Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tìm hiểu lễ hội đền quả sơn tại xã bồi sơn, huyện đô lương, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (723.15 KB, 29 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Từ xưa đến nay lễ hội được ví như một món ăn tinh thần, một nét đẹp
truyền thống của người Việt Nam. Lễ hội thể hiện truyền thống “ Uống nước
nhớ nguồn” của dân tộc, là nơi sinh hoạt văn hóa và giao lưu cộng đồng.
Lễ hội được tổ chức nhằm tưởng nhớ và tôn vinh đến các hiện tượng tự
nhiên được định danh như các vị thần, các vị anh hùng có công trong lịch sử dân
tộc, các vị tổ nghề...
Ở Việt Nam, đến với bất vì vùng miền nào trên tổ quốc vào bất kỳ khoảng
thời gian nào trong năm đều thấy xuất hiện và tồn tại các lễ hội. Lễ hội lưu giữ
các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính
trị, tôn giáo tín ngưỡng.
Các lễ hội ở nước ta tập trung chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân, đây là
khoảng thời gian chuyển giao mùa vụ khi tiết trời đẹp cỏ cây hoa lá đâm chồi
nảy lộc, ngày tháng nông nhàn tạo điều kiện về thời gian cũng như về tinh thần
để tổ chức lễ hội. Lễ hội ngoài việc tập trung tưởng nhớ các vị anh hùng, cầu
cho một năm mới may mắn, mùa vụ bội thu, cuộc sống sung túc còn là nơi để
người dân giải trí nghỉ ngơi sau một mùa vụ, một năm vất vả.
Mỗi lễ hội đều có những nét đặc trưng văn hóa riêng biệt, lễ hội đền Quả
Sơn cũng là một lễ hội như vậy.
Xuất phát từ những vấn đề trên tôi chọn đề tài “ Tìm hiểu Lễ hội đền
Quả Sơn tại xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An” làm đề tài khảo sát
của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Trong đề tài nghiên cứu này, tôi xin nêu một số tác phẩm, bài báo của một
số tác giả viết về lễ hội đền Quả Sơn


Cuốn sách “Lịch sử Đền Quả Sơn” của tác giả Đào Đức Lộc, nhà xuất bản
Nghệ An năm 1996. Cuốn sách giới thiệu về lịch sử hình thành và phát triển
cũng như những lần tu tạo của đền Quả Sơn.
Cuốn sách “Lễ hội Quả Sơn – Đậm đà bản sắc người dân bắc trung bộ”
2


của tác giả Vũ Khắc Đoan, nhà xuất bản Nghệ An năm 2004. Cuốn sách nói về
lễ hội đền Quả Sơn như một lễ hội lớn nhất của khu vực bắc trung bộ vào dịp
đầu năm.
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu lý luận chung về lễ hội và khái quát chung về không gian lễ hội
đền Quả Sơn tại xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, Tỉnh Nghệ An.
Tìm hiểu thực trạng tổ chức lễ hội đền Quả Sơn tại xã Bồi Sơn, huyện Đô
Lương, Tỉnh Nghệ An.
Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa lễ hội đền Quả Sơn.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lễ hội đền Quả Sơn.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tại địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: Thu thập các tài liệu liên quan
đến quá trình khảo sát, lựa chọn những thông tin cần thiết và sử dụng chúng cho
mục đích nghiên cứu.
- Phương pháp đánh giá: Trên cơ sở số liệu thu thập được tiến hành đánh
giá về công tác tổ chức lễ hội.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu : dựa trên các tài liệu thu thập được vận
dụng để sử dụng cho mục đích nghiên cứu.
6. Đóng góp của đề tài.
Kết quả nghiên cứu của đề tài là một phần nguồn tư liệu để tham khảo
ứng dụng vào việc bảo tồn và phát huy lễ hội đền Quả Sơn.

7. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần Mở đầu, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, đề tài được chia làm
3 chương:
Chương 1: Lí luận về lễ hội và khái quát về không gian lễ hội đền Quả
Sơn, xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Chương 2: Diễn trình của lễ hội đền Quả Sơn.
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội đền Quả Sơn.
Chương 1
LÍ LUẬN VỀ LỄ HỘI VÀ KHÁI QUÁT VỀ KHÔNG GIAN LỄ HỘI
ĐỀN QUẢ SƠN, XÃ BỒI SƠN, HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN.
3


1.1.
1.1.1.

Những vấn đề về lễ hội.
Một số khái niệm.
Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là
hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người
với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc
sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn
giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống.

1.1.2. Phân loại lễ hội.

Mười năm trở lại đây, xuất hiện một loại lễ hội mới, đó là lễ hội văn hóa
thể thao, lễ hội văn hóa du lịch. Lễ hội văn hóa thể thao thường liên quan đến lễ
kỷ niệm một sự kiện nào đó, như: kỷ niệm tròn 5, chẵn 10 năm của một ngành,
của một địa phương hoặc được chính quyền tổ chức định kỳ đáp ứng nhu cầu

văn hóa của nhân dân. Lễ hội văn hóa du lịch được một địa phương hay một đơn
vị tổ chức hay liên kết một số địa phương, đơn vị tổ chức nhằm mục đích quảng
bá du lịch, thu hút du khách đến với một vùng đất. Đặc điểm của loại hình lễ hội
này là chính quyền và đơn vị đăng cai tổ chức lễ hội bỏ kinh phí cùng với nguồn
tài trợ của các thành phần kinh tế qua hình thức xã hội hóa cho mọi hoạt động
diễn ra lễ hội để phục vụ vui chơi giải trí của nhân dân, thông qua đó giáo dục
chính trị tư tưởng, việc người dân có đến lễ hội đó hay không là quyền của mỗi
người. Nhà tổ chức dựa theo kịch bản huy động số lượng lớn các nghệ sĩ chuyên
nghiệp và không chuyên nghiệp tập luyện, trình diễn các loại hình nghệ thuật;
mời gọi các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội chợ thương mại... Tùy từng
chủ đề, các nhà viết kịch bản và đạo diễn có sử dụng kết hợp các loại hình văn
hóa đương đại với các loại hình văn hóa truyền thống. Ví dụ: Lễ hội du lịch
carnaval Hạ Long (Quảng Ninh), festival biển Bà Rịa - Vũng Tàu, festival hoa
Đà Lạt (Lâm Đồng), festival cà phê (Đắc Lắc), lễ hội Quảng Nam hành trình di
sản... Do phụ thuộc vào chủ quan của một số người nên nội dung lễ hội này luôn
được thay đổi sau mỗi lần tổ chức. Quần chúng, nhân dân là người thụ động
4


