Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Lễ cưới của người mường xã ngọc sơn, huyện lạc sơn, tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.18 KB, 25 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Văn hóa là một lĩnh vực rất quan trọng trong đời sống xã hội, hội tụ đầy
đủ những giá trị do con người tạo nên. Những giá trị quý báu trong văn hóa đó
không tồn tại mãi mãi, mà theo thời gian do nhiều yếu tố tác động nó không còn
giữ được nhưng giá trị ban đầu. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa dạng về
văn hóa những nét văn hóa riêng của dân tộc tạo thành búc tranh văn hóa rực rỡ
trên dải đất hình chữ S. Người Mường cũng như các dân tộc khác cũng có nét
văn hóa đặc trưng, ít bị nhầm lẫn với các dân tộc khác trong đó phải kể đến lễ
cưới của người Mường ở Hòa Bình nói chung và người Mường xã Ngọc Sơn,
huyện Lạc Sơn nói riêng có tập tục cưới xin mang dấu ấn riêng của dân tộc trong
đó chứa đựng nhiều nét đẹp vùng miền.


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan đề tài nghiên cứu “Lễ cưới của người Mường xã Ngọc
Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình” là có thật. Em xin chịu trách nhiệm hoàn
toàn về các nội dung trong đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 29 tháng 12 năm 2016
Sinh viên


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thiện bài nghiên cứu khoa học này tôi đã nhận được
sự quan tâm và đóng góp của các thầy cô giáo.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô TS. Lê Thị Hiền giảng
viên bộ môn nghiên cứu khoa học đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn
thành tốt bài nghiên cứu này. Và qua đây, tôi xin chân thành cảm ơn đến Uỷ ban
nhân dân xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn đã cung cấp cho tôi những tài liệu bổ ích,
giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, tìm hiểu nghiên cứu để thực hiện đề tài này.
Bản thân tôi lần đầu tiên thực hiện đề tài này nên trình độ và khả năng còn
hạn chế, nên không tránh khỏi được những thiếu sót, chưa đáp ứng được những


yêu cầu mà đề tài đã nêu cũng như những yêu cầu khắt khe của bài nghiên cứu.
Vì vậy tôi mong nhận được sự chỉ bảo, gợi ý cũng như đóng góp ý kiến chân
thành của thầy cô để tôi có thêm kiến thức kinh nghiệm để hoàn thiện mình hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
LỜI CAM ĐOAN


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa tộc người là một lĩnh vực rất phong phú và đa dạng từ trang phục
ẩm thực cho đến cưới xin, tang ma, lễ hội…Tuy nhiên ở từng lĩnh vực thì các
nét văn hóa lại được bộc lộ khác nhau. Trong quá trình phát triển có sự tiếp xúc
giao lưu văn hóa sẽ có những nét văn hóa được bảo lưu, có những nét văn hóa sẽ
bị biến đổi.
Cưới xin là một điều không thể thiếu trong chu kì vòng đời của mỗi một
con người, mà ở đó nó chứa đựng, thể hiện bản sắc văn hóa tộc người đó.
Ngày nay hòa nhập cùng với sự phát triển kinh tế, cũng như tiếp xúc với
sự tiến bộ của khoa học cuộc sống của các dân tộc nói chung cuộc sống của
người Mường ở xã Ngọc Sơn nói riêng đều có biến đổi, từ trang phục, ẩm thực
cho đến cưới xin…đặc biệt là trong cưới xin, khi tham dự một đám cưới người
Mường ở xã Ngọc Sơn chúng ta thấy nó không còn được giữ nguyên vẹn những
nét truyền thống. Mà thay vào đó có sự kết hợp các yếu tố hiện đại.
Đứng trước sự biến đổi trong tập quán cưới xin của người Mường ở Ngọc
Sơn, xong vẫn chưa có nhà nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề
này nên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Lễ cưới của người Mường ở xã Ngọc

Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình” làm đề tài nghiên cứu nhằm làm rõ được
những giá trị văn hóa tích cực trong đám cưới truyền thống cần được lưu giữ và
những biến đổi tiêu cực hiện nay cần bài trừ, bảo lưu, kế thừa phù hợp với nét
văn hóa đẹp truyền thống góp phần tích cực vào việc thực hiện phong trào gia
đình văn hóa và tạo nên sự đa dạng văn hóa của người Mường nói riêng và các
dân tộc khác nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu nền văn minh Mường ở Hòa Bình nói riêng ở Việt Nam nói
chung không chỉ cho ta một bức tranh về nền văn minh độc đáo mà qua đó có
thể xác định được cội nguồn của các nền văn hóa khác như văn hóa Việt. Xét về
nhiều mặt, nhất là mặt nhân chủng, ngôn ngữ và văn hóa thì dân tộc Mường có
một vị trí đặc biệt và từ lâu đã thu hút được sự nghiên cứu của nhiều tác giả
5


trong nước và ngoài nước.
Ngay từ năm 1948, bà Jeanne Cusinier đã viết cuốn “Người Mường – Địa
lý nhân văn và xã hội học” (viện dân tộc học Pari) – đây là một bộ sưu tập dân
tộc học công phu lớn nhất về người Mường cho đến hiện nay. Có thể kể đến các
tác phẩm khác cùng thời như: “Người Mường ở tỉnh Hòa Bình” (P.Grossin), cư
dân Đông Sơn và những Người Mường (Goubloubew).
Ngày nay với sự phát triển của thời đại, đã xuất hiện nhiều công trình
nghiên cứu, sưu tầm các bài viết của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà
báo, nhà văn viết thành sách hoặc tạp chí như:
“Người Mường ở Hòa Bình” tác giả Trần Từ.
“Văn hóa dân tộc Mường” – Sở văn hóa thể thao hội văn hóa các dân tộc
Hòa Bình.
“Người Mường ở Tân Lạc Hòa Bình” – Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thị
Thanh Nga.
“Người Mường với văn hóa cổ Mường Bi” sở văn hóa thông tin Hòa

