LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn khoa Văn hóa thông tin và xã hội trường
Đại Học Nội Vụ Hà Nội cùng tất cả các thầy giáo, cô giáo đã tận tình giảng
dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô Trần Thị Phương Thúy người
đã trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn ban quản lý đã tạo điều kiện để tôi hoàn thành bài
tiểu luận.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng chắc chắn tiểu luận của tôi còn có
rất nhiều thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo
và các bạn
Xin chân thành cám ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là tiểu luận của riêng tôi, tất cả các kết quả
nghiên cứu được nêu trong tiểu luận hoàn toàn trung thực.
Ký tên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh sống ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Tuyên Quang, Thái
Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai… Đồng bào dân tộc Tày đã tạo cho
mình một bản sắc riêng. Qua những nét văn hóa như ẩm thực, trò chơi dân
gian, ngôn ngữ… Đồng bào Tày đã có một kho tàng văn hóa truyền thống.
Đặc biệt, trang phục truyền thống từ lâu đã trở thành biểu tượng văn hóa cũng
như nét đẹp bình dị và độc đáo của dân tộc Tày ở khắp các miền đất
Nghiên cứu về trang phục sẽ đóng góp cho việc kế thừa những mặt tích
cực cũng như góp phần giữ gìn bản sắc dân tộc trong trang phục của dân tộc
Tày ở huyện Chợ Đồn, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ xây dựng bản làng
văn hóa mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với những lý
do trên tôi đã chọn đề tài “Tìm hiểu trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ
Đồn tỉnh Bắc Kạn”.
2. Cấu trúc của đề tài
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục
cấu trúc của đề tai gồm có 3 chương:
CHƯƠNG 1: Khái quát về dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
1.1 Khái quát về huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
1.1.1 Kinh tế
1.1.2 Văn hóa
1.1.3 Xã hội
1.2 Khái quát về dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
1.2.1 Nguồn gốc
1.2.2 Phân bố dân cư
1.2.3 tên gọi và những đặc điểm chính của dân tộc Tày ở huyện Chợ
Đồn tỉnh Bắc Kạn
4
CHƯƠNG 2: Trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc
Kạn
2.1 Trang phục nam
2.2 Trang phục nữ
2.3 Trang phục trong đám tang
2.4 Khăn quấn tóc
2.5 Trang sức
CHƯƠNG 3: Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
trong trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn.
3.1 Đánh giá, so sánh, dự báo về trang phục dân tộc Tày ở huyện Chợ
Đồn tỉnh Bắc Kạn.
3.2 Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong trang
phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn.
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC TÀY Ở HUYỆN CHỢ ĐỒN
TỈNH BẮC KẠN
1.1 Khái quát về huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
Huyện Chợ Đồn nằm ở phía Tây của tỉnh Bắc Kạn, có diện tích tự
nhiên 91.115,00 ha chiếm 18,75% diện tích tự nhiên của tỉnh Bắc Kạn. Huyện
Chợ Đồn có một thị trấn (Bằng Lũng) và 21 xã. Có ranh giới tiếp giáp như
sau:
- Phía Bắc giáp huyện Ba Bể.
- Phía Nam giáp huyện Định Hoá tỉnh Thái Nguyên.
- Phía Đông giáp huyện Bạch Thông, huyện Chợ Mới.
- Phía Tây giáp huyện Chiêm Hoá, Yên Sơn, Na Hang tỉnh Tuyên
Quang.
Với vị trí địa lý từ 105025’ đến 105043’ kinh độ Đông, từ 21057’ đến
22025’ vĩ độ Bắc. Trung tâm huyện lỵ là thị trấn Bằng Lũng cách thị xã Bắc
Kạn khoảng 46km theo tỉnh lộ 257. Huyện Chợ Đồn có hệ thống giao thông
khá đầy đủ với đường tỉnh lộ 254, 254B, 255, 257… các tuyến liên xã tương
đối hoàn thiện tạo thuận lợi cho huyện trong giao lưu thương mại, phát triển
kinh tế xã hội, du lịch...
1.1.1 Đặc điểm kinh tế
Tiềm năng phát triển đặc sản nông nghiệp
Trong lịch sử, Chợ Đồn được biết đến như một địa danh gắn liền với
nhiều sự kiện quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều di tích
lịch sử quốc gia có giá trị quan trọng. Ngày nay, Chợ Đồn nổi tiếng bởi chất
6
lượng, thương hiệu của những sản phẩm nông nghiệp đặc trưng, trong đó nổi
bật là Chè Shan (Tuyết), Gạo Bao thai, Hồng không hạt.
Chè Shan (Tuyết)
Những năm trước đây chè Shan (Tuyết) ở địa phương chủ yếu được sản
xuất theo hướng tự túc tự cấp, ít được biết đến. Những năm trở lại đây, được
sự đầu tư của nhà nước, chính quyền từ tỉnh đến huyện, một tuyến đường
nhựa dài hơn 10km từ xã Phương Viên đến xã Bằng Phúc đã được xây dựng.
