Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

Tìm hiểu trang phục truyền thống của phụ nữ dao tiền ở ngân sơn – bắc kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 47 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy cô giáo trong khoa
Văn hóa thông tin và xã hội, giảng viên Trần Thị Phương Thúy – người trực
tiếp giảng dạy em trong bộ môn Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đã
dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong quá trình học.
Bài tiểu luận của em còn thiếu sót, hạn chế về mặt kiến thức. Em rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô để bài tiểu luận được
hoàn thiện. Và đó cũng là hành trang quý giá giúp em hoàn thiện kiến thức
của mình sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm 2016
Sinh viên


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là bài tiểu luận của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong bài là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.
Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về đề tài
của mình.
Người cam đoan


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN


PHẦN MỞ ĐẦU
Trang phục là thành tố văn hóa quan trọng nhất để nhận biết giữa các
tộc người và cũng là thành tố biểu hiện rõ nhất về đặc trưng văn hóa của một
tộc người. Là giá trị văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa, làm thành những chuẩn


mực để phân biệt tộc người này với tộc người kia. Trang phục chính là một
nét đẹp văn hóa của mỗi tộc người.
Và hiện nay, trong nền kinh tế mở cửa, xu thế toàn cầu hóa, kéo theo sự
biến đổi hội nhập đó là sự giao lưu văn hóa rộng rãi hơn giữa các quốc gia,
dân tộc trên thế giới. Rất nhiều phong tục tập quán, những nét văn hóa mới đã
và đang du nhập vào nền văn hóa Việt Nam. Và trang phục không nằm ngoài
xu hướng đó, sự hòa đồng về trang phục của các tộc người ngày càng trở nên
phổ biến ở tất cả mọi vùng miền, mọi tộc người trên cả nước. Cũng chính sự
biến đổi nhanh chóng như vậy của văn hóa đời sống xã hội mà những giá trị
vẻ đẹp truyền thống trong trang phục của các tộc người Việt Nam, đặc biệt là
trang phục các tộc người thiểu số cũng dần mất đi. Và trang phục truyền
thống phụ nữ tộc người Dao Tiền ở Ngân Sơn – Bắc Kạn đang hòa theo xu
hướng phát triển đó. Đứng trước những thách thức to lớn làm biến đổi, mai
một các giá trị văn hóa truyền thống. Chính vì vậy, vấn đề bảo tồn và phát huy
bản sắc văn hóa dân tộc đang là việc làm cấp thiết.
Bản thân là sinh viên hiện đang theo học nghành quản lý văn hóa, được
tiếp xúc với các vấn đề văn hóa dân tộc nhất là các giá trị văn hóa dân tộc
thiểu số. Nhận thấy việc tìm hiểu trang phục truyền thống của phụ nữ tộc
người Dao Tiền giúp tôi có thêm nhiều kiến thức bổ ích không chỉ phục vụ
cho học tập mà còn phục vụ cho ngành học của mình, công việc sau này khi
làm quản lý văn hóa. Với lý do trên, tôi chọn đề tài: “ Tìm hiểu trang phục
truyền thống của phụ nữ Dao Tiền ở Ngân Sơn – Bắc Kạn ” là đề tài tìm hiểu
cho mình.

4


Chương 1. Khái quát chung về huyện Ngân Sơn và tộc người Dao Tiền ở
Ngân Sơn - Bắc Kạn
1.1. Khái quát chung về huyện Ngân Sơn – Bắc Kạn

1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Ngân Sơn là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Bắc Kạn có
toạ độ địa lý trong khoảng từ 22010'00" đến 22029'00" độ vĩ Bắc và từ
105050'10" đến 106001'10" độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Cao Bằng, phía
Đông giáp tỉnh Cao Bằng và tỉnh Lạng Sơn, phía Nam giáp huyện Bạch
Thông và huyện Na Rì, phía Tây giáp huyện Ba Bể.
Diện tích đất tự nhiên của huyện có 64.587,00 ha và được chia thành 11
đơn vị hành chính cấp xã (10 xã và 1 thị trấn).
Xã Vân Tùng là trung tâm văn hoá, chính trị của cả huyện, cách trung
tâm thị xã Bắc Kạn khoảng 65km về phía Bắc theo Quốc lộ 3.Quốc lộ 3 là
tuyến giao thông chính chạy xuyên suốt qua địa bàn huyện theo chiều Tây
Nam đến Đông Bắc.
Địa hình Ngân Sơn là nơi hội tụ của hệ thống nếp lồi dạng cánh cung,
bị chia cắt mạnh bởi hệ thống sông suối, núi đồi trùng điệp và thung lũng sâu
tạo thành các kiểu địa hình khác nhau: Địa hình núi cao trung bình, địa hình
núi thấp và đồi thoải lượn sóng xen kẽ với các thung lũng, địa hình đồi bát úp
và các cánh đồng nhỏ hẹp. Độ dốc bình quân 26 đến 300, diện tích đồi núi
chiếm khoảng 90% tổng diện tích tự nhiên, diện tích tương đối bằng phẳng
chiếm khoảng 10%, đất nông nghiệp chủ yếu là ruộng bậc thang và các bãi
bồi dọc theo hệ thống sông suối.
Do địa hình phức tạp nên đã gây khó khăn không ít khó khăn cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp của bà con nơi đây. Nhất là nguồn nước phục vụ
cho sản xuất nông nghiệp, mùa khô gây ra hạn hán, mùa mưa gây ra ngập úng
cục bộ.
Khí hậu: Ngân Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, một
năm có hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng
5


11 đến tháng 4 năm sau.

Nhiệt độ trung bình hàng năm thấp 20,7 0C. Sự chênh lệch nhiệt độ
trung bình các tháng trong năm tương đối cao. Tháng nóng nhất trong năm là
tháng 7 nhiệt độ trung bình là 26,10 0C, thấp nhất là tháng 1 nhiệt độ trung
bình là 11,900C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối là 2 0C gây giá buốt ảnh hưởng rất
lớn đến cây trồng vật nuôi.
Lượng mưa trung bình năm là 1.248,2 mm, phân bố không đều giữa
các tháng trong năm, mưa tập trung vào các tháng 5,6,7,8; vào tháng 11 lượng
mưa không đáng kể, hàng năm trên địa bàn huyện xuất hiện mưa đá từ 1 đến
3 lần.
Độ ẩm không khí khá cao 83,0%, cao nhất vào các tháng 7, 8, 9, 10 từ
84 đến 86% thấp nhất là tháng 12 và tháng 1 năm sau. Nhìn chung độ ẩm
không khí trên địa bàn huyện không có sự chênh lệch nhiều giữa các tháng
trong năm.
Thủy văn: Chế độ gió trên địa bàn huyện xuất hiện hai hướng gió thịnh
hành là gió mùa Đông Bắc và gió mùa Đông Nam, tốc độ gió bình quân 1 đến
3m/s, tháng 4 vào giai đoạn chuyển mùa gió thổi cả ngày với vận tốc trung
bình từ 2 đến 3 m/s, thời kỳ chuyển từ mùa Hạ sang mùa Đông tốc độ gió yếu
nhất trong năm. Bão ít ảnh hưởng đến Ngân Sơn vì nằm sâu trong đất liền và
được che chắn bởi các dãy núi cao, lượng mưa trong năm không lớn nhưng lại
tập trung nên xảy ra tình trạng lũ lụt ở một số vùng.
Hệ thống thuỷ văn trên địa bàn huyện được phân bố khá dày đặc, song
hầu hết đều ngắn, lưu vực nhỏ, độ dốc dòng chảy lớn và có nhiều thác ghềnh.
Do cấu tạo địa hình cánh cung, dãy núi cao nên Ngân Sơn được coi là
ngôi nhà phân chia nước về các huyện trên địa bàn tỉnh nói riêng và các tỉnh
lân cận nói chung.
Sông Bằng Giang bắt nguồn từ dãy núi Khao Phan (Ngân Sơn) chảy
qua huyện Na Rì sang Lạng Sơn. Đoạn chảy qua huyện Ngân Sơn có chiều
dài 35km, rộng 50m đến 70m.
6