hưởng thụ văn hóa chứ không phải là chủ thể tham gia một cách trực tiếp, tự
giác, phi vụ lợi như người dân trong lễ hội truyền thống vào quá trình chuẩn bị
và diễn các sinh hoạt lễ hội. Vì nguyên do này, một số nhà nghiên cứu dựa vào
bản chất của lễ hội còn băn khoăn là có nên gọi loại này là lễ hội văn hóa thể
thao du lịch không, hay gọi đó là một loại hình sự kiện văn hóa thể thao du lịch,
hay gọi nó là lễ hội đại chúng khác với lễ hội quần chúng. Lễ hội quần chúng là
một thành tố của văn hóa quần chúng. Đây là lễ hội mới ra đời trong thời kỳ đất
nước ta thực hiện chính sách kinh tế tập trung, kế hoạch hóa với hai thành phần
kinh tế chủ chốt là kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Từ hai nguồn kinh tế này,
quần chúng, nhân dân được huy động tham gia trực tiếp vào hoạt động và hưởng
thụ văn hóa lễ hội. Cách thức tổ chức lễ hội quần chúng nước ta học và áp dụng

theo các giáo trình về lễ hội quần chúng ở Liên Xô. Dù còn ý kiến khác nhau
nhưng nếu xét dưới góc nhìn của một lễ hội hiện đại, đồng thời xem xét xu thế
chung của lễ hội ở các nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á những năm
gần đây, yếu tố lễ ngày một giảm, yếu tố hội gắn với vui chơi, giải trí tăng lên;
sự tham gia của người dân vào các sự kiện văn hóa giảm phần trực tiếp mà tăng
phần gián tiếp, thông qua sự chiêm ngưỡng vẻ đẹp mà tự giác hòa đồng vào
không gian sự kiện, được quay phim, chụp ảnh, phấn khích, reo vui... bộc lộ cảm
xúc cá nhân, thì sự kiện văn hóa thể thao du lịch ấy được coi là một loại hình lễ
hội với tính chất hiện đại của nó.
1.2.
1.2.1.

Không gian lễ hội đền Quả Sơn.
Đặc điểm về địa lí.
Đền Quả Sơn hiện nay năm ở chân núi Quả (xã Bồi Sơn, Huyện Đô
Lương, tỉnh Nghệ An) thuộc vùng đất Lý Nhật Quang đóng lỵ sở khi xưa. Đền
thờ được khởi dựng từ thời Lý, được tu bổ, tôn tạo nhiều lần dưới các triều đại
phong kiến Trần, Lê, Nguyễn. Qua mỗi lần trùng tu, sửa chữa, đền lại càng thêm
uy nghi và hoành tráng.
Đô Lương là huyện thuộc khu vực đồng bằng, nằm ở phía Tây của tỉnh
Nghệ An, có đặc điểm địa hình dạng bán sơn địa. Với tổng diện tích tự nhiên
trong địa giới hành chính là 35.008,35 ha. Toạ độ địa lý: 105 015' đến 105045'
Kinh độ Đông và 18055' đến 19010' Vỹ độ Bắc.
5


Trong đó đền Quả Sơn nằm dưới chân núi Quả và thuộc vùng ven bãi
sông Lam gồm 7 xã là: Nam Sơn, Bắc Sơn, Đặng Sơn, Lưu Sơn, Đà Sơn, Trung
1.2.2.


Sơn và Thuận Sơn.
Đặc điểm về văn hóa.
Toà đền có tuổi thọ ngót gần một ngàn năm, được trùng tu nhiều lần, đã
trở thành một di tích lịch sử văn hoá uy nghi, tôn nghiêm, có quy mô khá đồ sộ
trong một khuôn viên rộng lớn và rất đẹp mắt. Đền Quả Sơn không chỉ nổi tiếng
bởi giá trị nghệ thuật, quy mô to lớn và linh thiêng, mà còn bởi đây là nơi thờ
Uy Minh Vương Lý Nhật Quang - Tri châu Nghệ An, người có công lao to lớn
xây dựng quê hương xứ Nghệ và mở mang, bảo vệ bờ cõi cho quốc gia Đại Việt
dưới triều Lý.
Theo thần phả Đền Quả Sơn và nhiều tư liệu lịch sử khác, Lý Nhật Quang
là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Năm 1039, ông được triều đình cử vào
Nghệ An lo việc thu thuế. Đến tháng 11/1041, triều đình xuống chiếu cho Uy
Minh Vương làm Tri châu Nghệ An. Trong quá trình thay vua trị vì xứ Nghệ,
ông đã có nhiều chủ trương, chính sách cải cách phát triển kinh tế, chính trị, văn
hoá, giữ vững trật tự an ninh, thu phục nhân tâm... biến vùng biên viễn rộng lớn
phía nam của đất nước thành một căn cứ địa vững chắc, phồn vinh, hậu thuẫn
cho nhiều triều đại sau.
Để tưởng nhớ vị Tri châu đã có nhiều công lao to lớn đối với sự nghiệp
dựng nước, giữ nước, ngoài đền thờ chính đặt tại núi Quả (xã Bồi Sơn, huyện
Đô Lương) người dân xứ Nghệ đã lập nhiều đền đài, miếu mạo để thờ tự và đời
đời ghi nhớ công ơn của ông. Tác giả cuốn "Việt điện u linh tập" đã khẳng định
Ngài "là phúc thần của cả châu". Hiện nay, trên đất Nghệ Tĩnh có trên 30 điểm
lập đền thờ Lý Nhật Quang làm Thành hoàng. Trải qua các triều đại phong kiến
Lý, Trần, Lê, Nguyễn, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đã được gia phong
nhiều tước hiệu cao quý.
Bên cạnh việc xây dựng, tôn tạo Đền và tổ chức tế tự chu đáo, từ lâu nhân
dân trong vùng được sự chỉ đạo và giúp đỡ của Nhà nước đã tổ chức Lễ hội Đền
Quả Sơn rất linh đình và trọng thể. Theo truyền thuyết dân gian, tướng quân Lý
Nhật Quang đi đánh giặc, trên đường lui quân được Bà Bụt (hiện hình cô hàng
6



