MỞ ĐẦU
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin kính gửi đến cô Ths. Trần Thị Phương
Thúy lời cảm ơn trân thành và sâu sắc nhất. Cảm ơn cô đã nhiệt
tình, chu đáo chỉ bảo, hướng dẫn cho em trong suốt quá trình làm
bài tiểu luận. Cô đã giúp đỡ em rất nhiều khi em gặp những khó
khăn và thắc mắc. Em cũng muốn kính gửi lời cảm ơn đến các thầy
cô giáo trong khoa Văn hóa Thông tin và Xã hội đã nhiệt tình giúp
đỡ cũng như tạo mọi điều kiện thuân lợi nhất cho chúng em trong
suốt quá trình học tập Đây là lần đầu tiên làm quen với công việc
nghiên cứu về các dân tộc thiểu số ít người ở Việt
Nam, trong
quá trình viết, do còn thiếu điều kiện và kiến thức còn hạn chế, bài
tiểu luận sẽ không tránh khỏi những sai sót và khiếm khuyết. Vì
vậy, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
quý thầy cô để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong nhiều năm trở lại đây, dưới tác động của các điều kiện
kinh tế-xã hội, nhất
là sự tác động của kinh tế thị trường làm
cho đời sống văn hoá và các phong tục
tập quán truyền thống đã
có những thay đổi về nhiều mặt cả tích cực và tiêu cực
làm ảnh
hưởng nhiều đến việc gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống
dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu các phong tục tập quán truyền
thống, đặc biệt là các dân tộc thiểu số được đặt ra như một nhiệm
vụ cấp thiết.
Cho đến nay, người Khơ-mú ở Việt Nam không đông. Cả nước
có 56.542 người (năm 1999), trong đó trên địa bàn tỉnh Yên Bái,
người Khơ-mú có hơn 1.000 người. Văn Chấn là huyện duy nhất
trong tỉnh có nhiều người Khơ-mú sinh sống.
Do tác động của
nền kinh tế thị trường, do có sự giao thoa văn hóa của các tộc
người sống xen kẽ, những năm qua vấn đề tín ngưỡng văn hóa
của người Khơ-mú đã có nhiều thay đổi theo những chiều hướng
khác nhau. Đặc biệt là đã bắt đầu xuất hiện một số vấn đề làm ảnh
hưởng đến gìn giữ bản sắc của người Khơ- mú ở
Yên Bái.
Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu này, chúng tôi tập trung nghiên
cứu tín ngưỡng văn hóa của người Khơ-mú ở huyện Văn Chấn, tỉnh
Yên Bái.
Luận văn sẽ góp phần nâng cao nhận thức về văn hoá truyền
thống của người Khơ-mú nói chung, ở Văn Chấn nói riêng. Từ
đó, thấy được những giá trị tích cực cũng như những yếu tố
không còn phù hợp trong quá trình xây dựng đời sống văn hoá mới.
Đồng thời có thêm luận cứ khoa học giúp cho các nhà quản lý ở địa
phương có thêm cơ sở khoa học trong việc hoạch định chính
sách và tìm ra các giải pháp thích hợp trong việc bảo lưu, gìn giữ và
phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, theo tinh thần Nghị quyết của
Hội nghị T.W 5, khoá 8 về Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Với lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu tín ngưỡng văn hóa
của người Khơ Mú để làm rõ tín ngưỡng văn hóa độc đáo của người
Khơ Mú, những hiện trạng và
những giải pháp khắc phục đưa
văn hóa tín ngưỡng của người Khơ Mú ngày càng
phát triển,
cũng qua đó giữ lại bản sắc độc đáo của tín ngưỡng văn hóa của
đồng
bào dân tộc thiểu số của đất nước ta.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Cho đến nay, đã có một số các tác giả người nước ngoài nghiên
cứu về người Khơ-mú nhưng chủ yếu về người Khơ-mú ở Lào và
Thái Lan, ở Việt Nam còn rất
ít, ngoại trừ công trình Études
Ethnographiques sur les Khas, Revue Indochinoise, 1907, của
Macey và bài viết Chương trong văn học dân gian, trong lịch sử và
tiềm
thức của người Khơ-mú của TS. Frank Proschan. Tuy
nhiên, so sánh với các tộc
người thuộc nhóm ngôn ngữ MônKhơme miền Bắc, thì Khơ-mú cũng là tộc người được nhiều nhà
nghiên cứu trong nước quan tâm, chú ý. Ngay sau 1954, người
Khơ-mú được nhiều người biết đến qua các báo cáo của Ban Dân tộc
Khu
Uỷ Tây Bắc với tộc danh là Xá.
Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ trước, các công trình
nghiên cứu có liên quan đến người Khơ-mú bắt đầu được công bố
như: Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam, 1963 và
Sự phân bố dân tộc và nhóm dân cư ở miền Bắc Việt Nam, 1966
của Vương Hoàng Tuyên.
Từ sau 1975, người Khơ-mú ngày càng được giới thiệu nhiều
hơn trong các công
trình, bài viết, tiêu biểu như: Những nhóm
dân tộc thuộc ngữ hệ Nam Á ở Tây
Bắc Việt Nam do Đặng
Nghiêm Vạn chủ biên, Nxb Khoa học xã 3 hội H, 1972; Các dân
tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học,
Nxb
Khoa học xã hội, H, 1978; Dân tộc Khơ-mú ở Việt Nam do
Khổng Diễn chủ biên, Nxb Văn hoá Dân tộc, H, 1999; Người
Khơ-mú do Chu Thái Sơn chủ biên, Nxb Trẻ -2006; Các dân tộc
thiểu số ở Nghệ An của Nguyễn Đình Lộc, Nxb Nghệ An, 1993;
Đặc trưng văn hoá và truyền thống cách mạng các dân tộc ở Kỳ Sơn,
Nghệ
An do Phạm Quang Hoan chủ biên, Nxb Chính trị Quốc
gia, H, 1995; Xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc
Việt Nam của Viện Dân tộc học, Nxb, Khoa học xã hội, H, 1975;
Góp phần nghiên cứu bản lĩnh, bản sắc các dân tộc Việt Nam của
Viện Dân tộc học, Nxb, Khoa học xã hội, H, 1980; Sổ tay các dân
tộc ở
Việt Nam của Viện Dân tộc học, Nxb, Khoa học xã hội, H,
1983; Dân tộc và bản sắc văn hoá vùng Văn Chấn, Mường Lò của
Bùi Huy Mai, Nxb Văn hoá Dân tộc, H, 2007… Trong các công
trình, bài viết kể trên, người Khơ-mú đã được giới
thiệu khá đầy
đủ từ góc độ tộc danh, dân số, địa bàn cư trú... cho đến các hoạt
động kinh tế truyền thống, các dạng thức văn hoá cổ truyền của
họ. Tuy nhiên,
cho đến nay vẫn thiếu vắng một khảo cứu mang
tính chuyên sâu về phong tục hôn nhân và cưới xin của họ. Đặc biệt,
vẫn còn rất ít các công trình, bài viết riêng về
người Khơ-mú ở
Văn Chấn nói chung, và tín ngưỡng văn hóa của họ nói riêng.
MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Mục đích
Đánh giá thực trạng và tìm ra những giải pháp gìn giữ, phát huy
những giá trị văn hoá trong hôn nhân và tục lệ cưới xin của người
Khơ mú ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Nhiệm vụ
Làm rõ những giá trị văn hoá trong hôn nhân và cưới xin của người
Khơ- mú ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái cần phát huy và những
hạn chế Đề xuất giải pháp để phát huy giá trị văn hoá trong hôn nhân
và cưới xin của người Khơ-mú ở huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG CỦA DÂN TỘC KHƠ MÚ
1. Tên gọi, dân số, địa bàn cư trú:
- Người Khơ-mú là một trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Cho đến nay, dân số người Khơ-mú ở Việt Nam không đông. Theo
số liệu thống kê năm 1999,dân
tộc Khơ-mú có 56.542 người,
đứng thứ 23 trong 54 các dân tộc Việt nam. Họ chủ yếu cư trú tại
các tỉnh: Nghệ An, Thanh Hóa, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái... Khơmú là một trong sáu tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khơme (của Ngữ
hệ Nam Á) miền Bắc Việt Nam.
- người Khơ-mú còn được các dân tộc gọi bằng những tên khác
nhau: Xá Cẩu,
Khá Klẩu, Mảng Cẩu (người búi tóc ngược),
Tềnh, Phu Thênh (người ở trên núi
cao),
Tày Hạy (người
chuyên làm nương), Mứn Xen (ngàn vạn) v.v… Sau đợt xác minh
thành phần dân tộc (1968-1978), Khơ-mú trở thành tên gọi
chính
thức, được ghi
trong Danh mục thành phần các dân
tộc Việt Nam, công bố năm 1979.
2. Lịch sử tộc người
- lịch sử của người Khơ-mú ở Tây Bắc Việt Nam, trước đây có
ý kiến cho rằng
cùng với người Kháng, Xinh-mun, 7 Mảng, Khơmú cũng là một trong những cư dân bản địa đã cư trú lâu đời ở
vùng núi Tây Bắc. Ý kiến này được trình bày trong tài liệu “Báo
cáo về tình hình người Xá Cẩu” của Ban Dân tộc Tây Bắc năm 1954.
Sau này, Lã Văn Lô, Vương Hoàng Tuyên cũng có nhắc lại
trong các bài viết của mình. Theo truyền thuyết trong truyện “Quả
bầu” của Người Thái Tây Bắc cũng
kể rằng: Tổ tiên của người
Khơ-mú và người Thái đều chui ra từ một quả bầu
nhưng người
Khơ-mú thì chui ra trước theo lỗ dùi bằng sắt nhọn, nên có màu da
đen, còn tổ tiên người Thái thì chui ra sau bằng lỗ dao khoét,
nên có màu da trắng
hơn.
- Tuy nhiên, ngay từ đầu đã có những ý kiến nghi ngờ về quan
điểm người Khơ- mú là cư dân bản địa miền Tây Bắc nói trên.
Sau những đợt điền dã ở vùng Tây
Bắc từ những năm 1960, GS.
Đặng Nghiêm Vạn đã đưa ý kiến nghi ngờ này trên tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử số 78/1965 và chứng minh rằng Khơ-mú
không phải là cư dân bản địa miền Tây Bắc, mà họ mới di cư
từ Lào 8 sang Việt Nam cách đây hơn 200 năm. Đến nay, với những
tư liệu và tài liệu thu thập
được, ý kiến này vẫn phù
hợp. Về
mặt nhân chủng, khi so sánh người Khơ- mú với người Kháng và
người
La Ha, Nguyễn Đình Khoa cũng nhấn mạnh, ở người
Khơ-mú, yếu tố
Inđônêdiêng trội hơn yếu tố Nam Á, mặc dù yếu
tố Inđônêdiêng ở họ cũng đang mờ dần.
- nguồn gốc của người Khơ-mú là từ Lào (tập trung ở Luông
Pra Băng với các vương quốc Swa/Saowa), nhưng sau này người
Thái do tù trưởng Khun Bo Rôm cùng con trai là Khun Lò tràn từ
Vân Nam (Trung Quốc) xuống đánh chiếm, cộng
thêm các cuộc
xâm lược từ bên kia sông Mê Công của phong kiến Xiêm thế kỷ
XVII-XVIII, nên họ phải chạy sang các nước láng giềng lánh
nạn, trong đó có miền Tây Bắc, miền núi Thanh - Nghệ và cả Bắc
Thái Lan. Sau này, với mong
muốn khôi phục lại vương quốc,
thủ lĩnh Chương Han mới tổ chức lực lượng
đánh chiếm nhiều
nơi, gọi là nạn giặc Chương (xấc Chương), trong đó có nhiều lần
đánh sang cả Mường Lay (Lai Châu), Kỳ Sơn (Nghệ An) vào những
năm cuối
thế kỷ XIX. Sau khi Chương Han thất bại, những
người theo ông phải ở lại Việt
Nam và chịu thân phận cuông,
nhốc (tức là nô lệ, tôi tớ) cho các lãnh chúa Thái.