Nhìn chung hệ thống sông ngòi trên địa bàn được chi phối trực tiếp bởi
cấu tạo địa hình trên địa bàn huyện, về mùa mưa địa hình dốc lớn gây ảnh
hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt, gây xói mòn rửa trôi.
Chế độ thuỷ văn của huyện phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống sông ngòi,
hồ đập trong khu vực của huyện và khu vực phụ cận, một số hệ thống khe
suối thuộc khu vực thuợng nguồn (sông Bằng Giang). Sông có độ dốc dọc
thuỷ văn trung bình 4 đến 5%, suối trung bình 8 đến 10%. Khe nhỏ có độ dốc
dọc thuỷ văn càng lớn vì thế sau những trận mưa rào thường hay có lũ quét.
Tài nguyên thiên nhiên: Ngân Sơn nằm trong vùng địa chất có địa hình
phức tạp của tỉnh Bắc Kạn. Trên địa hình của tỉnh có bao nhiêu kiểu địa mạo
thì có bấy nhiêu kiểu kiến trúc địa chất, trong đó có cánh cung Ngân Sơn có
các loại Granít, phiến sét, thạch anh, đá vôi...
Phân bố các loại đất chính trên đại bàn huyện như sau:
Đất Feralít màu vàng nhạt trên núi trung bình(F H): Được phân bố trên
các đỉnh núi cao >700m, trên nền đá măcma axit kết tinh chua, đá trầm tích và
biến chất, hạt mịn, hạt thô....Tầng đất mỏng, đá nổi nhiều, đất ẩm và có tầng
thảm mục khá dày, ẩm, đá nổi dày.
Đất Feralít hình thành trên vùng đồi núi thấp (phát triển trên đá sa
thạch): Đặc điểm là tầng mỏng đến trung bình. Thành phần cơ giới nhẹ, màu
vàng đỏ. Thích hợp với cây trồng nông - lâm nghiệp.
Huyện Ngân Sơn có nguồn nước mặt ở lưu vực một số suối có nước
quanh năm, vào mùa khô lưu lượng nước ít hơn do độ dốc địa hình lớn (lưu
vực suối Lủng Sao - xã Bằng Vân). Một số suối chỉ có nước vào mùa mưa,
mùa khô hầu như không có. Vì vậy, khai thác nguồn nước cho sản xuất và
sinh hoạt cần phải có sự đầu tư lớn.
Còn nguồn nước ngầm thì do địa hình miền núi nên nước ngầm chỉ có
ở chân các hợp thuỷ và gần suối, mạch nước ngầm cách mặt đất khoảng từ 3
đến 3,5m, hình thức khai thác là dùng giếng khoan.
Huyện Ngân Sơn có diện tích rừng là đất Lâm nghiệp có 51.712,78 ha

7


(theo kết quả kiểm kê đất đai năm 2010), chiếm 80,06% diện tích tự nhiên của
huyện, trong đó:
Rừng sản xuất có 26.468,41 ha, chiếm 47,34% diện tích đất nông
nghiệp nghiệp.
Rừng phòng hộ có 25.244,37 ha, chiếm 45,15% diện tích đất nông
nghiệp.
Về trữ lượng gỗ: Tính bình quân chung diện tích rừng gỗ (tự nhiên núi
đất, núi đá, hỗn giao và rừng trồng) thì trữ lượng gỗ lớn đạt trên 45m 3/ha với
nhiều loại gỗ quý nhóm I, II, III... đối với rừng tre nứa hỗn giao đã cung cấp
vật liệu cho xây dựng và nguyên liệu giấy.
Ngoài ra Ngân Sơn còn có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú
như: Đất sét ở Bằng Khẩu xã Bằng Vân. Đá vôi ở Lũng Phải xã Bằng Vân,
Khuổi Khâu xã Thượng Quan.
Quặng sắt ở: Lũng Viền xã Cốc Đán trữ lượng 1.000.000 tấn. Nà Nọi
thị trấn Nà Phặc trữ lượng 700.000 tấn. Lùm Lếch xã Lãng Ngâm trữ lượng
100.000 tấn. Bản Kít xã Thượng Ân trữ lượng 500.000 tấn.
Quặng Chì Kẽm ở: Tôm Tiên xã Trung Hoà. Phía Đén, Nà Đeng, Bản
Phiêu, Đèo Gió (trữ lượng 150.000 tấn), Cốc Sấu, Phương Sơn xã Vân Tùng.
Phúc Sơn xã Thượng Quan. Cốc Phay (trữ lượng 2.000 tấn) thị trấn Nà Phặc.
Nà Diếu (trữ lượng 2.000 tấn) xã Thượng Quan.
Quặng Vàng ở: Bó Va (trữ lượng 1.280kg), Đông Tiot, Bản Đăm, Pắc
Lạng (20.000kg), Bằng Khẩu (trữ lượng 110kg) xã Bằng Vân.
1.1.2. Khái quát về điều kiện kinh tế xã hội
Do địa hình núi cao và sâu nên việc giao lưu buôn bán giữa các huyện
và xã giáp danh còn nhiều hạn chế.
Nhân dân các thôn khu có 80% sống chủ yếu bằng nghề nông, ngoài ra
một số ít bộ phận nhân dân sống bằng nghề kinh doanh dịch vụ và các ngành

nghề khác. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là lúa, ngô. Những năm gần đây,
huyện đã chú trọng thực hiện tốt công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật
8


nuôi để xóa đói, giảm nghèo. Với nhiều chương trình hỗ trợ như chương trình
134, 135, hỗ trợ giống, phân bón; vận động người dân thâm canh tăng
vụ… Từ thu hoạch các cây trồng vụ xuân, vụ mùa, nhiều gia đình ở đây
không những thoát nghèo, mà còn sớm ổn định về kinh tế và có cuộc sống tốt
hơn.
Cây lúa, ngô chủ yếu sử dụng giống lai năng suất cao. Trong đó, sản
lượng các cây trồng vụ xuân đạt 362,11 tấn; cây ngô mùa đạt 489,326 tấn.
Cùng với việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, các mô hình chăn nuôi lợn, nuôi
ngựa bạch cũng được nhiều gia đình thực hiện và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay, toàn xã có tổng đàn gia súc gần 4.000 con, trong đó ngựa trên 175
con; lợn 2.696 con. Với việc tích cực thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng,
vật nuôi, đời sống của người dân đã dần ổn định, thu nhập bình quân đầu
người năm sau cao hơn năm trước, tỷ lệ hộ nghèo ngày một giảm, hiện nay tỷ
lệ hộ nghèo trên toàn xã chỉ còn chiếm trên 10% nhiều hạn chế.
Cây thuốc lá là cây truyền thống, nhân dân đã có kinh nghiệm gieo
trồng từ hơn 30 năm nay. Với nguồn nhân lực dồi dào, có đất phù hợp cho
việc trồng cây thuốc lá kể cả vườn tạp và soi bãi. Chủ trương phát triển cây
thuốc lá được Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân và một số ban ngành trong tỉnh ủng
hộ và định hướng chỉ đạo.
Cơ sở hạ tầng nông thôn như hệ thống đường giao thông được xây
dựng, nâng cấp tạo điều kiện cho nhân dân đi lại, mua bán sản phẩm, hàng
hoá; các công trình thuỷ lợi được đầu tư xây dựng, sửa chữa đã chủ động tưới
trên 52% diện tích đất ruộng. Cơ bản diện tích đất nông nghiệp các thôn vùng
thấp được cơ khí hoá.
1.1.3. Khái quát về điều kiện văn hóa