nước ven sông) chỉ cho đất huyết thực ngàn năm, sau khi hiển thánh, Uy Minh
Vương nhớ ơn nên có Lễ tạ ơn này. Lúc đầu lễ hội được tổ chức hàng năm, về
sau dân xã thấy cần phải chuẩn bị thật chu đáo để tăng thêm phần trọng thể nên
đã tổ chức đều kỳ: 3 năm 2 lần. Cũng có thể gọi đây là Lễ hội mừng Xuân, nhân
dân trong vùng thay mặt cho nhân dân xứ Nghệ bày tỏ tấm lòng tri ân đối với vị
anh hùng thời dựng nước, Thành hoàng của xứ, đồng thời cũng là dịp đón Xuân
bằng tinh thần thượng võ và những trò chơi dân gian truyền thống.
Từ năm 1996, được sự giúp đỡ của ngành VHTT tỉnh Nghệ An, Đảng bộ,
chính quyền và nhân dân huyện Đô Lương đã khởi công phục hồi lại Đền Quả
Sơn trên chính vị trí ngày xưa. Ngày 12/02/1998, Bộ VHTT đã ra quyết định
công nhận Đền Quả Sơn là Di tích Lịch sử văn hoá cấp quốc gia.
Từ năm 1998, Lễ hội Đền Quả Sơn được phục hồi, tổ chức với quy mô
ngày càng lớn. Mỗi kỳ lễ hội đã thu hút hàng vạn người dân trong vùng và
khách thập phương tham dự. Việc phục hồi, tổ chức lễ hội Đền Quả Sơn là thể
hiện một cách sâu sắc đạo lý truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", khơi dậy
tinh thần thượng võ và các hoạt động văn hoá, văn nghệ truyền thống, đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân và con em quê hương
đang sống ở mọi miền của Tổ quốc. Đây cũng là dịp để nhân dân vui chơi, giải
trí, mở rộng giao lưu và thoả mãn nhu cầu tâm linh.
Được sự nhất trí của Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch tại Thông báo số
2851/TB-SVHTTDL ngày 14/12/2009 và sự đồng ý của Ban Thường vụ huyện
uỷ Đô Lương, Lễ hội Đền Quả Sơn sẽ do UBND huyện Đô Lương chỉ đạo, tổ
chức với sự tham dự trực tiếp của các xã Bồi Sơn, Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bắc
Sơn, Tràng Sơn và nhiều lực lượng khác trong toàn huyện.
Bắt đầu từ ngày 17 tháng Giêng âm lịch, các hoạt động thể thao, văn
nghệ, các trò chơi dân gian truyền thống được tổ chức tại khuôn viên của đền.
Tối 19, Hội diễn văn nghệ chào mừng Lễ hội và sau đó vào lúc 22 giờ, Lễ cáo
yết được tổ chức tại Đền Quả Sơn và Chùa Bà Bụt. Lễ rước thần chính thức

được bắt đầu từ 6 giờ ngày 20. Đầu tiên là Lễ xuất thần; tân lễ; lộn quân thuỷ
bộ; sau đó là lễ rước với 2 cánh quân thuỷ, bộ. Trên đường rước bộ, tổ chức lễ
bái hạ ở các làng Nhân Bồi, Tập Phúc, Phúc Hậu, Nhân Trung, Trạc Thanh và
7


Phúc Yên. Việc bái hạ là việc làm thể hiện tấm lòng ngưỡng mộ, tri ân của nhân
dân đối với Đức Thánh, cũng là một nét đặc sắc của Lễ hội Đền Quả Sơn. Lễ tạ
ơn ở chùa Bà Bụt với phần cổ lễ mang ý nghĩa tạ ơn. Cuối cùng là lễ rước kiệu
Đức Thánh hồi cung trở về và lễ yên vị, kết thúc Lễ hội.
Tiểu kết.
Trong chương 1 của đề tài, tôi đã trình bày một số khái niệm về lễ hội và
phân loại lễ hội cũng như các khái niệm các loại lễ hội củ thể. Đồng thời chương
1 đã trình bày tổng quan về không gian địa lí, văn hóa và đôi nét sơ lược về lễ
hội đền Quả Sơn. Những nội dung ở chương 1 chính là cơ sở về lí luận và thực
tiễn giúp tôi triển khai nội dung chương 2 tiếp theo.

8


Chương 2
DIỄN TRÌNH CỦA LỄ HỘI ĐỀN QUẢ SƠN.
2.1. Công tác chuẩn bị.
2.1.1. Phân công nhiệm vụ.
Trước ngày diễn ra lễ hội 30 ngày, ủy ban nhân dân huyện Đô Lương đã
họp bàn về việc phân công nhiệm vụ chuẩn bị cho lễ hội đền Quả Sơn như sau :
- Đồng chí Nguyễn Như Khanh phó chủ tịch huyện phụ trách chuẩn bị
không gian, môi trường cho lễ hội.
- Đồng chí Lê Minh Ngọc phó chủ tịch huyện phụ trách vấn đề an ninh,
trật tự khu vực diễn ra lễ hội.

- Đồng chí Nguyễn Văn Biển trưởng phòng văn hóa huyện phụ trách vấn
đề lễ vật dâng cúng.
- Đồng chí Nguyễn Văn Việt phó phòng văn hóa huyện phụ trách chuẩn bị
các tiết mục văn nghệ phục vụ lễ hội.
- Đồng chí Trần Văn Toàn phó phòng văn hóa huyện phụ trách các hoạt
động thể thao dưới nước (đua thuyền, bơi lội).
- Đồng chí Lê An phụ trách các hoạt động thể dục thể thao trên cạn ( đá
bóng, bóng chuyền).
- Đồng chí Hoàng Văn Minh bí thư đoàn huyện có nhiệm vụ tập hợp đoàn
viên thanh niên trên địa bàn sẵn sang giúp đỡ công tác chuẩn bị lễ hội, cũng như
hướng dẫn, giúp đỡ du khác trong khi diễn ra lễ hội.
- Các đồng chí Hoàng Minh Sơn, Cao Thế Hưng, Tăng Nhật Phúc là chủ
tịch xã ba xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn có trách nhiệm tạo điều kiện tốt nhất
cho các đồng chí trên hoàn thành công việc.
- Đồng chí Trần Văn Nhâm chủ tịch huyện phụ trách, điều hành, và xử lí
nếu có sự cố.
2.1.2. Chuẩn bị không gian, môi trường.
Đồng chí Nguyễn Như Khanh đảm nhiệm nhiệm vụ chuẩn bị không gian,
môi trường diễn ra lễ hội.
Trong 2 ngày 1-2 tháng 2 đã huy động nhân dân 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn
9


và Bồi Sơn cùng toàn thể các đồng chí thanh niên tình nguyện trên địa bàn thực
hiện dọn dẹp khu vực xung quanh Đền Quả Sơn cùng với đó là đoạn đường từ
đền quả Sơn đến chùa Bà Bụt.
Trong ngày 12-2 huy động các học sinh trường Trung học cơ Sở Lí Nhật
Quan đến vệ sinh khu vực đền, phần mộ của Uy Minh Vương Lí Nhật Quang và
khu vực núi quả.
Ngày 13-2 tiến hành vệ sinh lau chùa các pho tượng, đồ thờ trong đền do