3. Đặc điểm kinh tế, văn hóa xã hội của người Khơ Mú:
- Hầu hết người Khơ-mú đều lấy canh tác nương rẫy làm nguồn
sống chính. Ngoài trồng lúa, bà con còn trồng các loại ngô, sắn, bầu
bí, cây ăn quả. Công việc hái
lượm, săn bắt, đánh bắt cá còn
chiếm vị trí khá quan trọng trong đời sống hàng ngày. Ngoài ra chăn
nuôi gia súc, gia cầm phổ biến ở hầu hết trong các gia đình.
Nghề thủ công truyền thống phát triển nhất là đan lát với nhiều
sản phẩm đan có tiếng như mâm mây, gùi, ghế và các đồ gia dụng
khác. Trao đổi chủ yếu diễn ra
trong nội bộ và với người Thái.
Trước kia, trao đổi chủ yếu dưới hình thức vật đổi
vật, nay phổ
biến dùng tiền.
- Xã hội cổ truyền của người Khơ-mú được tổ chức theo thiết
chế bảnmường của người Thái. Các bản Khơ-mú đều trực thuộc
mường, nhưng vẫn được duy trì việc tự quản theo tập quán truyền
thống. Mỗi bản có trưởng bản Khun cung (cha truyền con nối, do
bầu bán hay do chỉ định) đứng đầu điều hành, quản lý. Hằng năm,
mỗi bản phải chịu cống nạp và lao dịch theo lệ mường quy định.
Ngoài ra,
còn phải nộp các loại thuế cho chúa đất mường là
người Thái. Từ trước tới nay,
người Khơ-mú thường ở thành
từng bản làng, vẫn có tập quán ở nhà sàn, kiểu nhà hình khum
mai rùa. Do du canh du cư, nên kiểu nhà truyền thống của họ thường
chỉ làm bằng các loại gỗ tạp, ba gian, lợp tranh hay lá cọ, đầu
hồi có trang trí khau
cút hình chéo. Thông thường có hai bếp:
bếp dành để nấu ăn hàng ngày và một bếp chỉ dùng để nấu nướng
khi giỗ tổ họ hay khi làm nhà lớn. Nơi thờ ma nhà
thường bố trí
thành một gian riêng tại hồi phía sau. Sau này, nhiều bản đã định cư,
nên nhà cửa có phần khang trang hơn.
Trừ một số nơi có nghề dệt, còn lại hầu hết người Khơ-mú
thường đem các sản
phẩm đan lát đổi lấy vải của người Thái về
sử dụng. Hiện nay, ở Điện Biên, Lai Châu, phụ nữ Khơ-mú còn
mặc váy đen và kiểu áo truyền thống có trang trí hàng
cúc bạc
hay nhôm hình chữ nhật, đội khăn đen kiểu khăn piêu; còn lại
thường mặc y phục kiểu phụ nữ Thái, thường đeo các đồ trang sức
bằng bạc, nhôm như: vòng cổ, vòng tay, khuyên tai; Đàn ông Khơmú mang trang phục của người Thái hoặc trang phục của người
Kinh và thường đội mũ đen.
Với người Khơ-mú, hình thức gia đình cũng giống như người
Việt, đó là quá trình
phát triển từ hình thức đại gia đình đến gia
đình hạt nhân. Trong qua trình phát
triển của xã hội, hình thức
đại gia đình ngày càng giảm dần, thay vào đó là gia đình hạt nhân,
gia đình nhỏ với hai thế hệ vợ chồng và con cái. Gia đình người
- Khơ-mú là gia đình phụ quyền, người chồng, người cha là
người chủ gia đình,
có vai trò quan trọng nhiều mặt của cuộc
sống: có quyền hành lớn, quyết định mọi việc từ làm ăn, cưới xin,
tang ma đến công việc tín ngưỡng. Đồng thời, họ
còn là
người thay mặt gia đình quan hệ với họ hàng, làng xóm và các
tổ chức xã hội, với chính quyền địa phương. Mọi tài sản trong
nhà, kể cả ruộng nương, trâu bò, công cụ sản xuất đều do người
đàn ông là người chủ nắm giữ.
Quyền lực này sẽ được bàn giao
lại cho con trai cả khi đã trưởng thành đảm đương, người cha chỉ
đóng vai trò cố vấn và lo việc đối ngoại. Bên cạnh quyền lực thực
tế của người chồng người cha được xã hội ghi nhận, người phụ nữ
(người mẹ) trong gia đình người Khơ-mú có vai trò quan
trọng trong đời sống gia đình và sản xuất, từ việc tham gia lao
động sản xuất trên nương, ngoài ruộng đến các công việc nội chợ
trong gia đình, nuôi dạy con cái… ngoài việc
tham
gia lao
động
nặng nhọc, người phụ nữ đảm nhận lớn hơn nam giới rất
nhiều Tuy
nhiên trong xã hội truyền thống của người Khơmú, người phụ nữ hầu như không có quyền hành gì lớn trong gia
đình.
- Gia đình người Khơ-mú là nơi bảo tồn các gía trị văn hóa
truyền thống, là nơi
trao truyền các truyền thống tộc người trong
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Trước kia, người Khơ-mú ở Văn Chấn chủ yếu ở nhà sàn hoặc nhà
nửa sàn nửa đất. Do du canh du cư, nên ngôi nhà của họ cũng mang
tính tạm bợ, chủ yếu dựng bằng các loại gỗ tạp, lợp gianh, vách nứa.
Hiện nay, nhà ở cũng phong phú hơn, bên cạnh những ngôi nhà sàn
truyền thống, bà con cũng dựng những ngôi nhà đất giống người
Kinh, hoặc nhà sàn đổ cột bê tông, có tường xây, gạch lát nền, gầm
sàn lát xi măng...
+ Trang phục của người Khơ-mú ở Văn Chấn cũng không có gì đặc
biệt bởi họ không duy trì nghề dệt vải. Trước kia, y phục của nam nữ
Khơ- mú cơ bản giống như bộ y phục của người Thái Đen Mường
Lò. Hiện nay, nam giới chủ yếu mặc âu phục như người Kinh, nữ
vẫn mặc theo kiểu y phục phụ nữ Thái.