Bình.
“Đất Mường” tác phẩm văn học Phương Vũ.
“Văn hóa dân gian Mường Hòa Bình” của Cao Sơn Hải, NXB Văn hóa
dân tộc.
“Gia đình và hôn nhân của Người Mường ở Phú Thọ” của Nguyễn Ngọc
Thanh là công trình nghiên cứu chuyên sâu về hôn nhân và gia đình của dân tộc
Mường.
Bước vào thế kỷ 21, thế kỷ hội nhập và toàn cầu hóa, nền văn hóa dân tộc
đang bị mai một dần, phong tục cưới xin của dân tộc Mường cũng đang bị biến
đổi, chính vì vậy với đề tài “Lễ cưới của Người Mường ở xã Ngọc Sơn, huyện
Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình” tôi hi vọng sẽ giúp mọi người hiểu và nhận thức đầy đủ
về một trong những giá trị văn hóa dân tộc Mường cần được bảo tồn, giữ gìn và
phát huy.
3. Mục đích nghiên cứu
− Tìm hiểu lễ cưới cổ truyền của người Mường xã Ngọc Sơn.
6


− Xu hướng và dự báo biến đổi trong lễ cưới của Người Mường.
− Kiến nghị những giải pháp nhằm bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
Mường.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Lễ cưới của người Mường ở xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa
Bình.

4.2.


Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu lễ cưới truyền thống và những biến đổi hiện nay ở
xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp điền dã dân tộc là phương pháp chủ đạo trong quá trình thực
hiện bài nghiên cứu với các kỹ thuật: quan sát, phỏng vấn.
Sử dụng phương pháp xã hội học thông qua phiếu điều tra, tổng hợp kết
quả điều tra.
6. Đóng góp của đề tài
Bài nghiên cứu góp phần mô tả các bước trong đám cưới truyền thống của
người Mường đồng thời cũng chỉ ra những biến đổi tích cực, tiêu cực trong đám
cưới. Đề xuất những kiến nghị,giải pháp mang tính khả thi nhằm bảo tồn và phát
huy những nét đẹp trong đám cưới cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Mường ở
Ngọc Sơn trong quá trình phát triển cho phù hợp với đường lối của Đảng, Nhà
nước và phù hợp với nhu cầu của người dân.
7. Nội dung và bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Lễ cưới của người Mường ở xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn,
tỉnh Hòa Bình
Chương 3: Một số giải pháp nhằm phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
trong lễ cưới của người Mường ở xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
7


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Khái quát về vị trí địa lý
Vị trí địa lý
Trên bản đồ Việt Nam, tỉnh Hoà Bình nằm ở cửa ngõ vùng Tây Bắc,

có diện tích tự nhiên 4.662,53 km2. Xét về vị trí địa lý, Hoà Bình là vùng đệm
trung gian giữa một bên là vùng đồng bằng Bắc Bộ và một bên là núi cao, rừng
rậm của miền Tây Bắc, được thông giao qua quốc lộ 6 (đường bộ) và sông Đà
(đường thủy) ở phía bắc. Hoà Bình giáp ranh thủ đô Hà Nội và có vị trí quan
trọng trong chiến lược phòng thủ của khu vực và cả nước. Tỉnh Hòa Bình bao
gồm có 1 thành phố loại 2 và 10 huyện, xã Ngọc Sơn là nơi mà tôi đang nghiên
cứu đề tài thuộc huyện Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình.
Xã Ngọc Sơn là một trong 3 vùng cao nhất của huyện với diện tích 33,29
km2, mật độ dân số là 58 người/km2.
Đặc điểm tộc người, dân cư
Đến năm 2010, dân số Hòa Bình đạt 793.471 người trong đó, số dân trong
độ tuổi lao động khoảng 552.635 người, bằng 70,1% dân số toàn tỉnh, hàng năm
tạo thêm việc làm cho khoảng 16.200 người lao động.
Theo thống kê dân số toàn quốc năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 7 dân tộc
sinh sống đông nhất là người Mường chiếm 63,3% trong đó thì còn có một số
dân tộc khác.
Đặc điểm kinh tế
Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt 8%/năm,
năm 2013 đạt khoảng 10,3%/năm.
Đặc điểm văn hóa, xã hội
Hòa Bình là vùng văn hóa đa sắc tộc, nổi tiếng với (văn hóa Hòa Bình)
gồm văn hóa thời kỳ đồ đá, văn hóa hang động. Hòa Bình được xem là cái nôi
của ăn hóa Mường với những địa dah nổi tiếng: Bi, Vang, Thàng, Động cùng với
sử thi “đẻ đất, đẻ nước”.
Văn hóa sản xuất
Tập quán của người Mường ở đây chủ yếu là tập quán truyền thống mang
8


tính tự cung tự cấp. Người Mường có nhiều hoạt động kinh tế khác nhau trong

đó điển hình là nghề nông trồng lúa nước, đốt nương làm rẫy, chăn nuôi nghề
thủ công...
1.1.Sơ lược về văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần
1.1.1. Nhà ở
Người Mường cư trú trên các ngôi nhà sàn, nhà sàn của người Mường xã
Ngọc Sơn phân ra thành 3 mặt: trên cùng là gác để lương thực, đồ dùng gia đình,
sàn nhà là nơi sinh hoạt nghỉ ngơi, còn gầm nhà để đồ dùng sản xuất, gia súc gia
cầm, nhà sàn của người Mường ở đây chủ yếu là theo kiến trúc truyền thống, gọi
là nhà rùa: 4 mái, 3 tầng mô phỏng theo quan niệm dân gian của người Mường.
1.1.2. Ẩm thực
Đối với người Mường nói chung và xã Ngọc Sơn nói riêng ẩm thực không
riêng gì là đồ ăn thức uống mà chứa đựng trong đó là cả một nền văn hóa lâu
đời, nó thể hiện tình cảm gắn kết yêu thương giữa con người với nhau. Trong
cách chế biến, nấu ăn người Mường ở đây cũng chú trọng đến màu sắc và cách
trang trí, tập quán ăn, ở của người Mường ở đây đã được đúc kết thành những
câu thành ngữ rất nổi tiếng thể hiện đặc trưng và tập quán của con người nơi đây
“cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui”. Nghĩa là “cơm đồ” đây là cơm nếp được
đồ bằng một khúc cây gỗ được khoét ở giữa dùng để đồ xôi, “nhà gác” là nhà
sàn một nét văn hóa kiến trúc đặc sắc của người Mường, “nước vác” chính là
dụng cụ mà người Mường dùng để đi lấy nước từ các khe suối dụng cụ này được
làm từ cây bương dài khoảng 2m, các đốt bương đực thông với nhau, riêng đốt
cuối thì để nguyên và được vác trên vai mới gọi là nước vác. Nói đến ẩm thực
thì người Mường ở xã Ngọc Sơn cũng là một trong những dân tộc có nét khá
độc đáo về ẩm thực. Khi nói đến “lợn thui” hay nói đến cơm lam và rượu cần là
nói đến đặc sản của người Mường nói chung và người Mường xã Ngọc Sơn nói
riêng .
1.1.3. Trang phục
Trang phục của người Mường gồm khăn đội đầu bằng vải trắng hình chữ
nhật không thêu thùa, váy áo, thắt lưng. Yếm áo cánh phổ biến là màu trắng thân
9



rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy điểm nhấn là cạp váy với họa tiết hoa văn, váy
dài đến mắt cá chân.
Tảng y phục của người Mường xã Ngọc Sơn cũng phân thành những đẳng
cấp khác nhau, xưa kia chỉ những người thuộc nhà Lang (tầng lớp cao nhất trong
xã hội Mường) như vợ, con, họ hàng thân thích mới được mặc và đeo những đồ
trang sức đẹp, sặc sỡ còn những người bình thường thì không được đeo trang
sức và quần áo đẹp. Những bộ xà tích làm bằng bạc, gồm nhiều sợi dây ngắn dài
có gắn đồng tiền, vuốt hổ được sau thành chuỗi thể hiện sự giàu sang của người
phụ nữ có địa vị trong xã hội.
1.1.4. Lễ hội
Lễ hội của người Mường ở đây diễn ra với quy mô nhỏ, mang đậm tín
ngưỡng dân gian và biểu hiện sự giao lưu văn hóa hầu hết các lễ hội đều liên
quan đến nông nghiệp và thường diễn ra vào mùa xuân. Như ở đây vào mùa
xuân có các lễ hội như lễ hội sắc bùa, hội đình băng…
Tiểu kết
Kết thúc phần nội dung của chương I, tôi đã đưa ra những khái quát chung
nhất về tổng quan địa bàn nghiên cứu và sơ lược về giá trị văn hóa tinh thần để
thấy được những phong tục tập quán và bản sắc của dân tộc Mường xã Ngọc
Sơn.

10


CHƯƠNG 2 : LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI MƯỜNG Ở XÃ NGỌC SƠN,
HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
2.1.

Quan niệm và hôn nhân của người Mường xã Ngọc Sơn


2.1.1. Quan niệm về hôn nhân
Theo quan niệm của người Mường xã Ngọc Sơn, hôn nhân có ý nghĩa đặc
biệt không chỉ đối với cá nhân mà còn hệ trọng đối với gia đình, họ tộc. Với
người đàn ông, hôn nhân là bước chuyển để người đàn ông trở thành đức cả, tức
là người có tư cách đại diện cho một gia đình, một nóc nhà tham gia vào các
công việc gia đình, dòng họ làng xóm. Với người phụ nữ, hôn nhân đánh dấu sự
trưởng thành, khẳng định người phụ nữ có khả năng quán xuyến các công việc
cho gia đình, sinh con đẻ cái để duy trì nòi giống cho gia đình nhà chồng và nuôi
dưỡng chúng.
Đối với hai vợ chồng, hôn nhân được tiến hành trên cơ sở tình yêu, là nền
tảng xây kết nên hạnh phúc gia đình về sau, đồng thời hôn nhân la điều kiện để
hai người thỏa mãn nhu cầu về tình cảm và thực hiện nghĩa vụ đối với gia đình
dòng tộc. Bởi vậy sau khi kết hôn, các cặp vợ chồng phải yêu thương nhau, phấn
đấu xây dựng kinh tế gia đình ổn định sinh con đẻ cái , nuôi dạy chúng nên
người, phụng dưỡng cha mẹ, có trách nhiệm tốt với gia đình dòng tộc cũng như
có trách nhiệm với bản làng và xã hội.
Đối với gia đình thì người Mường ở đây đặc biệt là dòng họ nhà trai, hôn
nhân của đôi vợ chồng trẻ khẳng định vị thế của dòng họ đối với xóm làng và
cộng đồng.
2.1.2. Tiêu chuẩn chọn vợ chồng
Thanh niên ỡ xã Ngọc Sơn được tự do tìm hiểu theo những cách riêng của
mỗi người, họ tự quen nhau từ những buổi lên nương, qua các hoạt động văn
hóa tập thể. Qua đó, những chàng trai cô gái có thể tỏ tình với nhau. Có thời
gian dài hình thức tỏ tình của trai Mường ở xã này là viết một lá thư nhờ người
tin cậy đưa cho cô gái. Trong khi đó, người Mường ở Thanh Hóa lại phổ biến
hình thức tỏ tình bằng việc hàng đêm chàng trai đến chọc sàn chỗ cô gái ngủ,
nếu đồng ý cô gái sẽ xuống gặp chàng trai và họ tâm sự suốt đêm.
11



Mặc dù được lựa chọn bạn đời, nhưng bố mẹ lại có quyền quyết định hôn
nhân của con cái, xưa kia ở xã Ngọc Sơn này nam nữ thanh niên Mường kết hôn
ở độ tuổi 13-14, họ cho rằng xây dựng gia đình sớm sẽ có nhiều thuận lợi như
ông bà có đủ sức khỏe để chăm con cháu, người già sẽ có con cháu chăm sóc đỡ
đần. Tuy nhiên, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của mỗi gia đình mà ta nên
quyết định đến tuổi kết hôn và thời gian thực hiện hôn lễ .
Tiêu chuẩn chọn một người vợ lý tưởng là những người chịu khó, chăm
chỉ làm ăn, nói nhẹ nhàng, biết cấy hái, làm bông dệt vải thành thạo các công nội
trợ và đối xử lễ phép với gia đình bố mẹ. Nếu làm dâu trưởng thì phải có khả
năng đảm đương các công việc trong dịp lễ tết, nhanh nhẹn và giao tiếp tốt, với
người Mường ở xã Ngọc Sơn một cô gái có nhan sắc nhưng lại lơi lỏng trong
việc dệt vải, may vá sẽ bị mọi người chê bai. Các bậc cha mẹ thường căn dặn
con trai mình chọn vợ điều quan trọng là nết ăn ở, chăm làm, đối xử tốt với mọi
người trong gia đình. Chính vì vậy bố, mẹ thường căn dặn con trai mình “Đừng
tham nón rẻ mà đội trời mưa, đừng tham người đẹp mà thưa việc làm”.
Trước khi tiến tới hôn nhân, nhà trai nhờ người đi thăm thiếng để dò hỏi,
tìm hiểu cụ thể về hoàn cảnh gia đình, tính cách, con người của cô gái. Người
Mường ở đây cũng có cách để tìm hiểu riêng về tính cách cô gái, đó là việc
thông qua hiểu biết về mẹ đẻ của cô gái, họ nghiệm thấy rằng người mẹ có ảnh
hưởng rất lớn đến quá trình hình thành tính cách cũng như khả năng giáo dục
đứa con sau này.
Với người Mường xã Ngọc Sơn, người chồng lý tưởng là người có sức
khỏe, cày bựa thành thao, biết đan lát các dụng cụ trong gia đình, một trong
những tiêu chuẩn hàng đầu khi kén rể là gốc gác gia đình tránh những nhà có
tiếng xấu hoặc bệnh tật di truyền. Cũng giống như nhà trai nhà gái cũng nhờ
người đến thăm dò hoàn cảnh nhà trai.
2.2.