các sư thầy trông đền trực tiếp phụ trách.
Ngày 14-15 tháng chuẩn bị chỗ để xe, khu ăn nghỉ của khách và đại biểu
đến dự lễ hội đền Quả Sơn.
Ngày 14-15-16 liên tục đưa tin quảng bá về lễ hội đền Quả Sơn trên các
phương tiện thông tin đại chúng để du khách biết và hiểu thêm về lễ hội này.
2.1.3. Lễ vật dâng cúng.
Phần lễ vật dâng cúng do đồng chí Nguyễn Văn Biển phụ trách.
Đồng chí đã phân công mâm lễ chính( gồm 1 đầu heo, 1 mâm xôi lớn, 1
vò rượu ngon, bánh chưng, bánh dày và 1 số lễ vật khác) do 3 xã Ngọc Sơn,
Lam Sơn, Bồi Sơn chuẩn bị.
Mâm lễ phụ (xôi, gà, bánh chưng, bánh giày, hoa quả và các đồ lễ khác)
do thị trấn Đô Lương chuẩn bị gồm có đầu heo, xôi gà.
28 xã còn lại đều phải chuẩn bị mâm lễ, hoa quả, vàng mã dâng lên đền
Quả Sơn chia ra 3 ngày 19-20-21 tháng 2.
2.1.4. Chuẩn bị các tiết mục văn nghệ.
Công tác chuẩn bị các tiết mục văn nghệ do đồng chí Nguyễn Văn Việt
phụ trách.
Đồng chí đã chuẩn bị hội trường nhà văn hóa xã Bồi Sơn để diễn ra hội
diễn văn nghệ. Ngoài ra chuẩn bị một sân khấu nhỏ để tổ chức, thể hiện các tác
phẩm chèo, tuổng cổ, cũng như nhạc hầu đồng, trâu văn phục vụ lễ hội.
Đồng chí cũng đã triển khai tới các xã, thị trấn mỗi xã thị trấn hoặc cụm
xã thị trấn chuẩn bị 1 tiết mục văn nghệ.
Đặc biệt các xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn, Hồng Sơn phải chuẩn bị
10


các tiết mục ca trù, trầu văn… vì đây là 4 xã có truyền thống cũng như có các
nghệ nhân ca trù, trầu văn.
Các xã Nhân Sơn, Trù Sơn, Đại Sơn có truyền thống về chèo và tuồng cổ
thì chuẩn bị các tiết mục chèo và tuồng cổ phục vụ du khác cũng như quảng bá

hình ảnh quê hương.
Các xã Tràng Sơn, Yên Sơn kết hợp với các nghệ nhân từ huyện Yên
Thành chuẩn bị các tiết mục ví dặm, dân ca Nghệ Tĩnh.
Tất cả các cá nhân tập thể đăng kí các tiết mục văn nghệ với ban tổ chức
trước ngày 10-2.
2.1.5 Chuẩn bị các tiết mục thể thao.
Đồng chí Trần Văn Toàn phụ trách tổ chức các môn thể thao dưới nước đã
huy động lực lượng làm làn bơi lội, cũng như khu vực thi đấu môn đua thuyền
tại khúc sông Lam ngay trước cửa đền thuộc địa phận xóm 6 xã Bồi Sơn, huyện
Đô Lương, tỉnh Nghệ An.
Đồng chí cũng đã thông báo tới toàn bộ 33 xã thị trấn có 1 vận động viên
để thi đấu môn bơi lội.
Riêng môn đua thuyền, xã Bồi Sơn sẽ tự tổ chức gồm 9 đội đua là các
thanh niên của 9 xóm trên địa bàn xã.
Ngoài ra vào đêm ngày 19 tháng 2 sẽ tổ chức thả đèn hoa đăng tại đây.
Đồng chí Lê An phụ trách tổ chức các môn thể thao trên cạn cũng đã huy
động lực lượng là đoàn viên thanh niên trên địa bàn huyện đô lương chuẩn bị
sân thi đấu cho các bộ môn vật, đẩy gậy, kéo co cùng 1 số hoạt động hội như
chơi đu, cờ người, chọi gà… Riêng môn bóng chuyền và bóng đá sẽ được tổ
chức tại sân vận động xã Lam Sơn.
Đồng chí cũng đã thông báo tới 33 xã thị cử các đại diện môn đấu vật, cờ
người, kéo co, đẩy gậy.
Riêng môn bóng chuyền và bóng đá, bắt buộc mỗi xã, thị trấn phải có một
đội bóng nam riêng.
Môn bóng chuyền ngoài 1 đội nam mỗi xã chuẩn bị them 1 đội nữ.
Tất cả các đội tuyển,cá nhân, vận động viên đăng kí với ban tổ chức trước
11


ngày 10 tháng 2.

2.2. Các nghi thức.
2.2.1. Tế.
Theo truyền thống, cứ vào chiều ngày 19 tháng giêng âm lịch hàng năm,
nhân dân ba xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi tổ chức Lễ Cáo yết, xin phép mở cửa
Đền và khai hội mùa xuân Đền Quả Sơn. Năm nay, Ban Tổ chức đã chỉ đạo các
cơ quan chức năng cùng với nhân dân địa phương tổ chức Lễ Cáo yết trang
trọng theo đúng truyền thống của lễ hội trước kia [Phụ lục ảnh 1; Tr. 25].
Sau Lễ Cáo yết, Lễ hội Đền Quả Sơn sẽ diễn ra từ 19-21 tháng 2 (tức từ
19/1-21/1 âm lịch) với nhiều hoạt động nghi lễ, văn hóa, thể thao để tưởng niệm
950 năm ngày mất của Uy Minh Vương Lí Nhật Quang; 90 năm ngày thành lập
huyện Đô Lương, đồng thời, thể hiện truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của
dân tộc.
Lễ hội Đền Quả Sơn có nhiều nghi thức tế lễ và diễn xướng dân gian như:
Lễ rước cỗ tiến Bà Bụt, Lễ hội quân trên sông Lam, Lễ hội cầu an và hội hoa
đăng trên sông Lam, tục hầu Đồng, lễ ban ấn của Uy Minh Vương Lí Nhật
Quang; các trò chơi dân gian như đấu vật, đua thuyền, đẩy gậy, bơi lội, bóng đá.
2.2.2. Rước.
Tương truyền, trong thời gian nhậm chức Tri Châu Nghệ An và những lần
chỉ huy đánh giặc và xây dựng đất nước, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đều
đã được Phật Bà Quan Âm giúp đỡ nên trước và sau mỗi lần đánh trận ông đều
cùng các tướng lĩnh đến cầu nguyện và tạ ơn. Hằng năm, nhân dân đều có phần
rước di tượng và tạ ơn tại chùa Bà Bụt.
Từ tích xưa nhân dân 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn nói riêng và
nhân dân huyện Đô Lương nói chung hằng năm đều tổ chức rước di tượng và
làm lễ tạ ơn tại chùa Bà Bụt.
Đúng 8 giờ ngày 20-2 (tức ngày 20 tháng giêng âm lịch) nhân dân tổ chức
lễ rước di tượng Uy Minh Vương Lí Nhật Quang từ đền Quả Sơn ( xóm 6, xã
Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An ) đến chùa Bà Bụt (xóm 8, xã Lam
Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An) [Phụ lục ảnh 2; Tr. 25]. Tượng Uy Minh
12