Giao thông thuận lợi đã tạo điều kiện để địa phương tiếp tục phát triển, quảng
bá chè Shan tuyết Bằng Phúc đến nhiều nơi, góp phần nâng cao thu nhập, cải
thiện kinh tế hộ gia đình, phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Nhằm phát huy tiềm năng đất đai, thế mạnh của các vùng có khí hậu
đặc thù ở địa phương và tạo ra vùng sản xuất hàng hoá tập trung, Bắc Kạn đã
triển khai thực hiện nhiều chương trình nghiên cứu, phát triển, trong đó có Dự
án Xây dựng mô hình trồng và thâm canh chè Shan (Tuyết) theo hướng tập
trung tại huyện Chợ Đồn. Bằng những giống chè Shan (Tuyết) được chọn lọc
nhằm hình thành vùng chè có năng suất cao, chất lượng cao, tạo ra sản phẩm
hàng hoá đặc sản, góp phần chuyển dịch cơ cấu cây trồng, phát triển kinh tế
cho vùng dự án. Hiện nay, diện tích chè Shan (Tuyết) tại huyện Chợ Đồn có
khoảng gần 1.000ha.
Gạo Bao thai
Cùng với chè Shan (Tuyết), gạo Bao thai Chợ Đồn hiện nay đã nổi
tiếng xa gần. Đây là giống lúa đặc biệt, không ưa thâm canh, phụ thuộc vào
ánh sáng, ít sâu bệnh, thích nghi với chất đất và khí hậu các xã của huyện Chợ
Đồn. Giống lúa này cho năng suất cao hơn các giống lúa bao thai thông
thường, có độ dẻo, thơm quyến rũ ngay cả khi đã được chế biến thành, bún,
bánh phở, bánh cuốn.
7
Với sự quan tâm, đầu tư nghiên cứu, mở rộng của chính quyền và
ngành chức năng, đến nay, sản phẩm Gạo Bao thai Chợ Đồn đã được Cục Sở
hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ cấp Giấy chứng nhận bảo hộ nhãn
hiệu tập thể cho gạo Bao Thai Chợ Đồn. Theo đó, toàn huyện có 238 hộ được
phép sử dụng nhãn hiệu tập thể thuộc thị trấn Bằng Lũng và các xã: Phương
Viên, Ngọc Phái, Quảng Bạch, Đồng Lạc, Đông Viên, Rã Bản, Yên Nhuận và
Bình Trung.
Hiện tại, ủy ban nhân dân huyện đã giao cho Phòng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn chủ trì thực hiện dự án “Quản lý và phát triển nhãn hiệu
tập thể Gạo Bao thai Chợ Đồn”. Mục tiêu mà huyện Chợ Đồn đặt ra là quản
lý và phát triển nhãn hiệu tập thể từ đó tăng chất lượng sản phẩm và tính cạnh
tranh trên thị trường, tạo nguồn thu lợi nhuận cao cho người sản xuất. Huyện
chủ trương xây dựng quy trình sản xuất Gạo Bao thai theo hướng đồng bộ từ
sản xuất tới bảo quản, chế biến, thu mua, lưu thông.
Hồng không hạt
Bên cạnh chè Shan (Tuyết), gạo Bao Thai, huyện Chợ Đồn cũng có
điều kiện khí hậu, đất đai rất phù hợp để phát triển cây Hồng không hạt - sản
phẩm đã được cấp Chỉ dẫn địa lý. Hồng không hạt là loại quả có mùi vị thơm
ngon đặc trưng, quả giòn, nhiều cát, có giá trị dinh dưỡng cao. Những năm
qua, cây Hồng không hạt đã giúp người dân một số địa phương trong tỉnh Bắc
Kạn nâng cao thu nhập, cải thiện kinh tế gia đình. Hiện nay, huyện Chợ Đồn
đang có những cơ chế khuyến khích người dân cũng như các tổ chức, doanh
nghiệp đầu tư nghiên cứu, mở rộng diện tích gieo trồng loại cây đặc sản này.
Hiện nay, toàn huyện có gần 100ha tập trung nhiều tại các xã Quảng
Bạch, Đồng Lạc, Ngọc Phái... Vụ trồng hồng không hạt năm 2012, Chợ Đồn
có kế hoạch trồng 60ha. Để khuyến khích người dân mở rộng diện tích, ủy
ban nhân dân huyện Chợ Đồn đã có phương án hỗ trợ cho 25% giá cây giống
và 0,3kg phân bón/cây các hộ gia đình trồng năm đầu và đúng quy trình kỹ
thuật. Ngoài ra xã Quảng Bạch còn được triển khai mô hình quy hoạch cải tạo
8
vườn tạp để trồng Hồng không hạt... Từ nay đến 2015, huyện Chợ Đồn phấn
đấu mỗi năm trồng thêm 60ha Hồng không hạt, đưa cây Hồng không hạt trở
thành cây trồng mũi nhọn của, góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa phương.
1.1.2 Đặc điểm văn hóa
Trải qua thời gian dài hình thành và phát triển, ngày nay, dân số của
Chợ Đồn đã lên tới khoảng 50.000 người, với 5 dân tộc cùng sinh sống: Tày,
Nùng, Dao, Kinh và Hoa.
Chiếm số đông nhất trong huyện là dân tộc Tày (khoảng 70%). Dân tộc
Tày có mặt sớm hơn cả và là chủ thể của vùng đất này. Dân tộc Nùng chỉ
chiếm một bộ phận nhỏ trong dân số (khoảng 1,7%) và có mặt tại đây gần
như cùng với thời của dân tộc Tày. Dân tộc Dao (chiếm 8,6%) đến sau một
thời gian và thường sống ở vùng núi cao. Dân tộc Kinh (khoảng 19,4%) có
mặt ở vùng này vào khoảng thế kỷ XVII (theo Chiều Mạc) và tăng lên vào
đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp mở cuộc khai thác nguồn tài nguyên
khoáng sản nơi đây. Từ năm 1960 trở đi, thực hiện chủ trương của Đảng và
Chính phủ, đồng bào miền xuôi tình nguyện lên khai hoang, phát triển kinh tế.