Lễ cưới xin của người Mường xã Ngọc Sơn


2.2.1. Phong tục trước khi cưới
2.2.1.1. Chọn người làm mối (chọn mờ)
Sau khi đôi trai gái được gia đình và họ hàng nhất trí cho tổ chứ đám cưới
12


thì nhà trai sẽ chọn và nhờ người làm mối (mờ). Người được chọn làm mối
không phân biệt nam hay nữ, nhưng phải đứng tuổi, có uy tín, được nhiều người
kính nể, gia đình luôn hạnh phúc, đông con nhiều cháu, nói chuyện khéo léo, có
tài ứng đáp.
Người Mường ở xã Ngọc Sơn quan niệm rằng trai gái có nên vợ nên
chồng và sau này có con đàn cháu đống hay không là nhờ sự giúp đỡ của người
làm mối. Vì thế mà thành ngữ Mường có câu: “Cơm ngon vì miệng, tiếng tốt vì
mời” (Piêng tiếng Mường xã Ngọc Sơn nghĩa là cái ninh đòng để đồ xôi).
Nhiệm vụ của người làm mối bắt đầu từ khi dạm ngõ, hỏi thăm đến lúc
cưới, đón dâu về trao cho nhà trai.
2.2.1.2. Lễ dạm ngõ , hỏi thăm ( mờ miệng )
Gia đình nhà trai nhờ ông mờ mang trầu, cau, hai chai rượu, quà bánh đến
nhà cô gái để chính thức ngỏ lời cho đôi bạn tẻ được thành hôn. Hôm đó hai bên
cùng nhau bàn bạc trao đổi và thoả thuận ngày “kháo tiếng”.
2.2.1.3. Đặt vấn đề (kháo tiếng)
Đến ngày chọn, nhà trai chuận bị 02 gói chè, khoảng 10 quả cau, hơn 20
lá trầu, tất cảc được gói kỹ và trao cho ông mờ đến nhà cô gài khoảng chạng
vang tối.
Đúng giờ đã hẹn, nhà gái với sự hiện diện của bố mẹ, ông, bà, chú, bác,
cô, dì… ngồi đợi nhà trai đến, đồng thời học cử ngưởi ra cổng chờ sẵn để đón lễ
vật và mời ông mờ vào nhà.
Người ta mổ gà thiết đãi ông mờ. Chủ nhà giữ đôi chân gà để xem đoán
sự tốt xấu và nhân duyên của cô gái: Lễ vật của nhà trai đem đến được đặt lên

bàn thờ tổ tiên. Ba ngày sau mà nhà gái không đem trả lại lễ vật thì tức là đồng
ý. Sở dĩ là phải đợi 03 ngày là vì, theo tập quán, bố của cô gái phải nằm nghe
trong ba ngày đem liền nếu này không tiếng hươu, giác, vượn kêu, gà gáy dở,
cây đổ, đá lăn thì mới coi là được, nghĩa là không có điểm gở, điểm xấu. Sau đó
tự tay ông mở gói lễ vật và báo cho họ hàng rằng nhà đã có chuyện vui.
Kể từ đấy hai nhà mặc nhiên là thông gia, các con được phép thường
xuyên thăm hỏi nhau.
2.2.1.4. Ăn hỏi (ti nòm bánh)
Cũng giống như tiến trình Lễ cưới cổ truyền ở nhiều dân tộc khác, Lễ ăn
13


hỏi trong nghi thức của Lễ cưới cổ truyền Mường xã Ngọc Sơn mang trong nó
ý nghĩa thông báo cho cả vùng biết về tiến trình của Lễ cưới sau những thoả
thuận đã đạt được bước đầu của hai gia đình ở Lễ Dạm hỏi.
Cho đến Lễ dạm hỏi vai trò của bà/ông mối vẫn là chính. Nhà trai vẫn uỷ
quyền toàn bộ việc giao tiếp và thoả thuận cho bà/ông mối.
Sau khi chọn ngày lành, tháng tốt họ nhà trai sẽ mang lễ vật sang nhà gái
dưới sự hướng dẫn của bà/ông mối. Lễ vật được đặt trong các sọt đan bằng tre.
Ở đây cũng như trong mọi nghi thức của Lễ cưới cổ truyền Mường, buộc bánh
hoặc gói các lễ vật dẫn cưới bao giờ cũng là lạt đôi (sử dụng 2 lạt cùng một lúc),
bánh dày hoặc bánh chưng bao giờ cũng là bánh chay (không có nhân) như một
qui ước về sự trinh tiết của cô dâu tương lai.
Cũng như trên, toàn bộ lễ vật của nhà trai sẽ được đem chia cho tất cả các
thành viên trong họ tộc nhà gái.
Lễ ăn hỏi cũng là một hình thức đưa tặng lễ vật - đi “nòm”, nhưng là lần
“nòm” lớn nhất, đây còn được gọi là lần “nòm cả”. Để tiến hành “ti nòm” (ăn
hỏi), nhà trai cũng phải chọn ngày lành, tháng tốt cho khỏi ảnh hưởng tới hôn sự
của con cái sau này.
Lễ ăn hỏi của một Lễ cưới cổ truyền ở Mường xã Ngọc Sơn thường gồm:







Một con lợn khoảng 60 kg.
Một gánh gạo khoảng 30 kg.
Một gánh bánh chưng khảng 20 cặp.
Một gánh rượu 40 lít.
Một gánh trầu lá (80- 120), cau quả (1 buồng).
Vào cuối lễ ăn hỏi, nhà gái sẽ đưa ra yêu sách “cách của” (cách của tiếng
Mường có nghĩa là thách cưới) đối với nhà trai. Thường thì nhà trai nhận lời
ngay, tránh nói qua nói lại xin giảm một thứ lễ vật nào đó. Vì họ sợ rằng nhà gái
sẽ tự ái và cho đó là sự “mà cả” mua bán. Nếu thấy yêu cầu của nhà gái cao quá,
nhà trai lại nhờ bà/ông mối (“mờ”) đến đàm phán sau lễ ăn hỏi để xin rút hoặc
khất.
Từ sau lễ ăn hỏi, cô dâu tương lai đã bắt đầu phải chuẩn bị đồ “hồi môn”
mang về nhà chồng (trên thực tế đồ hồi môn này được chuẩn bị sẵn ngay từ lúc
một bé gái trở thành một thiếu nữ, khoảng 11-13 tuổi). Thường cô dâu khi về
14


nhà chồng sẽ tặng bố mẹ chồng chăn, gối, đệm. Trong các chuyến đi nghiên cứu,
khảo sát của mình, chúng tôi thấy các cô dâu tương lai thường dành hàng năm
trời bên khung cửi để tự tay dệt chăn, đệm, gối cho ngày cưới của mình. Ngoài
chăn, gối, đệm do cô dâu (hoặc nhà gái) làm, của hồi môn của cô dâu về nhà
chồng có thể kèm theo các đồ trang sức bằng bạc, hoặc tiền mặt. Người Mường
không dùng đồ trang sức bằng vàng.
Tuy nhiên, cô dâu không mang của hồi môn về nhà chồng ngay sau khi

cưới, mà thời gian cô dâu mang của hồi môn về nhà chồng, theo truyền thống
trước đây, thường là sau khi đã có con đầu lòng.
2.2.1.5. Lễ đón dâu (xước du)
Theo diễn trình của Lễ cưới truyền thống Mường xã Ngọc Sơn thì Lễ đón
dâu (xước du) thường được tổ chức sau Lễ ra mắt chàng rể khoảng từ 1 đến 3
năm. Nếu nhà trai ở xa nhà gái thì mang lễ vật đón dâu từ ngày hôm trước, sau
đó ở lại ăn cơm cùng nhà gái. Lễ vật nhà trai mang sang đón dâu phải đủ để cho
nhà gái chia cho họ hàng và tổ chức cho họ hàng nhà gái ăn uống tại nhà cô dâu
trước khi đón dâu. Khi lễ vật sang đến nhà gái, đại diện nhà gái sẽ tiến hành
kiểm tra số lượng, trọng lượng lễ vật. Và chỉ sau khi đó, các thủ tục tiếp theo của
diễn trình Lễ đón dâu mới bắt đầu.
Cô dâu và phù dâu khi về nhà chồng bao giờ mỗi người cũng phải cầm
theo một con dao nhỏ khi đi đường. Con dao nhỏ này có cán bằng sừng hoãng
hoặc bằng nanh hổ. Con dao này được người Mường quan niệm như bùa hộ
mệnh để khi đi đường luôn gặp mọi sự may mắn, chống lại mọi thú dữ và ma
quỉ trên đường đi.Phù dâu thường phải là người chưa lập gia đình, biết ăn nói
giỏi và nhan sắc thường kém cô dâu để làm nổi bật vẻ đẹp của cô dâu trong ngày
cưới.
Dân gian Mường có câu “Chẩu buông klu, du lại mặt” có nghĩa là “Làm
rể vào buổi trưa, làm dâu vào buổi tối”. Do đó hai họ sẽ phải tính toán thời gian
đi đường sao cho khi đón dâu về đến nhà vào lúc trời chạng vạng tối.
15


Đoàn đưa dâu về nhà chồng ngoài bà mối cũng còn có hai bố: bố khà (tức
là bố già trên 60 tuổi) và bố non (tức là bố trẻ dưới 60 tuổi), hai mẹ: mẹ
già và mẹ non. Bố mẹ cô dâu không đưa con gái sang nhà chồng. Bố già và bố
non bao giờ cũng là những người rất giỏi đối đáp và có khả năng hát đối đáp.
Người Mường xã Ngọc Sơn rất coi trọng lời ăn, tiếng nói, do đó cũng rất
coi trọng người biết ăn nói có duyên. Người Mường thường nói: “Thiếu gì nước

trong giếng, thiếu gì tiếng trong mồm mà không nói ra cho vừa lòng nhau”.
Trong đám cưới cổ truyền của người Mường xã Ngọc Sơn, người ta rất
coi trọng việc trao đổi qua lại thông qua lời ca, tiếng hát. Ở đây cũng cần chú ý
một đặc điểm của dân ca Mường là rất chú trọng đến phần lời ca mang tính ngẫu
hứng. Do đó, người hát giỏi bao giờ cũng phải là người có tài ứng đối nhanh.
Cũng có khi, trước Lễ đón dâu còn có nghi thức thách cưới (“cách của”)
và thoả thuận ngày cưới. Ngày cưới lúc này được tính theo nhà trai và thường
chưa chính xác, thường là trong một khoảng thời gian giả định nào đó. Việc
thách cưới của họ nhà gái tiến hành thông qua bà/ông mối và các bậc cha chú
của chú rể. Thường thì khi nhà trai sang đến nơi, nhà gái sẽ mời nhà trai ăn cơm
cùng họ tộc. Trong khi ăn cơm, đại diện nhà trai được mời ngồi ở nơi trang trọng
nhất gồm có Trưởng tộc nhà gái và bà mối. Nhà gái sẽ trình bày các yêu cầu của
mình và đồ thách cưới nhà gái yêu cầu thường là:
- Một con trâu nhỏ, tai (dài) bằng sừng. Nếu không có trâu thì phải thay
bằng tiền hoặc đồ vật có giá trị tương đương.
- Một gánh bánh dày không nhân (ám chỉ sự trinh trắng của cô dâu).
- Một ít tiền (có thể chỉ để làm của hồi môn cho cô dâu sau này khi về nhà
chồng).
- Một vò rượu cần hoặc 60 lít rượu.
- 60 kg gạo tẻ.
- 40 kg gạo nếp.
- Một gánh trầu cau.
Nếu nhà trai đồng ý thì về chuẩn bị. Còn không thì có thể thông qua bà
(ông) mối sang nhà gái thoả thuận lại. Song, mỗi lần sang phải mang theo một
16


chai rượu.
Khi đoàn đưa dâu về đến nhà trai, em gái chú rể sẽ ra cất nón cho cô dâu
và phù dâu trước khi đi rửa chân để lên nhà.

