm vang khắp núi rừng. Một người lớn tuổi được cử ra để
24
mời bà con và khách uống rượu cần thể hiện lòng hiếu khách. Tâm điểm của
lễ hội là các chàng trai trong buôn biểu diễn các màn võ truyền thống quanh
cột Gưn buộc trâu, trong khi các cô gái nối thành vòng xoang nhảy múa theo
nhịp cồng chiêng. Sau một đêm nhảy múa, ca hát, buôn cử 5 người đại diện
gồm 3 thày cúng và 2 già làng làm lễ hiến sinh đọc thần chú, xin dâng cúng
trâu cho thần linh và cầu nguyện những điều tốt đẹp còn mọi người ngồi nói
chuyện, uống rượu cần.
Đêm đó, cả buôn làng không ngủ, họ múa xoan, đánh cồng chiêng, vỗ
trống đi vòng quanh con trâu đang buộc vào trụ hiến tế. Cuộc vui càng náo
nhiệt hơn khi đông đảo nam nữ thanh niên các buôn làng lân cận rực rỡ trong
bộ trang phục truyền thống, người mang đầy vòng, xuyến… mang theo cồng,
chiêng, trống, rượu cần; có khi cả bò, heo, gà… tới góp vui. Để đón khách,
nam nữ thanh niên phải ra tận cổng làng đón tiếp; mời khách uống rượu và
cùng tấu cồng chiêng. Sau màn chào hỏi, họ đưa khách vào làng nhập cuộc.
Cuộc vui kéo dài đến nửa đêm (chừng 12 giờ đêm), những người trong
gia đình gia chủ mặc những bộ trang phục truyền thống, xếp hàng dài, tay
cầm dây buộc trâu để thầy cúng kêu yàng trời xuống nhận trâu hiến tế và phù
hộ cho những người trong gia đình được mạnh khỏe, gia súc sinh sôi nảy nở,
mùa màng bội thu. Suốt đêm hôm ấy bà con dân làng thức với con trâu, khóc
thương con trâu, bày tỏ tình cảm của mình với con trâu bằng bài hát "Khóc
trâu". Bài hát với lời : lâu nay trâu sống cùng với con người, giúp đỡ người
trong công việc đồng áng nặng nhọc, nhưng vì làng có việc trọng đại, cần đến
trâu để tạ ơn Giàng, mong trâu vui vẻ thực hiện nhiệm vụ của mình.
Đến 3 giờ sáng, từng tốp nam nữ thanh niên mang nhạc cụ - vừa đi, dừa
biểu diễn - tuần tự đi từ nhà này đến nhà khác trong làng. Nhà được đoàn đến,
chuẩn bị sẵn, có khi là con gà, ché rượu, quả bí, hoặc gạo, nếp… để tặng.
Những vật phẩm này được mang về giao cho gia chủ, và sử dụng trong lễ hội.
Qua ngày hôm sau, khoảng 8 giờ, các thầy cúng và gia đình gia chủ
tiếp tục nghi thức cúng yàng. Khi mặt trời vượt khỏi ngọn núi đằng đông,
25