Cũng từ đó, số lượng người Kinh tiếp tục tăng lên.
Nền văn hóa lúa nước đặc trưng
Các dân tộc ở Chợ Đồn có một nền sản xuất khá phát triển. Ngoài việc
trồng lúa (chủ yếu là lúa nước), đồng bào còn trồng ngô, khoai, sắn và các cây
thực phẩm khác như rau, đậu… Cũng như người Kinh ở miền xuôi, kỹ thuật
canh tác và công cụ của đồng bào các dân tộc ở đây tương đối cao và khá
hoàn chỉnh. Từ lâu, người nông dân các dân tộc Chợ Đồn đã biết dùng phân
bón, biết chế tạo các loại nông cụ, như cầy, bừa, quốc, dao… Đặc biệt, đồng
bào còn biết làm guồng đưa nước từ thấp lên cao, biết làm máy ép mía, ép
dầu…
Bên cạnh nghề trồng trọt và chăn nuôi, đồng bào các dân tộc ở đây còn
rất khéo tay trong nghề thủ công đan lát. Cả nam lẫn nữ đều biết đan và
thường xuyên đan đồ dùng các loại như: Cót, dậu, bồ, rổ rá, vung chảo, nơm,
9
đó… Phụ nữ rất giỏi nghề trồng bông, kéo sợi, dệt vải; giỏi thêu thùa, may vá,
làm thêm những bộ quần áo độc đáo, đậm đà mầu sắc dân tộc. Hầu hết đàn
ông đều sử dụng thành thạo các loại vũ khí cầm tay và các dụng cụ chài lưới
dùng để săn bắt và đánh cá.
Với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo, từ thời xa xưa,
đồng bào nơi đây đã xây dựng nên những công trình thủy điện để dẫn nước
vào ruộng. Đó là một hệ thống phai đập, mương máng, những trước guồng đặt
trên các khe lạnh… Đồng bào còn biết chế tạo những công cụ thích hợp như
cầy, cuốc, liềm… cho đến các loại súng, nỏ để săn bắn thú rừng và cả những
chiếc xa kéo sợi, khung cửu dệt vải…
Đời sống tinh thần phong phú
Ngoài văn hóa vật chất, đồng bào dân tộc còn có một đời sống tinh thần
rất phong phú, đa dạng. Những bài văn vần, thơ, cùng với các điệu si-lượn,
bài then… đều được sáng tác trong quá trình lao động sản xuất, rất giàu tính
trữ tình và tính giáo dục cao với nội dung ca ngợi cảnh đẹp quê hương, đất
nước; ngợi ca mối tình chung thủy lứa đôi, sự hồn nhiên giản dị, cũng như
đức tính cần cù, dũng cảm của người dân lao động; đồng thời đả kích những
sự bất công, thối nát trong xã hội và những đồi phong bại tục của giai cấp
thống trị. Một số truyền thuyết, truyện cổ tích như truyện “Trăm trứng”,
“Thánh Gióng”… của người Kinh, truyện “Quả Bầu”, “Phú Luông - Già Cải”,
“Vua Giống”… của dân tộc Tày, đều ghi lại các sự kiện lịch sử, biết ơn những
người có công xây dựng quê hương và giáo dục tinh thần đoàn kết giữa các
dân tộc.
Nhà sàn truyền thống của người Tày huyện Chợ Đồn
Mỗi dân dân tộc đều mang một sắc thái văn hóa riêng. Trong văn hoá
của dân tộc Tày bao gồm cả văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Dân tộc
Tày coi bản sắc văn hoá là cái riêng của dân tộc mình để phân biệt với các
dân tộc khác. Khi nói đến dân tộc Tày không thể không nhắc đến ngôi nhà sàn
truyền thống của dân tộc Tày.
10
Đây không chỉ là một nét đẹp của dân tộc Tày về mặt kiến trúc thẩm mĩ
mà ở đó còn chứa đựng cả những giá trị nhân sinh. Từ thời xa xưa do sống ở
gần rừng, gần núi có nhiều mối nguy hiểm rình dập nên con người ở đây đã
nghĩ ra cách dựng ngôi nhà lên cao để tránh thiên tai, thú dữ. Nhà sàn nhiều
gian là hình thái cư trú chủ yếu của dân tộc Tày nơi đây. Nhà được dựng bên
sườn đồi hay dưới chân núi hoặc trên bãi đất ven suối hay kiểu tựa lưng vào
núi và hướng ra cánh đồng. Nhà sàn được làm tương đối cao, và có kết cấu
chắc chắn. Ngày nay, nhà sàn có phần được thay đổi cả về kết cấu, kiến trúc
và vật liệu.
Khi làm nhà mới, dân tộc Tày cũng rất chú ý việc chọn ngày và hướng
của ngôi nhà, để làm một ngôi nhà thì đầu tiên chủ nhà phải đi xem ngày lành
tháng tốt, xem có phạm vào ngày kiêng kị gì của gia đình không. Khi vào nhà
mới thì chủ nhà phải dùng một bó đuốc châm lửa rồi nhóm bếp và duy trì
không để bếp lửa tắt đến sáng hôm sau, điều này có nghĩa như khai mở sự
sống cũng như xác định quyền sở hữu của ngôi nhà.
Mỗi nhà đều có hàng rào bao bọc xung quanh. Bên cạnh nhà có một vài
công trình khác như nhà vệ sinh, chuồng trâu, chuồng lợn, chuồng gà...