Huyện Ngân Sơn chủ yếu là bà con các tộc người Nùng, Tày, Dao. Bà
con dân tộc Dao đa số thuộc nhóm Dao Tiền, sống rải rác các vùng núi cao,
cuộc sống chủ yếu tự cung tự cấp, khép kín, ít giao du với bên ngoài, họ giao
tiếp bằng tiếng dân tộc của mình hoặc tiếng Tày. Đời sống văn hoá đều được
9


người dân quan tâm phát triển, gìn giữ bản sắc văn hoá của từng làng quê.
Lĩnh vực văn hoá - xã hội của huyện có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được nâng lên đáng kể. Các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, các ngày lễ lớn được tổ chức chu đáo,
trọng thể. Vào ngày 15 tháng giêng âm lịch hàng năm, Ngân Sơn có lễ hội
Lồng Tồng. Trong lễ hội có nhiều trò chơi dân gian như: Múa kèn, thổi sáo,
tung còn, trai gái hát giao duyên.
1.2. Khái quát về tộc người Dao Tiền ở huyện Ngân Sơn – Bắc Kạn
1.2.1. Tên gọi, lịch sử cư trú
Tộc người Dao tên tự gọi là Kìm Miền, Kìm Mùn (người rừng).Ngoài
ra họ còn có tên gọi khác là Mán, Đông, Trại, Dìu Miền, Lù Gang, Làn Tẻn,
Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu.
Hiện nay, trên địa bàn huyện có 3 nhóm Dao chính: Nhóm Đại Bản
gồm có: ngành Dao Đỏ, Thanh Phán; nhóm Tiểu Bản đồng bào tự nhận là Du
Tồn, người Tày gọi là Cần Téo Chèn, người Kinh gọi là Dao Tiền; Nhóm
Thanh Bạch Làn, nhóm này có nhiều tên gọi khác nhau như: Thanh Y, Quần
Trắng, Dao Tuyển, Dao áo dài... bản thân đồng bào tự gọi là Kìm Nhùn.
Tên gọi tộc người Dao Tiền là cách nói tắt của cụm từ “Lui chìn miền”
trong tiếng Dao cổ: “Lui” là áo, “chìn” là tiền và “miền” là người. Lui chìn
miền nghĩa là người mặc áo đeo tiền, bởi áo dài truyền thống của tộcngười
Dao Tiền có đeo một chùm tiền (Tiền kim khí ở phía sau, dưới gáy).
Ngôn ngữ: Tộc người Dao nói chung và tộc người Dao Tiền nói riêng
đều thuộc ngữ hệ Hmông - Dao.

Lịch sử cư trú: Tộc người Dao có nguồn gốc từ Trung Quốc, việc
chuyển cư sang Việt Nam kéo dài suốt từ thế kỷ XII, XIII cho đến nửa đầu thế
kỷ XX. Họ tự nhận mình là con cháu của Bản Hồ (Bàn vương), một nhân vật
huyền thoại rất phổ biến và thiêng liêng ở tộc người Dao. Tộc người Dao ở
Việt Nam, cư trú rải rác khắp vùng rừng núi từ biên giới Việt - Trung, Việt Lào cho tới một số tỉnh trung du và miền biển Bắc Bộ. Bắc Kạn là một trong
10


những tỉnh có đông tộc người Dao sinh sống.
1.2.2. Dân số và sự phân bố dân cư
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, tộc người Dao ở Việt
Nam có dân số 751.067 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Tộc người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang 109.708 người, chiếm tỷ
lệ 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số tộc người Dao tại Việt Nam; tỉnh
Tuyên Quang 90.618 người, chiếm tỷ lệ 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1%
tổng số tộc người Dao tại Việt Nam; tỉnh Lào Cai 88.379 người, chiếm tỷ lệ
14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số tộc người Dao tại Việt Nam; tỉnh
Yên Bái 83.888 người, chiếm tỷ lệ 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số
tộc người Dao tại Việt Nam; tỉnh Quảng Ninh 59.156 người, chiếm tỷ lệ 5,2%
dân số toàn tỉnh; tỉnh Bắc Kạn 51.801 người, chiếm tỷ lệ 17,6% dân số toàn
tỉnh; tỉnh Cao Bằng 51.124 người, chiếm tỷ lệ 10,1% dân số toàn tỉnh; tỉnh
Lai Châu 48.745 người, chiếm tỷ lệ 13,2% dân số toàn tỉnh; tỉnh Lạng Sơn
25.666 người; tỉnh Thái Nguyên 25.360 người...
Tộc người Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt - Trung, Việt - Lào và ở
một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các
tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình…
Là một trong 54 cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trải qua các thời kỳ
lịch sử dựng nước và giữ nước, tộc người Dao luôn luôn thể hiện là một dân
tộc chung thủy sắt son, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chia với các dân tộc

anh em, luôn luôn sống hòa đồng, tôn trọng phong tục, tập quán, văn hóa của
các dân tộc anh em. Tộc người Dao là một tộc người bé nhỏ, trước đây luôn
luôn phải lùi bước và tránh xa những tộc người đông hơn và hung dữ hơn để
tồn tại. Đến thời kỳ xã hội có vua, dù là xã hội đã có pháp luật và có vua
chung nhưng vua là người tộc khác, tộc người Dao là một tộc người bé nhỏ...
thì họ vẫn phải luôn luôn lùi bước, chịu thua thiệt trong mỗi cuộc tranh chấp
để tồn tại, thậm chí là phải di cư rất xa, tránh những tộc người đông, hung
11


ác...thì mới sống nổi. Điều này giải thích tại sao tộc người Dao nói chung và
tộc người Dao Tiền nói riêng trước đây luôn cư trú trên núi cao, xa đường cái,
xa chợ, xa thành phố.
1.2.3. Khái quát về đời sống kinh tế xã hội
Tộc người Dao Tiền ở đây sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nương
và ruộng nước. Cây lương thực chính là lúa, ngô, các loại rau màu quan trọng
như bầu, bí, khoai... Họ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà ở vùng lưng chừng núi và
ở vùng cao còn nuôi ngựa, dê. Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến, họ ưa dùng
vải nhuộm chàm. Ngoài lúa họ còn trồng màu. Nông cụ sản xuất thô sơ nhưng
kỹ thuật canh tác đã có nhiều tiến bộ.
Về nghề thủ công: Nghề trồng bông, dệt vải phổ biến, (tộc người Dao
ưa dùng vải nhuộm chàm). Một số nghề thủ công đã phát triển như dệt vải,
rèn, mộc, làm giấy, ép dầu. Tộc người Dao Tiền ở đây còn giữ được nghề làm
giấy bản. Giấy bản dùng để chép sách cúng, sách truyện, sách hát hay dùng
cho các lễ cúng như viết sớ, tiền ma. Nhiều nơi có nghề ép dầu thắp sáng hay
dầu ăn, nghề làm đường mật... Nghề thợ bạc là nghề gia truyền, chủ yếu là
làm đồ trang sức. Và hầu hết các xóm đều có nghề rèn để sản xuất nông cụ.
1.2.4. Khái quát về đời sống văn hóa
Cũng như các tộc người anh em khác, tộc người Dao Tiền ở đây có các
hoạt động văn hoá tinh thần độc đáo và phong phú. Dân ca, dân vũ của tộc