+ Ẩm thực của người Khơ-mú cũng đơn giản trên cơ sở tự cung tự
cấp. Người Khơ-mú rất thích ăn cay, ăn đồ nướng. Món ăn đặc trưng
nhất của họ là thịt lam nhoọc (thịt chuột, sóc... sấy khô nấu trộn với
tấm). Họ cũng thích ăn món ruột non (nậm pịa) như người Thái
trong vùng. Cũng giống như nhiều dân tộc miền núi khác, người
Khơ-mú Nghĩa Sơn thường xuyên uống rượu cần và rượu nếp do họ
tự cất ủ theo kiểu riêng của mình. Trong đời sống văn hóa của người
Khơ-mú, ruợu cần có vị trí và vai trò quan trọng. Nghi thức cúng
rượu cần được sử dụng trong những sự kiện quan trọng của gia đình,
đó là lễ lên nhà mới, lễ cưới và lễ rước hồn mẹ lúa. Rượu cần chỉ
cúng cho tổ tiên và trong lễ hội Xên bản, Xên mường.
- Tiểu kết chương I: qua chương I chúng ta có thể thấy nguồn gốc,
lịch sử tộc người Khơ Mú. Ngoài ra chúng ta cũng có thể thấy được
đặc điểm kinh tế văn hóa xã hội của người Khơ Mú vô cùng đặc sắc
và phong phú.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ TÌM HIỂU TÍN NGƯỠNG CỦA DÂN
TỘC
1. tín ngưỡng trong gia đình:
• Cũng giống như các vùng khác, tín ngưỡng dân gian của
người Khơ- mú Nghĩa Sơn khá sâu đậm. Họ vừa có ý thức
tín ngưỡng riêng của dân tộc 18 mình, lại vừa chịu sự chi
phối, giao thoa của tín ngưỡng bản địa các dân tộc lân cận,
đặc biệt là dân tộc Thái. Đồng bào cho rằng: mọi hoạt động
trong cuộc sống thường ngày của mình đều do lực lượng siêu
nhiên giám sát, chi phối. Lực lượng “siêu nhiên” ấy được gọi
chung là ma, trong đó ma trời (Hrôi Lvang) là to nhất, đáng
tôn trọng và đáng sợ nhất. Ma trời có nhiều ma khác nhau
giúp việc như ma sấm, ma mưa gió nên nếu mà trời giận thì
sẽ rất nguy hiểm. Sau ma trời là ma đất (Hrôiptê), dưới
quyền ma đất là ma nương, ma rừng, ma bản… Loại thứ ba
là ma Thuồng Luồng
• ma tượng trưng cho nguồn nước, sông suối (Prưdồng).
Thuồng Luồng có quyền uy nằm ở những vũng nước lớn để
điều hành lượng nước cần thiết cho con người. Ma thứ tư là
ma Hổ (Rvai) là chúa tể của rừng núi, cai quản tinh linh của
muôn loài thú vật. Đó là bốn loại ma quan trọng nhất mà bất
cứ dịp cúng lễ nào cũng được nhắc tới. Bốn ma to này cùng
với ma nhà và ma Tổ tiên (của thị tộc, dòng họ) có thể trừng
phạt hay phù hộ con cháu bất cứ lúc nào tuỳ theo cách đối xử
của con cháu. Tục thờ vật tổ (tô tem) cũng in đậm ở người
Khơ-mú cho đến tận ngày nay. Mỗi khi lễ tết, hội hè họ sẽ
hoá trang giống hình thù con vật hay cây cối mang dòng họ
của mình để tham gia cùng cộng đồng. Trong dịp cúng tổ
tiên, các dòng họ đều diễn lại những đặc điểm của dòng họ
mình khi xưa. Ngoài lễ cúng ma nhà, người Khơ-mú còn có
tục lệ cúng ma bản, ma làng. Ma làng được bà con quan niệm
là linh hồn của những người có công lập nên làng bản trong
thuở ban đầu. Ngoài ra, dân bản còn tổ chức cúng ma trời
đất, ma sông suối, ma tà, ma độc (gọi chung là ma đến ăn).
Các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp cũng rất
được người Khơ-mú coi trọng và thực hiện khá đầy đủ. Tùy
tính chất và nhu cầu, đặc điểm, thời gian mà những nghi lễ
được tổ chức thích hợp.
2. các lễ hội, phong tục:
- Lễ cầu mưa: Người Khơ-mú sợ nhất là vào mùa nương rẫy mà hạn
hán, nên trước mùa nương rẫy bà con mở hội “cầu mưa”. Cách cầu
mưa của họ không chỉ là các hình thức ma thuật, bắt chước, diễn lại
hiện tượng mưa rơi (vảy nước, tuốt lá thể hiện tiếng mưa), mà còn là
làm các điều “xúi quẩy” vào chỗ linh thiêng ở nương... để “chọc tức”
trời hay ma hạn hán (hrôi nhan) bực mình mà đổ mưa xuống. Lễ tra
hạt: Lễ này được tiến hành sau khi đốt rẫy ba ngày chủ nhà phải làm
một khu rẫy tượng trưng rộng khoảng 2m2 rồi trồng khoai sọ vào
bốn góc. Sau đó mổ một con gà trống luộc chín cùng với chai rượu,
trầu cau đặt lên mâm để cúng và đọc thần chú cầu mong thần linh
phù hộ cho hạt mọc đều, chim muông không đến phá phách…
- Lễ cúng hồn lúa, mẹ lúa: Người Khơ-mú cho rằng lúa có hồn và
phải giữ được hồn của nó thì lúa mới chắc, mới cho con người thu
hoạch có kết quả. Nếu hồn lúa bỏ đi là lúa hỏng hết. Lễ này được tổ
chức vào một ngày tốt trong tháng 9 âm lịch bên cạnh kho thóc vừa
dựng lên trên nương rẫy. Thầy cúng thay mặt gia đình vào hành lễ,
mời hồn lúa vào kho. Sau lễ này gia đình mới được phép thu hoạch
lúa trên nương rẫy của mình.