Sự bài trí trong ngôi nhà sàn của dân tộc Tày cũng rất chặt chẽ. Sự bài
trí này thể hiện được nề nếp của gia đình. Gian đầu tiên gần cửa chính là nơi
tiếp khách và diễn ra mọi hoạt động của nam giới. Gian giữa là nơi để bếp
lửa, nơi để nấu ăn và mọi người xum vầy quay quần bên nhau mỗi khi đông
về. Gian phía dưới giáp vách là nơi để chạn bát. Gian thứ ba là nơi để bàn thờ
tổ tiên, và giáp với bàn thờ tổ tiên giáp vách phía bên trên là chỗ ngủ của chủ
nhà. Gian phía trong cùng là chỗ ngủ của phụ nữ.
Mái nhà của dân tộc Tày thường được lợp bằng lá cọ thứ lá rất sẵn có ở
nơi đây (ngày nay thì một số nhà sàn cũng thay đổi lợp bằng tấm lợp hoặc mái
ngói), lá cọ được chia làm đôi sau đó được kết lại theo chiều ngang của thanh
tre đã được cố định trên khung mái nhà. Mái nhà lợp bằng lá cọ che mưa, che
nắng rất tốt, lại nhẹ phần mái, nếu lợp được tốt, lá cọ to và dầy thì mái nhà có
11
thể sử dụng từ 15 đến 20 năm, đặc biệt vào mùa hè nóng bức mà ở trong ngôi
nhà sàn thì vô cùng mát mẻ dễ chiu.
1.1.3 Đặc điểm xã hội
Huyện Chợ Đồn có 10.900 hộ gia đình và 238 thôn bản là nơi tụ cư của
6 dân tộc: Tày, Nùng, Kinh, Dao, H’Mông, Hoa. Dân số toàn huyện là 51.072
người, trong đó dân tộc Tày có 33.216 người. Dân tộc Tày có số dân đông
nhất đồng thời cũng là dân tộc có mặt sớm nhất và cư trú lâu đời nhất ở đây.
1.2 Khái quát về dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
1.2.1 Lịch sử nguồn gốc dân tộc Tày
Dân tộc Tày (còn gọi là dân tộc Thổ) là dân tộc thiểu số đông người
nhất ở Việt Nam. Dân tộc Tày cư trú ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà
Giang… Sau năm 1954 và nhất là sau năm 1975 một bộ phận đáng kể dân tộc
Tày di cư vào lập nghiệp ở cac tỉnh Tây Nguyên (61.832 người) và Đông
Nam Bộ (56.564 người). Tiếng Tày là một trong 8 ngôn ngữ được xếp vào
nhóm ngôn ngữ Tày-Thái (nằm trong ngữ hệ Thái-Kađai). Ngoài bộ phận có
tên gọi là Tày Cần Tày, còn 4 nhóm địa phương nữa là Pa Dí, Thu Lao, Ngạn
và Phén. Thực tế thì tiếng Tày gần giống với tiếng của dân tộc Thái, Nùng,
Choang – Đồng ở phía Nam Trung Quốc, người Lào, Thái ở Thái Lan và Việt
Nam.
Các nghiên cứu dân tộc học đã khẳng định rằng dân tộc Tày có nguồn
gốc khối Bác Việt xưa, cư trú lâu đời trên khu vực nam Trung Quốc và bắc
Viện Nam. Trải qua một thời gian dài chung sống đã chịu ảnh hưởng văn hóa
Việt và trở thành dân tộc Tày ở Việt Nam[2, tr. 11]
Dân tộc tày có mặt ở vùng Đông Bắc Việt Nam từ rất sớm, có thể từ
nửa cuối thiên niên kỉ I trước công nguyên. Trải qua lịch sử hàng nghìn năm,
do chịu ảnh hưởng của các dân tộc khác, họ đã dần bị phân hóa, trở thành
những bộ phận cư dân khác nhau. Bộ phận sinh sống ở miền trung du hòa vào
người Việt và Mường, trỏe thành bộ phận người Việt với những đặc trưng
riêng, mang tính địa phương khá rõ nét. Còn bộ phận cư trú ở miền núi chịu
12
ảnh hưởng sâu sắc văn hóa của người Việt, trở thành tổ tiên của dân tộc Tày
hiện nay.
1.2.2 Phân bố dân cư
Ở Chợ Đồn có 33.216 dân tộc Tày, chiếm khoảng 65% dân số toàn
huyện. Phân bố ở các xã: Phương Viên, Đông Viên, Rã Bản, Đồng Lạc, Bằng
Phúc, Bình Trung, Bằng Lũng, Yên Thịnh, Yên Thượng. Họ sống tập trung
trong các bản có từ 50 đến 60 nóc nhà[2, tr. 11].
1.2.3 Tên gọi và đặc điểm chính của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn
tỉnh Bắc Kạn
Dân tộc Tày ở Việt Nam nói chung và dân tộc Tày ở Chợ Đồn nói riêng
đều tự mình là Cần Tày. Theo TS. Trần Bình và rất nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng dân tộc Tày có nghĩa là “người tự do”.