Vương Lí Nhật Quang được đặt lên kiệu 8 người khiêng, do 8 thanh niên trai
tráng, khỏe mạnh khiêng. Tiếp theo đó là các mâm lễ đầu lợn, mâm lễ quả, bánh
chưng, bánh dày đi theo sau, 2 bên là các thanh niên trai tráng trong trang phục
quân lính thời xưa. Theo ngay sau kiệu rước thần là các tỳ nữ đi theo phục vụ
thần. Và cuối cùng là hàng nghìn người dân và du khách thập phương đi theo
rước thần.
Quãng đường từ đền Quả Sơn tới chùa Bà Bụt dài khoảng 5km đoàn rước
đi hoàn toàn là đi bộ. Dọc đường nghỉ chân ở 2 nơi là cổng trường trung học phổ
thông Đô Lương 2 và sân vận động xã Lam Sơn. Đến khoản 10 giờ rưỡi thì
tượng của Uy Minh Vương Lí Nhật Quang được rước tới chùa Bà Bụt. Tại đây
sẽ diễn ra lễ “tạ ơn Bà Bụt” phỏng lại tích xưa.
Đến 8 giờ ngày 21-2 (tức ngày 21 tháng giêng âm lịch) tổ chức lễ rước lại
tức di tượng Uy Minh Vương Lí Nhật Quang từ chùa Bà Bụt về lại đền Quả
Sơn. Giống với lượt đi cũng sẽ có mâm xôi, ngủ quả cùng kiệu rước tượng thần
về đền. Tuy nhiên khác với lượt đi lần này sẽ rước về theo đường sông. Từ khúc
sông Lam đối diện chùa Bà Bụt (xóm 8, xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An) sẽ cho một đoàn thuyền gồm 1 thuyền chính chở 8 người khênh kiệu
và các tỳ nữ theo hầu thần. Tiếp theo sau là 3 thuyền nhỏ chỡ các lễ vật dâng
cúng. Một số thuyền có thể du khách đi rước cùng. Tất cả các con thuyền đều có
hình đầu rồng độ lớn nhỏ khác nhau do thợ đóng thuyền ở các làng khác nhau
đóng. Dọc theo dòng chảy của sông tầm 6 km sẽ tới đoạn sông đối diện đền Quả
Sơn [Phụ lục ảnh 3; Tr. 26]. Tầm 11 giờ trưa sẽ mang được tượng của Uy Minh
Vương Lí Nhật Quang về yên vị tại chùa. Vào buổi chiều ngày hôm đó sẽ diễn
ra lễ yên vị.
2.2.3. Lễ.
Buổi chiều ngày 20 -2 (tức ngày 20 tháng giêng âm lịch) nhân dân tổ chức
lễ tạ ơn Bà Bụt tại chùa Bà Bụt (xóm 8, xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh
Nghệ An).

Đúng 13 giờ chiều. Sau khi rước được tượng của Uy Minh Vương Lí Nhật
Quang từ đền Quả Sơn về chùa Bà Bụt nhân dân tiến hành lễ tạ ơn Bà Bụt.
13


Tương truyền, trong thời gian nhậm chức Tri Châu Nghệ An và những lần chỉ
huy đánh giặc và xây dựng đất nước, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang đều đã
được Phật Bà Quan Âm giúp đỡ nên trước và sau mỗi lần đánh trận ông đều
cùng các tướng lĩnh đến cầu nguyện và tạ ơn. Nhân dân bây giờ vẫn giữ nét
truyền thống từ xưa lễ tạ ơn được tiến hành như bao đời trước. Thầy chủ trì chùa
Bà Bụt sẽ tiếp nhận các lễ vật dâng cúng và di dời tượng của Uy Minh Vương Lí
Nhật Quang vào chùa để tiến hành lễ tạ ơn. Lễ tạ ơn diễn ra trong vòng hơn hai
giờ đồng hồ trong buổi lễ ngoài các nghi thức cúng viếng, văn khấn thì có một
số loại hình nghệ thuật dân gian biểu diễn như tuồng, chèo cổ, các bài hát trầu
văn, hầu đồng… do các nghệ sĩ nhân dân thể hiện. Qua đây cũng thể hiện được
nét đặc sắc riêng có của lễ hội đền Quả Sơn
Buổi chiều ngày 21 -2 (tức ngày 21 tháng giêng âm lịch) nhân dân huyện
Đô Lương tổ chức “lễ tạ yên vị” sau khi làm lễ rước xuôi tượng của Uy Minh
Vương Lí Nhật Quang từ sáng.
Đúng 13 giờ chiều lễ tạ yên vị được diễn ra. Trong quá trình diễn ra lễ tạ
yên vị thì cũng sẽ có các loại hình nghệ thuật dân gian như ca trù, trầu văn, hầu
đồng diễn ra do chính các nghệ sĩ nhân dân thể hiện.
Đến 17h thì kết thúc buổi lễ và tiếp theo đó lễ dâng hương của du khách
cũng là người dân và lời bế mạc lễ hội của đồng chí chủ tịch huyện Trần Văn
Nhâm.
2.3. Các hoạt động hội.
2.3.1. Văn Nghệ.
Ngày 15-2 diễn ra vòng loại của hội thi tiếng hát đền Quả Sơn diễn ra tại
hội trường nhà văn hóa của xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Sau
khi vòng loại kết thúc đã tìm ra được 8 đội thi xuất sắc nhất là đội thi của các

xã : Hồng Sơn, Nhân Sơn, Bồi Sơn, Mỹ Sơn, Lam Sơn, Thị Trấn, Tràng Sơn,
Lạc Sơn.
Ngày 19-2 8 đội thi sẽ trực tiếp biểu diễn tại lễ hội đền Quả Sơn.
Cùng với đó là các tác phầm chèo, tuồng cổ diễn lại tích xưa về Uy Minh
Vương Lí Nhật Quang, và các loại hình nghệ thuật dân gian như ca trù, trầu văn,
14


hầu đồng. Vé vào cửa được miễn phí hoàn toàn nên rất đông du khách thập
phương quan tâm.
2.3.2. Các hoạt động thể thao.
Từ ngày 15-18 tháng 2 diễn ra các trận thi đấu vòng loại bóng đá nam
tranh cúp Đền Quả Sơn tại sân vận động Trung Tâm huyện Đô Lương. Đúng 15
giờ ngày 20-2 diễn ra trận chung kết giữa đội bóng đá nam Hồng Sơn và đội
bóng đá nam Lam Sơn tại sân vận động xã Bồi Sơn.
Buổi sáng các ngày 12-3 tháng 2 diễn ra vòng loại giải bóng chuyền nam
tại sân bóng chuyền xã Lam Sơn. Đến 13 giờ chiều ngày 18 tháng 2 diễn ra trận
chung kết bóng chuyền nam tại sân bóng chuyền đền Quả Sơn.
Buổi chiều các ngày 12-3 tháng 2 diễn ra vòng loại giải bóng chuyền nữ
tại sân bóng chuyền xã Lam Sơn. Đến 13 giờ chiều ngày 18 tháng 2 diễn ra trận
chung kết bóng chuyền nữ tại sân bóng chuyền đền Quả Sơn.
Môn đua thuyền được tổ chức vào 9 giờ ngày 20 tháng 2 giữa các đội đua
của xã Bồi Sơn ngay trên khu vực sông Lam trước đền [Phụ lục ảnh 7; Tr. 28].
Các môn thể thao không chỉ thể hiện tinh thần thể dục thể thao rèn tích
cực rèn luyệ sức khỏe mà còn là một trong những hình thức giải trí không thể
thiếu trong lễ hội đền Quả Sơn.
2.3.3. Các trò chơi dân gian.
Các trò chơi dân gian là một điểm nhấn cho lễ hội Đền Quả Sơn bởi lẽ nó
không chỉ mang tính giải trí mà còn có những giá trị về quảng bá văn hóa vùng
miền, thu hút khách du lịch và hơn nữa là thắt chặt tình đoàn kết của người dân