- Lễ cúng cơm mới: Đây là nghi lễ quan trọng trong năm sau lễ cúng
ma nhà và lễ cúng ma bản. Nó thể hiện lòng biết ơn của con người
đối với lực lượng siêu nhiên đã cho họ một mùa thu hoạch. Lễ được
tổ chức trước hoặc sau khi thu hoạch mùa màng tuỳ theo từng vùng.
3. văn nghệ dân gian:
Trước hết là phải nói đến những truyền thuyết, sự tích về nguồn
gốc tộc người,
nguồn gốc dòng họ như chuyện “Quả Bầu”
chuyện “T góoc”, chuyện “Chim én”, chuyện “Chim chìa vôi”,
chuyện “Cây dương xỉ”…
Ngoài ra, người dân cũng sở hữu một kho tàng ca dao, tục ngữ,
câu đố, truyện
cười, truyện cổ tích... phong phú. 20 Người dân
Khơ-mú trong bản còn lưu truyền những làn điệu dân ca của dân tộc
như “Mưa rơi”, “hát tơm” (hát đối đáp vào những dịp mừng nhà
mới, đón năm mới, đám cưới...), “hát cơnchơ” (hát ở trên rừng để
gọi tình yêu, nhớ người yêu, ca ngợi cảnh thiên nhiên, hát động viên
trong
lao động, đi đường...)
Những nhạc cụ người Khơ-mú thường dùng như “Thằm đao
đao”, “Đàn trống”; “Đàn môi”; “Sáo dọc pi tơn”, “Sáo dọc pi tót”;
“Sáo thổi bằng mũi”; “Sáo nhiều ống”; “Đàn dây”; “Khèn bè”;
“Cồng chiêng”... Người Khơ-mú cũng thích nhảy
múa
trong
những dịp lễ tết hội hè và họ đã có những điệu múa được nhiều
người
biết đến như “múa tăng bu”, “múa cá lượn” (hay còn gọi là
“múa giao duyên”)...
Đó là những hình thức sinh hoạt văn nghệ dân gian khá độc đáo
của người Khơ-mú có từ thuở xa xưa và đến nay vẫn còn tồn tại
trong các bản làng.
-Tiểu kết chương II: qua chương II chúng ta có thể thấy đời
sống văn hóa tinh thần của dân tộc Khơ Mú vô cùng phong phú và
đặc sắc, người Khơ Mú có một đời sống văn hóa tinh thần mang bản
sắc dân tộc vô cùng phong phú và đặc sắc.
CHƯƠNG III: NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG VIỆC BẢO TỒN
TRONG TÍN NGƯỠNG CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI KHƠ MÚ:
1. Những vấn đề chung trong hôn nhân và tục lệ cưới xin của
người Khơ Mú:
Về hôn nhân, người Khơ-mú đều tuân thủ những nguyên tắc nhất
định, từ yêu đương tìm hiểu đến các lễ tục trong việc cưới xin. Trước
kia việc dựng vợ gả chồng là do cha mẹ sắp đặt, con cái không có
quyền lựa chọn. Hiện nay trai gái được tự do tìm hiểu bạn đời, hôn
nhân hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện. Cũng giống như các dân
tộc khác, người Khơ-mú quan niệm hôn nhân là để sinh con đẻ cái,
có người nối dõi tông đường. Điều này được thấy rõ trong việc thờ
cúng ma nhà, người Khơ-mú có câu: “Sưp đặc tay ray đặc quai, sưp
sơ đen đen dua” (lấy vợ lấy chồng để sinh con cái để nối dài nòi
giống 21 gia đình và dòng họ). Do đó, họ rất lo khi không có con
trai, vì nếu không có ai thờ cúng ma nhà thì cái hồn cái vía của ông
bà tổ tiên, của bố mẹ sẽ phải đi ăn xin. Nếu gia đình có cả trai và gái
là tốt phúc. Người Khơ-mú cũng muốn có đông con để có nhân lực
lao động, chăm sóc cha mẹ khi già yếu và thờ cúng khi cha mẹ qua
đời. Nếu không có con cái, họ sẽ xin con nuôi. Vì thế, hiện nay thủ
tục xin con nuôi của họ thường đơn giản. Hai bên thoả thuận trước,
đến khi đứa trẻ lọt lòng mẹ thì bố mẹ nuôi đến nhận và đón về làm lễ
đặt tên, cúng ma nhà.
Trong hôn nhân truyền thống của người Khơ-mú, vẫn còn một số tàn
dư của hôn nhân nguyên thủy: Đó là hình thức hôn nhân anh em
chồng (Levirat) và hôn nhân chị em vợ (Sororat). Trong các công
trình nghiên cứu về người Khơ-mú đã công bố, hình thức hôn nhân
anh em chồng và hôn nhân chị em vợ tồn tại phổ biến ở 23 người
Khơ-mú. Câu tục ngữ “Thrac con mạ, căn brạ tai hem” (Lấy trâu lấy
cả con lẫn mẹ, lấy vợ lấy cả chị lẫn em) đã phản ánh hiện tượng hôn
nhân này. Tuy nhiên, các tư liệu khảo sát tại Văn Chấn lại cho thấy
ngược lại, hình thức hôn nhân này đã bị cấm đoán. Đồng bào cho
biết, theo tập quán của người Khơ-mú ở địa phương này, khi người
chồng chết, anh em trai và những người đàn ông trong dòng họ
không được phép lấy người vợ goá của anh (em) mình. Nếu ai không
tuân theo sẽ bị coi như vi phạm luật tục của cộng đồng. Hôn nhân
truyền thống của người Khơ-mú ở Văn Chấn thực hiện theo chế độ
hôn nhân một vợ một chồng. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số trường
hợp người chồng chỉ được phép lấy vợ lẽ khi người vợ cả bị chết
hoặc không có con. Ở xã Nghĩa Sơn, khi vợ không có khả năng sinh
con, người chồng cũng không vì thế mà đòi bỏ vợ, cũng không hắt
hủi vợ, mà thường được giải quyết bằng việc xin con nuôi. Vợ chồng
người Khơ-mú sống bình đẳng, hiếm thấy trường hợp ly dị hoặc bất
hòa. Khi đã có vợ, đàn ông không được phép đi tìm người phụ nữ
khác. Việc ngoại tình được xem là hành vi xấu xa nhất và có những
hình phạt nặng nề. Nếu người hủ hoá gây án mạng thì phải làm lễ an
táng cho nạn nhân, sau khi chết, xác phải chôn dưới hài cốt nạn nhân
do mình gây án. Tuy tuân thủ chế độ hôn nhân một vợ một chồng,
nhưng do nhiều nguyên nhân, trong hôn nhân của người Khơ-mú
vẫn tồn tại hiện tượng đa thê, song rất ít. Theo ông Sang, cả xã có ba
trường hợp đàn ông lấy nhiều vợ, hiện nay không còn trường hợp
nào. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng đa thê là người vợ cả
muốn có thêm chị em, nên thường chủ động tìm vợ lẽ cho chồng.