Gia đình của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn là gia đình phụ quyền gồm
vợ chồng và các con. Kiểu đại gia đình cũng gồm nhiều thế hệ cũng có nhưng
không phổ biến. Mỗi gia đình là một đơn vị kinh tế, mỗi thành viên tiến hành
sản xuất riêng dưới sự chỉ đạo của người chủ gia đình, những của cải sản xuất
được tính làm của chung. Việc thùa kế tài sản được chia từ người con trai cả
rồi đến con tria thứ hai, con trai út và con trai cả lo phần thờ cúng tổ tiên. Con
gái đi lấy chồng được bố mẹ sắm cho một ít của cải gọi là của hồi môn. Quan
hệ giữa mọi người trong gia đinh là bình đẳng yêu thương lẫn nhau. Dòng họ
của dân tộc Tày ở Chợ Đồn có ba quan hệ chính là họ Cha, họ Mẹ và họ bên
vợ. Các dòng họ chính của dân tộc Tày ở Chợ Đồn gồm: Nông, Hoàng, Hà,
Ma. Các dòng họ cùng cư trú trong một bản và họ sống rất tình cảm
Văn nghệ dân giản tiêu biểu của dân tộc Tày ở đây là những khúc hát
sli, lượn, phong slư. Nói đến dân tộc Tày thì phải nhắc đến cây đàn tính dùng
để đệm cho bài hát then. Về nghệ thuật hội họa và kiến trúc không nổi bật lắm
chỉ có kiến trúc trang trí trên cột, vách nhà sàn và một số vật gia dụng, nghệ
thuật viết chữ Nôm Tày để thờ cúng trên bàn thờ. Dân tộc Tày ở đây chủ yếu
là canh tác lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Dân tộc Tày ở Chợ Đồn
nổi tiếng là cư dân làm thủy lợi giỏi, từ rất lâu đời họ đã áp dụng nhiều biện
pháp “dẫn thủy nhập điền” đưa nước về tưới cho ruộng lúa như đào đắp
13
mương, bắc đường ống…Ngoài trồng lúa và hoa màu, họ còn đào ao để thả
cá[2, tr. 12].
Tiểu kết: Phần trên tôi đã trình bày khái quát về huyện Chợ Đồn và dân
tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Đó là những điều kiện rất quan trọng
làm tiền đề để tôi dựa vào đó nghiên cứu chương 2: Trang phục của dân tộc
Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
CHƯƠNG II
TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC TÀY Ở HUYỆN CHỢ ĐỒN
TỈNH BẮC KẠN
Trang phục bao gồm hai thành tố: Y phục và đồ trang sức. trong y phục
hay trang sức lại bao gồm những thành tố và bộ phận khác nhau. Trong đó, y
phục là những thứ dùng để che đậy, bảo về cơ thể, góp phân làm đẹp cho con
người. Đồ trang sức là những vật dụng mang theo trên mình với mục đích làm
đẹp cho con người hoặc các mục đích khác theo quan niệm truyền thống hay
đương đại của từng dân tộc
Trang phục truyền thống của dân tộc Tày ở Chợ Đồn tương đối đơn
giản, được cắt may bằng loại vải sợi bông nhuộm chàm và hầu như không có
trang trí, nhưng vẫn toát nên một vẻ đẹp tự nhiên, bình dị, trang nhã và hài
hòa.
2.1 Trang phục nam
Trang phục nam giới dân tộc Tày gồm áo, quần, khăn và giầy. Ngày
thường học mặc loại áo cách, màu đen chàm may theo kiểu bốn thân đây là
loại áo xẻ ngực, cổ tròn cao, không cầu vai, xẻ tà, được cài bởi hàng cúc gồm
bảy chiếc tết bằng dây vải, phần dưới của hai vạt trước là hai cái túi nhỏ
không nắp. Quần thuộc loại đúng chéo hay còn gọi là quần chân què, đũng
rộng có thể cử động thoải mái trong mọi tư thế lao động, dài tới mắt cá chân,
cạp to kiểu lá tọa. Giày có múi tròn, cổ cao, dùng dây buộc[Ảnh 1, tr. 21].
14
Vào những ngày hội hè người ta mặc áo cánh trắng ở trong có lẽ vì vậy
mà dân tộc Tày còn được gọi là người áo trắng (cần slửa khao) để phân biệt
với người Nùng thường chỉ mặc áo chàm. Ngoài ra, đàn ông Tày còn mặc
thêm loại áo dài 5 thân xẻ nách phải, đơm cúc vải hay cúc đồng. Quần (khóa)
cũng làm bằng vải sợi bông nhuộm chàm như áo, cắt theo kiễu quần đũng
chéo, độ choãng vừa phải dài tới mắt cá chân. Quần có cạp rộng không luồn
rút, khi mặc có dây buộc ngoài. Mũ nồi màu chàm.
2.2 Trang phục nữ
Bộ áo của phụ nữ Tày ở Chợ Đồn phức tạp hơn với nhiều bộ phận,
nhiều chi tiết khác nhau, bao gồm áo cánh, áo dài năm thân, quần lụa ống
rộng hoặc váy, khăn, thắt lưng, tạp dề, xà cạp và giày. Áo cánh là loại bốn
thân xẻ ngực, cổ tròn, có hai túi nhỏ phía dưới hai vạt trước không nắp giống
như túi áo của nam giới, thường được cắt may bằng vải chàm hoặc trắng hay
màu xanh sậm tùy thuộc vào độ tuổi của người phụ nữ Tày. Trên thân áo có
trang trí những đường thổ cẩm nhỏ dọc theo đường cúc áo trước ngực hoặc ở
khe xẻ tà hai bên và đầu cổ tay tạo cho tấm áo thêm rực rỡ trên nền chàm.