Đô Lương nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung.
Vào các ngày 19-20-21 tháng giêng các trò chơi dân gian đều được đồng
loạt diễn ra trong khuôn khổ lễ hội đền Quả Sơn.
Kéo co là một môn thể thao và là một trò chơi dân gian thông dụng và
đơn giản trên thế giới hiện nay. Kéo co là môn thể thao mang tính đồng đội và là
môn trọng vào sức mạnh. Kéo co không chỉ là môn thể thao rèn luyện sức khỏe,
mà còn là trò chơi thể hiện tinh thần và mang tính đồng đội cao, đem lại niềm
15


vui, sự thoải mái cho mọi người khi tham gia những trò chơi trong các dịp lễ
hội. Ở Việt Nam, kéo co là một trò chơi dân gian truyền thống. Tục kéo co ở
mỗi nơi có những lối chơi khác nhau, nhưng ở lễ hội đền Quả Sơn số người chơi
cũng chia làm hai phe, mỗi phe cùng dùng sức mạnh để kéo cho được bên kia
ngã về phía mình, giữa sợi dây có buộc một cái khăn đỏ,bên nào kéo đoạn dây
có buộc khăn đỏ qua vạch của mình trước là thắng. Cả hai bên đều có nam và nữ
là những trai gái chưa vợ chưa chồng [Phụ lục ảnh 6; Tr.27]
Một cột trụ để ở giữa sân chơi, có dây thừng buộc dài hay dây song, dây
tre hoặc cây tre, thường dài khoảng 20m căng đều ra hai phía, hai bên xúm nhau
nắm lấy dây thừng để kéo. Một vị chức sắc hay bô lão cầm trịch ra hiệu lệnh.
Hai bên ra sức kéo, sao cho cột trụ kéo về bên mình là thắng. Bên ngoài dân
làng cổ vũ hai bên bằng tiếng "dô ta", "cố lên".
Đẩy gậy là môn thi cần đến sức khỏe và sự khéo léo của người chơi. Tuy
cần nhiều sức mạnh, nhưng để thắng được đối thủ, người chơi cũng cần có kỹ,
chiến thuật, sự khéo léo, dẻo dai và tâm lý ổn định. Đã có không ít anh chàng
"thấp bé nhẹ cân" mà lại thắng được nhiều đối thủ "to con" hơn mình. Người
chơi "cao thủ" là người luôn giữ được bình tĩnh, ghìm đầu gậy bên phần mình
xuống và đẩy đầu gậy của đối phương lên cao để tạo đà cho mình có cơ hội
thắng đối phương. Có những cuộc đẩy gậy giữa những "cao thủ" ngang tài,
ngang sức, giằng co không phân thắng bại. Lại có những cặp chỉ ngay sau cái

phát tay của trọng tài, đấu thủ đã bay vèo ra khỏi vòng, khiến người xem càng
cảm thấy thích thú. Không chỉ những người trực tiếp tham gia chơi mà ngay
chính khán giả cũng có những diễn biến tâm trạng theo từng hiệp đấu, lúc thì
xuýt xoa tiếc rẻ, lúc lại reo lên sảng khoái, xen lẫn tiếng trống khi đổ dồn dập...
Nhưng thắng - thua cũng chỉ là góp vui cho ngày hội. Sau cuộc đấu, các đối thủ
lại khoác tay, cùng nâng chén rượu, tấm tắc khen tài nhau; nhiều khi nhờ đó mà
có thêm bạn.
Cờ người cũng là một trò chơi dân gian đặc sắc thu hút được rất nhiều du
khách người dân quan tâm.. Đúng ra đây là môn cờ tướng dùng người thay
16


vì quân cờ di chuyển trên bàn cờ [Phụ lục ảnh 5; Tr. 27].
Ở lễ hội đền Quả Sơn, cờ người gồm 16 quân cờ tướng do nam thủ vai và
16 quân cờ tướng do nữ thủ vai. Tất cả 32 quân cờ ngồi trên một bàn cờ tướng
vẽ ở một sân rộng, trong trang phục phù hợp với vai cờ của mình đóng. Hai
người chơi cờ đứng trong sân cờ trực tiếp đến chỉ đạo từng quân cờ di chuyển,
bên cạnh là một người đánh trống bỏi thúc giục. Bên nào có quân tướng bị chiếu
bí là thua.
Ngoài các trò chơi dân gian đặc sắc kể trên hội còn có 1 số trò chơi khá
hấp dẫn như ô ăn quan, bịt mắt bắt vịt, bịt mắt đập bình … các trò chơi dân gian
trên đã mang lại những tiếng cười sảng khoái cũng như những kỉ niệm đẹp khó
phai trong long du khác thập phương cũng như người dân bản địa.
Tiểu kết
Trong chương hai, tôi đã nêu rõ được diễn trình diễn ra lễ hội đền Quả
Sơn từ công tác chuẩn bị cho đến lúc thực hiện. Từ những thông tin trên sẽ là cơ
sở để tôi làm rõ những nội dung của chương sau.