người Dao Tiền phong phú về số lượng và nội dung, phản ánh kinh nghiệm
sản xuất, dự báo thời tiết, phép ứng xử trong xã hội, đề cao đạo đức, lẽ sống
làm người, tình yêu quê hương, đôi lứa. Hát đối đáp nam nữ đã có vợ có
chồng, nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi cảnh
đẹp thiên nhiên, hỏi thăm sức khoẻ, thăm công việc đồng áng. Một thể loại
nữa cũng cần phải nói đến đó là "Páo dung hộp tíu" - hát uống rượu, tức là khi
uống rượu vui vẻ thì đồng bào ca hát với nhau. Dân ca Dao còn có thể loại hát
ru con gọi là “Háo ton” hay “lồ xấy”. Cùng với các làn điệu dân ca, tộc người
Dao còn có các điệu dân vũ phong phú và đặc sắc, chủ yếu gắn liền với nghi
12


lễ, tôn giáo.
Về tín ngưỡng dân gian: Có các phong tục tập quán mang màu sắc tín
ngưỡng, những phong tục tập quán mang đậm nét văn hóa như: tục chăng dây,
hát đối đáp, nghi lễ chọn đất khi làm nhà mới, nghi lễ cấp sắc cho người
trưởng thành...
Lễ cấp sắc (còn gọi là lễ phong sắc, tự cải) là một trong những nghi lễ
độc đáo của tộc người Dao nói chung và tộc người Dao Tiền nói riêng. Các
điều giáo huấn được thực hiện bằng lời thề dưới sự chứng kiến của tổ tiên và
các quan âm binh nên tính giáo dục càng có giá trị. Họ quan niệm rằng, người
đã trải qua lễ cấp sắc mới có tâm, có đức, mới biết lẽ phải trái ở đời, hướng
tới việc thiện, không làm điều ác và mới được công nhận là con cháu của Bàn
Vương. Lễ cấp sắc có mục đích là chuyển từ giai đoạn trẻ con lên người đàn
ông trưởng thành. Người đàn ông cao tuổi mà chưa trải qua lễ cấp sắc thì
cũng bị coi như chưa trưởng thành. Ngược lại, dù còn ít tuổi nhưng đã trải qua
lễ cấp sắc thì người đó được phép tham dự bàn bạc những công việc của làng
bản, dòng họ… Lễ Cấp sắc thường được tổ chức vào tháng 11, tháng 12 hoặc
tháng Giêng hàng năm, vì đây là thời gian nhàn rỗi. Ngày thụ lễ được lựa
chọn rất kĩ, tộc người Dao Đỏ, Dao Tiền thường làm lễ cấp sắc từ độ tuổi 12

đến 30, trong khi đó ở tộc người Dao Áo Dài là 11 đến 19 tuổi.
Về văn học: Tộc người Dao để lại cho nền văn học những tác phẩm có
giá trị. Đặc biệt là 23 truyện thơ như: "Hàn Bằng", "Đàm Thanh", "Bát
Nương", "Lâu Cảnh", "Trạng Nghèo", "Đô Nương truyện", "Đặng Nguyên
Huyện truyện", "Bá Giai truyện", "Thần sắt ca"... Trong số đó, truyện thơ kể
về hành trình tìm đất vất vả của tộc người Dao chiếm số lượng nhiều hơn cả.
Bên cạnh đó, tộc người Dao còn có kho tàng tri thức dân gian vô cùng phong
phú, đặc biệt là y học cổ truyền.

13


Chương 2: Trang phục truyền thống phụ nữ tộc người Dao Tiền
ở Ngân Sơn – Bắc Kạn
2.1. Quan niệm về trang phục truyền thống [A1 - trang 36]
Trang phục là một trong những giá trị văn hóa giúp ta dễ dàng phân biệt
sắc thái giữa các vùng miền trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Theo từng điều kiện thiên nhiên và xã hội; mỗi tộc người hình thành
vùng nguyên liệu, chất liệu khác nhau để có những quy trình sản xuất khác
nhau tạo ra sự khác nhau trong trang phục của con người. Cũng từ sự khác
biệt đó, mỗi tộc người có hình thức dệt nhuộm, may thêu, trang trí riêng, hình
thành tâm lý sử dụng, truyền thống thẩm mỹ riêng với trang phục truyền
thống của mình.
Ngay trong một cộng đồng tộc người cũng đã hình thành những quy
ước riêng về mặc phù hợp với vị trí xã hội, lứa tuổi, giới tính với hoàn cảnh
cụ thể khi giao tiếp, ứng xử trong đó có yếu tố tôn giáo, tín ngưỡng và nghề
nghiệp. Trang phục trở thành yếu tố nổi trội dễ nhận biết nhất của văn hóa,
bản sắc dân tộc, đặc điểm của dân cư, của vùng miền cư trú. Từ đó trang phục
được xem một trong những thành tố quan trọng cấu tạo nên tổng thể văn hóa
tộc người. Trang phục truyền thống phản ánh được nhiều lĩnh vực của đời

sống kinh tế, văn hóa, xã hội cũng như tính đa dạng, đặc sắc của từng cộng
đồng, dân tộc.
Tộc người Dao Tiền là một trong những tộc người rất tự hào về trang
phục truyền thống của mình. Họ quan niệm trang phục là bản sắc văn hóa
vùng miền, tiếng nói riêng biệt của tộc người mình, mang ý nghĩa lịch sử cội
nguồn, giá trị tinh thần, giá trị bản sắc con người Dao Tiền. Đặc biệt người
Dao Tiền quan niệm rằng mặc bộ trang phục truyền thống có thêu hình con
chó cách điệu và hoa tám cánh khi đi rừng sẽ không bị hổ vồ và gặp nhiều
may mắn. Và họ cũng luôn mặc trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội,
đi chợ, đi nương… Trong ngày hội, ngày chợ chị em phụ nữ Dao Tiền rất
duyên dáng, nhã nhặn trong trang phục truyền thống giữa núi rừng.
14


Trang phục truyền thống của phụ nữ tộc người Dao Tiền rất cầu kì, tinh
tế nhưng phù hợp với tập quán và tập quán lao động sản xuất của mình. Khác
với tộc người Dao Đỏ hoạ tiết trong trang phục chủ yếu là màu đỏ thì tộc
người Dao Tiền - Bắc Kạn màu sắc chủ đạo trong trang phục là màu chàm và
màu trắng rất tinh tế nhưng nhã nhặn, hài hoà.
Tộc người Dao rất coi trọng chuyện ăn mặc, ngay cả trẻ nhỏ đã được
bố mẹ mặc cho những trang phục truyền thống. Theo phong tục tộc người
Dao, con gái trước khi lấy chồng phải biết thêu thùa, may vá để tự tay dệt váy
cưới cho mình. Vì vậy, ngay từ khi còn nhỏ các thiếu nữ được bà, mẹ dạy
cách thêu thùa, từ những công đoạn giản đơn đến phức tạp, từ những chi tiết
nhỏ đến cách nhuộm lại tấm áo chàm cho mới; tự tay thêu, may những bộ
quần áo của mình để mặc lúc ở nhà, đi chợ, đám cưới, lên nương, chơi hội
xuân. Vì kỹ thuật làm được một bộ trang phục rất cầu kì và trải qua nhiều
công đoạn, một bộ trang phục của họ phải mất khoảng 15 ngày mới may
xong. Chính vì vậy, họ luôn có ý thức giữ gìn nét truyền thống bắt đầu từ
những trang phục cầu kì của mình.