Tiếp đó nhà trai sẽ tiến hành nghi lễ đón nhận cô dâu làm con cái trong
gia đình. Cô dâu (có phù dâu đi kèm) sẽ phải lễ từng người cao niên trong họ tộc
nhà chồng theo sự chỉ bảo của ông Trưởng họ. Sau đó, ông đặt tên cho cô con
dâu mới của dòng họ, gọi là tên “mạng”, theo vị trí thứ bậc đầu con hoặc theo
tuổi sinh của người chồng, đến khi có con đầu lòng thì gọi theo tên con. Khi lễ
nhà chồng, nhà gái phải cử hai cô gái theo sau cô dâu để đỡ cho cô dâu cúi lễ và
sửa lại đầu tóc mỗi lần vái (vì phải bỏ khăn vấn tóc).
Hiện nay, trong quá trình nghiên cứu tại xã Ngọc Sơn, chúng tôi được
biết: người Mường ở xã Ngọc Sơn không có trang phục dùng riêng cho ngày
cưới. Trong ngày cưới, cô dâu, chú rể cùng họ hàng và bạn bè ăn mặc trang phục
như ngày thường nhưng được may mới.
Cuối Lễ đón dâu, nhà trai bao giờ cũng phải có quà tặng cho bà/ông mối
và các bậc cha chú đã tham gia đưa, đón dâu. Nếu nhà gái cách xa nhà trai thì
những người đưa dâu thường ngủ qua đêm ở nhà trai và ra về vào sáng hôm sau.
Lúc này nhà trai sẽ làm một mâm cơm để tiễn họ hàng nhà gái và chuẩn bị thức
ăn đi đường cho họ.
Đối với cô phù dâu (“piêng”), nhà trai cũng phải lo quà tặng. Vào cuối
ngày lễ cưới, nhà trai sẽ kiểm số tiền mừng cưới và trừ đi số tiền chi phí cho
đám cưới, số còn lại dược chia ba, họ giữ lại một phần, còn hai phần được gói
vào miếng vải thổ cẩm để vào gánh bánh chưng là quà của cô phù dâu. Trong
phong tục Mường, cô phù dâu bao giờ cũng được nhiều quà hơn tất cả mọi
người, vì họ quan niệm, hai cô gái (cô dâu và phù dâu) trong một lễ cưới mà một
cô thì “được“ chồng, một cô thì không “được” gì (!) do vậy phải an ủi “piêng”...
Theo truyền thống ở xã Ngọc Sơn, sau Lễ đón dâu, cô dâu chưa ở ngay
nhà chồng, mà trở về nhà mình, nhưng ban ngày phải sang nhà chồng để làm
việc, chỉ tối mới về nhà ngủ. Một thời gian sau mới lại ở hẳn nhà chồng, thường
là sau khi sinh con đầu lòng. Hiện nay, người Mường ở xã Ngọc Sơn còn giữ
17



phong tục này qua lệ cô dâu thường về nhà bố mẹ ở vài ba ngày ngay sau lễ
cưới.
Khi về nhà chồng lần hai, người con dâu sẽ mang theo chăn, gối, đệm đã
chuẩn bị từ trước đó để tặng bố mẹ chồng và sử dụng. Chẳng hạn cô con dâu
phải chuẩn bị 1 chăn, 1 đôi gối và 1 tấm vải trải đệm để tặng ông bà nội bên
chồng; phải chuẩn bị tới 10 chăn, 2 màn, 12 chiếc gối đề dùng trong nhiều năm
làm dâu.
2.2.1.6. Phong tục sau khi cưới
Sau đám cưới một ngày, cô dâu chú rể sẽ quay lại nhà gái để chào hỏi bố
mẹ vợ gọi là lễ lại mặt hay còn gọi là lễ nhị hỷ. Trong nghi lễ này, mẹ chồng sẽ
chuẩn bị sẵn một mâm lễ vật nhỏ để cô dâu chú rể mang sang nhà gái.
Thời gian cô dâu và chú rể ở nhà gái khoảng từ 1-3 ngày. Tuy nhiên tùy
theo vào khoảng cách địa lý, đặc thù công việc của cô dâu và chú rể mà thời
gian cũng khác nhau. Lễ lại mặt thường được thực hiện vào buổi sáng sớm.
Ngày nay tùy theo phong tục, văn hóa từng vùng miền, cũng như gia cảnh
của từng người mà người ta lược bỏ hoặc gộp chung các nghi lễ lại với nhau để
tiết kiệm. Tuy nhiên, dù có lược bỏ hay gộp chung nghi thức đám cưới cần được
thực hiện trang trọng, nghiêm trang và phải thuận tiện cho cả hai bên gia đình.
2.3.

Biến đổi trong cưới xin và dự báo xu hướng biến đổi trong cưới xin

của người Mường xã Ngọc Sơn
2.3.1. Biến đổi tích cực
- Về hôn nhân, người Mường xã Ngọc Sơn đều phải tuân thủ những
nguyên tắc nhất định, từ yêu đương tìm hiểu đến các lễ tục trong việc cưới xin.
Ngày xưa việc dựng vợ gả chồng là do cha mẹ xếp đặt, con cái không có quyền
lựa chọn, nhất là con gái. Hiện nay trai gái được tự do tìm hiểu bạn đời, hôn
nhân hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện.
- Tiêu chuẩn chung theo quan niệm của người Mường khi chọn vợ là chọn

những cô gái chịu khó, chăm chỉ làm ăn, nói năng nhẹ nhàng, biết làm các công
việc đồng áng, biết thêu thùa dệt vải, thành thạo các công việc nội trợ và xử lế
phép với bố mẹ, anh chị, họ hàng, làng xóm,còn bây giờ phụ nữ hiện đại ngoài
18