Áo dài là bộ trang phục truyền thống cũng là loại năm thân, xẻ nách
phải cài cúc vải hoặc đồng, cổ giống áo tân thời thời xưa, ống tay và thân hẹp
có eo[Ảnh 2, tr. 22]. Vào ngày hội hè, người ta còn mặc áo cánh trắng ở bên
trong. Một số xã, phụ nữ mặc quần giống như loại quần của nam giới nhưng
rộng hơn, cũng có nơi chị em mặc váy ống tương tự như loại váy của phụ nữ
Việt[2, tr. 17]. Ở eo được quấn quanh bằng một mảnh vải nhỏ rộng khoảng
20cm dài khoảng 2m vắt chéo ra sau thắt lại phần còn lại để dài xuống bằng
vạt áo sau. Phụ nữ dân tộc Tày ở Chợ Đồn vấn tóc quanh đầu lệch về một
phía và trùm khăn vuông bên ngoài. Khi đi làm họ thường khoác trên vai túi
nải màu đen.
15
Yếm ngực của phụ nữ Tày được may bằng mảnh vải trắng hoặc vải
xanh tươi tùy theo độ tuổi. Yếm được may theo hình quả trám có đỉnh nhọn
nhô lên ở giữa ngực chạm đến cổ để tạo nên sự kín đáo của cơ thể người phụ
nữ. Yến có bốn dây, hai dây trên buộc vào sau cổ, hai dây dưới buộc vòng sau
lưng tạo sự cân đối, chắc chắn.
Giày của người phụ nữ cũng tương tự như giày của nam giới nhưng cổ
thấp hơn và không dùng dây buộc mà làm khuy cài. Trên mu giầy có thể được
trang trí bằng cách thêu chỉ màu để tôn thêm vẻ đẹp tự nhiên của cơ thể.
Trước đây, áo dài của phụ nữ Tày thường được may bằng vải nhuộm
chàm. Hiện nay, được cải tiến hơn bằng vải nhung mềm mại, ấm và bóng đẹp
hơn.
Trong đám cưới trang phục của cô dâu cũng mặc bộ áo vải chàm 5 thân
như hằng ngày nhưng dài gần đến mắt cá chân và. Đầu vẫn vấn khăn mỏ quạ
như ngày thường và đội nón mới. Quai nón được thêu nhiều họa tiết trên nền
vải màu nổi trừ màu trắng. Tay cầm khăn tay.
2.3 Trang phục trong đám tang
Nếu như trang phục thường ngày của đồng bào Tày hiện nay đã có
nhiều thay đổi về chất liệu, màu sắc, thậm chí nhường chỗ cho các kiểu âu
phục tân tiến, thì ngược lại lễ phục trong tang ma vẫn còn bảo lưu khá nguyên
vẹn các yếu tố truyền thống. Hơn nữa, lễ phục của các thành viên tham dự
đám tang cũng thể hiện rõ các mối quan hệ và vai vế của các thành viên trong
gia đình và cộng đồng.
Tang phục của dân tộc Tày trải qua bao đời vẫn là vải sợ bông hoặc
bằng vải màn trắng, khi mặc lộn trái (thửa pỉa). Không có sự phân biệt giữa
quần áo tang của nam và nữ từ màu sắc, chất liệu đến cách cắt may. Áo tang
cả nam và nữ đều xẻ ngực, không cài cúc chỉ đính 3 – 4 sợi dây buộc thay
hàng cúc, quần tang cắt kiểu chân què, gấu quần khâu trái rất sơ sài[Ảnh 3, tr.
16
23]. Tuy nhiên, không phải tất cả các đối tượng chịu tang đều mặc quần áo
tang lộn trái, mà còn phụ thuộc người chịu tang: Nếu cả bố và mẹ đều chết hết
thì mặc quần áo tang lộn trái; nếu bố mất, mẹ còn sống và ngược lại thì gấu
quần áo tang của con cái có thể khâu bình thường không khâu ngược ra ngoài.
Từ tang phục của con cái, khách đến viếng có thể đoán biết được cha mẹ của
tang chủ đã mất hết hay còn một vế.
Con trai đầu đội khăn tang trắng rộng khoảng 8 đến 10cm, dài khoảng
1m – 1,2m, quấn giống như khăn xếp. Ngoài khăn có chụp một chiếc mũ
“mào cù” làm từ lạt tre bện kiểu dây thừng cuốn vải hoặc giấy bản trắng có
tua xơ mép, chia thành ba múi, vành mũ cuốn hình vòng, có hai quai buộc kéo
xuống cằm để giữ khăn tang cho chặt.
Con gái, con dâu thắt lưng bằng dây chuối bện, xoã tóc hoặc dùng vải
trắng cuốn ngang, đội mũ hình phễu (khuốt) thả hai đầu khăn dài sau lưng.
Trước đây chỉ có con gái mới phải đội mũ hình phễu, nhưng ngày nay do ít
con nên con dâu cũng đội mũ hình phễu.
Con rể mặc áo tang trắng, cũng đội khăn tang như con trai nhưng
không đội mũ rơm. Các cháu chắt trong nhà mặc áo tang trắng, chỗ nối hai
ống tay may trái, đầu đeo khăn tang bé. Anh em bên ngoại, chú bác mặc áo
trắng, gấu áo ở phía sau và 2 cánh tay khâu trái, còn quần khâu bình thường,
khăn tang quấn tròn trên đầu. Anh em bên nội đội khăn tang, mặc quần áo
giống như con của người quá cố.
Trang phục của thầy Tào cũng đóng vai trò quan trọng. Áo, mũ cúng là
những vật linh thiêng quy định trong tín ngưỡng, khi hành lễ thầy Tào phải mặc
nó mới có thể liên lạc được với người ở cõi âm hoặc giữa trần gian với mường
trời.