2.2. Quá trình chuẩn bị làm ra trang phục [A2 – trang 36; A3 trang 37]
2.2.1. Nguyên liệu
Để làm ra một bộ trang phục truyền thống của phụ nữ tộc người Dao
Tiền cần phải trải qua rất nhiều thời gian và công đoạn. Tranh thủ những lúc
nhàn rỗi phụ nữ Dao Tiền ép hạt, bật bông, se sợi, dệt vải, tự may trang phục
cho mình và cho người thân. Người phụ nữ thường đảm nhiệm tất cả các công
đoạn này.
Từ công đoạn làm ra một tấm vải diềm bâu: từ việc trồng bông, thu
hoạch bông, chọn bông, cán bông, bật bông, kéo sợi, luộc và hồ sợi, bước
cuối là dệt bằng khung sợi. Khi lấy được bông họ đun qua nước sôi, ngâm vào
nước lạnh rồi vớt ra đùm thành con.
Trang phục của phụ nữ tộc người Dao Tiền chủ yếu thêu trên áo, phần
15


váy họ vẽ sáp ong. Vì thế công đoạn chấm in sáp ong là công đoạn không chỉ
đòi hỏi sự khéo léo của bàn tay phụ nữ, sự sắc sảo và cả sự thông minh mà
hơn thế nữa nó còn thể hiện tính kiên nhẫn, sự cần cù của họ. Để tạo hoa văn
trước tiên người ta dùng dụng cụ vẽ. Đó là chiếc bút gắn ngòi đồng nhưng
cũng có khi chỉ là những chiếc que tre bẻ thành hình tam giác. Loại to để tỉa
tót hoa lá, loại vừa chuyên vẽ hình vuông, hình tròn chim, ốc. Và bộ dụng cụ
in sáp ong rất đơn giản gồm có từ 2 đến 7 cái bút vẽ hình chữ T gắn ngòi đồng
có kích cỡ khác nhau, vài cái khung hình tam giác làm bằng tre hoặc nứa kể
in các đoạn thẳng và góc. Dùng các ống tre có đường kính to nhỏ khác nhau
từ 1,5cm đến 2cm để in các hình tròn, một vài lá chít được ép phẳng dùng làm
cữ. Một chiếc nanh lợn rừng, một phiến đá dùng để miết vải cho nhẵn. Sáp
ong cho vào nồi đun chảy thành nước sau đó lọc thật kỹ cho hết tạp chất. Sáp
phải có độ loãng cần thiết mới in được, nếu loãng quá khi in hoa văn hay bị
nhoè, đặc quá thì sáp ong không ăn vào vải. Sau khi nấu chảy sáp ong họ sẽ
nhúng đầu bút vẽ hoa văn lên vải. Vẽ xong đem tấm vải đó đi nhuộm chàm và

khi các công đoạn nhuộm chàm hoàn tất họ đem ngâm vào nước nóng để sáp
tan ra. Những chỗ trước đây có vẽ sáp ong không nhuốm chàm nên chỉ để lại
một màu xanh lơ hài hoà đẹp mắt.
Công đoạn nhuộm chàm, có thể nói đây là công đoạn khá vất vả và cần
nhiều thời gian, sự tỉ mỉ và đòi hỏi đến tính kiên nhẫn của người phụ nữ Dao
Tiền. Chàm trồng trên nương vào tháng hai, tháng ba, đến tháng sáu tháng bảy
âm lịch thì thu hoạch được. Cây chàm được cắt thành từng bó đem về ngâm
vào chum, vại, khi lá chàm nát ngấm thì vớt ra bỏ bã, nước chàm được lọc kỹ
qua một cái rá đựng chấu, sau đó cho vôi bột vào nước rồi khuấy thật đều, cho
nhiều hay ít vôi tuỳ thuộc vào lượng nước chàm. Ngoài vôi còn có tro bếp, tro
được đựng trong một cái rổ có lót lá chuối, đổ nước vào chảy xuống cái chum
nhỏ, dung dịch này để từ 3 đến 5 ngày rồi trộn với nước vôi ngâm chàm và để
lắng, khi nào thấy nước trên mặt có mầu nâu nhạt thì gạn đi để lấy phần chàm
và vôi lắng ở dưới chum, đó chính là cao chàm.
16


Khi nhuộm vải, lấy cao chàm hòa với nước đun với lá ngải cứu để
nguội pha thêm ít nước tro vào rượu rồi khuấy đều. Khi đã pha xong muốn
thử phải lấy tay nhúng vào nước chàm, thấy da có mầu xanh chàm là được.
Người Dao Tiền thường nhuộm chàm vào tháng 7 đến 8, vì thời gian này trời
nắng nhiều vải mau khô và bắt mầu tốt.
Trước khi nhuộm phải ngâm giặt cho thật kỹ để vải hết hồ mới dễ bắt
màu và khi sử dụng không bị loang lổ. Khi nhuộm cho vải chìm ngập trong
nước chàm, dùng tay hoặc chân đạp thật kỹ cho vải thấm đều, công đoạn phải
làm thật nhiều lần (ngày phơi nắng, đêm ngâm chàm) nhằm tạo ra sản phẩm
đạt chất lượng cao có màu sắc xanh sẫm. Đây cũng là công đoạn cuối cùng
trong kỹ thuật chế biến và nhuộm chàm của người Dao Tiền.
Về dụng cụ phục vụ cho việc sản xuất trang phục của tộc người Dao
hầu như đều là các dụng cụ do tộc người tự làm, vật liệu để làm ra các dụng

cụ đó cũng là những vật liệu xung quanh cuộc sống của họ, thường là: gỗ, tre,
nứa, lá chít… Dụng cụ chủ yếu giúp hoàn thành trang phục là chiếc khung dệt
- vật cần thiết trong mỗi gia đình tộc người Dao. Chỉ với hai thoi sợi chính,
phụ nữ Dao Tiền dệt thành những mảnh vải vuông khoảng 30 đến 40cm một
chiều. Và các dụng cụ khác như khung cửi, cán để bật bông, khung kéo sợ,
khung hình tam giác, lá chít. Tất cả các dụng cụ đều được bàn tay con người
tự chế tạo, được đúc kết từ hàng trăm năm kinh nghiệm, từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Mỗi gia đình có một bí quyết riêng trong việc gia giảm các thành phần
tạo vải, trong việc điều khiển các công cụ sản xuất, trong thời gian sản xuất.
Mỗi tấm vải do đó vừa là kết tinh lao động của từng gia đình, vừa thể hiện sự
tôn trọng truyền thống. Vất vả đến mấy tộc người Dao Tiền xưa cũng phải tự
tay mình làm ra vải may trang phục. Và trang phục do đó chính là một phần
thể hiện bản sắc con người họ, tộc người họ.
Có thể nói, từ những công việc tỉ mỉ và đầy công phu này, người ta có
thể nhận thấy giá trị vật chất, giá trị lao động, giá trị cha truyền con nối của
17


một tộc người đã từng sống trong vòng “tự cung tự cấp” và tự hào về truyền
thống ấy. Với sự cầu kỳ trong khâu vá và lấy màu chàm đen, màu đỏ làm chủ
đạo, trang phục của những người phụ nữ dân tộc Dao Tiền tạo nên nét rêng
trong trang phục đặc sắc của 54 dân tộc Việt Nam.
2.2.2. Họa tiết hoa văn [A4 - trang 37]
Hoa văn dân tộc là một di sản văn hóa truyền thống độc đáo mang đặc
trưng riêng rất dễ nhận biết của mỗi tộc người. Hoa văn trang trí dân tộc là
sản phẩm vật chất của lao động, đồng thời cũng là sản phẩm văn hóa, là biểu
hiện sinh động của kỹ thuật thủ công gắn liền với khả năng thẩm mỹ. Mỗi tộc
người có cách tạo hình trang trí và sử dụng trang phục theo những đặc điểm
văn hóa riêng của mình. Đó là sự thể hiện một trình độ tay nghề tài khéo, một