những đức tính đó thì còn tham gia vào các công việc xã hội nhiều hơn.
- Ngày xưa thì lập gia đình sớm nếu trên 20 tuổi mà vẫn chưa lập gia đình
là ế nhưng xã hội ngày nay thì lập gia đình muộn hơn.
- Hiện nay trong đám cưới của người Mường cũng được cắt bớt đi những
quy trình phức tạp, tốn kém nhiều thời gian công sức tiền của.
- Trong lễ cưới của người Mường xã Ngọc Sơn ngày xưa cô dâu phải mặc
trang phục dân tộc là váy Mường, nhưng bây giờ theo xu hướng của người kinh
có thể mặc váy cưới trong ngày cưới của mình.
- Khi về nhà chồng thì các thủ tục của cô dâu mới cũng không còn khắt
khe như trước nữa.
- Trước đây dân trí còn thấp, luật hôn nhân chưa được tuyên truyền sâu
rộng nên tục tảo hôn vãn còn tồn tại ở một số gia đình, nhưng ngày nay đã khác
luật hôn nhân gia đình đã được tuyên truyền tới đông đảo mọi người trong thôn
xóm chính vì thế vấn đề tảo hôn đã không còn.
- Người Mường ở xã Ngọc Sơn đã xu hướng Việt hóa ngày càng lớn,
thách cưới đã giảm đồng thời các thủ tục cưới xin được coi là rườm rà nay đã
được bỏ. Nhìn chung một lễ cưới ngày nay đã có nhiều thay đổi theo chiều
hướng tốt đẹp, bên cạnh đó cũng không còn những tập tục cổ hủ, lạc hậu so với
trước nữa.
2.3.2. Biến đổi tiêu cực
- Đối với đám cưới của người Mường xã Ngọc Sơn hiện nay thì nó đã có
nhiều nét biến đổi so với trước không còn giữ được những nét đẹp của đám cưới
truyền thống như trước nữa. Ngày trước khi đến dự một đám cưới truyền thống
chúng ta bắt gặp những bài hát dao duyên, mời trầu… được vận dụng trong ngày

cưới. Nhưng tiếc thay ngày nay đến dự một đám cưới của người Mường xã
Ngọc Sơn ta không còn được thưởng thức một làn điệu mời trầu, những lời
“rằng thường” thật là hiếm có mà ngày nay nó đã bị mai một đi, nó chỉ còn dược
coi là di sản văn hóa dân gian một thời mà thôi.
- Từ lâu trong quan niệm của người Mường về vấn đề gả con gái như ăn
sâu vào ý thức mà không thoát khỏi yếu tố mua bán, nên thách cưới cao và việc
19


mặc cả về lễ vật thách cưới trong ngày cưới, lễ ăn hỏi vẫn còn tồn tại.
- Tục lệ ăn uống linh đình, mà mỗi người đến dự đám cưới phải tự tháy
trách nhiệm mừng tiền cho đôi bạn trẻ. Tục lệ này ngày càng trở nên phổ biến
trong lễ cưới của người Mường ở đây: anh mừng tôi trước, tôi mường anh sau.
- Không chỉ có vậy mà trong đâm cưới của người Mường xã Ngọc Sơn
còn tồn tại những tập tục cổ hủ, tục so tuổi tức là xem số mệnh cho đôi trai gái
nhiều khi họ yêu nhau nhưng lại không giám lấy nhau vì do mê tín rằng họ
không hợp tuổi…
Tiểu kết
Sang chương 2 bài nghiên cứu đã đi sâu vào tìm hiểu về lễ cưới của người
Mường xã Ngọc Sơn cùng với những phong tục tập quán cổ truyền của con
người nơi đây, giúp ta hiểu sâu hơn những nét đẹp trong văn hóa của dân tộc
Mường xã Ngọc Sơn.

20


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC
VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG LỄ CƯỚI CỦA NGƯỜI MƯỜNG XÃ
NGỌC SƠN, HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH
3.1. Một số quan điểm của Đảng và nhà Nước về vấn đề hôn nhân



Đảng và nhà nước rất coi trong và bảo vệ những nét đẹp trong văn hóa dân tộc.



Đảng và nhà nước khuyến khích duy trình và giữ vững những giá trị tốt đẹp
trong lễ cưới của người Mường.



Đảng và nhà nước cần quan tâm hơn về việc bảo tồn những giá trị tốt đẹp đó để
nó không bị mai một.



Nam nữ phải đủ độ tuổi mới được phép kết hôn, trai 20, gái 18 tuổi



Hôn nhân và gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, là môi trường hình thành và phát
triển con người.
3.2. Một số giải pháp
Chúng ta đang sống trong một xã hội đầy biến động và thay đổi đang diễn
ra từng phút từng giờ. Bước vào thế kỷ mới với những gì đã và đang xảy ra
chúng ta chưa thể biết được điều gì sẽ xảy ra tiếp đó. Có lẽ đây là giai đoạn đua
tranh mạnh mẽ giữa các nền văn hóa sẽ đi vào tàn lụi, bị lãng quên hay nở rộ,
phát triển theo hướng tích cực hay tiến bộ đều phụ thuộc vào hành động và nhận
thức của mỗi dân tộc mình.
Như vậy muốn giữ gìn được nét đẹp trong tục lệ cưới của người Mường

xã Ngọc Sơn, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình thì phải chọn lọc những cái hay cái
đẹp để thừa kế tiếp thu những cái tiến bộ thì mới xây dựng được một lễ cưới tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, vừa vui, vừa tiết kiệm mà vẫn trang trọng văn
minh.
Để bảo tồn và phát huy những giá trị đó chúng ta phải nâng cao dân trí,
đào tạo cán bộ văn hóa dân tộc trực tiếp của từng vùng để tuyên truyền khôi
phục lại những nét văn hóa của vùng, đồng thời cũng vận động đồng bào bỏ đi
những thủ tục hoang phí trong đám cưới theo chính sách đường lối của Đảng đề
ra.
Tiểu kết
21


Như vậy chương 3 là những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, cùng với những quan điểm của Đảng và nhà Nước trong lễ cưới
của người Mường hiện nay.