Áo của Thầy Tào gồm hai chiếc: chiếc mặc trong bằng vải chàm cắt
may như áo nam giới Tày và chiếc áo khoác ngoài là bộ phận cơ bản của bộ
trang phục Tào. Áo được may rộng, vạt áo dài trùm quá gối, cổ và hai vạt
trước có viền màu đỏ. Các họa tiết trang trí được thể hiện ở phía trước và phía
17
sau áo. Nhìn chung mỗi họa tiết trang trí trên trang phục của thầy Tào đều
hàm chứa một ý nghĩa sâu xa phản ánh tín ngưỡng của đồng bào Tày[Ảnh 4,
tr. 23].
Tang phục của dân tộc Tày lấy gam màu trắng làm chủ đạo, biểu hiện
sự đối lập với màu chàm thường ngày, đó là sự đối lập giữa cõi sống và cõi
chết, giữa âm và dương, giữa sáng và tối. Hơn nữa theo cách giải thích của
đồng bào thì màu trắng là gam màu lạnh trái ngược với màu áo chàm hàng
ngày ấm áp. Hơn nữa tang phục màu trắng còn có ý nghĩa làm biến dạng trang
phục để đối nghịch với cái chết, để hồn ma không nhận ra mình, có quay về
cũng không biết mình mà làm hại.[1, tr. 122]
2.4 Khăn quấn tóc
Cũng là vải tràm rộng khoảng 30cm dài khoảng 200cm. dùng để quấn
trên đầu theo lối chữ nhân. Khăn vấn đầu của người phụ nữ Tày được làm
thành một vòng tròn vừa với đỉnh đầu. Chất liệu của khăn khi xưa được làm
bằng vải lụa nhuộm chàm nhưng hiện nay, khăn được khâu bằng vải nhung
tạo nên độ mềm, mượt và được độn bằng bông ở giữa. Như thế, người phụ nữ
Tày búi tóc ra sau rồi đội khăn lên giữa đầu[Ảnh 5, tr. 24]. Khăn vấn đầu có
cài thêm những họa tiết như là những ngôi sao nhỏ có nhiều màu tạo cho khăn
thêm rực rỡ và lấp lánh hơn. Nhiều thiếu nữ còn thêm vào một bên khăn một
chùm tua rua được kết bởi những sợi chỉ nhiều màu.
Ngoài vòng khăn tròn, người phụ nữ Tày còn đội khăn vuông. Khăn
phụ nữ Tày là loại khăn vuông màu chàm khi đội gập chéo giống kiểu mỏ quạ
của người Kinh. Trong đám cưới trang phục nam vẫn như ngày thường nhưng
được chọn vải và may kĩ hơn. Hoàn toàn làm trang phục mới không được
mượn hay sử dụng bộ cũ
2.5 Trang sức
Tôn lên vẻ đẹp của váy, áo của phụ nữ Tày còn nhờ vào sự độc đáo của
những bộ trang sức. Trang sức phụ nữ Tày đơn giản song có đủ các chủng loại
cơ bản như vòng cổ[Ảnh 5, tr. 25], vòng tay, vòng chân, xà tích... Có nơi còn
18
đeo túi vải, túi đựng trầu bên hông. Quan trọng nhất là vòng cổ của người phụ
nữ. Đó là một chiếc vòng bạc trắng to được đeo ở cổ, vòng rộng xuống 1/4
ngực làm cho cơ thể cân đối và màu trắng của vòng bạc nổi bật trên nền
chàm.
Tiểu Kết: Phần trên tôi vừa trình bày về trang phục của dân tộc Tày ở
huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Đó là những điều kiện rất quan trọng làm tiền
đề để tôi dựa vào đó nghiên cứu tiếp Chương 3: Bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống trong trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn
tỉnh Bắc Kạn.
CHƯƠNG III
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG TRONG TRANG PHỤC CỦA DÂN TỘC TÀY Ở HUYỆN
CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN
3.1 Thực trạng biến đổi trong trang phục của dân tộc Tày ở huyện
Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
Trong xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không thể không giữ gìn trang phục.
Việc làm ra những bộ trang phục không chỉ đáp ứng nhu cầu mặc của các
thành viên trong gia đình mà rộng hơn còn góp phần phát triển kinh tế hộ.
Hơn thế nữa, những bộ trang phục Tày trong bối cảnh hiện nay còn góp phần
quảng bá văn hóa của dân tộc mình tới khách du lịch, bạn bè khắp năm châu
trên thế giới đến với vùng đất ưa chuộng hòa bình và mến khách.
Tuy nhiên hiện nay, những trang phục của dân tộc Tày đang ngày càng
bị “Kinh hóa” bởi những bộ trang phục của người Kinh. Đó là kết quả của quá
trình giao lưu và tiếp biến văn hóa. Xét về hình dáng bên ngoài, trang phục
phổ biến của người Kinh chỉ đơn giản là chiếc quần dài và chiếc áo phông.
19
Phải chăng với đồng bào dân tộc Tày, khi mặc bộ trang phục của người
Kinh ra ngoài không gian văn hóa cộng đồng của họ sẽ giúp họ dễ hòa nhập
hơn với xã hội? Và chăng, những bộ trang phục truyền thống đòi hỏi người ta
phải chế tác từ loại vải dệt thủ công với một loạt công việc của trồng bông, xe
sợi, dệt may, thêu thùa rất tốn thời gian và công sức. Đó là chưa kể tới đi cùng
với quần áo còn cần phải có các đồ trang sức đi kèm. Trong khi đó, các loại
vải công nghiệp vừa rẻ, vừa đẹp, nếu là quần áo may sẵn lại càng rẻ hơn và
việc có được chúng lại không quá khó khăn. Theo đó, một bộ trang phục vừa
dễ hòa đồng, lại tiện dụng, tiết kiệm là sự lựa chọn rất tự nhiên để đồng bào
dân tộc Tày thay thế các bộ trang phục truyền thống vốn đòi hỏi sự cầu kỳ.