17



Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ LỄ HỘI ĐỀN
QUẢ SƠN
3.1. Đánh giá thực trạng lễ hội đền Quả Sơn.
3.1.1. Ưu điểm.
Việc tổ chức lễ hội đền Quả Sơn nói riêng và tại các địa phương khác nói
chung có nhiều ưu điểm. Công tác tổ chức ngày càng được quan tâm đi vào quy
củ, các hoạt động mang tính chất cầu bình an an lành và vui chơi giải trí tạo ra
tinh thần đoàn kết dân tộc. Đặc biệt trong việc tạo lập, duy trì và phát triển
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Một là, mang lại giá trị văn hóa :
Lễ hội đề Quả Sơn là nơi giao lưu giữa các loại hình văn hóa dân gian, từ
các nghi lễ, các câu chuyện dân gian (huyền thoại, thần tích, các vị thần, điển
tích, điển cố...), các làn điệu hát trầu văn, hầu đồng, dân ca ví dặm các trò chơi
dân gian, nghệ thuật biểu diễn. Lễ hội trở thành bức tranh mô tả tương đối toàn
diện đời sống văn hóa của người dân Đô Lương nói riêng và miền đất ThanhNghệ-Tĩnh nói chung, trở thành một nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần không thể
thiếu được sau một năm làm lụng vất vả trên ruộng đồng.
Việc tổ chức lễ hội là dịp để mọi người nghỉ ngơi và đoàn tụ gia đình; gạt
bỏ các điều ác để hướng tới cái thiện; làm tan đi những nỗi ưu tư, phiền muộn,
lo lắng trong cuộc sống hàng ngày để có sự thanh thản. Đồng thời, qua đó răn
dạy, nhắc nhở con cháu nhớ ơn và tôn kính các vị thánh hiền, tiền nhân có công
khai phá, xây dựng, bảo vệ thôn làng, quê hương.
Đối với nhân dân tại địa bàn huyện Đô Lương, do địa bàn cư trứ cũng như
lịch sử quần cư, hiện nay người dân không chỉ sống ở mảnh đất quê hương nữa
mà có rất nhiều người con xa quê đi làm ăn xa. Qua việc tổ chức lễ hội, người
dân Đô Lương trên mọi miền tổ quốc cơ hội giao lưu, đoàn kết, gắn bó hơn với
18



các huyện lân cận, từ đó tạo sự giao lưu, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc
sống.
Thứ hai, lưu giữ giá trị lịch sử :
Lễ hội đền Quả Sơn là điểm hội tụ của nhiều thế hệ người Đô Lương.
Thông qua Lễ hội, bằng những nghi thức, tín ngưỡng dân gian, chúng ta thấy
được quá trình phát triển của dân Đô Lương qua các thời kỳ lịch sử. Qua đó,
khơi dậy tình yêu quê hương, giáo dục tính nhân văn, khơi dậy giá trị tiềm ấn
của văn hóa thôn làng và là điếm hội tụ có nhiều giá trị lịch sử của làng.
Lễ hội đền Quả Sơn được tổ chức hằng năm lưu truyền từ thế hệ nay sang
thế hệ khác, gắn liền với công lao to lớn của vị nhân thần đã có công lao xây
dựng quê hương đó là Uy Minh Vương Lí Nhật Quang, các vị tướng đã có công
đánh giặc giữ làng và các vị thần phù hộ để cho nghề nông phát triển.Thông qua
các nghi thức, các hình thức diễn xướng, các trò chơi truyền thống, có thế thấy
được lịch sử phát triến của một làng quê từ xa xưa đến hiện đại, qua đó giáo dục
truyền thống và tinh thần cố kết cộng đồng bền chặt.
Dự Lễ hội, người xem không chỉ được chứng kiến các nghi thức về một
hệ thống lễ với những động tác thuần thục, uy nghi mang tính nghệ thuật và biểu
tượng cao, mà còn có dịp cảm nhận được mối quan hệ hai chiều giữa làng và
nước, giữa cá nhân và cộng đồng; quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau
vừa thiêng liêng, vừa huyền ảo. Truyền thống yêu làng, yêu nước được gìn giữ
như một tài sản văn hóa cố kết cộng đồng của đồng bào vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh.
Ba là mang lại giá trị kinh tế :
Lễ hội Đển Quả Sơn thu hút được nhiều khách du lịch từ các huyện lân
cận như Yên Thành, Diễn Châu, Nam Đàn cũng như các vị khác ngoại tỉnh cũng
như Quốc tế. Nghệ An là những địa phương có vị trí thuận lợi cho các tour du
lịch ở khu vực bắc trung bộ.
19


Ngoài ra giá dịch vụ từ nhà nghỉ, khách sạn đến ẩm thực ở đây giá cả rất

phải chăng đây cũng là một điểm nhẫn khiến du khác thập phương muốn đến và
nán lại lâu hơn.
Con người nơi đây mến khách, chân chất thật thà, tạo sự tin tưởng cho du
khách chính vì thế ngày càng có nhiều du khách biết đến và tham dự lễ hội hằng
năm.
Bốn là, giá trị xã hội trong đời sống đương đại :
Có thể nói, Lễ hội đền Quả Sơn là những giá trị văn hóa, những chuẩn
mực đạo đức được chắt lọc từ nhiều thế hệ. Đó là nếp sống, lối sống được hình
thành trên những giá trị nhân văn của con người có tính đến sự phù hợp của các
điều kiện tự nhiên và xã hội, của người dân Đô Lương. Họ sống chân thành,
mộc mạc, giàu lòng yêu thương, nhân ái, biết sẻ chia, biết kính trên nhường
dưới, tôn kính lễ lên thánh thần; biết sống hài hòa với thiên nhiên, luôn làm điều
thiện, tránh xa điều ác. Những giá trị này đã tạo nên bản chất tốt đẹp của người
dân Đô Lương. Đó chính là điều kiện sống còn, là bản sắc văn hóa riêng giúp
cho người dân Đô Lương có sức sống đã vượt lên trong mọi hoàn cảnh mà
không bị hòa tan vào những dòng văn hóa khác.
3.1.2. Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm đạt được vẫn tồn tại một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, Công tác tổ chức chưa có sự chuẩn hóa.
Những công việc trong tổ chức vẫn như một thói quen lưu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác. Các văn bản giấy tờ của UBND xã về việc tổ chức mang
tính chất tổng quát. Các nội dung chủ yếu vẫn làm theo thói quen tập tục của
một số người lớn tuổi có uy tín tại các làng, xóm.
Thứ hai, xuất hiện các trò chơi mang tính chất lợi nhuận cạnh tranh.
20


Trong những năm gần đây lễ hội đền Quả Sơn tổ chức hàng năm thường
xuất hiện thêm các loại hình trò chơi tự phát, không nằm trong quản lý của ban
tổ chức. Ví dụ như Tôm cua cá ăn tiền, quay số trúng thưởng, ném vòng ăn

tiền...
Các hình thức trò chơi này tập trung ở nam giới trẻ và trung tuổi, xuất
hiện như trá hình của một hình thức cờ bạc không lành mạnh. khi tham gia
những trò chơi này một số cá nhân khi thua nhiều tiền dẫn đến việc gây gổ mâu
thuẫn với nhau.
Thứ ba, việc tổ chức các hoạt động dịch vụ trong lễ hội còn yếu kém,
hàng quán trong lễ hội bán tự phát tràn lan, giá cả tùy tiện, câu cò, ép buộc
người đi lễ hội mua hàng. Chưa có quy hoạch cụ thể và rõ ràng.
Thứ tư, cơ sở vật chất còn nhiều yếu kém, khu trông gửi xe chưa đủ rộng,
sân bãi phục vụ các môn thể thao giải trí còn nhiều hạn chế, không đạt chuẩn.
Các dụng cụ phục vụ các môn thể thao như thuyền, bóng đá, bóng chuyền cũ,
hỏng cần được thay thế.
Thứ năm, vấn đề mất an ninh trật tự vẫn diễn ra, trong quá trình phát ấn
vẫn diễn ra tình trạng chen lấn xô đẩy, ngoài ra còn có hiện tượng mất cắp đồ
đạc của du khách.
3.2. Giải pháp.
3.2.1. Quy hoạch không gian.
Cần xây dựng và mở rộng khu di tích. Mở rộng bãi đỗ xe, xây thêm các
sân bãi đạt chuẩn để phục vụ công tác triển khai lễ hội diễn ra suôn sẻ.
3.2.2. Đấy mạnh công tác tuyên truyền và nâng cao nhận thức về giữ gìn
nét văn hóa trong lễ hội đền Quả Sơn.
Đây là khâu vô cùng quan trọng để quảng bá, giới thiệu hình ảnh của lễ
21