đời sống tâm hồn phong phú, giàu chất mỹ cảm nguyên sơ, một năng lực biểu
tượng hóa các huyền thoại của dân tộc, biểu tượng hóa dòng lịch sử của dân
tộc mà vẫn không tách biệt khỏi cuộc sống đời thường.
Khác với trang phục Dao Đỏ, trang phục truyền thống của tộc người
Dao Tiền lấy 2 màu sắc chủ đạo là chàm và đen để trang trí. Đây là hai màu
sắc tinh tế, nhã nhặn và hài hòa, khi kết hợp với hoa văn trên vải, tạo nên một
bộ trang phục độc đáo và khác biệt.
Cách thêu hoa văn của tộc người Dao Tiền khá đặc biệt, từ đôi bàn tay
khéo léo của người phụ nữ Dao tiền, những sợ cây đay, lanh ẩn mình trong
rừng chỉ sau một thời gian đã tạo ra những tấm thổ cẩm bền đẹp, may thành
những khăn, váy, áo lộng lẫy. Tộc người Dao tiền với bí quyết dùng sáp ong
để đo độ chính xác, sau đó mới in hoa hoa văn lên trang phục khiến cho tấm
thổ cẩm tinh tế mà rực rỡ, bền đẹp. Họ tính toán rất cẩn thận số lượng sợi dệt,
nên khi thêu, các hoa văn rất chính xác. Họ không thêu đè lên các sợi vải mà
luồn chỉ theo mắt sợi, thêu ở mặt trái nhưng các họa tiết lại nổi lên mặt phải
của vải.
Hầu hết phụ nữ đều có những mẫu thêu truyền thống rất tinh xảo,
thường là hình sao tám cánh, hình chữ thập, ngoặc đơn, ngoặc kép; hoa văn
18


hình gà, con nai, con chó, chim và hoa lá… Màu sắc hoa văn họ ưa dùng là
màu đen và trắng. Trong các sản phẩm thêu, thêu lâu và khó nhất là bộ quần
áo tộc người Dao, thêu liên tục trong vòng một năm mới xong; còn thêu cái
quấn chân cũng mất gần 2 tháng mới hoàn thành.
Trên áo tộc người Dao Tiền nhất thiết phải thêu các hoa văn hình trám,
hình con chó, hình nhện và hoa (thêu ở 2 bên phía sau) cũng là đặc điểm riêng
của trang phục. Các hình thêu chó, nhện là cả câu chuyện dài của dân tộc Dao
Tiền.
Truyền thuyết xưa kể lại rằng: Xưa kia có ông vua của tộc người Dao

không có con trai mà chỉ sinh được 12 người con gái. Một ngày kia giặc sang
xâm lược, vua liền truyền rằng ai đánh thắng giặc vua sẽ gả cả cho 12 cô con
gái, và vua cầu khấn trời để xin. Một buổi chiều xuất hiện 1 con Long khuyển
ngũ sắc, là con chó mình rồng, 5 màu có 12 chiếc đuôi, chạy đến xin vua cho
đánh giặc. Khi giặc đến thấy con chó lạ mắt liền bắt về nuôi, nó ngoan ngoãn
theo về, đợi khi giặc ngủ say liền cắn cổ cho bọn giặc chết hết. Con chó trở
về, theo đúng lời hứa, vua liền gả các con gái cho con chó và con chó được
vua truyền ngôi báu. Để nhớ ơn con chó đã có công dẹp giặc cứu dân tộc nên
đồng bào đã thêu hình con chó và 4 chiếc chân chó ở sau áo.
Tộc người Dao Tiền còn có truyền thuyết khác về con chó: Theo truyền
thuyết, Bàn Vương là con chó thần, vị tổ của người Dao nên phải nhớ đến,
phải có hình ảnh trên vạt áo của từng người.
Ngoài ra, đồng bào tộc người Dao Tiền còn có một thuyết khác về hình
con nhện: Xưa kia khi tộc người Dao mới biết mặc quần áo thì cả đồng tộc bị
đại dịch, do ăn phải phấn của con bướm trắng, bị chết rất nhiều, sau đó có
người lấy con nhện đem nướng cháy hòa nước uống và khỏi bệnh, từ đó để
nhớ ơn con nhện đã có công cứu tộc người nên họ thêu hình con nhện lên áo.
Và từ đó, khi dệt vải, may áo, phụ nữ Dao Tiền cũng thêu một bức
tranh mang hình nhiều con chó hoặc con nhện ở vạt áo phía sau. Có trang
phục thuê tới 16 con chó, mỗi con một dáng vẻ sinh động. Trên một vùng vải
19


trang trí nhỏ, con thì châu đầu vào nhau như tâm tình thủ thỉ, con thì ngoảnh
mặt ra bốn phía quan sát. Bức tranh này thể hiện ý thức cội nguồn và là một
minh chứng cho tài năng sáng tạo của phụ nữ Dao Tiền về tài thêu thùa, trang
trí.
Vì vậy trang phục của mỗi người phụ nữ thể hiện sự tinh tế và khéo léo
khác nhau. Qua cách thêu thùa, may vá, người đàn ông cũng đánh giá sự khéo
léo của các cô gái để chọn vợ.

Hoa văn trên áo thường ngày: Phía sau dưới gáy áo thêu hình “Chồng
nhài” (hình tam giác có nhiều tua rua), hình “tà ngao” màu trắng có hình móc
cong cong, và các hình đường diềm thẳng; phía trước(tà áo) thêu hình con chó
đơn và các đường diềm đường thẳng nhiều màu, gấu áo thêu hình các con chó
đơn, chó đôi, hay hình “chồng nhài”, hình 6 chiếc thuyền, trên vai thêu hình
chữ thập ngoặc (hay còn gọi là chữ vạn).
Hoa văn trên áo hành lễ: Phía sau sống lưng thêu hình xương cá, hai
bên mép áo thêu họa tiết con chó đơn, tà sau trên gấu áo thêu hình “mò nzhoi”
(tức hình tượng tượng trưng cho mặt trời), dưới nữa là hình vuông hình tượng
của sao tám cánh, hình “zhằng lám Ngàn” (một hình 3 tam giác đặt lên đỉnh 6
chiếc thuyền, làm cho hoa văn trở nên cân đối hơn, phong phú hơn) và hình
chữ thập ngoặc (hình hai chữ ss ngược đan xen nhau), phía trước (tà áo) thêu
ít hoa văn hơn, gấu thêu hình con chó, chữ thập ngoặc, còn trên vai thêu hình
xương cá. Áo thường ngày có gắn cúc bạc, áo hành lễ không cần gắn cúc vì
khi mặc bao giờ cũng mặc phía ngoài của áo thường ngày nên đã có cúc bạc
của áo phía trong lộ ra.
2.3. Trang phục truyền thống của phụ nữ tộc người Dao Tiền ở
Ngân Sơn – Bắc Kạn
2.3.1. Trang phục trong sinh hoạt và lao động thường ngày [A5; A6 trang 38; A7; A8 - 39trang ; A11; A12 - trang 41]
Trang phục thường ngày gồm: Khăn vấn đầu (xì miền miên), Khăn
quàng cổ (Miên chi chống), Áo (lui), Váy (chùn), Yếm (lui ton), Thắt lưng
20