22


KẾT LUẬN
Về cơ bản, đám cưới của người Mường hiện nay vẫn giữ được những nghi
thức truyền thống nhưng chúng đã được rút gọn về thời gian. Chẳng hạn, từ khi
ướm tiếng cho đến khi dạm ngõ, ăn hỏi và cưới dâu, hai họ nhà trai-gái có thể
thoả thuận với nhau trong vòng vài tháng. Còn rất ít những gia đình kéo dài
khoảng thời gian từ ăn hỏi đến lễ cưới vì không lo kịp và đủ lễ vật thách cưới.
Đây cũng là một thay đổi khá lớn đối với yêu cầu vật chất, giúp cho nghi lễ hôn
nhân bớt nặng nề hơn xưa.
Dù vậy, người Mường còn rất coi trọng hình thức thách cưới. Họ cho
rằng, qua lễ vật mà nhà gái thách cưới đối với nhà trai, nó thể hiện sự tôn trọng

của nhà trai đối với công lao sinh thành và nuôi dưỡng người con dâu. Lễ vật đó
cũng con cho họ. Chúng tôi thấy rất đáng trân trọng quan hệ cộng đồng qua Lễ
cưới truyền thống Mường, ở đó thể hiện những ứng xử khéo léo, đề cao các nghi
thức của mối quan hệ con người với con người, con người với xã hội (gia đình
mở rộng, cộng đồng làng, bản) tạo điều kiện cho những thành viên mới của một
đơn vị xã hội mới (đôi vợ chồng trẻ) biết tôn trọng nhau và biết củng cố sự bền
chặt mối quan hệ của mình. Đây chính là ý nghiã đích thực của lễ cưới truyền
thống người Mường trong đời sống văn hoá- xã hội hôm nay.
Bên cạnh đó, những tác động của lối sống mới từ đô thị, từ giao lưu văn
hoá thế giới đã có những ảnh hưởng đáng kể tới phong tục của địa phương trong
việc cưới hỏi. Ví dụ, về trang phục ngày cưới, các cô dâu vẫn còn muốn mặc
quần áo dân tộc (may mới), nhưng các chú rể thì không chịu và cho đó là lạc
hậu, buồn cười. Trước đây, về cuối buổi, lễ cưới thu hút được nhiều người tới
chia vui vì những bài hát “Rằng thường” để nhắn nhủ, răn dạy cô dâu. Nay để
làm vui cho đám cưới, nhà trai nào khá giả sẽ thuê dàn máy hát karaoke với
những bài hát tình yêu sướt mướt, đau khổ, thật lạc lõng với ý nghĩa của ngày
cưới... nhưng lại được thanh niên hưởng ứng. Đây đang là một trào lưu sinh hoạt
văn hoá - nghệ thuật mới trong lễ cưới của các cư dân không chỉ ở vùng người
Mường nơi đây, mà ở khắp các vùng nông thôn Việt Nam. Đây cũng là một công
việc cần nghiên cứu kỹ và xem xét trên nhiều góc độ của văn hoá- xã hội, văn
23


hoá- giáo dục, để làm thế nào mà ngành văn hoá (địa phương, trung ương) có
thể phát huy được các yếu tố văn hoá truyền thống trong đời sống văn hoá của
người dân xã hội đương đại.
Bài nghiên cứu về đề tài lễ cưới của người Mường xã Ngọc Sơn huyện lạc
Sơn tỉnh Hòa Bình xin phép được dừng lại tại đây với 3 mục lớn:
Chương 1 tôi đã đưa ra khái quát chung nhất về tổng quan địa bàn nghiên
cứu xã Ngọc Sơn về lễ cưới của người Mường tại đây qua đó thấy được những

nét đặc sắc trong văn hóa của những con người nơi đây.
Chương 2 tôi đã đi sâu tìm hiểu về lễ cưới cũng như những phong tục tập
quán cổ truyền của họ để thấy được những nét đẹp trong văn hóa của người
Mường xã Ngọc Sơn, đồng thời cũng nêu lên những mặt tích cực và hạn chế
trong lễ cưới cổ truyền hiện nay.
Chương 3 tôi đưa ra các giải pháp để bảo tồn và phát huy nhưng giá trị
văn hóa nét đẹp trong lễ cưới của dân tộc Mường với những quan điểm của
Đảng và nhà Nước về hôn nhân hiện nay.
Bài nghiên cứu của tôi trong quá trình nghiên cứu thông tin còn mắc
nhiều khuyết điểm, nhiều “hạt sạn” nên tôi rất mong nhận được những lời nhận
xét từ quý thầy cô để giúp cho bài của tôi được hoàn thiện hơn, tốt hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

24


DANH MỤC THAM KHẢO
1. BCHTƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam (12/1998), Chỉ thị về việc thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
2. Bùi Chỉ (2001), Văn hóa ẩm thực dân gian Mường Hòa Bình, NXB VHDT HN.
3. Cao Sơn Hải (2003), Những bài ca đám cưới, NXB VHDT HN.
4. Dương Hà Hiếu (2002), Tục cưới xin của người Mường ở Thanh Sơn Phú Thọ,
tạp chí dân tộc số 5 (tr68-73).
5. Nguyễn Ngọc Thanh, Tục lệ cưới xin của người Mường ở huyện Kim Bôi, Hòa
Bình, tạp chí VHGD số 4.
6. Nguyễn Ngọc Thanh, Gia đình và hôn nhân của người Mường ở Phú Thọ, NXB
VHDT.
7. Nguyễn Ngọc Thanh, Nguyễn Thị Thanh Nga, Người Mường ở Tân Lạc Hòa
Bình.
8. Nguyễn Ngọc Thắng, Cầm Bá Nam, Bản chất văn hóa các dân tộc Việt Nam,

NXB VHDT.
9. Nguyễn Từ Chi, Góp phần nghiên cứu văn hóa dân tộc Mường, NXB VHHN.
10. Trần Từ (1993), Người Mường ở Hòa Bình, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam.
11. Trần Bình, Văn hóa các dân tộc thiểu số Tây Bắc, 2009.
12. Sở KH CN VÀ MT, Sở Văn hóa Hòa Bình (1993) Dân tộc Mường Hòa Bình.
13. Sở văn hóa Hòa Bình (1998) Người Mường văn hóa cổ truyền mường Bi.
14. Văn kiện đại hội Đảng VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
15. Jeanne Cuinisier, Người Mường địa lý nhân văn xã hội học.

25


×