hội đền Quả Sơn cũng như nét văn hóa đặc sắc của lễ hội diễn ra ở tỉnh Nghệ
An.
Giới thiệu về lễ hội, diễn giải và thuyết minh về Uy Minh Vương Lí Nhật
Quang, lịch sử của lễ hội cho du khách tham gia hiểu về ý nghĩa và vai trò to lớn
của lễ hội. Thực hiện công tác tuyên truyền về lễ hội bằng nhiều phương pháp

như: mời các phóng viên, nhà báo về tham dự lễ hội nhằm để họ viết bài, đưa
tin. Từ đó, hình ảnh lễ hội được quảng bá rộng rãi cho nhiều người, nhiều địa
phương biết.
Bên cạnh đó, nêu cao ý thức giữ gìn nét văn háo trong lễ hội đền Quả Sơn
đối với lớp thanh niên là một công việc cấp bách và cần thiết. Để lễ hội tiến
hành thuận lợi, góp phần giữu gìn và phát triến văn hóa của người dân Đô
Lương đối với văn hóa chung của Việt Nam.
3.2.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và biện pháp quản lí của lãnh
đạo của Tỉnh đối với Lễ hội đền Quả Sơn.
Lễ hội đền Quả Sơn cần có sự quan tâm của Đảng và nhất là sự quan tâm
của Tỉnh Nghệ An để lễ hội được phát triển. Các cấp, các ngành tiếp tục đầu tư,
chú trọng phát triển lễ hội. Ban tổ chức lễ hội cần có biện pháp bảo vệ an ninh,
an toàn cho lễ hội và du khách, đảm bảo văn hóa, văn minh trong tổ chức lễ hội.
Xây dựng các văn bản về quản lý, hướng dẫn tổ chức lễ hội, khi tổ chức
cần có những kế hoạch cụ thể về nội dung và hình thức, quy mô và thời gian. ở
lễ hội phải thành lập ban chỉ đạo tổ chức lễ hội các thành viên phải được phân
công nhiệm vụ rõ ràng và chịu trách nhiệm trước địa phương về công việc được
phân công.
Xây dưng các văn bản về nội quy, quy chế lễ hội, tăng cường công tác
thành tra, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động an ninh trong lễ hội.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục lớp thế hệ trẻ về tầm quan trọng của
22


lễ hội.
Công tác giáo dục thế hệ trẻ được xem là quan trọng. Trong xu thế hội
nhập và phát triển, có nhiều luồng văn hóa ngoại nhập, những luồng văn hóa đó
dần làm mai một những giá trị truyền thống của dân tộc, thế hệ trẻ ngày càng
tiếp xúc nhiều với những nề văn hóa ấy nên dần đã quên đi những văn hóa dân
tộc. Chính vì thế công tác giáo dục lóp trẻ rất cần thiết và cần phải được chú

trọng. Giáo dục thế hệ trẻ ở việc nhận thức được những nét văn hóa truyền
thống, bản sắc dân tộc, tầm quan trọng của văn hóa truyền thống đối với việc
bảo vệ và phát triển đất nước. Từ đó, nâng cao nhận thức về vấn đề lưu giữ, bảo
tồn và phát huy những giá trị truyền thống ấy.

Tiểu kết
Qua chương này mọi người có thể nhận thấy được ưu nhược điểm của lễ
hội đền Quả Sơn cũng như biết được cách khắc phục các nhược điểm đó.

23


KẾT LUẬN
Lễ hội đền Quả Sơn là một loại hình sinh hoạt văn hóa đáp ứng tình cảm
thiêng liêng và bền vững giữa người dân Đô Lương đối với các vị anh anh hùng
dân tộc góp công lớn trong việc dựng và giữ nước mà cụ thể đây là Uy Minh
Vương Lí Nhật Quang, là sợi dây liên kết củng cố cộng đồng. Nó trở thành một
ngày hội thực sự của đồng bào, là môi trường tổng hợp các loại nghi thức, tín
ngưỡng dân gian, các loại hình nghệ thuật. Có lẽ, nét văn hóa để lại ấn tượng sâu
sắc trong lòng người đó là các trò diễn, trò chơi trong lễ hội.
Lễ hội đền Quả Sơn là lễ hội truyền thống điến hình của người dân Đô
Lương nói riêng và của đồng bào khắp đất nước Việt Nam nói chung. Việc
nghiên cứu lễ hội giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể, sâu sắc hơn về vấn đề kế thừa
và phát huy vốn văn hóa cổ truyền trong điều kiện giao lưu, hội nhập và phát
triển của đất nước hiện nay. Lễ hội đền Quả Sơn luôn mang trong mình những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đây là nền móng vững chắc
để xây dựng nước ta có một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Để bảo tồn, phát huy, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc, chúng ta phải
hiểu được nguồn gốc, bản chất, sự phát triển, giá trị và vai trò của lễ hôi. Trong
những năm gần đây đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng được

nâng cao, cùng với sự quan tâm của đảng, nhà nước lễ hội đền Quả Sơn diễn ra
càng sôi nổi, phong phú hơn, đảm bảo các yếu tố văn hoá dân gian, đã thu hút du
khách cả nước đến thăm quan, dự hội ngày một đông. Trong những ngày hội đền
Quả Sơn đầu năm mới, mảnh đất Đô Lương luôn tấp nập du khách gần xa về dự.
Với những người được dự hội, khi trở về đều mang theo nỗi nhớ khó quên về
những kỷ niệm nơi miền quê Đô Lương này. Hẳn ai cũng sẽ tự hẹn lòng, mùa
xuân năm sau lại tìm về dự hội.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Gia Khánh, Trên đường tìm hiểu văn hóa dân gian, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội, 1989, tr.174, 177, 172.
2. Vĩnh Quang Lê, Khảo sát thực trạng văn hóa lễ hội truyền thống của người Việt

đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001
3. Tôn Thất Bình, Lễ hội dân gian hiện nay ở Thừa Thiên Huế, trong sách Lễ hội

truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,
1994, tr.112, 110
4.

Ngô Đức Thịnh, Về tín ngưỡng, lễ hội cổ truyền, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.325.

5.

Ngô Đức Thịnh, Về tín ngưỡng, lễ hội cổ truyền, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.325.

25


×