Song, nói như vậy không có nghĩa là các bộ trang phục truyền thống
của dân tộc Tày không được xem trọng nữa. Những người cao tuổi vẫn còn
gắn bó với nó. Nếu ở đâu đó trang phục truyền thống chỉ còn thấy lác đác thì
thông qua các quan sát dân tộc học, xã hội học cho thấy, họ vẫn giữ nó trong
hai trường hợp: khi kết hôn và khi qua đời. Và, cũng có thể trong kết hôn
người ta ăn mặc theo kiểu phương Tây (áo đầm, complé), nhưng khi chết thì
nhất định phải mặc bộ quần áo của dân tộc mình để về với tổ tiên.
3.2 Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn
Trang phục của dân tộc Tày với những đặc trưng và giá trị nêu trên đã
hình thành và tồn tại trong suốt trường kỳ lịch sử, là dòng chảy xuyên suốt
quá khứ, hiện tại và tương lai. Vì vậy, trong quá trình kế thừa những giá trị
truyền thống của trang phục sẽ không có sự thay thế mà chỉ có sự thích nghĩ
sao cho phù hợp. Kế thừa là một trong những tính quy luật của sự phát triển
văn hóa, kế thừa là tất yếu khách quan, nhưng việc kế thừa nếu không dựa vào
yếu tố truyền thống, không bám rễ vào những kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo
dân gain thì không thể phát triển.
Giáo dục tính tự hòa dân tộc cho dân tộc Tày ở Chợ Đồn, Bắc Kạn, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Điều này không có nghĩa là bắt buộc đồng bào phải mặc
20
trang phục truyền thống một cách cứng nhắc. Cũng không nên quan niệm bảo
thủ như con gái khi về nhà chồng phải mang theo những bộ trang phục được
tự tay thêu, dệt…nếu không sẽ bị trê cười. mà cần phải có nhận thức đúng
đắn, trân trọng những giá trị của cha ông để lại. Một dân tộc thực sự phát triển
khi biết duy trì và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống một cách tự
giác dựa trên nền tảng dân trí cao, khẳng định giá trị dân tộc mình trong cuộc
sống đương đại abừng nét đẹp văn hóa truyền thống.
Bảo tồn trang phục truyền thống một cách bền vững bằng phương pháp
nghiên cứu việc áp dụng các thành tựu của khoa học công nghệ gắn với
truyền thống trong quá trình tạo ra trang phục với mục đích sản xuất ra những
chi tiết hoặc bộ trang phục tương đương với trang phục truyền thống về chất
liệu, kiểu dáng, mẫu mã và hình thức trang trí nhưng giá thành hạ để đồng bào
có thể chấp nhận được cả nội dung và giá cả.
Kế thừa các kĩ thuật dân gian truyền thống vào định hướng giá trị trang
phục hiện đại của đồng bòa dân tộc Tày ở Chợ Đồn. Giữ gìn và phát huy vốn
trí thức dân gian truyền thống sẽ tạo nên phong cách mới trong cắt may và
trang trí họa tiết trên trang phục phù hợp với cuộc sống đương đại. Không tiếp
thu một chiều, bê nguyên si cái cũ vào trang phục hiện đại, nhưng cũng không
hoàn toàn du nhập phong cách mới, lai căng, không phù hợp với điều kiện
kinh tế - xã hội của đồng bào dân tộc Tày.
Tiểu kết: Phần trên tôi đã trình bày về việc bảo tồn và phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống trong trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn
tỉnh Bắc Kạn. Đó là những giải pháp mà có thể tham khảo để áp dụng vào
việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong trang phục của
dân tộc Tày huyện Chợ Đồn nói riêng và dân tộc Tày ở các tỉnh khác nói
chung.
21
KẾT LUẬN
Mỗi dân tộc đều thể hiện những sắc thai văn hóa độc đáo của mình
thông qua trang phục. Trang phục được xếp vào loại hình văn hóa vật thể
nhưng lại có quan hệ mật thiết với loại hình văn hóa phi vật thể. Trang phục
không chỉ phản ánh những đặc điểm về dân tộc như kinh tế, tín ngưỡng,
phong tục…của mỗi dân tộc, mỗi địa phương.
Trang phục của dân tộc Tày ở huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn là một
thành tố quan trọng trong đời sống văn hóa của đồng bào, thể hiện trong
những dịp lễ hội và đại sự của gia đình, cá nhân. Trải qua biết bao thăng trầm
lịch sử, nhiều yếu tố trên trang phục của dân tộc Tày ở Chợ Đồn đã có những
biêna đổi nhất định cho phù hợp với điều kiện sống, nhưng nhìn chung vẫn
giữ được cái cốt cách ban đầu, đặc biệt là ở kỹ thuật dệt, nhuộm vải.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Thị Hạnh, Tang ma của dân tộc Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
2. Đặng Thị Thoa, Ẩm thực truyền thống của dân tộc Tày ở chợ Đồn Bắc kạn với việc phát triển du lịch.
3. Các trang web
- />
23
PHỤ LỤC
Ảnh 1: Trang phục nam
24
Ảnh 2: Trang phục nữ
25