Cũng có khi do gia đình người đàn ông tương đối khá giả, trong khi
gia đình người vợ lẽ có thể đang mắc một khoản nợ nào đó, nên
đành phải chấp nhận làm vợ lẽ của anh ta. Trong hôn nhân của người
Khơ-mú, tồn tại hình thức hôn nhân con cô con cậu. Hình thức hôn
nhân này được người Khơ-mú gọi là: Con chim brọ 24 mạ cưn đệ
con chim cưm êm. Đồng bào rất ưa thích các trường hợp con trai cô
lấy con gái cậu này. Vì thế, có khi bà cô thường chủ động, khuyến
khích đứa con trai mình tìm đến làm quen, tán tính những đứa con
gái của cậu. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân nên hình thức hôn
nhân con cô con cậu của người Khơ-mú đã ở vào giai đoạn tan rã.
Thực chất, đây là sự ngăn cấm bước đầu các cuộc kết hôn vi phạm
nguyên tắc ngoại hôn dòng họ. Mặc dù trong hôn nhân truyền thống
của người Khơ-mú tồn tại hình thức “con dì con già” tức con chị em
gái lấy nhau, nhưng tư liệu khảo sát tại các bản người Khơ-mú Văn
Chấn cho thấy hình thức này không còn tồn tại. Đồng bào ở đây giải
thích, vì hai người mẹ là chị em ruột nên con của họ không được
phép lấy nhau bởi như thế chẳng khác gì loạn luân. Trong thực tế,
hình thức con của chị em gái kết hôn với nhau chưa xảy ra. Như vậy,
nhận thức của người Khơ-mú ở Văn Chấn về Luật Hôn nhân và gia
đình khá cao. Nó cũng phù hợp với văn hóa dân tộc và su thế phát
triển xã hội. Hôn nhân truyền thống của người Khơ-mú cũng tồn tại
hình thức hứa hôn. Thông thường, việc kết hôn của các cặp vợ chồng
trẻ này là do sự sắp đặt sẵn của cha mẹ hai bên, nhất là khi họ đã kết
nghĩa làm anh em. Hằng ngày, họ năng lui tới thăm hỏi nhau, biếu
nhau từ gắp chuột nướng, bó măng, cùng chia ngọt, sẻ bùi, giúp đỡ
nhau khi ốm đau, tang ma, cưới xin hay lên nhà mới... Để thắt chặt
tình cảm thêm bền chặt, họ thường hứa gả con cái cho nhau để trở
thành thông gia của nhau.
− Trước kia, tuổi kết hôn của trai gái người Khơ-mú thường là:
nam từ 16 - 17 tuổi, nữ từ 15 - 16 tuổi. So với một số dân tộc
khác trong vùng như người Hmông, người Dao, người
Mường...thì tuổi kết hôn truyền thống của người Khơ-mú
không quá sớm. Đồng bào lý giải: do công việc nhà nông của
đồng bào ở đây rất vất vả, khó nhọc nên khi dựng vợ gả chồng
cho con cái, người Khơ-mú bao giờ cũng tính toán độ tuổi phù
hợp để đáp ứng với công việc hàng ngày mà con mình phải đảm
đương (con trai cũng như con gái). Đối với các cô gái, nếu lấy
chồng quá sớm thì các ông bố, bà mẹ của họ là những người lo
lắng hơn cả. Họ lo con mình vất vả, không đủ sức gánh vác
công việc gia đình vì rõ ràng về nhà chồng phải làm nhiều hơn,
phải đảm trách công việc của một cô dâu mới rất vất vả. Còn
đối với các chàng trai, họ cũng 32 có tâm lý không muốn lấy vợ
sớm, muốn có thời gian để tập làm ăn bằng anh bằng em, muốn
được nghỉ ngơi, chơi bời với bạn bè…Do vậy, người Khơ-mú ở
Văn Chấn không ấn định cụ thể tuổi kết hôn là bao nhiêu,
nhưng họ thường không lấy vợ, lấy chồng sớm. Thường
thường, con gái từ 15 tuổi trở lên, con trai từ 16 tuổi thì mới
tính chuyện dựng vợ gả chồng. Hiện nay, tuổi kết hôn của trai
gái người Khơ-mú so với trước kia có sự thay đổi đáng kể.
Càng ngày, thanh niên có xu hướng lấy vợ, lấy chồng muộn,
nam nữ người Khơ-mú ở Văn Chấn kết hôn phổ biến ở độ tuổi
từ 20 đến 25.
− Dù ít hay nhiều, lễ vật thách cưới ngày xưa thường giao động
trong khoảng:
+ Lợn: 50 kg đến 1 tạ.
+ Gà: một con.
+ Gạo: từ 30 kg đến 60 kg.
+ Rượu: 20 lít đến 30 lít.
+ Rượu cần: hai chum.
+ Trầu cau: từ 100 đến 250 miếng.
+ Tiền đồng bạc: từ 20 đồng đến 70 đồng.
+ Tiền giấy: 10.000 đến 15.000 vnđ.
+ Một kiếm dài có bao
+ Một cây giáo đuôi lươn có cán dài 2 mét.
+ Một chiếc úp đựng các vật thiêng: trầu cau, vỏ sò, tiền bạc, tiền
giấy, nến sáp ong, được sắp xếp tuần tự theo quy định, tập quán của
người Khơ-mú.