(Lui xin), Xà cạp (Lùi penh).
Trong các nhóm tộc người Dao, chỉ riêng có tộc người Dao Tiền là mặc
váy, và ở mỗi vùng miền thì lại có sự khác biệt.Ở phía bắc thì tộc người Dao
Tiền mặc váy dài hơn ở phía nam.
Khăn vấn đầu của phụ nữ Dao Tiền có 3 loại khăn: khăn vuông, khăn
chữ nhật và khăn dài, có màu trắng dài khoảng 1,2m đến 1,5m và rộng

khoảng 30 đến 40cm. Hai đầu khăn có hai mảng hoa văn hình vuông. Khăn
vấn đầu thường ngày có màu đen, làm bằng vải thô nhuộm chàm, phần giữa
của khăn chiếm tới 80% là màu đen, hai đầu khăn thêu hoa và đính hạt cườm
màu sắc sặc sỡ. Khi đội khăn, hai đuôi tai khăn vắt chéo qua trán, kín gáy và
gần kín hai tai, tạo thành hai mũi nhọn nhỏ ở hai bên thái dương và một hình
chữ bát ở trước trán, hai đuôi khăn buông xuống sau lưng. Về màu sắc của
khăn vấn đầu, có ý kiến cho rằng, nhóm tộc người Dao này di cư trong lúc
chưa cất tang Bàn Vương, cho nên khăn được quy định màu là màu chàm và
trắng, hoa văn hình vuông ở 2 đầu khăn chính là hình biểu tượng của Bàn
Vương. Qua đây ta cũng thấy, tộc người Dao sùng kính tổ tiên của mình, để
tang tổ tiên của mình và tìm cách mang theo hình tổ tiên của mình đi theo
trong công cuộc di cư lịch sử.
Khăn quàng cổ là một tấm vải trắng được thường có chiều dài dài hơn
khăn vấn đầu, được trang trí rất tỉ mỉ và công phu.
Phụ nữ tộc người Dao Tiền thường mặc kiểu dáng áo không cổ, 4 thân,
xẻ ngực, xẻ tà khoảng 30cm, gồm 5 cúc, 1 cúc bạc tô và 4 cúc bạc nhỏ, là
dạng khuy, cúc giả. Xung quanh mép gấu áo thêu chỉ mầu, tà sau lưng cố 4
đến 5 viền chỉ các màu trắng, xanh, hồng và trong cùng là hoa văn, 2 tà trước
phần thêu ở gấu áo luôn ít hơn tà sau 1 viền chỉ trắng, cổ tay áo cũng thêu các
viền chỉ màu trắng, xanh, đỏ. Thân áo dài của phụ nữ Dao thường được hình
thành từ hai khổ vải được gấp đôi lại. Hai thân trước để rời, có nẹp từ cổ áo
xuống tới chỗ xẻ tà. Tay áo được khâu theo dạng tay ống, cửa tay được thêu
như ở nẹp ngực. Ở cổ áo, thân sau được đeo một số đồng bạc thường từ 6 đến
21


12 đồng.
Váy của phụ nữ Dao Tiền có màu chàm với đặc điểm chỉ dài quá đầu
gối một chút và váy được thiết kế với độ xòe khá rộng. Cạp váy dạng lá tọa
rời thêu dây để buộc giữ chắc váy. Để thích hợp với cuộc sống hàng ngày phải

trèo núi, đi nương, góc mở của váy khá rộng. Trên váy, phần trang trí tập
trung kín trên váy, hoa văn váy lại in bằng công nghệ của nghệ thuật batik, tức
là dùng sáp ong nóng chảy chấm hình trên nển vải trắng rồi mới đem nhuộm
chàm.
Để trang phục kín đáo hơn phụ nữ tộc người Dao Tiền còn có một chiếc
yếm nhỏ che kín cổ và ngực. Yếm là một vuông vải trắng có táp một miếng
vải chàm hình tam giác để làm cổ yếm, hai góc đính dây vải để buộc và không
trang trí hoa văn ở chiếc yếm này.
Lui xin (tức thắt lưng) trong tiếng Dao không có ý nghĩa là cái để giữ
cho quần hoặc váy khỏi tụt mà là cái để cuốn, để thắt phần thân, phần lưng
như một phần trang trí. Thắt lưng của tộc người Dao không phải được cắt ra
từ một miếng vải rồi thêu vào đó mà nó được dệt riêng. Người ta dệt một tấm
vải bằng những sợi chỉ to, sáng mầu, rộng chừng 3cm, dài chừng 3m, hai đầu
để tua rua. Do đó thắt lưng có chiều dài 3m, rộng 3cm. Khi dùng, người ta
quấn nhiều vòng đến khi gần hết vải, quanh bụng một vài vòng rồi gài hai đầu
thắt lưng ra phía trước hai bên hông và để lộ phần tua rua ra ngoài chứ không
buộc hay thắt nơ. Thắt lưng có 2 loại, thắt lưng trắng và và thắt lưng đỏ.
Thường ngày tộc người Dao chỉ dùng thắt lưng trắng, trong các lễ Quá Tang,
Chấu Đàng, Tẩu Sai, người hành lễ phải thắt cả hai chồng lên nhau: đỏ trong,
trắng ngoài, gọi là “Là lùi xin họp”, nghĩa là thắt lưng kép.
Xà cạp của phụ nữ Dao Tiền được thêu bằng chỉ mầu đen với nhiều
hình thù khác nhau. Xà cạp được để chừa mỗi đầu vải một sợi dây dài và
thường được quấn từ trên đầu gối xuống quấn theo hình xoắn ốc đến khi hết
vải thì người ta buộc hai đầu dây.
2.3.2. Trang phục trong ngày lễ hội và cưới xin [A9; A10- trang 40]
22