− Tục ở rể đã tồn tại và được bảo lưu, duy trì trong hôn nhân của
người Khơ-mú từ xưa cho tới ngày nay. Có thể nói tục ở rể
cũng là một nét đặc trưng trong hôn nhân của tộc người Khơmú nói chung mà người Khơ mú ở Văn Chấn là một bộ phận
không tách rời. Điều này được thể hiện rất rõ: tất cả các cuộc
kết hôn nội tộc của người Khơ mú ở Văn Chấn từ xưa đến nay
không thể thiếu nghi lễ tiễn ở rể. Dù hình thức ở rể, hay chế độ
- thời gian ở rể khác nhau do điều kiện của mỗi trường hợp kết hôn
không giống nhau, nhưng lễ cưới chỉ được tổ chức sau khi chàng trai
đã hoàn thành nghĩa vụ ở rể của mình theo phong tục truyền thống
của người Khơ-mú và theo sự thỏa thuận của hai bên gia đình. Từ
khi trong địa bàn có các dân tộc khác về sinh sống, nảy sinh các
cuộc hôn nhân hỗn hợp, trong cuộc kết hôn này sẽ không có lễ tiễn ở
rể, chàng rể người Khơ-mú này cũng không còn có thời gian thử
thách, hay cơ hội thể hiện mình bên nhà vợ trước khi cưới. Điều này
cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến người dân Khơ-mú nơi đây, ít nhiều
có sự xáo trộn, thay đổi trong quan niệm, suy nghĩ xung quanh tục ở
rể. Cùng với biến đổi của các yếu tố trong hôn nhân, các bậc cha mẹ
người Khơ-mú nơi đây có thay đổi trong quan niệm về nghĩa vụ ở rể.
Họ coi nghĩa vụ ở rể có phần nhẹ nhàng hơn trước đây, theo họ chỉ
cần nhà trai và chàng rể có ý thức về trách nhiệm và nghĩa vụ của
bản thân và tôn trọng gia đình cũng như con gái của họ. 64 Nhiều
năm trở lại đây, hình thức, chế độ ở rể của người Khơ-mú biến đổi
theo xu hướng giản tiện hơn so với truyền thống. Đa số các chàng rể,
sau lễ tiễn ở rể, họ chỉ ở lại nhà bố mẹ vợ thời gian ngắn khoảng vài
ba tháng là xin phép tổ chức cưới cô dâu về nhà chồng. Hơn nữa còn
có những trường hợp gia đình và chàng trai có sự chuẩn bị trước, sau
lễ tiễn ở rể một tuần, nhà trai đã xin phép được tổ chức cưới con dâu
mà số lễ vật không phải chuẩn bị nhiều như truyền thống. Thậm chí
có trường hợp sau lễ tiễn ở rể, chàng rể không ở hẳn bên nhà vợ,
chàng trai được bố mẹ vãi cho phép đi lại để giúp đỡ hai bên gia
đình đến khi có điều kiện tổ chức cưới. Nhưng ngày nay ở Văn Chấn
không ít các chàng rể giỏi giang, có trình độ hiểu biết được bố mẹ vợ
tin tưởng, hỏi ý kiến, tham gia bàn bạc vào các công việc của nhà
vợ. thậm chí trong gia đình không có con trai hay con trai của họ
không có khả năng, thì chàng rể tốt còn được sự ủy thác của bố mẹ
vợ quyết định các công việc gia đình. Như vậy những biến đổi về
hình thức ở rể, chế độ ở rể trong hôn nhân truyền thống của người
Khơ-mú ở Văn Chấn xuất phát từ những yếu tố khách quan tác động
cùng với các yếu tố chủ quan do trình độ nhận thức của người dân
ngày càng được nâng cao. Tuy vậy nhưng đồng bào luôn gìn giữ yếu
tố cốt lõi, đó là Tục ở rể.
− Có thể nói, những biến đổi trong nghi lễ cưới của người Khơmú nơi đây đều xuất phát từ những điều kiện khách quan và chủ
quan, trong đó đa phần là những biến đổi theo xu hướng tích
cực, tuy rằng cũng không tránh khỏi số ít những biến đổi làm
mai một, thậm chí làm mất đi nét văn hóa truyền thống. Thêm
vào đó còn có những biến đổi là sự tất yếu song không làm mờ
đi bản sắc riêng trong hôn lễ của người khơ-mú ở Văn Chấn.
− Có thể nói hiện nay có rất nhiều biến đổi quan trọng trong việc
tổ chức tiến hành các nghi thức cưới hỏi trong hôn nhân của
người Khơ-mú huyện Văn Chấn. Các yếu tố biến đổi với phần
đa theo xu hướng tích cực. Thật vậy, trong hôn nhân truyền
thống, để đưa được con dâu về nhà chồng thì giữa hai bên gia
đình người Khơ-mú phải tiến hành nhiều nghi lễ khác nhau.
Theo tổng hợp của đồng bào và qua sự tìm hiểu của chúng tôi
cho thấy, để đám cưới chính thức diễn ra, bên nhà trai phải có
năm bước mang lễ vật đến nhà gái để hỏi về các vấn đề xung
quanh việc tổ chức đám cưới: Lễ dạm ngõ; Lễ ăn hỏi; Lễ hỏi về
ở rể; Lễ tiễn ở rể; Lễ kết hôn theo lý dân tộc (Pưn đệ). Thêm
vào đó là trước ngày diễn ra lễ cưới chính thức nhà trai phải
chuẩn bị hai lễ sang nhà gái để làm lễ xin dâu và lễ hỏi về vật
thách cưới...
2. Những giải pháp bảo tồn:
Trước hết, phải nhận thức rõ trong khi thực hiện việc vận động xây
dựng nếp sống văn hóa mới trong hôn nhân của người Khơ-mú ở
Nghĩa Sơn, cần hết sức tôn trọng những nét đẹp trong hôn nhân
truyền thống của đồng bào và việc thực hiện này nhất thiết phải được
thực hiện trên cơ sở của sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống và hiện
đại. Nếu như những yếu tố hiện đại đảm bảo cho sự phát triển đúng
hướng của xã hội trong giai đoạn mới thì những yếu tố truyền thống
lại là một đối trọng, cần thiết cho việc giữ gìn cá tính dân tộc. Cũng
cần tuyên truyền để đồng bào hiểu rõ giá trị văn hóa tộc người, từ đó
tiếp tục nâng niu và gìn giữ chúng một cách hiệu quả hơn để duy trì
bản sắc dân tộc mình, không bị trộn lẫn với các tộc người khác. Điều
này ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh hiện nay, khi số
lượng các cuộc kết 84 hôn ngoại tộc ở Nghĩa Sơn có xu hướng tăng.
Nếu không giữ gìn phong tục tập quán hôn nhân truyền thống, người
Khơ-mú sẽ đánh mất bản sắc dân tộc mình. Hôn nhân và gia đình là
vấn đề quan trọng trong cuộc sống của mỗi dân tộc. Việc tổ chức
đám cưới, mở đầu cho cuộc sống gia đình của đôi bạn trẻ là rất hệ
trọng, phải tổ chức sao cho vui vẻ, lành mạnh, phù hợp với phong
tục tập quán của dân tộc, phù hợp với hoàn cảnh từng gia đình, bảo
đảm văn minh lịch sự, tiết kiệm, tránh phô trương lãng phí.
Dựa vào các chính sách của nhà nước về bảo tồn, phát triển văn hoá
dân tộc người, nhất là cá dân tộc người miền núi còn nhiều khó khăn
như Yên Bái. Dựa vào các kết quả nghiên cứu để bổ sung hoặc điều
chỉnh một số nội dung cụ thể trong chính sách văn hoá của tinh Yên
Bái, phù hợp với thực tế của tỉnh, đường lối văn hoá của Đảng và
Nhà Nước Việt Nam hiện nay. Bổ sung những nội dung cụ thể nhằm
thực hiện tốt hơn những chính sách giữ gìn, phát triển bản sắc văn
hoá người Khơ-mú, huy động sự tham gia của đông đảo tầng lớp
nhân dân vào hoạt động đó. Thực hiện chính sách bảo tồn những giá
trị đặc sắc của văn hoá Khơ- mú truyền thống theo hướng kết hợp
chặt chẽ văn hoá với kinh tế, với hoạt động , du lịch, mục tiêu văn
hoá gắn bó chặt chẽ với mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định xã hội,
nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, đảm bảo sự phát
triển bền vững.
-Tiểu kết chương III: tục lệ cưới xin của người Khơ Mú đang ngày
càng tiến bộ trong việc hạn chế và loại bỏ các hủ tục lạc hậu, người
dân ngày càng tiến bộ hơn trong văn hóa tín ngưỡng và tránh những
hủ tục gây lãng phí và là hình ảnh không đẹp trong mắt mọi người.
Ngoài việc tiến bộ trong văn hóa tín ngưỡng người dân vẫn không
làm mất bản sắc của trong tục lệ của mình.
KẾT LUẬN:
Qua tìm hiểu tín ngưỡng văn hóa của người Khơ mú ta có thể
thấy được văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của người dân đang
ngày càng được cải thiện và những truyền thống văn hóa tốt đẹp, bản
sắc văn hóa dân tộc vẫn được người dân gìn giữ và bảo tồn vô cùng
tốt nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều mặt chưa tốt và vẫn còn
tồn đọng nhiều hủ tục chưa được khắc phục và chưa phù hợp với xã
hội hiện nay. Song với sự giúp đỡ của Đảng và nhà nước, người dân
đã có ý thức hơn trong việc bảo tồn và phát huy truyền thống văn
hóa và bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Thực hiện Đề án “Nghiên cứu, khảo sát, xây dựng hồ sơ khoa
học xếp hạng di tích, danh thắng” huyện đã hoàn thiện 15 hồ sơ di
tích, 8 di tích đã được xếp hạng, trong đó có 6 cấp tỉnh, 2 cấp quốc
gia. Đến hết năm 2012, có 9/15 di tích được xếp hạng, qua đó bảo
tồn các giá trị di tích, văn hóa đồng thời khơi dậy lòng tự hào về quê
hương Văn Chấn, giáo dục nâng cao ý thức, trách nhiệm cho thế hệ
trẻ, đẩy mạnh phát triển du lịch của tỉnh và huyện.
Cùng với việc đẩy mạnh phát triển các phương tiện thông tin đại
chúng như: sách, báo, mạng lưới phát thanh - truyền hình, những
năm qua, huyện Văn Chấn cũng đã quan tâm đến công tác tuyên
truyền, giáo dục việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống; công tác bảo tồn di sản văn hoá tạo điều kiện cho nhân
dân được tham gia, phát huy di sản văn hoá dân tộc, phục hồi những
lễ hội, phong tục, tập quán tốt đẹp. Các lễ hội thường xuyên được tổ
chức như: Lễ hội Lồng tồng, lễ hội Xên đông của dân tộc Thái, Hội
Cầu mùa, lễ hội Tăm khẩu mẩu của dân tộc Tày; lễ hội Cầu mùa của
dân tộc Khơ mú; lễ Cấp sắc của dân tộc Dao; Ngày hội văn hoá dân
tộc Mông... Các phong tục tập quán tốt đẹp cũng được bảo tồn: Lễ
mừng cơm mới của dân tộc Mông; lễ cưới của dân tộc Khơ mú; Múa
mỡi của dân tộc Mường; lễ hội đón Mẹ lúa của dân tộc Khơ mú; xây
dựng, phục dựng nhà sàn truyền thống của dân tộc Thái; nhà truyền
thống của dân tộc Mông; phối hợp với các tổ chức, cơ quan, đơn vị,
phục dựng, bảo tồn và quảng bá du lịch nhiều giá trị văn hoá truyền
thống dân tộc.
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Lê Văn Kỳ (chủ biên), Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Quang Lê
(2007), Phong tục tập quán cổ truyền một số dân tộc thiểu số ở
nam Tây Nguyên, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội
3. Bùi Huy Mai (2007), Dân tộc và bản sắc văn hoá vùng Văn
Chấn Mường Lò”, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà Nội
PHỤ LỤC
lễ hội cầu mưa của người Khơ Mú
Nguồn: Internet
lễ hội mah grợ của dân tộc Khơ Mú
Nguồn: Internet