Có thể nói, trang phục hành lễ của tộc người Dao Tiền rất đặc biệt,
trang phục này cả nam và nữ đều sử dụng chung khi cử hành những nghi lễ

quan trọng của tộc người Dao Tiền.
Trang phục này gồm một chiếc áo dài không gắn đồng tiền kim khí sau
cổ áo, hoa văn trang trí trên trang phục này cũng có phần mới lạ hơn, có thêm
nhiều hoa văn hơn được trang trí dày đặc trên chiếc áo. Điểm nhấn trên trang
phục này là hai hoa văn hình mặt trời được trang trí sau lưng áo. Nếu như
trang phục thường ngày của phụ nữ là dày đặc hoa văn hình “Tào Chố” (Chó
Tiên) thì ở chiếc áo này lại là các hình chữ thập ngoặc (chữ vạn) thêu quanh
hai cổ tay áo và phần mép gấu áo. Bốn hình “Cà pinh” chưa tạo nên điểm
nhấn trên chiếc áo, chỉ là những hình hoa văn đơn, nếu không để ý sẽ không
nhận thấy hoa văn này. Hoa văn xương cá được thêu ở phần sống lưng của áo,
và hình “Zhồng nhài” thêu ở gấu áo..., màu sắc có phần sặc sỡ hơn trang phục
ngày thường. Về từng thành phần của trang phục phụ nữ Dao Tiền, từ hình
dáng, kích thước, màu sắc, tập quán sử dụng cũng như ý nghĩa biểu trưng của
các món đồ này trong tổng thể bộ trang phục, và ý nghĩa của nó ở trong cái
nhìn, trong quan niệm của tộc người Dao Tiền rất đa dạng và phong phú.
Khăn đội đầu ngày lễ của phụ nữ tộc người Dao Tiền làm bằng vải thô
hoặc nhiễu được may và thêu công phu, phong phú về hoa văn hoạ tiết và
đẹp hơn khăn đội đầu thường nhiều ngày. Mỗi đầu khăn dài khoảng 40cm, có
trang trí một đường bằng vải đỏ rộng khoảng 4 đến 5cm bao quanh. Liền kề
đường vải đỏ là những đường chỉ to bằng ngón tay màu trắng và màu đen.
Hoạ tiết, hoa văn thêu trên khăn là các hình ngũ giác, 36 loại hoa và những
hạt cườm. Trên khăn có đính một hàng đều nhau những đồng bạc trắng.
Vào dịp lễ hội, người phụ nữ Dao còn giữ tục chải đầu bằng sáp ong
cho mái tóc nuột nà, uốn lượn. Đây cũng là một bí quyết giúp mái tóc của
những cô gái Dao khỏe về sức sống, đẹp trong con mắt mọi người. Trong
không khí tưng bừng của ngày Tết, lễ hội, người ta dùng điệu hát lời ca làm
cuộc sống thêm thăng hoa.
23



Trang phục của cô dâu trong ngày cưới về nhà chồng phải mặc rất
nhiều áo, đầu đội mũ, đội nhiều khăn, mặc áo kép tự làm. Khung mũ được
làm bằng tóc rối phết sáp ong, trên khung được phủ khăn trắng hình chữ nhật,
thêu các hoạ tiết bằng chỉ nhiều màu. Phụ nữ Dao Tiền có tục lệ mừng cô dâu
về nhà chồng bằng tiền, áo, váy, khăn. Cô dâu càng có nhiều chị, em gái, cô,
dì, bạn gái thì càng được mừng nhiều. Khi cô dâu ra khỏi nhà bố, mẹ đẻ để về
nhà chồng phải mặc từ 2 đến 7 bộ áo khăn rất nặng, cồng kềnh, vào mùa hè
rất nóng nực và khó khăn trong việc đi lại. Vì vậy, thường có một vài chị em
đi bên cạnh đỡ áo khăn cho cô dâu vừa là để giúp đỡ vừa là phong tục của tộc
người Dao. Trên đường về nhà chồng, đi được vài trăm mét, cô dâu được cởi
bớt áo, váy, khăn, nhưng trước khi bước vào nhà chồng thì lại phải mặc vào
đầy đủ. Ngoài áo, váy, khăn, cô dâu còn được đeo rất nhiều vòng, nhẫn, hoa
tai và bộ xà tích. Và bộ trang phục của cô dâu phải mất 3 năm mới hoàn
thành bộ trang phục cho mình.
Trong tang lễ phụ nữ Dao Tiền phải mặc áo, váy cũ và đội khăn trắng.
Riêng đối với các con, cháu của người quá cố thì phải mặc toàn đồ trắng.
2.4. Đồ trang sức [A13; A14 - trang 42; A15; A16 - trang 43; A17 trang 44]
Tộc người Dao Tiền thường trang trí bộ trang phục của mình bằng
những đồng tiền bạc. Đó là lý do vì sao họ có tên gọi “Dao Tiền”. Phụ nữ Dao
Tiền rất thích trang sức, sự gắn kết giữa trang sức với áo, váy là một nguyên
tắc không thể thiếu. Những hạt cườm hay các đồng bạc trắng, vòng bạc trắng
được họ dùng để trang trí, đồng thời trong trang phục họ làm các khuy bạc có
đường kính từ 6 đến 7cm đính nổi bật ở trên áo chàm. Cả bộ trang sức có khi
nặng đến vài ki-lô-gam.
Khuyên tai (Pò nòm chốt),mặt khuyên là một miếng bạc hình tròn
giống như một chiếc nấm; sau chiếc nấm bạc là những lớp vải hoặc giấy mầu;
phía sau đó là phần móc khuyên để móc qua lỗ tai. Móc khuyên là một đoạn
dây bạc uốn cong hình dấu chấm hỏi.
24



Vòng cổ bạc của phụ nữ Dao Tiền có 7 chiếc, gồm 2 bộ: Bộ to 3 chiếc
và bộ nhỏ 4 chiếc. Khi đeo những chiếc vòng bạc này, người phụ nữ Dao Tiền
phải chú ý không để chồng lên nhau mà lộ ra cả 7 chiếc cùng xếp trên một
mặt phẳng trước ngực. Đây là phần trang sức tốn kém nhất trong trang phục
phụ nữ (khoảng 1,5 đến 2kg bạc nguyên chất). Dây bạc để uốn vòng hình 6
cạnh, trên mặt không trang trí hoa văn nhưng tại đoạn 2 đầu vòng thon nhỏ
dần cuốn những sợi bạc nhỏ.
Hoa bạc và dây hoa bạc (Nhoàn piàng - Nhoàn piàng lang). Đây là một
chuỗi bạc hoặc một chuỗi hạt cườm dài gồm nhiều sợi dây nhiều màu khác
nhau, dùng làm vật trang trí trên cổ.
Trâm bạc (pù chổng) là chiếc châm gồm hai chiếc, một chiếc hình như
một cây đũa: một đầu to, một đầu nhỏ và nhọn, còn một cây trâm khác có hai
thanh bạc dài song song nhau một đầu nối liền nhau, còn đầu kia mũi nhọn để
cài.
Chùm tiền kim khí (Lui chìn) được dùng để gắn sau cổ áo, sau gáy:
thường là 9 hoặc 10 cái cúc bạc được đúc thủ công, và bên trái thường được
gắn nhiều hơn bên phải một cúc.
Đặc biệt áo của phụ nữ Dao Tiền là áo xẻ ngực, cúc áo (Cúc bạc) của
áo phụ nữ Dao Tiền không có chức năng là để cài khuy áo mà là để trang trí.
Cúc gồm: 9 (hoặc 11) chiếc to hình tròn ( gọi là Lùi cạp) và 9 (hoặc 11) chiếc
nhỏ dài có một đầu tròn một đầu hình chữ nhật (gọi là “Lùi cạp chầy”) nghĩa
là đũa của cúc áo. Khi gắn vào áo, người ta gắn so le chiếc dài, chiếc tròn từ
trên xuống.
Ngoài ra tộc người Dao Tiền còn có bộ xà tích. Mỗi bộ xà tích thường
có 6 đến 7 dây, dây dài, dây ngắn và một chùm xà tích có gắn các con cá,
chim, chuông bạc, móc hình dấu hỏi bằng những đoạn dây ngắn. Mắt xích của
dây làm theo kiểu hình bông lúa. Xà tích thường được các cô gái đeo quanh
thắt lưng, một bên gài vào thắt lưng, một bên trễ xuống bên hông. Xà tích là
vật trang trí làm cho người ta chú ý tới cái eo của người phụ nữ. Trên nền

25


×